HÙNG VƯƠNG và UNESCO

HÙNG VƯƠNG và UNESCO: TRƯỜNG HỢP BÁN KÈM

MỘT DANH VỊ LỊCH SỬ

Sử gia không phải chỉ sống giữa những thư khố hay những tấm thẻ tư liệu…
mà còn phải dấn mình vào cuộc sống văn hoá xã hội… Lịch sử do đó phải
mang tính cách toàn diện… bao gồm cả thời gian hiện tại. Nhìn theo khía
cạnh đó thì sử học xuất hiện như một khoa xã hội học của quá khứ, và xã
hội học chính là sử học của thời hiện tại.
(Henri Janne, Lời Tựa của Histoire et critique 1969)

Tin mừng… Tin mừng, và các cách hiểu tuỳ tiện…

Người có ít thông tin chộp được một thông báo ngắn trong bài bênh vực “Tín ngưỡng Hùng Vương…” của Giáo sư Tiến sĩ Ngô Văn Thịnh đăng trên tờ Thanh Niên ngày 7-12-2012: “TS Dương Bích Hạnh từ Văn phòng UNESCO Hà Nội cho biết [ngày 6-12- 2012] vào 12 giờ 10 (giờ Paris), tín ngưỡng Hùng Vương của Việt Nam đã được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại”. Các cô cậu đi thi còn phải ghé qua chạm cái đầu rùa ở Quốc tử giám thì chuyện nhà nước đem tinh thần khoa bảng vươn ra thế giới, mong lấy bằng cấp quốc tế tất cũng không thể nào tránh khỏi bước theo đường lối không thông thường. Do đó cũng không cần biết đến những hệ luỵ và ràng buộc tiếp theo.

Kể từ cuối thế kỉ trước, khi kinh thành Huế được công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới nhờ những luận chứng, hồ sơ lập thành từ thời VNCH thì phong trào đi tìm bằng cấp văn hoá thế giới rộ lên thật sôi nổi. Ít ra thì các bằng cấp có độ uy thế cao đó cùng với một ít tiền trợ cấp trùng tu, bảo tồn cũng giúp cho di sản phong kiến triều Nguyễn tránh được tình trạng Bụt nhà không thiêng, thoát khỏi tình trạng làm nhà kho hợp tác xã, trụ sở này nọ… Ví dụ cụ thể là đàn Nam Giao khỏi biến thành Nghĩa trang Liệt sĩ với mấy cái tượng cứng đờ, nhân mẫu từ bất cứ nghĩa trang nào được xây trước nó. Thế rồi cũng như tình trạng mỗi tỉnh một sân bay, một bến cảng quốc tế (?!), các tỉnh, vùng đua nhau tìm cách thúc đẩy cho tỉnh, vùng của mình có một bộ hồ sơ “trình” UNESCO. Trước nhất là ở vùng trung tâm, vùng được coi là cội nguồn dân tộc theo cách hiểu về truyền thống các vương triều để lại, nay có dịp được tuôn ra tầm nhìn thế giới, lấy “oai phong” đó củng cố thêm vai trò lãnh đạo hiện tại toàn vùng.

Thật ra thì cũng hơi khó đạt tiêu chuẩn nếu cứ dừng ở chứng cứ vật chất của thành trì, đền đài… bởi vì Việt Nam còn được bao nhiêu những thứ ấy? Có cái chùa Một Cột, cứ cho là giống dạng hình cũ của Lí, thế kỉ XI nhưng trước mắt thì chỉ là một cái chuồng cu thờ Phật tội nghiệp, đội tấm nylon che mưa, dù mới phục chế năm 1955 sau khi bị một đơn vị nào đó giật sập trước khi rút vào Nam theo Hiệp định Genève. “Tràng An” Ðinh Lê đã cạnh tranh đồng thời với Huế không được chỉ vì mấy cái đền rời rạc, nhỏ bé tội nghiệp của nó. Xa xưa thì đổ thừa cho lí do thời gian, giặc tàn ác xâm lăng phá huỷ tuy không ai nhớ đến chủ trương tiêu thổ trong cuộc chiến vừa qua, cụ thể ngay trước mắt là kinh thành Huế. Hết chiến tranh thì cũng UNESCO cứu vớt Mĩ Sơn, Hội An thoát khỏi tàn tạ vì sự kì thị Chiêm Mọi / Việt Kinh, Ta/Ðịch. May thay, lại thêm có quan niệm về “Di sản phi vật thể” của nhân loại (the Intangible Cultural Heritage of Humanity) mở rộng tâm tình các nước giàu có, kéo dài danh sách tuyển mộ làm cho ứng viên thêm nhiều hi vọng. Thế là kéo nhau dồn dập xin xỏ đến nỗi được nhắc nhở: “mỗi năm không thể có quá một hồ sơ ứng cứ Di sản văn hoá phi vật thể” khiến có lời phàn nàn UNESCO “siết” danh hiệu (Thanh Niên online). Và vì thế năm 2012, Ðờn ca tài tử của địa phương phải nhường cho Tín ngưỡng Hùng Vương của trung ương, chờ đến năm sau.

Phú Thọ có lúc cũng từng háo hức mong mỏi thế giới công nhận mấy cái đền trên núi Nghĩa Lĩnh của mình, kèm với dấu vết “4000 năm lịch sử” diễn giảng gán ghép từ trong sử sách. Tuy nhiên về dấu vết vật chất thì ngay với người ở xa, rủi ro còn chứng cớ là tấm bia đá 1923 “Hùng miếu kỉ niệm bi” (Văn khắc Hán Nôm 1992: 580) ghi rõ chuyện trùng tu lần đầu năm 1909 tốn 2000 đồng công quỹ, với Khâm sai Ðại thần Hoàng Cao Khải, Tuần phủ Phú Thọ Hoàng Mạnh Trí và Công sứ M.G. Guillard; tiếp theo có việc sửa đền Thượng năm 1915 khi đang xảy ra Thế chiến I, cuối cùng là năm 1921 (Khải Ðịnh thứ 6) với công trình lớn “dựng 7 gian quán, sửa giếng, tạo chính tẩm, bái đường, sắm tế khí (tổng cộng tổn phí?) hết 2125 đồng 8 hào, 41 tiền (xu?)”. Về ngày lễ, bia 1923 ở đền Thượng (“Hùng miếu điển lệ bi”, Văn Kim Chung 2008, Trịnh Sinh 2011*) ghi rõ: “Tục lệ dân xã (Hi Cương, phủ Lâm Thao) lấy ngày 11-3 kết hợp với việc thờ thổ kì, làm lễ riêng. Từ nay lấy ngày 10-3… phụng mệnh kính tế trước một ngày”. Cũng thật dễ hiểu: hội lễ truyền thống vốn gốc là hội mùa nên thường tiến hành trong nhiều ngày, như trước quy định kia thì lễ hội đền Hùng kéo dài từ khoảng 7, 8 đến 16, 17 tháng Ba, nay từ địa phương lên đến triều đình thì phải có ngày nhất định cho vua/quan-thay-mặt đến cúng tế. Vậy ngày lễ Giỗ với câu ca dao: “Dù ai đi ngược về xuôi /Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba” chỉ mới bắt đầu sớm nhất là năm 1923 đó, đến nay là có tuổi vừa đủ Chín mươi. Chưa ai kịp nghĩ có thể nêu danh nó bằng con đường khác. Thế mà, với sức người “sỏi đá cũng thành cơm”.

Lễ hội Hùng Vương năm 2013 Phú Thọ được tổ chức suốt cả tuần từ ngày 4 đến 10-3 âl. (13-4 dl. đến 19-4-dl.) Lễ hội nâng lên tầm mức Quốc gia được nhà nước công nhận từ 2000 nhưng năm nay lại thêm phần long trọng vì có thêm phần “lễ tôn vinh, đón Bằng công nhận ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ’ là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại”. Về việc công nhận này, báo Hà Nội Mới hồ hởi “Ðiều đáng tự hào nữa là bộ Hồ sơ khoa học về di sản của Việt Nam (về Thờ cúng Hùng Vương) đã nhận được số phiếu tuyệt đối 24/24!” Muốn đi tìm cảm xúc cá nhân mượt mà điển hình thời đại thì hãy nghe nhà báo Huy Thắng của tờ Nhân Dân thuật lại: “Chứng kiến cảnh tượng hoành tráng tại buổi lễ khi ông Clê-măng Ê-chiên (Clément Etienne?), đại diện tổ chức UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương trao Bằng công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại cho lãnh đạo Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Phú Thọ, chúng tôi lại nhớ lại những khoảnh khắc huy hoàng tại trụ sở UNESCO ở thủ đô Pa-ri, Cộng hoà Pháp ngày 6-12-2012. Tại kì họp lần thứ 7 của Uỷ ban Liên chính phủ về bảo tồn văn hoá phi vật thể, có 36 hồ sơ được đề cử lên Uỷ ban xem xét công nhận. Suốt hai ngày bình xét, các phóng viên thường trú chúng tôi theo dõi hội nghị được sống trong tâm trạng hồi hộp. Khi ông Ác-lây Gin (sic, Harley Jean?), người Grê-na-đa (Grenada), Chủ tịch Uỷ ban Liên chính phủ về bảo tồn văn hoá phi vật thể gõ búa biểu quyết ghi tên “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” vào danh sách di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại, cả hội trường vỗ tay chúc mừng đoàn đại biểu Việt Nam. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau mắt nhoà lệ (?!). Những lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong phòng họp thân thương và quá đỗi tự hào”.

Hẳn là Ðảng và Nhà nước Việt Nam đã cố công cùng sức, và được thoả mãn là ngày UNESCO công nhận đã xảy ra trước Hội lễ cho nên từ hai tháng trước đã có chỉ thị “Chuẩn bị chu đáo cho lễ đón nhận bằng di sản thế giới và lễ hội đền Hùng 2013”, với sự đóng góp công sức của các cơ quan trung ương và địa phương trong tình trạng xây cất cực kì khẩn trương. Báo chí nêu chi tiết về những biểu diễn sinh hoạt văn hoá ở tỉnh lị Việt Trì, còn báo nhà nước Nhân Dân thì tất nhiên chú ý đến tính chất nghi thức “trang trọng và thành kính” thực hiện với khắp các cơ quan chính quyền địa phương gần xa.

Ðến dự lễ khai mạc tối 13-4 ở quảng trường lớn tại đền Hùng, có Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cùng Ðại diện lãnh đạo Ðảng và các Ðại sứ quán nước ngoài tại Việt Nam, đại diện 24 quốc gia trong Uỷ ban Di sản Thế giới, cùng đại diện của 8 tỉnh thay mặt (?) cho nhân dân 63 tỉnh, thành phố trong cả nước về “góp giỗ”. Ngày lễ chính 19-4, diễn ra trên đền Hùng, nơi được gọi là điện Kính Thiên (?), với nhân vật cấp trung ương không quên lễ đặt vòng hoa tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ðoàn hành lễ có “các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam rước Quốc Kì, cờ hội, và vòng hoa mang dòng chữ ‘Ðời đời nhớ ơn các vua Hùng đã có công dựng nước’. Theo sau là 14 thiếu nữ mang hương hoa, lễ vật và 100 con Lạc cháu Hồng cầm cờ hội” (Nhật báo Nhân Dân). Ít ai nhận ra nhưng rõ ràng 14 cô gái (“thiếu nữ”) chắc là đẹp kia, là tượng trưng cho 14 vị trưởng lão chưa chịu già đang nằm ở Bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ðại biểu Hà Nội đã giành làm lễ trước, vào chiều 18-4, như để nhắc nhở địa vị Thủ đô của mình. Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ở Khu Công viên Lịch sử Văn hoá Dân tộc (Suối Tiên) rộng rãi, đủ bề thế cho một Khu tưởng niệm các vua Hùng mà tác giả công trình vừa được Thành phố tặng giải kiến trúc năm 2012. Các nơi khác được tiếp tục kể ra, tuy không quên các tỉnh Tây Nguyên cần thiết cho tinh thần thống nhất dân tộc, nhưng có sự loạc choạc không đều: các nơi đã lập được đền Hùng mới (Ðồng Nai, Kiên Giang, riêng Vĩnh Long nhà thờ nằm trong Bảo tàng tỉnh) thì tổ chức tại đó, còn không thì làm lễ nơi các đình cũ (Bến Tre, Ðồng Tháp). Có cả tin Sa Ðéc tổ chức lễ chỉ trong trường Hùng Vương của tỉnh mà không kịp thấy tin của Huế ở cùng trang của tờ báo lãnh đạo cả nước thì cũng nên thắc mắc tìm hiểu thêm về sự lệch lạc đó. Sự việc được cho hiểu: Lễ hội “Tín ngưỡng Hùng Vương ở Phú Thọ” được UNESCO công nhận vốn là xảy ra ở một tỉnh, lại trở thành lễ hội của cả dân nước Việt Nam gồm 54 dân tộc khác nhau, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam.

Bởi vì lễ hội có hoành tráng, văn chương tụng ca có dài dòng cũng cốt để truyền thông phổ biến những ý tưởng tầm tầm của tầng lớp lãnh đạo: thời đại vua Hùng với sự kiện thành lập nhà nước vững chắc, có tầm cao văn hoá xuyên suốt đến ngày nay, tất cả đều là CÓ THẬT, và do đó vùng Phú Thọ xứng đáng đứng ở tầm cao lịch sử trên cả các vùng đất nước khác, lấy vị trí địa lí (“đất Tổ”) chuyển đổi qua ý nghĩa tâm linh để kết nối sự thống nhất của người Việt Nam ngày nay. Từ đầu thế kỉ XXI, nhất là sau khi được công nhận ngày Quốc lễ (2007), Phú Thọ đã làm bánh chưng chia đều cho các tỉnh thành cả nước. Dù là có những đua đòi thất bại như các loại bánh chưng thiu, bánh giầy độn bằng mốp, không đủ cho nhân viên Guinness đến dự (2008) ghi thành tích nhưng vẫn có những tiếp tục xây dựng quanh đất đền Hùng cũ, đã tạo được một cơ sở hoành tráng, lấy hiện tại chứng minh cho quá khứ.

Sự thống nhất chính trị năm 1975 đã đem hình ảnh Hùng Vương dựng nước thành đề tài cấm kị, “bất khả tư biện” trên cả nước, phát sinh ra cách nói loạn xạ mà chắc nịch của Giáo sư Tiến sĩ Ngô Ðức Thịnh: (1)“Từ thời đại các vua Hùng đến nay, các danh xưng Lạc Long Quân – Âu Cơ, Quốc tổ Hùng Vương, Sơn Tinh, Thánh Gióng, Chử Ðồng Tử – Tiên Dung đã trở thành các biểu tượng của lịch sử – văn hoá dân tộc, trong đó chứa đựng hệ ý thức quốc gia dân tộc đầu tiên của nước ta, dân tộc ta. Ý thức đó hẳn đã tồn tại trong tiềm thức của người Việt cổ, dù trải qua một nghìn năm Bắc thuộc vẫn không phai mờ. Chính vì vậy ngay từ khi phục hồi nhà nước tự chủ cuối thế kỉ X, các triều đại độc lập đầu tiên đã nâng việc thờ vua Hùng thành Quốc tế (?)…” Không phải chỉ riêng với ông này, có thể nhặt tìm được trong sách vở ngày nay khá nhiều các “tham luận”, “công trình khảo cứu khoa học” có những quả quyết tương tự: “Ngày 10-3… giỗ Tổ Hùng Vương tính đến nay đã hơn 6 thế kỉ… tín ngưỡng thờ vua Hùng đến nay đã có tự ngàn đời” (Nguyễn Ngọc Ân 2011). Trong buổi khai hội có tên khích động “Linh thiêng cội nguồn đất Tổ Hùng Vương”, Chủ tịch nước Truơng Tấn Sang được cho là đã nhấn mạnh: “ Từ bao đời nay, trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam, các vua Hùng là Quốc tổ, có công dựng nước, nhà nước đầu tiên của nhà nước Việt Nam, là tổ tiên chung của dân tộc Việt Nam… ‘Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương’ đã trở thành bản sắc văn hoá, đạo lí truyền thống của người Việt Nam ta, thể hiện lòng biết ơn ân đức của tổ tiên trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Dù làm gì, ở đâu, mỗi người con đất Việt đều hướng về cội nguồn, tổ tiên với lòng thành kinh tri ân…” Thật là cả một nồi lẩu pha trộn hương hoa, bùa mê và sỏi sạn, ẩn giấu gươm giáo của một học thuyết chính trị mang tính huyết thống tập thể, đang trên đà tiến triển lấn lướt mà vẫn còn muốn củng cố thêm bằng một chứng nhận quốc tế để được diễn giải theo ý mình.

Trong tấm bằng quốc tế kia có hai phần riêng biệt được nhập chung một cách đủ khéo léo, để về phần người cấp bằng thoả mãn với sự mơ hồ mà không làm hại đến uy tín của mình, và phần được người sử dụng tha hồ quảng diễn, khai thác trong tiến trình áp đặt quyền lực. Ðó là phần tuyên dương một lễ hội văn hoá địa phương đang bày tỏ trước mắt, và phần lịch sử về sự khai sinh một dân tộc, một đất nước. Cái tên “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” (bản văn thế giới thêm “Việt Nam” để mang tính xác định hơn) tỏ rõ sự nặng nhẹ trong hai phần lịch sử và văn hoá đó.

Chúng tôi không có phương tiện để theo sát sự vận động cho tấm bằng Phú Thọ. (Nhưng theo những người có chút hiểu biết về tình hình Việt Nam, thì với sự “nhạy cảm” của người cầm quyền, không chắc sự tò mò đã được hoan nghênh nên sự thiếu hiểu biết của người nghiên cứu vẫn là điều có thể thông cảm được). Nhờ một ít dữ kiện của blogger Le Minh Khai, ta biết các nhà cấp bằng trong trụ sở ở Paris chú ý nhiều đến tính chất lễ hội văn hoá của một vùng, không phải là toàn thể một đất nước, và cũng không xác định rõ rệt thời gian khai sinh của hội lễ, cho là vào sáu hay mười thế kỉ trước. Người ta xác nhận, đại khái, vào tháng ba mỗi năm các người hành hương đi về đền Hùng làm lễ tưởng niệm tổ tiên, cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt đẹp và an lành cho bản thân gia đình; lễ hội có bánh trái, biểu diễn nghệ thuật, đánh trống đồng, hát xoan… Tuy nhiên dù người ta không biết, và có lẽ không quan tâm lắm về sự chính xác của cái ngày “mồng mười tháng ba” nọ nhưng chữ “Hùng Vương” ghép vào, cũng khiến họ phải vướng bận với lịch sử toàn vùng đất mở rộng hơn khu núi Nghĩa Lĩnh, với các từ ngữ sử dụng có vẻ không đủ cải chính rằng họ cũng bị lôi cuốn phải đứng vào phe “triều đình” trong sự tranh chấp về cổ sử. Và bấy nhiêu đó cũng đủ cho nhà nước Việt Nam khai thác thêm uy tín của tấm bằng dùng cho sự củng cố chế độ, bắt nguồn từ thành kiến tạo dựng bởi lịch sử các vương triều và siết chặt thêm theo chiến thắng 1975 vừa qua.

 

Khía cạnh học thuật: sự kiện trần trụi và “truyền thống” dân gian

Về khởi đầu của lịch sử dân tộc Việt, các nhà nghiên cứu đã lục lọi trong nhiều thư sử xưa để đưa ra nhiều giả thuyết nhưng vẫn không thể thoả mãn được tâm ý của nhiều người. Chuyện cũng là bình thường nếu biết dừng lại ở sự tôn trọng học thuật, sự trung thực trong luận lí, không phải bước qua những phát biểu ngang ngược đầy thẩm quyền, không chịu đựng một sự thẩm tra nào ngoài sự khăng khăng một mực được gọi là kiên trì, giữ vững “lập trường”.

Vấn đề Hùng Vương tuy là rắc rối nhưng có thể nói rằng người ta đã tìm được hết các bằng chứng cổ xưa ghi chép về gốc tích (các) ông vua này. Tinh thần khoa học, tôn trọng sự thật đòi hỏi chỉ nên căn cứ vào đó, không bịa thêm, dù nhân danh bất cứ quyền lực nào. Ở đây cũng không nên lặp lại các chi tiết tranh luận không cần thiết.

Tên Hùng Vương được nhắc đến lần đầu khoảng thế kỉ V trong sách Nam Việt chí của Trung Quốc. Ở sách Việt là các nhắc nhở không còn nội dung của Hồ Tông Thốc, ở tập họp thần tích được ghi vào quốc tế của Trần: Việt điện u linh tập 1329, nhất là ở thiên Hồng Bàng kỉ của Lĩnh Nam chích quái, sách được sưu tập cuối thế kỉ XV nhưng giống như các thư sử trên, tất cả đều được hình thành vào thế kỉ XIV. Ðiều quan trọng là từ những tập họp đó, Ngô Sĩ Liên mới có cơ sở đưa Hùng Vương vào chính sử triều Lê, mở lối cho vị trí thênh thang của ông Hùng Vương trong sử Việt. Người ta cũng nhắc nhiều đến quyển sử Việt lạc loài ở Trung Quốc mới tìm lại được thời Minh, đưa vào thư khố Thanh và xuất hiện thành một tài liệu quan trọng cho sử Việt Nam trong thế kỉ XX về thời kì mở đầu dựng nước. Quyển (Ðại) Việt sử lược đó được học giả Nhật phát hiện, nổi lên trong thời kì Dân chủ Cộng hoà với bản dịch của ông Trần Quốc Vượng 1960.

Bản dịch của Trần Quốc Vượng từ một bản sao chép tay, có các dòng như sau: “Ðến đời Trang Vương nhà Chu (692-686 tCn.) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang… truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương”. Cái tên Hùng Vương đó xuất hiện vào thời đại mới, được coi như thêm một bằng chứng khoa học về sự hiện hữu của các ông Hùng Vương chui từ bọc trứng, lên núi xuống biển ở các tài liệu kia. Ðó là bằng chứng về tình trạng được quan sát trong sự hình thành các tập họp chính trị buổi sơ khai mà thủ lĩnh là kẻ vừa có sức mạnh bản thân vừa mang uy thế thần thánh. Nhờ Trần Quốc Vượng mà có được ông Hùng Vương trẻ hơn, các nhà sử học Việt Nam DCCH đang còn ngần ngại với cái tuổi Bốn ngàn năm văn hiến có mỗi ông vua Hùng cai trị khoảng 150 năm, liền hạ xuống còn 2500 năm, ngó cũng tạm được! Tuy nhiên blogger Quach Hien gần đây lại lôi ra bản chữ in gốc của Trung Hoa, chỉ ra một chữ khác, đọc theo Hán Việt và viết ra quốc ngữ là ÐỐI Vương. Cả trên trang in lại của ông Ngô Văn Thịnh, nhân việc dịch Ngọc phả đền Hùng, cũng cho thấy đó là chữ “đối” với nghĩa là cái cối… Hoàng Hải Vân (Trung Quốc 2008, dẫn theo Nguyễn Phúc Anh, Ðặng Quỳnh Trang 2011) cho rằng đó là sai lạc từ chữ “lạc” bộ Các mà ra, hình như để chúng ta ngầm hiểu “lạc” là gốc, phát sinh ra “hùng”, “đối”, và do đó Hùng Vương mới có mặt trong bản sao của Trần Quốc Vượng. Vậy thì câu chuyện “Hùng Vương ở bộ Gia Ninh” còn phải mắc nghẽn qua một giả định chuyển đổi tự dạng khiến bộ mặt ông vua còn mờ nhạt hơn nữa.

Chuyện sơ sử trên đất Việt lại còn có thêm ông Lạc Vương, cũng được cho là làm chủ ở đây. Ông vua Lạc này được nhắc trong sách tư gia, vài thế kỉ muộn hơn so với chữ “lạc” (cứ tạm coi là có nhiều dạng chữ biểu diễn cùng một sự kiện) xuất hiện trong chính sử Trung Hoa trước Công nguyên, với danh xưng chỉ tập họp người, tập họp chính trị. Ở cái nơi là đền Hùng ngày nay, An Nam chí (1419) nói có “cung cũ của Lạc Vương”, đồng thời cũng nhắc đến Hùng Vương ở các văn đoạn khác. Chắc các điều đó cũng khiến Ngô Sĩ Liên cho rằng “Lạc tướng hậu ngoa vi Hùng tướng” để H. Maspéro mang các hình thức chữ Hán ra giải thích thêm. Tranh luận Lạc hay Hùng dẫn đến một hoà giải: có cả hai, vì hai thực thể được trình bày với dạng tổ chức đất đai riêng biệt, một ở gần biển (Lạc làm ruộng theo thuỷ triều) và một ở vùng thung lũng chật hẹp (Hùng, đất bốc hơi mạnh). Còn đối với các học giả, sử gia Việt Nam ngày nay thì sự giải quyết gọn nhẹ hơn: chỉ có Hùng Vương thôi, vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói như thế. Vòng hoa của quân đội trong buổi lễ nói trên chỉ là lặp lại một phần lời của ông Chủ tịch, người vẽ ra cả một đường hướng nghiên cứu cổ sử Việt Nam không cho phép sử gia Việt Nam nào làm khác được.

Hết khảo cổ học lại tới văn hoá dân gian, folklore học gì đó… Người ta biện luận rằng trong các chuyện kể truyền đời vẫn thường có một cốt lõi sự thật lịch sử mà người nghiên cứu có thể lôi ra, tin vào đấy. Ðiều này có chứng dẫn ngay ở công trình của những người khởi đầu truyện tích, thường ghi lại, đại khái: “Theo các bậc cố lão tương truyền…” Ðây là lập luận nòng cốt trong việc đưa đẩy Hùng Vương lên đài Quốc tổ hiện nay, được ghép với các sự kiện toả thành yếu tố “văn hoá dân gian” mà không chú ý đến tính chất lịch sử của chúng. Ðã nói nơi khác, các chứng cớ dân tộc học, chuyện kể, phong tục… có thể tạm sử dụng để tìm hiểu vể một tập đoàn dân tộc không chữ viết chứ không thể đem đặt bất cứ đâu trong lịch sử một dân tộc đã có chữ viết, hay đã liên hệ nhiều đến phần ghi chép có dấu hiệu thời đại từ các tộc người khác. Ít nhiều gì các tài liệu dẫn chứng kia cũng đã được định hình trong một khoảng thời gian xác định rồi. Cho nên không thể ghép “các danh xưng Lạc Long Quân, Âu Cơ, Quốc tổ Hùng Vương… Thánh Gióng…” đã có vào “thời đại các vua Hùng đến nay” được. Chương Hồng Bàng thị trong Lĩnh Nam chích quái là căn cứ chắc nịch để các học giả “yêu nước” ngày nay nói về một “ngọc phả”, một đấng Quốc tổ của dân tộc Việt (khoan nói đến Việt Nam). Nhưng phần để căn cứ đó không phải là chuyện kể nghe lại của tác giả chương sách nọ, như Ðinh Khắc Thuân 2011 cho là từ “các truyền thuyết dân gian được văn bản hoá”. Chương truyện viết ra đó là tích luỹ từ các cổ thư Trung Quốc tác giả đã đọc. Những Hoa Dương quốc chí (thế kỉ IV), Liễu Nghị truyện (thế kỉ VI), Nam Hoa Kinh, Hồng Liệt Huấn, Thuỷ Kinh chú có các tên xác nhận hay gợi ý sáng tác thêm: Ðế Minh, Kinh Dương Vương, Vụ Tiên, Xích Quỷ, Ðộng Ðình, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương… là từ những thư sử hẳn đã được các nhà nho thông thái thế kỉ XIV đọc tới và tự diễn giải thêm, chứ nhất định không phải loại “truyền khẩu” quanh đền Hùng đưa vào tai họ. Không phải đợi đến các học giả Tây phương bài bác để cho rằng họ mang tính thực dân, đế quốc, ngay Ngô Thì Sĩ (thế kỉ XVIII) cũng tỏ dấu nghi ngờ vài điều trước khi buông xuôi theo thành kiến, đến lúc bấy giờ đã trở thành “truyền thống”. Ðiều đó chứng tỏ ngay trong bản Ngọc phả (nhiều dị bản) nhiều sơ hở mà lại được coi là lập ngay vào đời Lê Thánh Tông (1470 hay 1472).

Không nên dài dòng, hãy lấy ngay bản dịch của ông Ngô Ðức Thịnh được ông phổ biến: Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế Thánh vương Ngọc phả cổ truyện. Trong bản Ngọc phả này, chi tiết nhiều là ở các ông vua thứ Nhất, thứ Ba hay thứ Sáu, và ông vua cuối, thứ Mười Tám, chỉ vì ở các đời này có truyện lấy từ các sách khác có liên hệ, ví dụ Việt điện u linh tập có ông Gióng với dị bản cổ nhất, có chuyện mất nước vào tay Thục cũng tìm được ở các cổ thư mươi thế kỉ về trước. Thừa hưởng được cái “hơi” ở các truyện có sẵn nơi các ông vua kia nên ngọc phả có điều để nói qua loa về vua Hùng Bảy, Tám, Chín, và Mười Bảy. Còn với các ông Hùng ở giữa, từ Chín đến Mười Sáu tác giả không tìm ra nguồn để “vẽ” thêm, đành phải chịu cạn kiệt văn từ, chỉ nhắc đến cái tên và số năm “ở ngôi”, cả đến tuổi thọ cũng cho qua! Phần “dân gian” thấy trong Ngọc phả này chen vào lúc tác giả vẽ vời trên cái gốc sách vở cũ: “đá lưng rùa” ở Việt Trì với dấu ông Tiên ngồi, quyển sách thần, bà mo… tất cả đều không thể xác định thời điểm xuất hiện để gán cho một vị trí lịch sử nào.

Các bản Ngọc phả (hai hay ba?) được đưa ra đến nay đã có những chi tiết khác nhau, ngay như cũng gọi là “bản Phú Thọ” mà Ngô Ðức Thọ và Bùi Quang Hùng (Ðài Loan 2011) thấy truyện Phù Ðổng nằm ở hai đời Hùng khác nhau (5 hay 6). Trừ sự bướng bỉnh không thể nào thuyết phục được, chỉ có thể coi chúng như những thần phả của ông thần đền Hùng chứ không thể là gia phả được ghi chép để truyền đời của nhà họ Hùng (nếu quả có một họ như thế). Gốc tích bản thần phả đưa ra cũng không rõ rệt. Ông Ngô Ðức Thọ bám vào câu cuối mà cho là được hoàn thành năm “Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Ðức thứ nhất” (1470) khiến một độc giả cải chính “Nhâm Thìn đó là vào năm 1472”, nghĩa là mâu thuẫn với “Hồng Ðức nguyên niên”! Thế đã đủ cho Bùi Quang Hùng xác quyết đây là “(một) bản nguỵ tạo”. Ngay cả cái tên nói ở trên, ông NÐT cũng cho thấy khác với bản ông dịch từ “của Viện NCHN (Nghiên cứu Hán Nôm?) sao chụp lại từ nguyên bản cuốn ‘Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện’ của ti Văn hoá Phú Thọ”, mà không giải thích vì sao có sự khác biệt! Có những bản ghi chú là sao vào thời Lê Trịnh, nhưng cũng có bản ghi soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (986), sao năm 1919, thời Khải Ðịnh thuộc Pháp. Chi tiết sau cùng giúp củng cố giả thuyết là sách xuất hiện vào thời Trường Viễn Ðông Bác Cổ có mặt, tìm tòi chứng liệu, mua sách xưa, do đó người ta tha hồ sao chép, phóng tác để bán, nổi bật nhất là thiên truyện Lĩnh Nam dật sử đánh lừa cả các ông làm văn hoá của Việt Nam Cộng hoà! Nhà nghiên cứu ngày nay còn biết “ở Phú Thọ có một trung tâm sao bán thần tích, tự xưng của con cháu Nguyễn Hiền” (Ðinh Khắc Thuân 2011). Tuy nhiên cứ từ một trong các bản ngọc phả này mà “sáng tác” thêm thì ta sẽ có 18 tượng các vua Hùng trong Ðền thờ Quốc tổ Hùng Vương trên đất Pleiku, với vương hiệu, tên huý, số tuổi, số năm làm vua, số vợ, số con cháu chắt trai gái đủ cả, dựa vào quyển sách của tác giả Vũ Kim Biên được Sở Văn hoá Thông tin Phú Thọ xuất bản năm 2006 (Blog TTXVA 6-10-2013).

Văn chương dài dòng trong Ngọc phả cũng là đúng của khu vực Hán học khuất lấp tương ứng với khu vực Tây học, Quốc ngữ đang phát triển trên các thành phố đương thời. Tính chi tiết thời mới làm phát sinh không những tên 18 ông vua mà còn có tên 99 ông Lang không được may mắn làm vua (quên mất rằng tên Lang Liêu đã có sẵn ở Lĩnh Nam chích quái rồi!) Rồi ít nhiều gì dạng tôn giáo mới bị thù ghét xưa, nay đã đủ thời gian và uy lực để trở nên bình thường, chen lách vào thần tích Hùng với chi tiết Bốn ông Thiên tướng xuống trần chứng giám lúc sinh của Trăm trai – giống như Ba vua đến chào Chúa Hài Ðồng El Nino đang nằm trên Máng cỏ! Và tiếp tục đến ngày nay, trong lễ hội 2013 có sự hiện diện của 14 thiếu nữ giữa 100 người trai, là chứng cớ về sự tranh đoạt của 14 vị lãnh đạo Bộ Chính trị (trước khi có 2 người được bầu điền khuyết sau đó) đối với Bốn ông Thiên tướng xưa!

Cái lảm nhảm tân cổ giao duyên như thế dễ hấp dẫn những đầu óc nệ cổ, tưởng tìm được chỗ bám víu cho sự hãnh diện về những kiến thức làng nhàng của mình thu nhận được trong các dịp bàn sử, làm thoả mãn được tinh thần truyền thống xóm làng nâng theo đà mở rộng khu vực, lên đến tinh thần dân tộc đang được cao rao ca ngợi ngày nay.

Có điều vì chỉ sống trong một khoảng đời vài mươi năm, họ không đủ tầm mức nhìn vào thời gian, hãy cứ cho là mới vài trăm năm cũng được. Chúng ta tạm loại ra ngoài tình trạng thư lại học thuật, làm việc để thoả mãn yêu cầu của quyền bính. Chỉ nên nhìn vào lúc bắt đầu có chữ Lạc, Hồng, Hùng… xuất hiện ở Hồng Bàng thị, hay chính thức trong khu vực nhà nước từ Ngô Sĩ Liên rồi dõi theo những gì xảy ra các thời gian sau đó, những gì triều đình Việt và quan dân nghĩ về họ có ghi chép lại. Nghĩa là, trong phạm vi ông vua Hùng, hãy làm một lịch sử về quan niệm Hùng Vương cho tới nay. Và trong phạm vi hẹp, hãy chỉ dừng lại ở phần thế phả của họ. Lúc mới khởi đầu, giữa 100 trứng chỉ có một ông được gọi là Hùng còn các ông kia được gọi là Lang, không biết giữ địa vị ra sao trong 15 bộ của nước Văn Lang. Có biến chuyển trong đời sống “triều đại”, ở các đời khác nhau, nên phải nêu thứ bậc rõ ràng. Thứ Ba hẳn vì theo lối tính thế thứ giản dị kể từ ông đầu khai sáng, ông số Một: ông – cha – cháu. Hay con số Ba quen thuộc của quan niệm phổ thông: Tam tài, Tam giáo… Sách viết bằng chữ Hán nên có thể chuyển đổi lẫn lộn theo dạng chữ viết Ba (tam) trở thành Sáu (lục) – hay ngược lại. Và Mười Tám gán cho ông Hùng Cuối theo kiểu làm toán nhân Ba và Sáu. Tuy Giáo sư Nguyễn Phương cho rằng con số 18 ấy là của các vua Hùng nước Sở (chữ Hán khác) nhưng tôi đếm trong danh sách của M. Tchang (1905) thì chỉ có Mười Bảy người. Có không bằng lòng với cách giải thích sự phát sinh như trên thì cũng phải nhận tình trạng các ông vua Hùng sơ khởi chỉ được đếm theo mấy con số thôi. Tình trạng gọi tên vua theo số này, kéo dài đến đầu nửa sau thế kỉ XVI (Dương Văn An 1555) mới thêm một ông thứ Mười Ba, ngẫu nhiên, không nệ đến sự kiêng cữ của người Tây. Nói khác đi, các ông vua Hùng lúc đầu không có tên, thua cả bất cứ thằng bé nào ở nhà quê xứ Việt, nói gì đến thuỵ hiệu, niên hiệu, miếu hiệu giống các ông vua theo truyền thống văn hoá Trung-Việt khác. Mãi đến năm được ghi chép là 1572, có ông Nguyễn Bính còn ở xứ Thanh của nhà Lê chưa phục hưng mới đưa ra hai thuỵ hiệu Hùng Hiền Vương và Hùng Duệ Vương, mà cũng không thấy nêu thứ bậc. (Về các thuỵ hiệu trong Ngọc phả thì nơi có nơi không, cùng thuỵ hiệu không cùng thời đại, lẫn lộn cách đọc để không có sự đồng ý, ví dụ ông NÐT cho ông thứ 18 là Hùng Tuyền Vương, còn Bùi Quang Hùng thì nhất định đọc là Duệ Vương). Ngay đến sự đặt tên này cũng chỉ thấy trên bia đá chứ không ghi vào sử nhà nước. Không thấy có thêm một tên nào khác, ngay cả trên các bia khắc vào thời Nguyễn muộn (1889, 1907, 1910). Bia nằm trên tỉnh Hưng Yên của sông Hồng mà người ta nhất định không lấy thêm một tên nào khác để cho dồi dào tính sử “thời đại Hùng Vương”, những tên lúc đó (cho rằng) đã có mặt trong các ngọc phả (1470/1472) đã nói kia.

Về chỗ ở của các vua Hùng, sách vở nho sĩ Việt thế kỉ XIV và sử chính thức đều xác định thuộc Phong Châu trên đất Việt chứ không phải ở hồ Ðộng Ðình nữa, điều đó có vẻ xác nhận rằng hai sự kiện Âu Lạc và Hùng Vương là ghép từ hai dòng truyền thuyết của hai địa phương khác nhau. Nguồn gốc phân hai như thế đã dẫn đến sự tranh giành thứ bậc ai làm “ông tổ Việt”. Sử quan Nguyễn đã cãi nhau nên đặt Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân là “vua mở đầu nước Việt” hay là Hùng Vương? Hùng Vương thắng thế là nhờ lời quyết định của Tự Ðức. Ngay cả ngày nay, danh vị “Quốc tổ” cứ tùy từng lúc, từng người đề cập mà xoay quanh các ông Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương đến chóng mặt. Có điều đặt ông nào làm tổ thì cũng mắc phải vấn nạn giải quyết cho vấn đề “tổ sinh học”, hiểu theo cách sinh sôi nảy nở theo một dòng duy nhất, không bị kết tội loạn luân thì cũng khó chấp nhận theo tâm trí bình thường. Sử ta có nhiều vấn đề tưởng đã giải quyết xong, hay đang giải quyết theo đường lối đứng đắn khoa học nhưng cứ được lôi ra bàn cãi mãi chỉ vì có những đầu óc ngoan cố có quyền hành, cứ kềm giữ hoặc lôi về khởi điểm theo ý mình. Vấn đề ông tổ sinh học của dân Việt là một. Ngay chính các nhà nho sáng tạo ra mẫu hình “ tổ” nguyên thuỷ cũng không đề cập đến sự truyền dòng duy nhất này. Hồng Bàng thị cho 50 con của Âu Cơ chia nhau cai trị trên những vùng đất tạm hiểu là quanh đền Hùng ngày nay. Hẳn 50 người của Lạc Long Quân cũng ngụp lặn quanh hồ Ðộng Ðình như thế. Còn Ngô Sĩ Liên tiếp theo chen chuyện “trăm con, thuỷ tổ của Bách Việt” trong một phụ chú đầy hoài nghi, đã cho vua Hùng mải ăn chơi nên để nước mất vào tay Thục Phán / An Dương Vương, nghĩa là người kế tục đã làm vua một nước khác, có dân riêng của họ nhập vào. Sử quan Nguyễn nói về “vua mở đầu nước Việt” không như ông “vua” Việt Nam ngày nay tuyên xưng : “Vua Hùng là Quốc tổ… là tổ tiên chung của dân tộc Việt Nam”. Ðó là sáng tạo mới của thế kỉ XX, để vẽ vời thêm mỗi ông vua Hùng sống nhiều trăm năm, có vài chục bà vợ, nhiều con chia ra thành nhiều chi phái với cả trăm, ngàn chắt chít như đã thấy!

Các nho sĩ kia chắc có biết nơi thờ cúng trên vùng đất dựng đền ngày nay, hẳn cũng không khác với nơi sách An Nam chí (1419) của người Minh nhận ra rằng có “cung cũ của Lạc Vương”. Năm đó mà gọi là “cung cũ” thì “đền đài” chắc cũng chẳng còn gì, chứng cớ là ngày nay các nhà khảo cổ học cũng chẳng tìm ra được một nền đất đá nào xưa hơn, may ra được một cây cột đá cũ, chuyển dựng làm “cột đá thề” trong truyền thuyết, nhưng lại bị chê là xấu xí, không xứng với tầm vóc thời đại! Trở lại với ý niệm “thần phả” của đền “Hùng” và nhìn lại vị trí đỉnh đầu tam giác châu sông Hồng tiếp giáp với vùng trung, thượng du thì có thể coi như đền nguyên gốc là của một lãnh chúa Tày Thái, nơi dấu vết của họ còn lại thật rõ rệt. Nam Chiếu đã tràn xuống trung châu vào thế kỉ IX, X, XI. Lê Hoàn kén được một bà vợ ở đó. Lí gả con cầu thân. Trần có lõm đất thuộc quyền một bà Trưởng công chúa ghi trên chuông chùa Bạch Hạc nhưng Trần Nhật Duật kéo quân về Thăng Long, cũng như Trần Nghệ Tông ở thế kỉ sau trốn lên đất Ðà Giang, cả hai đều phải đi qua vùng “man di”. Chưa tới đất Ngã Ba, ông Gióng đã gặp thần núi Sóc (Vệ Linh) của người Thái để lưu truyền câu chuyện “dịch phục”. Người nay (Hoàng Lương 2011) tìm thấy đầy địa danh Tày Thái tên đất đền Hùng, và xa hơn. Các danh xưng Hùng Vương của những người đào bới Lũng Hoà các năm 1960 cũng thấy có dáng Tày Thái. Cho nên không lấy làm lạ rằng một bản Ngọc phả nay nằm trong tay một “quan lang phụ đạo cháu chắt vua Hùng…” Rộng rãi ra thì nhận một ông chúa Thái làm Tổ cũng không có gì là xấu hổ — cũng giống ông Lê Thánh Tông thôi, nhưng cứ coi đó là ông Tổ của một tộc Việt riêng biệt thần thánh của những người trương bảng dựng hiệu ngày nay thì cũng nên có lời bàn tới.

 

Giả học thuật: Từ thờ cúng tổ tiên đến Hùng Vương

Sự nối kết Hùng Vương với tục thờ cúng tổ tiên được diễn giảng trong cuộc tổ chức Hội thảo hai ngày 11-12 tháng Tư năm 2011 ở Thị xã Việt Trì, tỉnh Phú Thọ với đề tài: “Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã hội đương đại: Nghiên cứu trường hợp tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam.” (Ancestor Worship in Contemporary Society, with Case Studies of Worship of the Hung Kings in Viet Nam). Có thể nhìn thấy chủ ý hướng dẫn trong đề tài hội thảo: ghép một tục lệ phổ biến trong dân chúng với một sinh hoạt tín ngưỡng thần thuyết của một vùng riêng biệt mà với thời gian được nâng cấp thành quốc gia — dồn dập trong thời hiện tại với một quyền lực có vẻ là cường ngạnh nhất trong lịch sử Việt Nam. Dụng ý hướng dẫn ghép nối được khoả lấp màu sắc chính trị bằng sự áp dụng một phương pháp nghiên cứu có phần chắc là mang từ các trường Ðại học Mĩ về.

Tất nhiên không thể cột những người của một cuộc Hội thảo quốc tế vào chung một nhóm cùng ý tưởng, hướng theo chủ đích được sắp đặt, vì lẽ giản dị là không ai đủ sức và đủ can đảm làm chuyện dại dột ấy. Hội thảo trong nước ngày trước, ví dụ về Quang Trung thì không thể nào nói hết sự oai hùng của ông ta, chẳng ai dám moi chuyện ông đào mả các chúa Nguyễn để, dù là phản bác gián tiếp tội đào mả Tây Sơn của tên rước voi về giầy mả tổ Nguyễn Ánh. Nhưng hội thảo quốc tế về vua Hùng và bàn thờ tổ tiên thì không thể bắt người ta gom hai/ba làm một như khi bán cà phê bột: “Two/Three in One”. Người ta tha hồ bàn chuyện Tây Tàu thế giới, miễn là về một/các ông, bà Tổ nào đó, về một cung cách xử trí nào đó với người đã khuất trong tộc họ. Người-nước-ngoài thì hoặc thẳng thừng, hoặc ý tứ chê chuyện ông vua Hùng của học giả Việt, cho rằng ít nhiều là bịa từ sử sách Tàu theo cách cầu cạnh “leo cao” (Chung Tông Hiến, Ðài Bắc 2011, tội nghiệp! chữ của bản dịch) để học giả Việt né tránh phụ hoạ mà khỏi làm mất lòng… Có lạ lùng là “dẫn chứng” đỡ đần của GSTS. Triệu Minh Long (dân tộc Choang 2011) cho biết (từ đâu?) 50 người con theo mẹ đã chết chỉ còn 4 người, nhập chung với 50 người theo cha để thành 54 dân tộc lập thành dân nước Việt Nam ngày nay – làm như lối phân chia của các nhà dân tộc học Việt Nam là tuyệt đối chính xác, không hề trải qua sửa chữa, vì họ đã nắm bắt thấu hiểu qua sự tiền định của những cái gen thời khởi thuỷ của ông Lạc, bà Âu vậy.

Hầu hết các tham dự viên Việt Nam trong nước đều chỉ làm công việc quảng diễn đề tài đưa ra từ những người chủ trì cuộc hội thảo. Cũng thật dễ hiểu, họ và những người kia đều cùng chung một tâm ý thời đại, tạo dựng bởi quá khứ lâu dài đã không có cơ hội dứt bỏ, lại còn được củng cố trong một khuôn khổ chính trị không khuyến khích sự sáng tạo để vượt thoát, chưa nói đến sự đe doạ đàn áp trên một số trí thức hiếm hoi vốn không có quá khứ và phương tiện vượt khó khăn, tìm tòi cái mới. Các bản tham luận kia đều không thắc mắc về sự liên kết phải chứng minh giữa sự thờ cúng tổ tiên mang tính chất bản xứ ở khởi điểm và ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa trong thế phát triển, với hình ảnh ông thần Hùng của (dân chúng, là lãnh tụ) địa phương được nâng cấp lên vị thế trung ương, nâng cấp không phải chỉ một mà nhiều lần bởi những quyền lực khác nhau, đun đẩy đến tầng cao chưa thấy điểm đến trong nền chính trị bây giờ, để có sự kết hợp đúng đắn với luận đề hội thảo. Coi sự kết hợp là đương nhiên, họ chỉ làm mỗi một việc là dùng văn từ tán tụng sự kết hợp ấy, xác định chắc nịch: “Người Việt Nam từ dân gian đến các quý tộc đều coi vua Hùng là tổ tiên của mình (Lê Ðức Hạnh, Viện Văn hoá Dân gian 2011)”. Họ cứ dựa trên những tin tưởng thường tục, không quan tâm đến cả những thứ đã bị bài bác hay có thể dễ dàng kiểm chứng đúng sai, nếu chịu khó theo một ít nguyên tắc về sự trung thực trí thức.

Không chịu giở sách đã in bây giờ để thấy các tấm bia nói chuyện thời Khải Ðịnh kia, không chịu lục lọi báo chí quốc ngữ tất còn nằm trong thư viện Hà Nội về các việc tu bổ đền Hùng kia… cứ coi “ngày Giỗ Tổ” là của truyền thống nhân dân có từ lâu đời nên tha hồ viện dẫn câu “ca dao”: “Nhớ ngày mồng Mười tháng Ba…” trong đó có cả các tay mang bằng cấp Tây (Nguyễn Phương Hùng, Pháp, 2011), để không cần nhờ đến Giáo sư Kim Ðịnh bừa bãi quảng diễn thêm: “‘Ba’ là (tộc, rợ) Tam Miêu, ‘Mười’ là Bách Việt, trăm cũng như mười (!?)” Cái dễ dãi của những người nghiên cứu trong nước, phần lớn là do họ được đào tạo để phục vụ mà mớ bằng cấp ban phát đã khiến cho họ có thêm nhiều tự tín để bàn thảo.

Nhìn lại những tham dự viên hội thảo gồm những cán bộ địa phương, nhân viên có kèm danh xưng “văn hoá” để nâng cấp “du lịch”, ta thấy họ dễ dàng nghiêng về việc ca tụng một di tích thắng cảnh, khiến họ không cách xa với người ở những ban ngành của các Viện Văn hoá Nghệ thuật, Nghiên cứu Văn hoá đã có sẵn khuynh hướng bàn thảo theo đề tài mở đường. Rõ rệt nhất là trường hợp của GSTS Ngô Văn Thịnh, chức sắc cũ của Viện Văn hoá Dân gian, thời của Hội thảo 2011 được ghi là Chủ tịch Hội Di sản Văn hoá Việt Nam (thấy có một Hội đồng Di sản Quốc gia khác nữa), đăng bài cổ động trên báo chí về trường hợp UNESCO công nhận văn bằng, rồi tiếp tục nghiên cứu thêm, theo dõi dịch bản Ngọc phả Phú Thọ với các chú thích, bàn luận của riêng mình. Chính trong các loại “công trình” phô trương này mà ta thấy sự hào nhoáng của danh vị, chức vụ được đưa ra đã nằm không đúng chỗ phải có của nó. Con người suýt bị đám cung văn, đồng cốt hút hồn trong các chuyến “đi thực địa”, dù có nghe loáng thoáng đến các lối nghiên cứu khác để làm việc copy&paste, kê cứu văn bản học qua loa, cũng không thể nào đủ tâm trí bình tĩnh để thắc mắc về các sự kiện vô lí nằm trong bản văn kia, khiến phải bị lôi cuốn theo đà hấp dẫn của chuyện, để rồi lấy hoang đường làm cơ sở cho sử kí, con người như thế cũng thật dễ dàng ôm ấp Hùng Vương làm ông Tổ của dân tộc Việt, rồi bao chiếm thành của Việt Nam.

Ðiều đáng nói hơn, là cái không khí làng nhàng “dân tộc” xuất phát từ sự thu hút của các hội lễ trước mắt cũng đã đánh bạt tinh thần khách quan của người nghiên cứu, có ý uốn nắn những suy nghĩ đi ra ngoài sự lặp lại tầm thường của số đông. Nguyễn Thị Hiền (2011) dựa vào lí thuyết “sáng tạo truyền thống” (sẽ bàn sau), nên không cần thắc mắc về vai trò của Ðảng và Nhà nước đương đại về sự tạo dựng một hình ảnh hội lễ mới về Hùng Vương, thế mà trong ngôn từ diễn gỉảng, vẫn mượn các hình ảnh khuôn khổ thường nhật, đầy cảm tính, mang tính siêu hình khó thuyết phục: “…Sự can thiệp của vương triều và nhà nước ngày nay đã làm tăng ý nghĩa và đạo lí uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam… Con người chung một tổ tiên không chỉ trong một gia đình, dòng họ mà cùng trong một dân tộc…” Nghe vẫn giống như một bài thuyết giảng ở một buổi mitting nào đó!

Bàn về một vấn đề dính dấp đến thời gian lâu dài mà ngưòi ta lại không tính đến yếu tố lịch sử, hay đúng hơn, chỉ dựa qua loa vào lịch sử. Thế là có thể nói “áp lực quần chúng” đã chen vào dẫn dắt sự yếu kém nọ. Bị định kiến ráp nối Hùng Vương và tục thờ cúng tổ tiên, tác giả viện dẫn sách xưa cho rằng ở đấy đã có chứng cớ về một sự thờ cúng Hùng Vương, trong khi thật ra, chúng chỉ đưa ra những danh xưng, một hệ thống sơ sài về tập họp chính trị, sản xuất. Nguyễn Thị Hiền cũng nhắc đến chuyện thời điểm 10-3 chỉ mới có vào năm 1917 thôi nhưng không thắc mắc thêm nên sa vào suy nghĩ khuôn khổ chung: “Ngày giỗ Hùng Vương 10-3 trở thành một ngày Quốc lễ, một ngày thiêng liêng trọng đại đối với cả dân tộc”. Các văn từ được tạo dáng thời đại khoa học ngày nay, tuy đã đem lại một chừng mực uy thế đối với quần chúng về sự gán ghép mang tính cách học thuật nhưng vẫn có thể dễ dàng tan rã từ bất cứ sự xét nét nghiêm chỉnh nào.

Tập đoàn nào, dân tộc nào cũng đặt vấn đề liên hệ giữa người sống và người chết, nơi trần tục và cõi thiêng liêng. Mối nối kết dài hay ngắn, sâu đậm hay sơ sài không phải là dấu hiệu của văn minh hay lạc hậu. Lập bàn thờ trong nhà, có nghĩa địa chôn cất lâu dài không phải là niềm hãnh diện, như trong một bài báo của (người Kinh) Bình Ðịnh ngầm ý chê trách lễ Bỏ mả của người Bana. Tục lệ này của các dân tộc Tây Nguyên chỉ được biết rõ trong thế kỉ XX nhưng có vẻ cũng là chung cho các tộc đoàn bản xứ Ðông Dương, bởi vì với các tập đoàn bên lề rừng núi đồng bằng chúng ta cũng thấy dấu vết xưa hơn, như được ghi lại hay có thể gợi giải thích nơi gia phả họ Ðặng sui gia với họ Trịnh, hay với trường hợp Nguyễn Kim, ông tổ chúa Nguyễn. Cũng có thể thấy thấp thoáng tục lệ ấy dưới đổng bằng, ẩn giấu sau các câu chuyện về “thiên táng”, bào chữa cho sự bất lực của các thầy địa lí. Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt với dạng hình như trước mắt, không phải là một đặc điểm riêng biệt của dân tộc này mà chỉ là phần chia sẻ tính chất văn hoá của các nước Á Ðông theo thói tục Trung Hoa, thói tục được gìn giữ, lan rộng nhờ chữ viết biểu hiện riêng biệt trong các ghi chép gọi là gia phả. Không biết ghi chép, không có phương tiện ghi chép, người ta tìm ra những cách nhận họ hàng khác, như lối cúng Việc lề khiêm tốn đã nói nơi khác. Khuôn mẫu văn hoá được định hình nơi cõi gốc, một khi du nhập đến nơi khác, có thể dung chứa thêm những dạng hình chi tiết đôi khi gây phản ứng nơi các đồ đệ trung thành với “truyền thống” (sách vở). Ví dụ nhà nho uyên bác Phạm Ðình Hổ đã gay gắt với tục cho người nữ ăn hương hoả, nghĩa là có quyền cúng giỗ, một yếu tố mang dấu vết Việt bản xứ, thật trái với tinh thần phụ hệ ông được thấm nhuần qua kinh sách thánh hiền (Trung Hoa) từ nhỏ.

Nhưng ngay trong khung cảnh cùng chung văn hoá thờ cúng tổ tiên, tính chất muốn là riêng biệt của tập nhóm được gọi là “họ” cũng biểu lộ rất rõ rệt. Chứng cớ, người ta chỉ đổi họ khi phải tránh hoạ sát thân, hay khi muốn chối bỏ để vươn cao hơn. Ðiều đó cũng có nghĩa là sự chuyển tiếp từ việc thờ cúng ông tổ của một dòng này qua ông tổ của một dòng khác, cũng phải trải qua những áp lực / quyền lực, ngấm ngầm hay đe dọa, lâu dài hay tức khắc, mới thành hiện thực. Sự gộp chung ông tổ cho các dòng khác nhau thật không dễ dàng. Ông tổ chết đi tuy là thuộc vào “người cõi khác” nhưng có là thần cũng chỉ là một thành phần có kế tục của một tục lệ truyền thống khác, còn nhóm Hùng Vương ở Phú Thọ trong một thời gian rất dài có chứng thực rõ ràng được dân chúng thờ như một hiện tượng siêu linh vùng (như với chứng cớ Lê Quý Ðôn kể sau, hình trạng kéo dài cả đến thế kỉ XX), không khác ông Gióng vốn không có điều kiện phát triển bằng. Cho rằng có sự tương đồng giữa tục thờ cúng tổ tiên với tục thờ “Quốc tổ” Hùng Vương, đã có cái sai là không thấy sự tách biệt nói trên, bỏ lơ tính chất lịch sử trong quan niệm về Hùng Vương đã bàn của tầng lớp vua quan, lại không thấy ra chứng cớ gần đây của một tập nhóm dân chúng khác. Ðạo Bửu Sơn Kì Hương, cũng là của người Việt, ở thế kỉ XIX, khi xướng suất Tứ Ân đã nhắc đến ơn Tổ tiên mà không cần biết đến Hùng Vương.

Các ông Hùng Vương nọ rõ ràng lúc còn nằm trong các đơn vị thờ cúng được người Minh chứng kiến, là ông Lạc hay Hùng thì cũng chỉ là thần, tổ của một tập nhóm quanh đó. Dù các nho sĩ cuối Trần có gán cho một tước vương, vai trò một thủ lãnh, tước vị đó cũng chỉ gói gọn trong các trang giấy của các ông mà thôi. Trải qua bao biến chuyển có sự áp đặt của con người, có sự thuần hoá bởi thời gian, tính chất “địa phương” riêng lẻ đó vẫn còn ẩn khuất trong văn từ nhà nước trên bia 1923: “Tục lệ dân xã [Hi Cương, phủ Lâm Thao] lấy ngày 11-3 kết hợp với việc thờ thổ kì [thổ địa “Hùng Vương”], làm lễ riêng”. Và xét trên tình hình các hội mùa tổ chức trên đất Bắc thì số lượng người tham gia ở đền Hùng hẳn cũng phải chia cắt với các hội khác đồng thời nên không thể có dáng dấp như đã thấy trước mắt, ngày nay.

Sự việc khác hẳn khi Ngô Sĩ Liên đưa ông Hùng vào sử triều đại (sau sẽ thành sử nước). Ðây là dấu ấn quyền bính mở đầu cho một truyền thống được xếp đặt tự trên cao nên có uy lực lâu dài. Cùng triều đại mà khác thời đại, Ngô Thì Sĩ chê người xưa “hiếu sự” vơ vào “một loạt hoang đường càn rỡ” nhưng rồi cũng phải giữ lại phần cốt cán, cũng lại viện dẫn lời người xưa. Gốc ông vua Hùng theo thời gian, càng lúc càng bền bên trong triều chính vậy mà ngoài dân chúng, ông thần ở đền Hùng vẫn còn phải chật vật để ngoi lên cho đúng vị trí được ban phát. Lê Quý Ðôn kể chuyện loan truyền hồi đầu thế kỉ (XVIII), rằng dân trùng tu đền “Thánh tổ Hùng Vương””chở gỗ về sửa chữa liền bị ông Ngọc Tháp Ðại Vương (không chỉ là “vương” mà còn là “đại vương”!) gần đó giành giật, điều đó chứng tỏ đến lúc này, uy thế ông Thánh tổ cũng không lan xa ngoài vùng ngự trị của ông. Ông Thánh tổ — không phải Quốc tổ, chỉ có một số dân (làng xã) tạo lệ để lấy thuế lo việc thờ cúng ông, có nhiều thì cũng không hơn quá nhiều các dân tạo lệ trên các làng được quốc tế trong nước. Lễ hội đền Hùng trong thời phong kiến cũng không hấp dẫn người vì vị thế của nó giữa hàng trăm hội lễ mùa xuân xuất hiện dồn dập hàng năm trên xứ Bắc. Cho nên chứng cớ của Lê Quý Ðôn cho thấy vẫn còn có một tập họp không nhỏ những người quan niệm “ông đó” không phải tổ của họ. Trở lại với tên các ông vua Hùng, ngoài ông quan Nguyễn Bính của triều Lê thời còn long đong, người ta còn nhắc đến ông Nguyễn Hiền các năm 1736, 1737 với chức danh “Quản giám Bách thần, tri Hùng lĩnh điện Thiếu khanh”, rõ là ông từ đền Hùng. Có nguời thật, để ta nhắc lại việc thật, là vào quanh thời ông ta chưa có thêm được tên ông vua Hùng nào ngoài các ông Hiền, Duệ Vương đã kể!

Họ Nguyễn cướp đất họ khác, phải chịu nhường để riêng chuyện gốc tích “nhà ta phát xuất tự Ô Châu” vào khu vực Thái miếu, Thế miếu, lập các miếu Lịch Ðại Ðế Vương cho các ông Kinh Dương Vương, Hùng Vương vào ngồi chung với các tổ Tam Hoàng Ngũ Ðế loạn xạ. Minh Mạng khi hãnh diện “năm nay ta có trăm người con” thực sự, đã cho rằng hơn “chuyện Âu Lạc của Nam sử lấy bằng cớ từ đâu?” Ðến giữa thế kỉ XIX, các sử quan khi bàn luận về “thời kì dựng nước”, dựa vào uy tín của quyển sử có 300 năm tuổi, tuân theo lời ông vua đương đại, mới tấn phong ông Hùng xưa thêm một lần nữa vào trong lịch sử nước. Mối liên hệ mới cũ cũng không có dấu hiệu gắn bó lắm cho đến khi sự lấn át của người Pháp xô đổ thần tượng quân vương trên đất Bắc. Việc xây (trùng tu) đền Hùng vào năm 1874 có hiệp định về Bắc Kì hẳn là một dấu hiệu vớt vát của nhà Nguyễn về vùng đất sắp tuột khỏi tay mình kia.

Sự kiện này không lọt qua đôi mắt tinh ranh của người chủ mới, nhất là khi đám dân mất nước không còn ngườì cầm đầu thế tục, phải viện dẫn đến thần linh, tiên tổ, nối kết đám con Hồng cháu Lạc. Thế là nguời Pháp cũng nói chuyện rồng, nhưng chỉ sử dụng “rồng Nam (để) phun bạc đánh đổ Ðức tặc”. Chuyện Lạc chỉ bàn trong hội Viễn Ðông Bác Cổ, còn đền Hùng thì khuyến khích vua quan bản xứ săn sóc tuy vua thì ở xa, không quyền, còn quan chỉ là quan của ông Thống sứ Bắc Kì. Nhưng vẫn phải cần xây cất, vì cần chút phỉnh nịnh dân bản xứ trong khi Mẫu quốc bận cuống quýt đánh giữ ở trời Tây, chỉ lưu lại có vài ngàn lính để giữ an ninh trên một khối dân mươi lăm triệu người. Hiệu quả đó thật bất ngờ với người cai trị nhưng là bình thường với lớp dân vốn có tập quán chờ đón các ân sủng từ trên cao ban phát xuống. “Vào thập kỉ 10, 20 của thế kỉ XX, vấn đề cúng tế đền Hùng được dấy lên rất mạnh” (Trịnh Sinh 2011). Những năm 1917-1922, những năm ghi việc trùng tu ở các tấm bia kia, Mười tám tỉnh Bắc Kì cúng 6000 bạc Ðông Dương xây đền Thượng, Lăng, đền Giếng, 1000 đồng xây 539 bậc xi măng nối các đền. Ngày 10 tháng Ba âm lịch trở thành ngày Giỗ Tổ như đã nói. Và vẫn mới chỉ là tổ của xứ Bắc Kì / Tonkin thôi. Có mở rộng ra thì cũng chỉ bao quát phần đất nhà Lê cũ, nên chớ có hỏi tên ông ta trên hai phần đất nước còn lại. Tò mò một chút có thể tìm ra vết tích, hay dù thất bại cũng có thể phỏng đoán, là bản Ngọc phả kia đã được thành hình trong thời kì này, của một bộ phận nho sĩ Cần Vương lạc loài, như một tiếp nhận gián tiếp không khí Tây học mà vẫn chống đối nền ngoại trị.

Vấn đề lợi dụng truyền thống để phục vụ cho mình của người Pháp cũng không phải chỉ đem lại thuận lợi cho họ.Với thời đại hình thành những quan niệm về dân nước đưa từ phương Tây qua, nội dung “nước” (quốc) đã có biến đổi khác. “Nước” xưa là cương vực dưới quyền cai trị của một người được tôn xưng là “vua”, với thời đại mới, người ta phải nhấn mạnh thêm “đất” cho “nước”. Nhưng với Lê Thánh Tông, nước là chính ông ta: “quốc hoàng” (đầu 1468). Bởi vậy ông mới kể tội Trần Phong “phản quốc” vì chê trách ông, mới mắng Ngô Sĩ Liên là “gian thần bán nước” chỉ vì ông này từng phục vụ Nghi Dân vừa bị lật đổ đã quay sang làm quan của ông! Dưới sự thúc đẩy của tình thế ngoại trị, các thần dân Phan Châu Trinh, Ngô Ðức Kế nhờ được người Pháp tách biệt với vua, đã lên tiếng mắng chửi nặng nề Hoàng đế Ðại Nam Khải Ðịnh nên ông ta khó có thể là điểm tập họp uy tín toàn vẹn, càng không xứng là ông “vua”, chủ của nước. Thế là có dịp để nguời ta mượn ý niệm dân-nước của phương Tây, gợi lại ý của ông Mạnh Tử bị bỏ quên từ lâu. Chủ nước không còn nữa thì người ta vọng về một ông tổ xa xưa, nhất là với những người “tại chỗ” thuộc làu kinh sách.

Hãy nghe Phan Bội Châu than thở về con Hồng cháu Lạc trước khi Hồ Chí Minh nằm ở biên giới Việt Trung tin tưởng làm vè Hùng Vương dựng nước. Cả hai đều được nuôi dưỡng trong sách vở về thời dựng nước, đồng thời cũng có trước mắt trong khu vực về một đền đài như là bằng cớ lịch sử không thể chối cãi. Kiến thức sách vở khiến họ vượt qua được giới hạn chật hẹp của các nhóm thờ kính riêng biệt trong vùng, đưa quan niệm Hùng Vương của đất Việt Trì lên tầm mức quốc gia lãnh thổ đang trong vòng tay người Pháp. Trong tình thế đó, các đền đài của Hùng Vương lan rộng nhờ sự khuyến khích của người Pháp, vốn chỉ định tạo danh nghĩa cho vua Nguyễn lại gợi mơ mộng xa vào quá khứ, gây sự nối kết với những những vùng miền khác. Vào thời gian cuối của quyền uy thuộc địa, thấy có những cổ động đi hội đền Hùng từ đất Sài Gòn, Nam Kì, nơi mà trước đó chỉ thấy những ông xưng con cháu, xác thân Minh Mạng, Hàm Nghi. Nếu có thể kết hợp sự thờ cúng tổ tiên với thờ cúng Hùng Vương, theo ý nghĩa mở rộng tính chất biến động từ một hệ thống nhỏ: “gia” ra đến hệ thống lớn: “quốc” thì lập luận nối kết chỉ hữu lí với thời đại này, thời đại công nhận nước là của dân chứ không phải là của vua nữa. Tuy nhiên, dù mượn danh nghĩa khoa học nào, thay thế bằng phương pháp làm việc nào thì thấp thoáng trong việc “ghép đôi” tổ Họ và tổ Nước này cũng cho thấy đây là một cách vực dậy quan điểm tổ sinh học của vua Hùng (hay Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân tuỳ ý) trong tin tưởng làng nhàng của dân chúng đã phổ biến sâu rộng, để điều chỉnh nâng cấp lên thành một chủ nghĩa huyết thống tập thể của dân (Kinh) Việt.

Dân lúc này được nhà cầm quyền (Pháp) mở lối “trở về nguồn” theo đường hướng hồi cố thấp thỏi nên càng dễ bị thu hút vào các kiến giải từ huyền thoại mà cao trào giành độc lập tiếp theo đã bám vào đó để lấy tự tín chiến đấu. Những biến động dữ dội mang đến những thành tích tưởng không ở tầm mức của một dân tộc vừa lệ thuộc đã khiến phát sinh niềm kiêu hãnh tột cùng, lấy hiện tại chứng minh cho quá khứ. Do đó có tin tưởng huyền thoại là sự thật, quá khứ “Bốn ngàn năm với vua Hùng dựng nước” là chân lí không thể nào thay đổi. Có người coi đó là điều tự nhiên không cần bàn cãi, nhưng có người vướng víu chút màu mè khoa học lại đẩy ra thành lí thuyết về “huyền sử”, cho rằng đã giải quyết được điều mà các sử gia bận tâm với chuyên môn học được, đã không thể giải quyết nổi. Xuất phát từ đất Sài Gòn, phía bại trận, đáng lẽ lí thuyết này phải bị tiêu diệt nhưng với căn cơ “truyền thống” đã có, nó được nhà cầm quyền mới khai thác mà không nêu tên, khiến có sự đồng loã của những người khác chính kiến, với nhà cầm quyền thì như một kẻ thừa hưởng chính thống, còn với kẻ chống đối thì như một sự chịu đựng tước đoạt mà nỗi ấm ức dễ bùng ra trong một cơ hội trái ý nào đó…

 

Giả học thuật và Chính trị: đẩy đưa “Sáng tạo truyền thống” và lấn lướt chiếm đoạt

Lịch sử là của con người làm ra nên dễ có sự biện minh cho sự can thiệp của con người, nhất là người có quyền lực, để lái theo hướng họ muốn. (Thành công hay không lại là chuyện khác). Ngày nay người ta vượt qua những mù mờ của lịch sử, những bất tương hợp của quá khứ với các chứng cứ rối rắm để ghép nối tục thờ cúng tổ tiên với truyền thống Hùng Vương bằng cách viện dẫn đến tính chất “sáng tạo truyền thống” của người cầm quyền. Nhưng cho dù có sự can thiệp của con người, cái gọi là truyền thống cũng phải cần đến một yếu tố thời gian dài, một sự thấm đượm tục lệ sâu xa ở những con người cùng chia sẻ truyền thống. Những người của Hội thảo 2011 vẫn liệt kê những sự can thiệp vừa qua của nhà cầm quyền vào lễ hội Hùng Vương đang diễn ra trước mắt. Nhưng họ coi những xuất hiện ngắn hạn đó có căn bản đã được kết nối từ xa xưa mà quên cái dạng mới trùm khắp của hội lễ, chỉ mới vừa thoát xác không lâu từ những gì không to lớn như người ta đang thấy. “Sáng tạo truyền thống” ở đây, có dấu vết chấp nhận phục vụ mà sự dẫn chứng về Hobsbawn và Ranger cũng như cả cuộc hội thảo 2011, là để đem tính chất trí thức phụ hoạ với cảnh xây cất đền đài hoành tráng, có quần chúng hò reo thuyết phục. Nhưng ở căn bản, đó là ý định quyết liệt, muốn thực hiện không tranh cãi của một tập đoàn chính trị thừa hưởng được quyền lực tóm thâu chật vật trong quá khứ vừa mới đây. Cho nên không thể đặt nội dung chính trị thời đại của sự đăng quang Hùng Vương thấy trước mắt ra ngoài cái công trình “sáng tạo truyền thống” kia được.

Quyền lực đó đã đến, sừng sững sau tháng Tư 1975. Ðã nói, khoảng đầu thế kỉ XVIII, ông Hùng Vương vẫn còn loanh quanh, tạm khoanh lại ở vùng Việt Trì, và nằm trong bản sách Toàn thư vừa mới in (1697) ở kinh thành Lê Trịnh. Trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh làm vè về vua Hùng dựng nước… thì không phải chỉ có xứ Nam Kì thuộc Pháp không biết đến ông Hùng Vương mà ông ta cũng chỉ nằm trong cái đền Lịch Ðại Ðế Vương đâu đó của kinh thành Huế mà thôi. Ở cuối đường đất nước, ông chỉ là tiếng vọng của mơ mộng, lời thơ tiếng nhạc. Hùng Vương được mang vào Sài Gòn (vùng Phú Nhuận?) có dáng một điện phủ hơn là một đền thờ Tổ. Và muốn lên tột đỉnh làm Tổ Nước thì phải đợi qua “trào” Ngô Ðình Diệm, mới có lễ Tổ 10-3, vì ông Diệm không muốn nhận ông Tổ này. Cái đền Tưởng niệm Tử sĩ Âu chiến trong sở Thú Sài Gòn được mong muốn làm Ðền Tổ mà chỉ mới loáng thoáng có bóng vua Hùng (dễ hiểu với những rối loạn đương thời) vì khó đổi thay quá khứ của nó, ví dụ với tượng con voi, tượng ông vua Thái Lan sừng sững được biếu tặng trong một dịp thăm viếng. Trong cái thế tranh giành chính nghĩa, Miền Bắc đã hết sức đề cao sự kiện 4000 năm lịch sử khiến cho phía Nam cũng cho chen các ông Hùng Vương phụ hoạ với những lời tuyên truyền trong các phát biểu chính trị, trên làn sóng phát thanh dù không có mấy ảnh hưởng đến tinh thần dân chúng trong vùng.

Ông vua Hùng sau tháng 4-1975 đi theo các nhà khảo cổ, các sử gia Hà Nội, Vinh vào Nam viện trợ kiến thức sử học cho các sinh viên mê muội, cho họ biết rằng trong nền văn Ðông Sơn có người Việt cổ hiển hiện bằng trống đồng ở tận phía nam, bao hàm ý nghĩa có một sự thống nhất thời xa xưa. Sự áp đặt về “thống nhất dân tộc” tuy có thuận lợi với các sự kiện hợp nhất chính trị đang gấp rút tiến hành nhưng vẫn còn phải chia sẻ hình ảnh thu hút với ông Quang Trung cụ thể hơn, oai vũ, gần gũi hơn với thực thể quân đội chiến thắng trước mắt. Huống chi ngay ở xứ Bắc ông vua Hùng cũng mắc kẹt với ảnh hưởng phong trào bài phong ở Trung Quốc. Hội thảo 2011 có người hai bên biên giới nhắc nhở chuyện ‘Phá tứ cữu” (đập tan 4 điều thủ cựu) ở Trung Quốc, chuyện ở Miền Bắc, vào thời gian khoảng 1956-86, “nhiều từ đường dòng họ bị hạ giải, gia phả thất lạc, hư hao…”, “thậm chí, người dân nào mà thờ cúng thì bị quy là mê tín dị đoan, tàn dư chế độ cũ, bị công an, chính quyền mời lên kiểm điểm răn đe, giáo dục…” Hòn đá Thạch Quang Phật có mẫu hình được vua quan Lí Trần Lê cầu cúng cũng trải qua quá trình chui nhủi giấu diếm. Sự chuyển hướng tập trung vào vua Hùng chỉ phát triển khi Ðảng và Nhà nước Việt Nam mất hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, buông thả cho mê tín dị đoan tràn đầy, bị lôi cuốn vào dòng phản ứng hồi cố này để lại thấy ra đây cũng là một cung cách giữ gìn và phát triển quyền lực.

Thập niên 1990 Nhà nước bắt đầu nói đến sự phục hồi có chọn lọc các giá trị truyền thống. Ðến cuối thế kỉ thì có Quyết định BCT 26-7-1999 về việc tổ chức các ngảy lễ lớn trong năm 2000, trong đó có lễ Hùng Vương. Nguyễn Phương Ngọc, Pháp (2011), Oscar Salemink, Copenhagen (2011) nhận thấy lễ hội đền Hùng đến lúc đó vẫn chủ yếu mang tính địa phương, mới được nâng cấp thành lễ hội quốc gia, chính thức trở thành biểu tượng cho nguồn gốc và sự độc lập của quốc gia, dân tộc. Và thế là có sự bùng phát xây cất ở vùng quanh đền với sự yểm trợ tích cực của nhà nước. Có quyết định 2004 về việc “đầu tư Khu Di tích lịch sử đền Hùng đến năm 2015” mà danh xưng phóng đại là “Khu Di tích Ðặc biệt Quốc gia đền Hùng”. Thế là năm 2005, khánh thành đền Tổ mẫu Âu Cơ ở núi Vạn (2013: khai hội 17-2), năm 2009 khánh thành đền Quốc tổ Lạc Long Quân ở đồi Sim trên khoảnh đất 140000m2, với bức tượng đồng nặng 8 tấn, thêm hai tướng hầu như trong tuồng hát bội, không biết có phải là Sơn Tinh, Thuỷ Tinh không. Không rõ công trình được gọi là Tháp Hùng Vương xây theo ý tưởng của Tổng bí thư Lê Duẩn phác hoạ cao 8 tầng, với khối tròn trăm trứng và các thành phần tượng trưng các khu vực địa lí Việt Nam đã được khởi công chưa. Kết cục lễ hội ngày 10-3 được mang thêm tính chính thống từ năm 2007 theo quyết định đồng loạt bấm nút của Quốc hội.

Cho nên ngày 13-2-2011 TT Nguyễn Tấn Dũng thăm Khu Di tích thúc đẩy: “trùng tu tôn tạo, xây dựng những công trình mới, mở mang khang trang, hoành tráng xứng đáng là đền thờ tổ tiên cả nước” (Nguyễn Khắc Xương 2011). Có thể nghĩ rằng sự hứng khởi này là nhằm vào việc tạo ra một bề thế vật chất cho lễ hội để góp phần vào việc xin cấp bằng UNESCO. Thật ra thì sự hoành tráng của lễ hội ở Phú Thọ cũng có phần tự phát riêng biệt, là nương theo tình hình phát triển chung của đất nước mà sự dồi dào tiền bạc, thay vì là dịp để đầu tư theo chiều phát triển của thế giới lại đổ vào việc cất đền, xây chùa hành lễ cúng bái… theo đúng tâm thức của tầng lớp lãnh đạo (tận cấp bực Trung ương) phát xuất từ xóm làng đất Bắc, giờ có dịp quay trở về với “truyền thống”. Không phải là vô tình mà các chuyện tồi tệ kiểu dựng đứng thần thánh như Lễ Khai ấn ở đền Trần, nhét tiền hối lộ vào miệng Phật ở các chùa miếu… lại đồng dạng với sự xuất hiện của hòn đá trấn yểm và cái ấn ở đền Hùng, thấp thoáng có hình bóng nhiều viên chức cấp cao…

Sự phát triển của đền Hùng và lễ hội của nó còn lan tràn về phía nam theo hậu quả của cuộc chiến dẫn đến ngày 30-4-1975. Cuộc chiến mang ý nghĩa đòi hỏi thống nhất đất nước, phát động và dẫn đạo từ phía Bắc đã ngầm chứa sự đồng thuận quy tụ về phía Bắc — gần như là một hiệu quả của mê tín đồng bóng trong cơn say máu ngà chiến tranh. Ước mơ “Thăm lại non sông giống Lạc Hồng” vào thời đầu kháng chiến “vó ngựa sa trường”, chuyển thành thực tế của những cán bộ tập kết được đào tạo hai mươi năm ở đó, với sự quỵ luỵ của tầng lớp thần hạ ngày xưa được tân trang bằng nguyên tắc “dân chủ tập trung” gắt gao của Ðảng hội kín mác xít. Tâm tình lãng mạn khiến các cán bộ hồi kết mang cây hoa sữa về trồng ớ các tỉnh Miền Trung, xuống đến Trà Vinh, lên tận Kontum, ở những tên địa phương nổi bật đi theo với mùi hoa sữa nồng nặc hôi thúi gây phản ứng muộn màng của dân chúng tại chỗ — muộn màng vì cũng phải đợi thời gian làm cho bớt sợ, và chờ uy thế của cán bộ sụt bớt đi. Một hiện tượng không lạ đối với thế giới, bởi vì thấy có nhóm từ “colonisation végétative”, không biết dịch thế nào cho gọn.

Tính kỉ luật nằm trong nguyên tắc dân chủ tập trung khiến các cấp uỷ tỉnh Nam Bộ chống đối gắt gao với sự cổ động “xét lại” của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt về trường hợp các nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký bị phê phán gay gắt từ những năm 1960 ở Hà Nội. Bến Tre với uy thế Ðồng Khởi nhưng chứa chấp cái mả Phan Thanh Giản bề thế của chính quyền cũ, có vẻ cũng không dám bày tỏ công khai, phải nhờ đến một nhà văn để phân trần, trước áp lực chống đối mang nhãn hiệu pháp lệnh sử học yêu nước của những người ở xứ Bắc Kì xa lạ kia. Họ vướng víu với vùng đất nguỵ mà họ tạo nên sự nghiệp nên dễ sa chân vào đó, với muôn vàn tội lỗi của nguỵ được gán cho họ để che lấp sự tranh chấp bên trên, cho dù có minh oan bằng lối cắt lưỡi, mổ bụng, chặt tay theo lối truyện Tàu như trong vụ án Cimexcol (Minh Hải 1987) cũng không thể nào động lòng lãnh tụ để rửa được nỗi oan khuất, ít nhiều gì cũng là phải chia sẻ với đám nguỵ bại vong kia.

Sài Gòn / Tp. Hồ Chí Minh vẫn được coi là cái ổ khác biệt phải kềm kẹp nên dự trữ các phần tử chính thống, đủ tự tin để sẵn sàng tung ra các chiến dịch ngăn chận “sự lệch lạc” về tư tưởng, văn hoá ở tận trung ương. Cho nên mới có vụ án luận văn Thạc sĩ tận Hà Nội của Ðỗ Thị Thoan (6, 7-2013) mà gốc gác bị moi móc chỉ điểm, là nhóm Mở Miệng phản động của Tp. Hồ Chí Minh, để có sự chen lấn tội nghiệp của ông Vũ Hạnh nhắc nhở chuyện bảy, tám năm trước mắng mỏ, chửi bới các nhân vật nhà Nguyễn, thời thuộc địa — lúc đó cũng dai dẳng trên tờ Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh nhưng ít nhiều gì cũng đã bị thụt lùi vì uy tín của Võ Văn Kiệt và một chừng mực tinh thần địa phương Nam Kì trỗi dậy. Rồi cũng vẫn rơi rớt từ những bài học cũ là những phản ứng của các cấp uỷ (hay có khi chỉ là cán bộ về hưu giữ vững lập trường) đã xảy ra với Nguyễn Ngọc Tư, với tác giả bài thơ Trăng nghẹn… tất cả ồn ào hơn vô số chuyện văn nghệ có định hướng ngớ ngẩn ở Bình Ðịnh (vụ luận án Trịnh Công Sơn của Ban Mai), ở Phú Yên khuất lấp, may mắn không kinh hoàng bằng hình phạt tù hơn một thế kỉ cho nhóm Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn của các tu sĩ có dáng dấp ảnh hưởng lạc loài từ Trạng Trình xưa và Bửu Sơn Kì Hương xa, nói cách khác, đó là dạng hình một Pháp Luân Công Việt Nam! Trong tinh thần Thuộc hạ, các cấp ủy Nam Bộ muốn Ðổi mới cũng phải làm “chui” trong thấp thỏm bị khai trừ “mất tuổi Ðảng”, chờ khi cùng đường mới cầm tay dắt dẫn Lãnh tụ lớn đến xem một vài thành quả, mà cuối cùng khi tình hình sáng sủa ra cũng phải nhường công tích cho sự sáng suốt của Lãnh đạo nơi xa — cả hệ thống đều không nhắc đến công tích của anh du kích Miền Tây, bị kết án 20 năm tù khi kéo lên Tp. Hồ Chí Minh đòi lại ruộng đất buộc vào hợp tác xã (1985?), với cung cách biểu tình nhân dân không khác thời Sài Gòn xưa. Cho nên lại thấy chuyện ngược đời nhưng “thuận chiều lịch sử”, là những cuộc chống đối mạnh bạo gần đây lại nổi lên từ phía Bắc, nơi không bị cái kim cô nguỵ tròng lên đầu.

Tâm tình “thương nhớ Thăng Long” cũng được viện dẫn để che khuất một chính sách Thực dân văn hoá khu vực có sự yểm trợ bằng binh lực sừng sững, với tổ chức Ðảng sít sao, bằng cuộc di dân khổng lồ theo chính sách nhà nước, mang áp lực quần chúng chiến thắng phục vụ cho những quan điểm văn hoá gọi là “truyền thống”, thừa hưởng từ lịch sử vương triều. Từ chiến thắng xa xưa đến thời “giải phóng” trước mắt, sự kiêu ngạo địa phương cứ theo đà kết tụ của thời gian mà củng cố thành kiến vững chắc. Cho nên ông Nguyễn Ðăng Mạnh, một Nhà giáo Nhân dân, một nhà phê bình văn hoá có tầm cỡ, được trí óc mở rộng theo thời cổ động đoàn kết, đại đoàn kết, đã thấy rõ sự nhơ nhớp của phe phái mình để theo phong trào “đặt cục gạch giữ vị trí sau khi chết”, thế mà cũng vẫn hãnh diện thốt lên: “Ði từ Bắc vào Nam là đi từ nơi có văn hoá cao đến nơi có văn hoá thấp”. “Ðó là khẩu khí của một bậc đại trí thức ở đất Kinh kì ngàn năm văn vật nhìn về miền đất tuổi đời non nớt (?)… một cách bao dung và rộng lượng, như một hoàng đế ở Trung nguyên nhìn ra man di bốn cõi” (Thiếu Khanh, nhà thơ). Và sử gia, nhà nghiên cứu ngày nay chỉ ngồi ở Thăng Long, là “nhìn ra”, thấy hết đất nước Bốn ngàn năm!

Nhìn sự phân bố nhân lực lãnh đạo theo tính cách vùng, miền, tạo cảm giác chia đều – tuy thô thiển nhưng ít ra cũng có vẻ công bình trên bề mặt, một tay sành sõi đã trả lời cho người viên chức Việt kiều đã từng biết chuyện phân chia nghiên cứu dành cho phía Nam các mẩu xương xẩu: “Chỉ là hoa lá cành mà thôi… thật ra vẫn là Bắc Kì làm hết!” Ðúng vậy, cứ nhìn các ông Chủ tịch nước gốc Nam Kì đọc diễn văn theo các tay cò thư kí Bắc về nguồn gốc dân tộc, về tinh thần giữ nước, dựng nước mấy ngàn năm từ cả các ông thần đá, thần cây, thần nước… cứ nhìn ông Thủ tướng của thời Mạnh vì gạo Bạo vì tiền tung bạc xây cất trung tâm đền Hùng, cho ông Phó dự lễ khởi công Dự án tiền tỉ tôn tạo Khu di tích Kinh Dương Vương… thì đủ rõ gốc gác mớ kiến thức thời đại của các ông là từ tâm tình tập thể được nhào nặn từ làng xóm, tập họp tỉnh lẻ đất Bắc, không sai chạy. Quan điểm Nam tiến thoảng qua trong tâm tình lãng mạn, trong học thuật trước 1945, chuyển qua hình tượng cụ thể là các đoàn quân Nam tiến trong chiến tranh, với chiến thắng đã trở thành chứng minh của “quy luật lịch sử” được tiếp nối trong thời bình. Ba trăm năm của Tp. Hồ Chí Minh (thật ra phải là của Sài Gòn) được quảng bá rầm rộ, lấy uy thế chiến thắng phỉnh phờ tự ái của các lãnh tụ địa phương để bỏ qua những xác nhận trung gian thua kém tội nghiệp: 500 năm Quy Nhơn, 600 năm Quảng Nam, 700 năm Huế… mà lần tới Ngàn năm Thăng Long huy hoàng với tiền tỉ phô trương. Như một thông báo của lịch sử, ngọt ngào tình anh trước em sau mà mang quy tắc trật tự trên dưới nghiêm khắc không cho phép chối cãi. Thế vẫn còn là chưa đủ, cho nên phải có Phú Thọ nữa một khi Thăng Long đã mở đường.

Thống kê (2011?) cho biết trong nước có 1417 đền Hùng (Từ Thị Loan 2011). Trong lúc đó cả tỉnh Bắc Giang đến lúc này vẫn không có một đền nào, chỉ độc một đền Âu Cơ, lại nhỏ (Hoàng Thị Hoa 2011). Hùng Vương của xứ Huế gượng gạo trong các phát biểu, tham luận có vẻ vì dù triều đình nhà Nguyễn bị xô đổ đã lâu nhưng đây cũng là nơi có một họ từng chiếm đất của vua Hùng! Sự phát triển có chủ ý dồn dập là ở phía Nam, đặc biệt Nam Bộ. Không rõ “đền Hùng Phú Thọ” thu nhỏ được khoe khoang nằm ở Ðà Lạt, được khánh thành lúc nào nhưng đền tưởng niệm các vua Hùng của Tp. Hồ Chí Minh được chăm chút, trao giải thưởng như đã nói, sau khi chính quyền thấy dựa vào đền Tưởng niệm ở sở Thú và cáí miễu nhỏ ở Công viên Tao Ðàn chưa là đủ. Ở các tỉnh, theo với các chòi lá thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành đền ngói sau chiến thắng thì Hùng Vương được nằm trong các ngôi đền mới xây, hay chiếm đoạt địa vị các ông thành hoàng ở các ngôi đỉnh cũ, giống như trường hợp một miếu Bà (Thiên Hậu) nào đó ở Cà Mâu đã trở thành đền Tổ Mẫu Âu Cơ. Còn trên đất hoang dã terra incognito Tây Nguyên, thì tha hồ tạc tượng, đưa dòng tộc Hùng lên thành bia xi măng cho Mọi chiêm ngưỡng.

Vấn đề cho thấy có cả một chiến dịch dự tính lâu dài, có bài bản, chủ trương “phủ sóng” đền Hùng trên phần đất phía Nam. Ở đây mới thấy rõ rệt tính tạo dựng lịch sử, tính “sáng tạo truyền thống” rất “quyết liệt” của chính quyền mới.

Theo ông Trần Ngọc Tam, Giám đốc sở Văn hoá và Du lịch Bến Tre thì “sau 30-4-1975, một số đình thuộc các huyện Mỏ Cày, Chợ Lách lập bàn thờ Quốc Tổ, tổ chức lễ 10-3”. Phong trào trở thành chính thức cho toàn tỉnh sau khi Quốc Hội công nhận ngày Giỗ Tổ năm 2007. Người ta thực hiện theo cung cách tổ chức chính trị quần chúng quen thuộc. Ban đầu trong năm 2008, mỗi huyện tổ chức chọn một ngôi đình tiêu biểu để làm lễ, làm để rút kinh nghiệm cho những năm sau. Từ huyện đến xã, phường, người ta thỉnh linh vị Quốc Tổ từ UBND xã về đình, tổ chức theo nghi lễ cổ truyền. Xã mới (không có đình) thì làm theo truyền thanh, căng panô, vẽ khẩu hiệu. Chúc văn có lời đại khái: “Việt Nam ta 4000 năm văn hiến… thời đại vua Hùng mở đường dựng nên tổ quốc, từ Hùng Quốc Vương đến Diệp, Hi… (chỉ có 15 tên)… từ Ðinh Lê Lí Trần Lê đến Hồ Chí Minh thời đại…” Chú ý là vẫn không thấy nhắc đến nhà Nguyễn, điều đó chứng minh sự trung thành với mô thức lịch sử được đào tạo từ Hà Nội những năm 1960, chưa có cái gì khác chen vào để có thể gỡ bỏ.

Sự đồng dạng ý thức hệ với Bắc Triều Tiên cũng khiến ta nhìn ra một chút gì giông giống với Bình Nhưỡng khi họ áp đặt quan niệm ông quốc tổ của họ lên toàn thể đất nước. Sử xưa, “truyền thống” cũ thì cho biết ông tổ của người Triều Tiên / Ðại Hàn là Ðàn Quân Vương Kiệm (Tan gun Wang geom), có dòng dõi trị nuớc đến 1500 năm trên một địa điểm ở khu vực phía Bắc, gần giống như “đền Hùng”. Hán Thành chỉ mới dám chuyển qua là nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa. Vậy mà Bình Nhưỡng quả quyết là đã tìm thấy xương cốt của nhân vật này, và xây dựng lăng mộ đồ sộ làm chứng cớ tuởng niệm đời đời. Họ chưa chiếm được Ðại Hàn nên không giống như Việt Nam đã có đền vua Hùng, đã “tìm được lăng mộ thuỷ tổ” Kinh Dương Vương (Kiến thức Ngày nay 819:7), còn đòi phải lập đền thờ “các vợ, con (?) vua Hùng, các danh nhân, danh tướng thời Hùng Vương trong cả nước” nữa! Ðòi hỏi đó đã mở đầu cho lễ hội ngày 25-2-2013, tổ chức kỉ niệm 4892 năm Ðức Thuỷ tổ khai sinh mở nước, “ông nội vua Hùng” (!) với dự án mở rộng di tích trị giá gần 500 tỉ đồng!

Sự việc Việt Nam chuyển đình làng thành đền Quốc tổ cho thấy manh nha một chủ trương tập trung thần thánh của nhà nước phong kiến vào một “Quốc giáo Hùng Vương”, như muốn thực hiện trên phần đất phía nam để thêm phần tóm thâu quyền lực ở một nơi còn nhiều dạng sắc tộc “không Kinh Việt”. Bến Tre nằm bên cạnh Trà Vinh nhiều dân Khmer Krom, qua Sa Ðec, Sóc Trăng đẩy tới Bạc Liêu lẫn lộn thêm người Hoa đang trở thành bản thổ… sự tổ chức có bài bản như thế có phần nào là tiếp nối Minh Mạng xưa làm việc “cải hoá man di”? Chưa nói đến loại ảnh hưởng Dương di trên nhóm Việt ở đất này, qua 80 năm thuộc Pháp, 20 năm theo Mĩ, cũng tạo thành một chừng mực tập tính “ngoài vòng cương toả” đối với quyền bính Hà Nội, dẫn họ đến phủ nhận kềm thúc ràng buộc, ấm ức với sự quỵ luỵ được tuyên xưng là đạo đức truyền thống.

Có điều hơi khác với thời xưa, dù nhà nước ngày nay siết chặt dân chúng mạnh tay hơn, khiến sự tuân hành được triệt để hơn phần nào thì tính chất nhiều thành phần dân chúng cũng đưa ra những mẫu hình có xê dịch về nền quốc giáo nọ. Trong 20 đền Hùng ở Tp. Hồ Chí Minh chỉ có 3 cái là của nhà nước (số liệu của Trần Chánh Nghĩa 2007), phần còn lại hẳn là của thành phần di dân mới sau 1975, những người giàu có nhờ tư thế chiến thắng cất đền cho riêng mình, theo tâm ý của mình, tâm ý chung mang từ đất Bắc, tất là phải có dạng của những điện phủ của một thế lực thần thánh chở che trên đất lạ. Chắc là không cần ai bắt buộc, nhưng theo xu thế thời đại, chủ nhân khu Giải trí Ðại Nam Văn Hiến ở Bình Dương đã dành một phần xây cất đồ sộ, hoành tráng phổ biến tư tưởng thờ Quốc tổ trong thời mới. Tượng ông Lạc, bà Âu thếp vàng lộng lẫy dưới ánh nắng, building Kim Ðiện sừng sững thu hút từ bên ngoài, oai nghiêm bên trong với hàng dãy lẵng hoa mượt mà mang bảng tên thếp vàng của các chức quyền Ðảng, Nhà nước cao cấp, có ông Ðại sứ Michael Michalak chen vào… Ai bỏ tiền ra người đó cũng có phần, cho nên khung thành khu Giải trí có dáng từ một phim của Trần Khải Ca, Trương Nghệ Mưu, Hồng Kông, Ðài Loan lộn xạo, có ông bà tiên tổ đội mũ Ðường tăng với đàn con Hùng, Lang lau nhau bám chân. Ở đây ông Hùng Vương không chễm chệ một mình trong điện mà phải chia phần với Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói làm gì, lại còn phải chừa chỗ khá lớn cho các bà Mẫu Thuỷ, Liễu Hạnh, cho ông Trạng Trình có thơ của chủ nhân diễn ý ưu thời mẫn thế khắc đầy trên tường vách.

Cạnh tranh với ông Ðại gia doạ sẽ xây cho mỗi tỉnh một khu Ðại Nam Văn hiến này, chắc là Công ti Cổ phần Gia Lai CTC (?) với Công viên Ðồng Xanh xây ở xã An Phú cách Pleiku khoảng 10km trên đường xuống Quy Nhơn. Theo lời giới thiệu thì Công viên được bắt đầu năm 1998, dự tính hoàn thành năm 2015, với đền Quốc tổ có mái nhà Rông cao 18m. Trong điện có tượng vua Hùng cao 6m bằng gỗ mít, do nghệ nhân Hà Nội (?!) thực hiện, trước điện có thêm 18 tượng vua Hùng (lại 18 vua Hùng!) với chi tiết, ví dụ: “Hùng Triêu Vương, huý Cảnh Chiêu Lang làm vua 94 năm, sống 286 tuổi có 60 vợ, sinh 40 con trai & 16 con gái, có 56 chi sinh 399 cháu chắt”, cứ y như thật! Trong quần thể đó có thêm chùa Một Cột, lầu Thần Tài, tượng Quan Âm… nói tóm lại, là thêm một kiến trúc bát nháo của một thời (tiền) quay về “cội nguồn truyền thống”, ngang ngạnh đem dốt nát in dấu lên bia bê tông muốn vững bền ngàn thu.

Tuy nhiên sự thờ cúng “phàm tục” như thế cũng là một minh chứng trước mắt về lí thuyết phổ cập, bành trướng văn hoá. Trên đất Bắc, nơi cỗi gốc, người ta trẫy hội dâng hương lễ bái. Tính chất thiêng liêng thấm đượm đến mức người cầm quyền đang vướng víu tính chất thần thánh của quyền lực, cũng thấy phải đòi hỏi chia sẻ nên cố chen lách tìm chỗ đứng trên cao, đẩy Tổ đi chứng nhận quyền chiếm hữu trên các vùng đất mới. Người bình thường, dù có khi không bằng lòng với chính quyền, khi nghe nói “động” tới (các) ông Tổ, dù với các chứng thực chuyên ngành (trường hợp Trần Trọng Dương viết về Kinh Dương Vương) cũng thấy như bị xúc phạm để phải lộ ra những lời mỉa mai, gầm gừ… khó cho người khác biện minh. Thế mà (các) ông Tổ đi vào Nam trên đất của “tiền bạc” Thần Tài, muốn có thu nhập phải qua các cửa bán vé – không phải các hòm công đức. Cái thiêng liêng phải chia phần với ông Trạng Trình (đúng ra là phận con cháu!) và khu Tâm linh của Tổ vẫn phải nằm trong một địa điểm vui chơi, phải nương vào đó để sống còn…

 

Chính trị, lịch sử và tính nhân văn không mong đợi từ “truyền thống” mới

Rốt lại thì ông Hùng Vương cũng đã chễm chệ khắp mọi vùng bên trong đất nước, theo cả bước chân người di tản lấy niềm tin “truyền thống” che đỡ khuất nhục, nay ông lại có thêm bằng cấp quốc tế chứng minh tính chính thống với thế giới. Nhìn chung thì có thể coi sự tôn xưng Hùng Vương ngày nay là bước tiếp nối của truyền thống Hùng Vương khởi đầu ở thế kỉ XIV, cả hai như một hành động xác định bản thân sau thời kì vùng đất thoát khỏi tay người ngoại quốc. Thời thế có khác nhưng ý định nổi trội vẫn cho thấy chung một tính chất.

Sau thời kì Bắc thuộc, các vương triều củng cố địa vị của mình trên cái xác tan rã của phủ Ðô hộ An Nam, đã cố tìm cho mình một sự chính danh nhưng vẫn phải loay hoay với quá khứ “nội thuộc” mà bằng chứng là vị trí của nhà Triệu trong quyển sử đầu tiên của triều đại Trần. Lí Trần là những tông tộc trị nước nên dù kiến thức có nâng cao theo đà nắm quyền vẫn phải vuớng víu với tông tộc của mình, với tính tông tộc nói chung. Chỉ có những nhà nho tuy mang địa vị thuộc hạ, gia thần nhưng thu nhận kinh sách Trung Hoa mới thấu hiểu được tính chất bao quát của quyền bính, mới đặt vấn đề đi sâu vào quá khứ để tìm hiểu nguồn gốc bản thân, nguồn gốc tập đoàn của mình đang chung sống. Nhưng với kinh sách đã học thì họ không thể tìm được cái gì khác hơn là những điều đã ghi trong ấy. Vì thế mà ông tổ nước của họ, của những người nối tiếp là một CON NGƯỜI, tuy có dính líu với quá khứ mù mờ, thần bí nhưng vẫn là của một dòng tộc NGƯỜI chứ không phải một thần nhân, như của các dân tộc khác có sự xuyên suốt vào trong mịt mù của thời gian không phương tiện ghi chép. Thế rồi bây giờ lại cũng một thời hậu thuộc địa khác, sau sự tuỳ thuộc vào một nền văn minh khác để có chất lượng gây tự tín nâng cấp dòng tổ trong quá khứ. Ðất nước tiến lên một mức độ phát triển chưa từng thấy, đem lại cho những người lãnh đạo một quyền lực vượt trội quá khứ để gom góp tất cả vào trong tay. Nhưng phản ứng giải thực đồng thời lại cũng mang ý nghĩa hướng về quá khứ, cho nên ẩn khuất bên trong tiếng kêu gào giải phóng, là cả một lực lượng bảo thủ không phải chỉ riêng biệt của quốc gia mà là của cả khu vực văn hoá phương Ðông, khiến cho đất nước mang một bộ mặt hỗn độn trong tiến trình xây dựng tiếp theo.

Ở đây, trong vấn đề đang bàn, là tầm mức quyết định sắp xếp quá khứ và vẽ vời tương lai đã không dành cho một sự phản biện nào. Trí thức tuy không còn là gia thần nhưng đã được chuyển đổi lớp vỏ bọc qua vai trò phục vụ “giai cấp” – không cần nói rõ, là phục vụ Lãnh tụ, Ðảng cầm quyền. Vậy mà họ cũng không còn giữ được cả vai trò tích cực trong việc tuyên xưng truyền thống mới như lớp người của họ ở thế kỉ XIV, XV. Ở đây, họ chỉ làm việc phụ hoạ. Tất nhiên cũng vẫn có những cấp độ tuỳ thời thế. Ông Phạm Huy Thông của thế kỉ XX, mang bằng cấp Tây thời không có bao nhiêu người như ông, trong thế phụ họa vẫn nuôi chút kiêu ngạo nên “không cho phép ai lấy danh nghĩa khoa học mà phát ngôn tuỳ tiện” về các vấn đề, như Hùng Vương, theo ông, vốn “nhờ những công trình khoa học (?) mà đã trở thành di sản thiêng liêng của dân tộc”. Người của các thế hệ tiếp nối biết nhũn nhặn hơn.

Không cần phải biện minh đỡ gạt cho những người sử dụng thuyết “sáng tạo truyền thống” để minh hoạ hành động phủ sóng Hùng Vương trên khắp đất nước gom vào một quyền hành từ 1975. Không cần phải bới móc những người sử dụng nhóm từ “case study” thu thập từ trường Ðại học Mĩ để lập một cuộc hội thảo làm bài diễn tập trí thức cao cấp dẫn đến tấm bằng của UNESCO. Sử học Việt Nam là bắt nguồn từ Ban Khoa giáo Trung ương Ðảng, tập họp không phải chỉ dẫn dắt tạo dựng truyền thống Hùng Vương mới mà còn xuyên suốt điều chỉnh truyền thống cũ, để luồn uy thế mình vào tận cõi thiêng liêng. Vai trò thuộc hạ của người trí thức dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không hề được né tránh từ những người cầm quyền đến tầng lớp phục vụ. Từ những năm 1980, Viện trưởng Viện Sử học Văn Tạo đã nói rõ trước một hội nghị quốc tế, rằng các nhà sử học Việt Nam làm việc là để phục vụ cho chế độ. Nếu sử gia có lúc nào quên vai trò phục vụ của mình, để đi theo chuyên môn, tìm cách mở lối bế tắc cho ngành thì vẫn có những người bên ngoài, kiên cường rơi rớt từ thời Hồng hơn Chuyên, tự cho mình có nhiệm vụ bảo trì chính thống, nặng nhẹ nhắc nhở, mạnh bạo công kích “những giáo sư đầu ngành (sử học) chao đảo, bấn loạn”. Như trở lại trường hợp các tay “văn học” của nhóm Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Hồn Việt lớn tiếng vào những năm 2006… 2009… từng khoe có ảnh hưởng đến Chỉ thị điều chỉnh lệch lạc của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (16-4-2009) mà đến năm nay (2013) họ còn hãnh diện trưng dẫn, khi ông Chu Giang Nguyễn Văn Lưu móc thêm trường hợp nhà Nguyễn vào chuyện luận văn Hà Nội. Hay khi ông “bác sĩ nhà văn” Nguyễn Văn Hinh bỏ nghề bắt mạch, đăng kí thêm trong tập nhóm dốt nát ăn theo nói leo, kết tội Phan Thanh Giản theo một sự bướng bỉnh chỉ có thể biện minh bằng nhiệm vụ chỉ điềm bảo vệ chính trị trên một vùng đất còn phải canh chừng mà thôi. Tại sao? Bởi vì đồng thời kí kết năm 1862 còn có một ông Lâm Duy Hiệp của một vùng khác (Bình Ðịnh), chưa bao giờ được “nồng nhiệt” nhắc nhở đến như vậy.

Qua bao “đổi mới”, nhà nước Việt Nam cũng vẫn không buông bỏ nguyên tắc lãnh đạo đó. Mới nhất, là trong nghị định thành lập Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam : “Viện… là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng nghiên cứu những vấn đề cơ bản về Khoa học xã hội, cung cấp luận cứ khoa học cho Ðảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; thực hiện tư vấn về chính sách phát triển; đào tạo sau đại học về khoa học xã hội; tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội của cả nước.” Ở một cơ quan mang tầm mức tinh hoa của đất nước như thế mà cũng chỉ có những người làm nghiên cứu minh hoạ những chính sách và luận cứ của Ðảng mà thôi. Ðảng và chính quyền đủ tự tin đến mức không ngại gặp chút phản ứng bất lợi nào khi cho xuất bản các loại sách như Trại súc vật của H.G. Wells, hay trực tiếp hơn, cho in hồi kí của Nam Ðình (2011) mà không cắt bỏ những đoạn “nhạy cảm” về khía cạnh thổ phỉ, man dã trong cuộc chiến chống Pháp của Thành đồng Nam Bộ. (Và cũng để không ngạc nhiên như những người lo sợ cho số phận của tác giả Bên thắng cuộc khi về nước).

Sự phối hợp thành công của người cầm quyền và nhà trí thức thời đại trong vấn đề đạt bằng cấp quốc tế như trong vụ Hùng Vương này đã khiến họ thấy có thể phát huy khả năng “biết cách thi đậu” với lối dạy kèm trong nền khoa cử Nho học cũ, mà dự tính cho sự thành công mới trong hồ sơ di sản lắp ghép “Tràng An – Ninh Bình”, phối hợp cảnh quan thiên nhiên vùng Hoa Lư Ninh Bình và hơi hám mấy cái đền Ðinh Lê từng bị thất bại vì không đủ tầm mức phải có. Tất nhiên trong tình thế đó, dân chúng cũng được lợi, có khi khá lớn mà không thấy, từ sự khoe mẻ, cầu cạnh của Ðảng khi họ muốn tạo dựng cho mình một bộ mặt quốc tế đi kèm với sự củng cố quyền lực. Ít ai chú ý rằng một số dân quyền, nhân quyền bình thường của nhân loại ngày nay đang hưởng thụ, chỉ đến với người dân Việt Nam qua các sự nhượng bộ của Ðảng và nhà nước trong những hiệp ước quốc tế liên can đến sự tồn vong của họ. Trước mắt, tuy cũng có vẫn những ứng phó cứng rắn như từ bản chất của chế độ nhưng cũng nổi bật là sự buông bỏ khá bất ngờ trong vài vụ án, vài sự kiện (như vụ người tù thế kỉ Nguyễn Hữu Cầu cô đơn vì ở phía “nguỵ”), và nổi bật trong việc đối phó với lớp thanh niên thời @ ra ngoài nước cổ động cho dân chủ, nhân quyền lần mò vào tận Quốc hội Mĩ… giữa lúc Ðảng vận động xin, và được vào Hội đồng Nhân quyền mà sự vụ được hãnh diện loan truyền trong nước dẫn đến sự dễ dãi cần thiết cho bộ mặt mới.

Cho nên ghép ông Hùng Vương làm Quốc Tổ, nếu có nhà sử học nào thực sự không bằng lòng cũng vẫn phải né tránh để cho các tay gần-như-sử-gia vung vẩy theo ý Ban Khoa giáo, với trình độ ngang với tầm mức xuất thân của họ. Không khí hội kín của đảng phái, ước vọng hướng về tương lai trong chủ nghĩa xã hội đại đồng của những người cộng sản Việt Nam có những yếu tố thần bí sâu kín khiến cho, một khi thất vọng với đại cục đổ vỡ, họ dễ quay về tìm trong quá khứ những hào quang cũng là tưởng tượng trên một đất nước họ đã bỏ công xây đắp quyền hành. Mười bốn thiếu nữ trong buổi lễ 19-4 đã nói kia là hiện thân của tâm lí ngưỡng vọng thần thánh của những người đang lãnh đạo đất nước, cố chứng minh sự nối kết tính chính thống của Ðảng Cộng Sản với quá khứ xa xưa. Họ không màng đến lời phản bác họ “lấy truyền thuyết biến thành quốc sử”.

Tuy nhiên dù có thế nào thì nhà nước cũng gặp phải phản kháng. Không thể mạnh để có loa kèn, báo chí, nên chỉ có những tiếng nói ngoài luồng, cũng là dấu vết may mắn từ thời thế internet. Dài dài suốt trong thời gian nhà nước “sáng tạo truyền thống mới” cho Việt Nam thời WTO, đã tiếng nói nhạo báng của những người dù không chuyên môn nhưng tâm trí đủ bình thường để nhận ra những áp đặt ngang ngược, ràng ràng dễ thấy nhất. Blogger Le Minh Khai, chuyên viên mang nhiều kiến thức bao quát về Ðông Nam Á thường chen vào chỉnh sửa các định kiến về sử Việt theo ngẫu hứng, trong trường hợp này thấy có cách nhạo báng là mong muốn người ta lập một Khu giải trí Con Rồng Cháu Tiên để cạnh tranh với Walt Disney. Vì ở xa, ông không biết người ta đã thực hiện rồi, có điều chúng mang tính cách “dung hợp” xuề xoà theo truyền thống dân tộc, nên các ông tổ lại được dựng lên bát nháo trong Kim Ðiện hoành tráng, trong khu gọi là Văn hoá Tâm linh nằm giữa khuôn viên giải trí có cọp beo, kịch nghệ thiên đường địa ngục, có ăn uống nhà hàng tiệc cưới…

Trong nước, người phản bác (Nguyễn Trần Sâm 2013) thẳng thắn cho thấy sự ngang ngược của nhà cầm quyền: “Người ta đang muốn dùng bộ máy nhà nước để áp đặt… bảo chúng ta, con cháu chúng ta… rằng chúng ta, bắt đầu từ vua Hùng, chính là con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ… Một vị lãnh đạo rất cao cấp còn đăng đàn ‘dạy’ cả nước rằng cả 87 triệu người Việt Nam ở trong nước hiện nay và mấy triệu Việt kiều ở nước ngoài đều sinh ra từ một cái bọc, rằng chúng ta phải tự hào vì ‘ít nơi nào trên thế giới có cái đó lắm’. Và không chỉ nói, họ còn bày ra những trò ‘giỗ Quốc tổ’, một nghi lễ quốc gia chính thức, cứ y như thật!”

Và cũng với tâm thức lên đồng đó trong tình trạng nắm vững quyền lực, các lãnh tụ kia dễ chia sẻ tính lấn lướt cá nhân với tập nhóm quen thuộc. Họ không màng đến thắc mắc của Lại Nguyên Ân (3-12-2012): “Vua Hùng là ông tổ của một trong 54 dân tộc hay của cả 54 dân tộc ở Việt Nam?” Ông này nhận thấy: “Ở Việt Nam ta (?) đang dùng cách mở rộng các thần tượng của một dân tộc đa số (dân tộc Kinh) thành ra thần tượng cho các dân tộc thiểu số khác cùng sống trên đất Việt. Cái dụng ý biến lễ giỗ của vua Hùng từ giỗ tổ của người Kinh thành quốc lễ của mọi người dân có quốc tịch Việt là ví dụ rất rõ. Đây hiển nhiên là sự áp đặt văn hoá của tộc người đa số cho các tộc người còn lại”. Ông đã quá lí tưởng khi cho rằng: “Phải từ chỗ tôn trọng cội nguồn riêng mỗi dân tộc… cùng sinh tồn trên đất Việt hiện tại để xây dựng ý thức cộng đồng”. Quan điểm nhân văn bình thường như thế của ông đưa ra thật là lạc lõng trong tình thế chung như đã thấy. Về mặt sĩ diện người ta vẫn né tránh không dùng chữ “Mọi” chẳng hạn, vẫn tha thiết về tinh thần đoàn kết với những người “anh em” thiểu số nhưng thực tế là khinh thường, lấn lướt họ không còn đất sống, dẫn đến tình trạng tự huỷ diệt, khuất lấp im lìm. Ta chỉ lấy làm lạ là ông đã ngạc nhiên thấy “không ít chuyên gia am hiểu, không ít quan chức, không ít nhà khoa học, thậm chí nhà sử học hàng đầu, lại tán thưởng, thậm chí góp sức luận chứng cho cách làm này, — cách làm mà trên thực tế, nó chính là một thứ sô vanh văn hoá…” Có vẻ ông còn nhiều lạc quan về những người trí thức trong nước, chưa phân biệt rõ giữa kiến thức và ý thức phục vụ. Nếu ông biết rằng có Giáo sư Tiến sĩ người Choang cố ép “lịch sử” cho giống với ý định của nhà cầm quyền Việt Nam (để cầu cạnh hay phỉnh phờ?), bịa chuyện có 46 ông Lang thuộc phần của Bà Âu (thật ra phải là của ông Lạc) bị chết chìm cho số còn lại đủ 54 người, toả ra đủ số 54 dân tộc gộp thành Việt Nam hiện tại, thì ông còn bi quan về trí thức xã hội chủ nghĩa tới đâu! Và có lúc ông cũng đã nhận thấy sự lấn lướt không phải chỉ diễn ra giữa dân tộc lớn và các dân tộc nhỏ.

Kết quả, chủ nghĩa xã hội style Việt Nam rộng lớn, giàu có, ngày nay ít ra cũng cho thấy sự đồng nhất trong hiện tại có tương lai gần gũi nơi đám người tuổi teen, thanh niên làm fan cho nhà văn tỉ phú đầu tiên của xứ sở, không chỉ khoả lấp câu than vãn xưa cũ “… An Nam khổ như chó” (Nguyễn Vỹ) mà còn góp phần tạo lạc quan cho đời mới trước mắt. Cho nên cũng chỉ là thoảng qua của người cùng thời, nhắc nhở chuyện bình thường của một ngôi trường danh tiếng bị đánh mất truyền thống (Mùa hè năm Petrus 2013), qua dáng vẻ bình thản mà khêu gợi cho người đọc sự nuối tiếc dằn nén, như một ẩn ức phản kháng của một danh vị bị soán đoạt vẫn còn phải chịu đựng sự canh chừng rình mò đe nẹt không mệt mỏi của những người nhân danh sự thống nhất, không chừa chỗ nào cho sự khác biệt, muốn xoá sạch quá khứ của một địa phương, một vùng…

Những người cầm quyền như thế vốn biết tự mình có thể làm lịch sử, có thể tạo ra truyền thống không gặp tranh cãi, đã thấy kết quả hình thành, bên trong thì trống cờ tở mở, tuyên xưng thành tích trường trị nhất thống giang hồ, người ngoài cứ nhìn theo đó mà ban phát ân huệ, sự việc thuận chiều thời thế lịch sử đến thế, việc gì họ phải dừng tay vì những lí do hoa hoè bay bổng, để đi tìm một nguồn nhân văn hợp với một thời đại văn minh không có trong đầu óc của họ?
 

2-1-2014

*Dẫn từ bài và tác giả trong cuộc Hội thảo Phú Thọ 2013. Tuy có đọc những dòng chữ kiểu “All Rights Reserved” nhưng vì lẩm cẩm nên đã quên mất. Và dù sao cũng thấy phải cảm ơn (những) người giúp tác giả gây tội. Và cũng nhờ đọc Pro & Contra mà biết Lê Ðức Thọ đã an ủi những nạn nhân của ông ta, là “Ði tù cũng là tham gia chống Mĩ cứu nước”.

TẠ TRÍ ĐẠI TRƯỜNG

Nhìn lại sử liệu viết về Nguyễn Huệ Quang Trung và Gia Long Nguyễn Ánh

gia long- nguyen hue

Nguyễn Văn Lục

Lịch sử bao giờ cũng ở số nhiều.

Vì thế có thứ lịch sử của kẻ cai trị , kẻ cầm quyền và nhất là thứ sử của kẻ cầm bút mà đôi khi họ chỉ là thứ cung văn . Trong các chế độ tài đảng trị bây gìờ thì nhà sử học bị liệt vào hạng văn nô . Trong khi đó , lịch sử lại chỉ có thể xảy ra duy nhất một lần .

Phần còn lại của lịch sử được viết đi , viết lại nhiều lần tùy theo mỗi người và tuy theo mỗi thời kỳ .

Trong lịch sử Việt Nam có hai nhân vật lịch sử cách đây hơn 200 năm , người này người kia đã làm nên vận mệnh lịch sử Đại Việt là Tây Sơn Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh Gia Long . Vóc dáng và sự nghiệp của họ đã được huyền thoại hóa , được vinh danh hoặc đã bị bôi nhọ và bị người đời nguyền rủa tùy theo ngòi bút của các người viết sử .

Vấn đề ở đây là có một thứ lịch sử của những nhân vật lịch sử hay là thứ lịch sử của những người viết sử ? Muốn nhìn lại chân diện những nhận vật lịch sử này quả thực không dễ . Một phần phải xóa đi những lớp bụi thời gian đã đóng rêu , đóng mốc đến mọc rễ trên họ . Một phần phải bỏ đi những định kiến đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người như một thứ chân lý, sự thật hiển nhiên .

Đó là hai công việc đồng thời phải làm . Chẳng những phải xóa bỏ thần tượng trong sách vở , xóa bỏ những đám mây mù tài liệu và hơn tất cả , xóa bỏ thần tượng trong đầu mỗi người mà công việc ấy gần như thể là một công việc tẩy não .

Và nhiệm vụ của sử học không thể câu nệ chỉ căn cứ vào sự đồng tình ít hay nhiều của người đời rồi cứ thế trôi theo . Bài viết này mong trả lại được công đạo cho sự thật và một cách gián tiếp giải trừ một số huyền thoại về Tây Sơn Nguyễn Huệ và trả lại công đạo cho Nguyễn Ánh dựa trên một số công trình của các nhà nghiên cứu chuyên ngành về sử .

Người viết cùng lắm chỉ làm công việc thông tin qua những kiến thức sử của các vị chuyên ngành viết sử .

1. Có sự chênh lệnh quá đáng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn

Người viết nhận thấy có một sự thuận lợi rõ ràng về số lượng tài liệu viết về Tây Sơn và sự bất lợi vì quá ít tài liệu viết về phía Nguyễn Ánh . Số lượng chênh lệch về tài liệu có một ý nghĩa gì ? Phải chăng những người viết sử chạy theo số đông như về hùa ? Hay viết với nhiều cảm tính ?

Động cơ nào đã thúc đẩy họ viết như thế ?

Hiểu được những động cơ thúc đẩy họ viết là hiểu được một phần sự thật . Chẳng hạn cộng sản Hà Nội trước đây đã hết lời ca tụng Tây Sơn nhằm lợi dụng Tây Sơn . Nhưng phía các nhà viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 thì do động cơ nào ?

Phía tài liệu sử nhà Nguyễn, ngoại trừ một số sách sử của triều Nguyễn viết một cách chính thức như ” Đại Nam chính biên liệt truyện “ , ” Đại Nam Thực lục tiền biên “ và ” Chính Biên “ viết theo lối biên niên . Đây là số lượng tài liệu đồ sộ , nhưng lại không dễ được tiếp cận và nay dù đã dịch từ Hán ra Việt cũng không mấy người có để đọc . Người viết đọc các tập tài liệu này , măc dầu có những khuyết điểm không tránh được như sự rườm rà , quá chi ly từng sự việc , nhưng rõ nét tính chính thống .

Không thể phủ nhận tinh thần công tâm , nhân cách các nhà viết sử biên niên triều Nguyễn .

Nhiều sự kiện lịch sử nay vẫn có giá trị sử học vô giá .

Ngoài thứ chính sử đó ra thì hầu như không có mấy ai “ ở ngoài luồng ” sau này để công sức viết đến nơi đến chốn về 100 năm nhà Nguyễn Gia Long .

Hai mươi Lăm năm Nguyễn Ánh nằm gai nếm mật lao đao . Ông vào sinh ra tử . Và gần 100 năm dòng họ Nguyễn ngồi ở ngôi báu .

Biết bao điều để phải nói , phải viết .

Không lẽ chúng ta lại phải ngồi đợi một nhà sử học ngoại quốc nào đó lò mò để cả đời ra viết hộ chúng ta ?

Triều đại Tây Sơn ngắn ngủi mà đều là những năm bận rộn với chinh chiến . Liệu Tây Sơn đã thực sự làm được gì ? Vậy mà người ta có thể ngồi “ vẽ ra ” nào là về chính tri , ngoại giao , chính sách về tôn giáo , tiền tệ , v…v…. và v…v…. , và ngay cả văn học thời Tây Sơn nữa .

Trong khi nhà Nguyễn phải mất 88 năm mới biên soạn xong bộ Đại Nam Thực Lục mà số người đọc được đếm trên đầu ngón tay ! Vì những sách này lại rất khó đến tay người đọc vì phần đông dân chúng không biết chữ Hán .

Cho nên đối với phần đông dân chúng vì không được đọc chính sử nhà Nguyễn nên chỉ nghe nói về sử hơn là đọc sử . Biết về Nguyễn Ánh phần đông chỉ là nghe lời đồn hơn là đọc sử . Đây là điều bất lợi không nhỏ cho Nguyễn Ánh Gia Long bị bao vây bởi một thứ sử dân gian , truyền miệng . Làm thế nào bịt miệng dân gian ?

Tư liệu viết về Quang Trung đã nhiều lại viết một cách thiên lệch

Hiện tượng tài liệu sử viết về Quang Trung lấn lướt tài liệu viết về Nguyễn Ánh là điều có thực . Có thể nó bắt đầu kể từ khi Trần Trọng Kim , một sử gia Việt Nam dưới thời chính phủ Bảo Đại viết bộ sử Việt Nam Sử lược với một cái nhìn mới về vua Quang Trung .

Nó đã mở đầu cho một trào lưu viết sử về Quang Trung với nhiều hào quang , với nhiều danh xưng tán tụng như ” anh hùng áo vải , anh hùng dân tộc dựng cờ đào , v…v…. ” .

Nói không quá đáng là có sự hình thành một dòng Văn sử học viết về Tây Sơn .

Đồng ý phải nhìn nhận ở một mặt nào đó , đôi khi một dân tộc cũng cần được nuôi dưỡng bằng một số hào quang lịch sử như thế chấp cho sự tầm thường và kém cỏi của đời sống .

Sức quyến rũ về hình ảnh một Quang Trung anh hùng làm nức lòng mọi người , khơi dậy tình tự dân tộc phải chăng cũng là một điều cần và đủ .

Nhưng liệu nó có thể thay thế cho sự trung thực của sử học ?

Nhà văn Duyên Anh đã có lần viết truyện ” Mơ được làm Người Quang Trung “ .

Tài liệu sử viết về Quang Trung nhiều đã đành . Cạnh đó , thơ văn , kịch nghê , sân khấu , tiểu thuyết , sách giáo khoa , tên các địa danh , ngay cả các lễ hội đã dành một chỗ cao cho “ người anh hùng áo vải ”.

Phải chăng có một thứ sử học , văn học và văn hóa Quang Trung thấm đẫm tình tự dân tộc , đất nước , con người theo cái tinh thần chúng ta sống với thời đại của những người anh hùng ?

Và cứ thế tiếp nối sau đó có cả hơn một ngàn tài liệu sách vở viết về Quang Trung . Cuốn sách viết về Tây Sơn được một số nhà viết sử tham khảo rộng rãi là cuốn của Hoa Bằng : ” Quang Trung – Nguyễn Huệ , anh hùng dân tộc 1788-1792 “ , Sàigòn , 1958 .

Tựa đề sách coi Tây Sơn là anh hùng như một khẳng định vị thế của Quang Trung trong lịch sử và nhất là trong lòng người .

Nguyễn Phương với cuốn ” Việt Nam thời bành trướng : Tây Sơn “ , Sài Gòn , Khai Trí , 1967 .

Người ta có thể đồng ý với nhau là tài liệu viết về Quang Trung thì nhiều . Nhưng phải chăng viết giống nhau cũng nhiều .

Trong đó có nên nhìn nhận tính chất viết nhái và thời thượng có phần trổi bật không ?

Người trước viết thế nào thì người sau viết lại như thế . Nó chẳng khác gì khi có phong trào “ thời thượng triết hiện sinh ” sau này .Phải chăng có một phong trào , một sùng bái Tây Sơn ?

Ở miền Nam , tập san Sử Địa là “ ấn tượng và biểu tượng ” nhất của phong trào này cũng đã trôi theo một dòng chảy “ thời thượng ” Tây Sơn . Trong đó Tập san Sử Địa đã dành ba số chủ đề bàn về Tây Sơn .

Ý hướng thiện chí thì có . Nhưng nay đọc lại thấy một số bài tham khảo viết dựa trên những kiến thức “ định sẵn ” , phần biện luận một chiều được chú trọng nhiều hơn phần tài liệu sử .

Đây là tính chất đặc biệt của các cây viết sử Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 và có thể cả sau 1975 viết trong tình trạng thiếu tài liệu . Càng thiếu tài liệu thì càng biện giải thay vì trưng dẫn tài liệu .

Đã thế, cách viết , cách chọn tài liệu , nhất là phong cách , ngôn ngữ xử dụng cho người đọc bây giờ có cảm tưởng một số vị ấy tránh những tài liệu xem ra bất lợi về Tây Sơn .

Đó là lối viết sử viết một chiều. Đó cũng là tính chất đặc biệt của một số người viết sử mà đôi vị dù viết rất cảm tình , rất thiên lệch , phong cách viết , ngôn ngữ xử dụng đọc thấy “ tự cao ” ngoài khuôn khổ mà vẫn tự khoác cho mình vai trò sử gia viết trung thực .

Tôi muốn đặc biệt dành những nhận xét ở trên để nói đến trường hợp Vũ Ngự Chiêu , Nguyên Vũ . Đây là cái bệnh “ ngụy tín ” mà J.P. Sartre đã vạch trần trong những luận cứ triết học của ông .

Vì thế nói chung trong các bài tham khảo ấy , hầu như không có mấy bài chú trọng đến tài liệu sử Trung Hoa đời Càn Long . Cũng ít chú trọng đến các tài liệu do phía người Pháp qua những phúc trình và thư từ của các giáo sĩ thừa sai gửi về cho gia đình hoặc tu hội của họ . Những tài liệu này ngoài tính chất quý báu là cái nhìn tại chỗ và không bị chi phối nhiều về phe phái chính trị hẳn là có ưu điểm nói lên một phần sự việc đã xảy ra .

Bà Đăng Phương Nghi người đầu tiên dịch các tài liệu sang tiếng Việt như hai tài liệu : ” Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ “ , Sử Địa số 9-10 , 1968 , tr94-243 và ” Triều đại vua Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương “ , Sử địa số 13, Sàigòn 1969, tr.143-180 .

Tài liệu đã hiếm hoi . Nhưng có một số tài liệu “ đầu tay ” cùng thời với sự kiện lịch sử như thế này thì lại úy kỵ không dùng . Riêng người viết bài này thì ngược lại không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi đọc sấp tài liệu này .

Vậy mà phần đông người viết sử miền Nam hình như tránh né , ít xử dụng các loại sử liệu của các thừa sai Pháp . Phải chăng vì nó trình bày những “ bất lợi ” cho Tây Sơn .

Xem ra nhiều nhà viết sử dị ứng với kho tài liệu này ? Phải chăng vì nội dung của chúng đi ngược với những kiến thức sử quen thuộc , hay nội dung đụng chạm đến thần tượng Quang Trung mà họ đã trót tô vẽ ?

Có người như Vũ Ngư Chiêu không ngần ngại xếp chúng vào loại tài liệu “ lời đồn ” hay “ nghe kể ” .

Hoặc cho rằng các nhà truyền giáo này không có ý định viết sử . Hoặc họ có lập trường chính thống ngả theo ủng hộ Nguyễn Ánh thay vì “ tiếm vương ” Quang Trung .

Nhưng , theo người viết , chính vì họ không có ý định viết sử, mà điều họ viết chỉ kể lại nên về mặt sử liệu không thể coi nhẹ được .

Vì thế , đấy vẫn là thứ tài liệu đầu nguồn , trực tiếp bằng sự có mặt của họ như một nhân chứng sử .

Sự kiện họ là nhân chứng là điều quan trọng nhất . Cùng lắm , ta dùng chúng với sự thận trọng như bất cứ tài liệu sử nào .

Xin nêu ra ở đây như một bằng chứng là những vấn đề như chiến dịch Tây Sơn đánh ra Bắc cũng như lịch sử nhà Tây Sơn trong hơn 40 số Tập San Sử Địa với rất nhiều giới hạn tài liệu .

 Chủ đề thứ nhất : ” Đặc Khảo về Quang Trung “ . Trong đó có đến 4 bài viết của Tạ Chí Đại Trường như : ” Vai trò của Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn – Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn “ v…v…. Hoàng Xuân Hãn đóng góp với bài : ” Việt Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên “ , một sử gia Trung Quốc đời Thanh . Tạ Quang Phát với bài : ” Vua Quang Trung qua chính sử triều Nguyễn “ . Nhưng một tài liệu không thể bỏ qua được của bà Đặng Phương Nghi trích và dịch ra từ Văn khố Âu Châu bao gồm các thư : ” Lettres Édifiantes et Curieuse “ của Gia Tô Hội .

 Chủ đề thứ hai được thực hiện ngay năm sau , tháng 1-3 , năm 1969 để kỷ niệm : ” Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu , Đống Đa “ . Tạ Chí Đại Trường như thường lệ có bài : ” Đống Đa , mâu thuẫn văn hóa vượt biên giới “ . Hoàng Xuân Hãn với ” Bắc Hành Tùng Kí “ . Nguyễn Nhã với : ” Tài dùng binh của Nguyễn Huệ “ . Đăng Phương Nghi dịch : ” Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương “ .

 Chủ đề thứ ba số tháng 1 – 3 năm 1971 : ” 200 năm Phong Trào Tây Sơn “ với các bài của Hoàng Xuân Hãn : Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “ Cử Trung Ngân ” . Việc mất đất 6 châu Hưng Hóa của Nguyễn Toại . Những ngày tàn của Tây Sơn dưới mắt giáo sĩ Phương Tây , bản dịch của Nguyễn Ngọc Cư ( tài liệu Nha Văn Khố Pháp do bà Đặng Phương Nghi để lại trước khi bà sang Pháp dạy học ở Đại học Sorbonne ).

Trong cả ba số chủ đề trên , sự đóng góp của Tạ Chí Đại Trường là nhiều và trổi bật . Nhưng sự đóng góp của ông Hoàng Xuân Hãn và bà Đặng Phương Nghi trong cách nhìn mới , tìm tòi nhiều tư liệu là đáng kể hơn cả .

Ít ra hai người đã mở ra một hướng nghiên cứu sử học như mở một cái lối đi trong khu rừng rậm .

Phía các người viết sử miền Bắc

Phần các nhà viết sử miền Bắc xem ra “ đi trước ” các nhà viết sử trong Nam . Họ gán cho Tây Sơn những vai trò “ cách mạng ” đi trước cả Mác-Lênin . Và phải chăng Tây Sơn là ông tổ của cuộc cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa ? Người ta đọc được các bài viết sau đây về Tây Sơn , Nguyễn Huệ :

  Xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVIII và những phong trào nông dân khởi nghĩa.
  Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ.
  Nguyên nhân thành bại của cuộc cách mạng Tây Sơn.
  Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây Sơn qua một ít bức thư của người ngoại quốc đã ở Việt Nam đương thời.
  Giới thiệu văn học Việt Nam thời Tây Sơn
  Một số tài liệu về vấn đề ruộng đất thời Quang Trung

Người ta cũng thừa hiểu rằng tất cả những người viết sử miền Bắc, dựa trên Sử quan duy vật biện chứng đã biến sử học trở thành công cụ cho chế độ ấy. Mặc dầu miền Bắc có một số trí thức đáng nể . Nhưng những vị này cũng tự khuôn mình vào lối viết theo “ lề phải ” như Nguyễn Đổng Chi , Trần Văn Giáp , Đào Duy Anh , Trần Thanh Mại , Trần Văn Giàu , Vũ Ngọc Phan , Trần Đức Thảo .

Có thể gọi chung đó là thứ sử phi sử . Đó cũng là là thứ sử nay phải viết lại hết , viết lại từ đầu vì những điều gì họ viết về nhà Tây Sơn thì đều chỉ có mục đích tuyên truyền .

Họ càng “ tụng ” Tây Sơn , Tây Sơn càng không phải Tây Sơn .

Sự ca tụng Tây Sơn có khác gì bây giờ họ đang “ đánh bóng ” Lý Công Uẩn ?

Với những dụng ý như thế , Tây Sơn Nguyễn Huệ đã được bôi vẽ bằng rất nhiều hình ảnh không thật .

Sau 1975 , Quách Tấn-Quách Giao có cho in Nhà Tây Sơn , xnb Trẻ , TP.HCM , 2000 .

Đặc biệt có cuốn sách của Trần Quỳnh Cư-Trần Viết Quỳnh nhan đề : Mười ba đời nhà Nguyễn đã không thiếu những lời khiếm nhã đối với các vua nhà Nguyễn . Nhưng đặc biệt ở trang 172 có ghi : Hành động cách mạng “ số một ” của vua Bảo Đại , trích hồi ký Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe cho thấy sự kính trọng của Bảo Đại đối với “ thánh ” Nguyễn Ái Quốc !

Những tài liệu ít ỏi viết về Nguyễn Ánh và khảo hướng viết sử diện mở rộng

Nhưng viết về Nguyễn Ánh , khó khăn và hiếm hoi lắm mới gom được vài bài như : “ Một vài ý kiến về sự nghiệp Gia Long ” , Phạm Việt Tuyền , Đại Học Huế , số 8 tháng 3/1958 . Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thế Anh : ” La Monarchie des Nguyên de la mort de Tu Đuc à 1925 “ . Bài viết gần đây như : ” Đánh giá lại một số tài liệu về thời kỳ Tây Sơn “ , số 3, tháng 4-6, 2007, Dòng Sử Việt .

Mới đây nhất, có bài viết khá lý thú của Võ Hương An : ” Bàn về Tây Sơn , Nguyễn Ánh “ . Chuyện đời vay trả giải lý một phần nào những nỗi oan đổ trên đầu Nguyễn Ánh .

Có thể còn có một số bài viết khác mà người viết không thu tập được . Nhưng nói chung nó quá ít ỏi so với số lượng tài liệu viết về Tây Sơn .

Nhưng người viết tin rằng sẽ có những loạt bài khảo cứu nghiêm túc nhìn lại Tây Sơn trong tương lai . Riêng các nhà viết sử có tiếng tăm ở miền Nam trước 1975 , chắc hẳn phải điều chỉnh lại tầm nhìn lịch sử về các chiến thắng cũng như con người Tây Sơn cho thích hợp .

Như nhận xét ở trên, ông Hoàng Xuân Hãn là một trong những người sớm nhận ra tính cách “ một chiều ” trong các bài khảo luận về Quang Trung . Vì thế, ông đã dịch Việt Thanh Chiến , theo Ngụy Nguyên , một sử gia Trung Quốc đời Thanh trong Càn Long chính vũ An-Nam ký , năm Đạo Quang thứ 22 – 1842 , nhằm cân bằng kiến thức lệnh lạc một chiều của một số người viết . Bài viết này về mặt sử liệu nên được coi là một đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu chiến dịch đánh ra Bắc của Tây Sơn Nguyễn Huệ .

Ông Hãn còn viết thêm bài : Phe chống Đảng Tây Sơn ở Bắc với tập “ Cử Trung Ngân ” .

Ông cũng đã chú trọng và giới thiệu đến các bộ sách sử khổng lồ Đại Thanh Thật Lục được xuất bản bên Nhật để độc giả có thêm một cái nhìn “ theo lề trái ” về Quang Trung .

Cái ưu điểm của ông Hoàng Xuân Hãn mà một số sử gia thời đệ nhất và đệ nhị không có được là ông rành chữ Hán , tiếp xúc trực tiếp với tài liệu của Trung Hoa cũng giống như các ông Phan Khoang , Chen Ching Ho ( Trần Kình Hòa ) .

Viết sử Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Hoa mà không rành Hán Văn , lại không chú trọng đến các tài liệu phía Trung Quốc phải chăng là một thiếu sót mang danh nghĩa một nhà sử học ?

Cái ưu điểm của học giả Hoàng Xuân Hãn là cái nhìn cao và vượt trên tài liệu chỉ từ một phía . Và theo ông , cần tham khảo sử liệu từ nhiều phía .

Vì thế , viết sử ta mà không đọc được sử Tầu thì mất đi ít nhất một nửa sự thật .

Sau này , các người biên khảo sử như Nguyễn Duy Chính cũng đi theo hướng khảo cứu đó khi tìm hiểu – điều mà ông gọi là Đi tìm một mảnh khuyết sử – thông qua cuốn Khâm Đinh An Nam Kỷ lược . Cuốn sách của triều đình nhà Thanh tổng hợp tất cả những thư từ , chiếu biểu của vua Càn Long liên lạc trao đổi với nước ta .

Cũng theo ông Nguyễn Duy Chính , đó là một văn bản hiếm quý để trong thư viện của vua Gia Khánh ( 1798-1820 ), đóng dấu Ngự Thư Phòng Bảo , được in lại do Cố Cung Bác Vật Viện biên tuyển , ấn hành lần thứ nhất vào tháng 6 năm 2000 .

Vì thế khẳng định rằng viết về sử Việt mà thiếu sự tham khảo tài liệu sử Tàu thì dễ có nguy cơ rơi vào khiếm khuyết sử .

Sử một lần nữa phải viết lại và nhiều bài viết sử thập niên 1960 chỉ có giá trị thư tịch , tồn trữ đối chiếu mà không hé mở cánh cửa vào sự thật .

Cho nên phần đông các tham luận về sử , đặc biệt viết về Quang Trung Nguyễn Huệ đăng trong hơn 40 Tập San sử địa thì hiện nay chỉ có chút ít giá trị tham chiếu . Nếu không nói là phải viết lại toàn bộ .

2. Những ngộ nhận và đánh giá sai lầm về Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ

Từ những thiếu sót về tài liệu cộng với “ trào lưu văn sử học Tây Sơn ” đã đưa tới tình trạng nhiều tác giả viết sử đã có định kiến về Nguyễn Ánh . Người ta có cảm tưởng giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh có một cái trục về điều xấu và một trục về điều tốt. Sự phân biệt chính tà hầu như rõ rệt và phân minh lắm, Cái gì về phía Nguyễn Ánh là phản phúc , tàn độc , là dã man , là phong kiến . Cái gì về phía Quang Trung là anh hùng , hào kiệt , là cách mạng nông dân , là chiến thắng thần thánh, là “ hết lời , hết ý ” .

Tinh thần phân biệt thị phi giữa thiện ác , giữa xấu tốt là một “ bước lầm ” dẫm chân giữa các lãnh vực . Không phân biệt rõ ràng ranh giới và trách nhiệm giữa lãnh vực sử học , lãnh vực chính trị và lãnh vực đạo lý . 

Nhiều nhà sử học thay vì trình bày khách quan sự việc đã nhảy chổm sang lãnh vực đạo lý , đưa ra những lời phê phán đáng nhẽ thuộc thẩm quyền đạo lý .

Việc phê phán sự “ tàn ác ” của Nguyễn Ánh mà bỏ quên bối cảnh lịch sử của thời đại ấy với khung pháp lý , chính trị của thời đại ông ta phải chăng là một thiếu sót ? Chẳng hạn , việc phê phán hình phạt cho voi giầy thật đáng phê phán ở thời đại này , nhưng lại là việc “ thông thường ” trong khuôn khổ chính trị , pháp lý thời trước .

“ Phong trào thần tượng Tây Sơn ” còn lan tỏa ra chung quanh hào quang của ông ấy . Chẳng những Tây Sơn được coi như anh hùng hào kiệt đã đành mà đến tất cả các bộ tướng, các cận thần đến vợ con , đến những quan hệ “ hôn nhân chính trị ” chung quanh ông cũng tắm gội trong cái hào quang ấy .

Hầu như có một thế giới Tây Sơn , một thời đại Tây Sơn – một thời đại vàng son – không ai có thể nói khác đi được .

Các cận thần như La Sơn Phu Tử , Nguyễn Thiếp là những bậc trí giả , đạo đức cao vời . Họ vừa khôn ngoan , vừa đạo hạnh , vừa chính nhân quân tử , vừa nho phong đạo cốt , vừa ứng xử tuyệt vời ban ra những lời nói vàng ngọc đáng ghi khắc .

Cái hay của Huệ là chỗ biết nghe , biết dùng người tài .

Về các tướng tá chung quanh ông như Trần Quang Diệu , Bùi Thị Xuân là những mãnh tướng can trường có đảm lược ngoài trận địa . Chẳng những thế còn có khí tiết cho đến lúc bị voi giầy . Ai ai không xúc động khi được nghe những lời đối đáp can trường giữa mẹ và con gái bà Bùi Thị Xuân .

Chỉ không ai ngạc nhiên hỏi xem ai là người đã được chứng kiến cái cảnh đau lòng đó và có đủ thẩm quyền ghi lại từng câu , từng chữ một cách trung thực ? Để đến nỗi ngày có người đã viết lại cảnh đó trong dịp ngày lễ Vu Lan ?

Tuyệt vời cái scénario này .

Ngọc Hân công Chúa với Ai Tư Vãn đi vào huyền thoại dân gian và sau này thể hiện qua Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác như một bản Tình Ca bất hủ .

Nay thì từ lịch sử đã chuyển sang một công đoạn khác , Văn Học .

Từ lịch sử chuyển sang văn học dĩ nhiên có một đứt đoạn được bù khuyết bằng cái gọi là “ hư cấu ” . Nếu người viết sử ít nhiều còn dè dặt trách nhiệm , băn khoăn về sự đúng sai của sử liệu thì nhà văn tự vịn vai hai chữ “ sáng tác ” để viết gì thì viết .

Nhưng câu hỏi đặt ra là nhà văn có quyền viết tên thật các nhân vật lịch sử đồng thời ” hư cấu ” tùy tiện ? Đó là câu hỏi quan trọng được đặt ra , nhưng không thuộc lãnh vực của bài này .

Đó là chỗ khúc mắc chưa được giải đáp nên mới có câu chuyện nhà văn Trần Vũ nhân đọc Sông Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác thấy các nhân vật Nguyễn Huệ – Ngọc Hân , cô An , ông thày giáo “ tròn quá , toàn bích quá ” . Trần Vũ thấy “ ngứa ngáy , khó chịu ” mới viết truyện Mùa mưa gai sắc như một “ viết ngược ” lại tác giả ” Sông Côn mùa lũ “ ?

Trong ” Mùa mưa gai sắc ” của Trần Vũ , ông đã “ biến tướng ” Ngọc Hân công chúa “ lá ngọc cành vàng ” thành một thiếu phụ “ sẵn sàng tự cởi xiêm y cho mục đích nhằm ” – một kẻ đối đầu với kẻ thù đã ám hại dòng họ nhà Lê – bằng một bút pháp sắc bén như dao, lạnh lùng và tàn bạo . Dưới ngọn bút của Trần Vũ , Huệ không hơn không kém chỉ là một kẻ bạo dâm .

Trần Vũ cũng có cái lý của nhà văn . Lẽ thường tình cho thấy có lý nào Ngọc Hân lại dễ dàng “ dâng hiến ” cái tiết trinh tuổi 16 và quên nỗi nhục cho kẻ đã chiếm đoạt và hạ nhục cả dòng họ Lê ? Có thể nào có một mối tình “ đẹp như tiểu thuyết ” giữa hai kẻ đáng nhẽ phải coi nhau như kẻ thù ?

Ngọc Hân chẳng lẽ không nhớ cái cảnh gia đình tan nát vì “ tiếm quân ” Tây Sơn sau đây :

“ Chẳng những thế Tây Sơn còn cho giết bào đệ vua Chiêu Thống khi đánh nhau với Tây Sơn . và Hơn thế nữa , khi mẹ vợ của ông bị điệu về triều đình , ông đà trách mắng bà thậm tệ vì mối cảm tình của bà đối với Đốc Chiêm . Số vàng do bà cấp cho Đốc Chiêm phải vào tay ông . Cuối cùng ông ra lệnh xử trảm vị tướng này ngày 1 tháng 6 ” .

Trích Những tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ , Đặng Phương Nghi , TSSĐ số 9-10 , trang 209 .

Chẳng lẽ những truyện “ tàn độc ” của Nguyễn Huệ đối với vua Lê , Ngọc Hân công chúa đều không biết ?

Chỗ nào là sự thật lịch sử và chỗ nào là cái lý lẽ thế nhân thường tình ?

Hãy đọc một trích đoạn lối viết ngược của Trần Vũ cho biết :

“Đêm ở phủ Chúa , Huệ bước chân lên lầu Tử Các , lòng âm ỉ cơn say . Sống với Huệ hơn một tháng , Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát . Lẳng lặng , tự nguyện , không đợi Huệ bắt , nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường . Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi gai . Huệ lấy roi , không phải dây đai của đêm hợp cẩn , mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận . Ngọc Hân uốn lưng đợi , tóc xõa chảy xuống nền đá , không trang sức , không cả chiếc vòng kiềng cổ truyền của con gái Bắc Hà , chỉ dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai . Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ . Hai ba tấm màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ , Huệ tiến tới một bước , hai bước , rồi vung tay quất . Đâu roi vút tiếng rít như rạch tấm màn gấm . Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường . Huệ đã say máu , những chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như những vết ong đốt , hay những giọt mực son rỏ trên lên vũng sữa . Huệ vung tay tới tấp” .

Đây là truyện ngắn mà người viết bài này đọc đến ngỡ ngàng , thích thú và trân trọng .

Phải chăng cũng một cung cách ấy mà Nam Dao trong tập truyện dài lịch sử lấy bối cảnh triều Tây Sơn trong cuốn Gió Lửa ?

“ Đêm hôm đó , để mặc Huệ dày vò , đánh đá trong một cuộc truy hoan trước khi viễn chinh . Hân vừa rên rỉ vừa thì thào “ nữa đi , nữa đi ” như thách thức , dầu chỉ tưởng đến cái cơ nghiệp nhà Lê để quên nỗi đau của thể xác ” .

Khiếp quá ! Giữa cái “ hư cấu “ của Nguyễn Mộng Giác và cái hư cấu của Nam Dao thì đọc Nam Dao sướng hơn nhiều .

Đây cũng là một tập truyện dài với “ tuyệt hư cấu ” và thay đổi cả “ trục thời gian lịch sử ” viết thật hay . Rất tiếc , phải cần một trình độ thưởng thức văn học nào đó nên cuốn truyện đã không được người đọc lưu tâm đủ .

Và cuối cùng trong Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp , nhà văn cầm bút ở ngoài Bắc với xác chết người đẹp Ngô Thị Vinh Hoa , người tình của Nguyễn Huệ . Câu chuyện trong Phẩm tiết xoay quanh một cái chết mà chỉ nhà văn với giầu óc tưởng tượng mói viết ra được . 

Một số nhà phê bình miền Bắc gọi Nguyễn Huy Thiệp “ xuyên tạc lịch sử ” hay là một thứ “ lịch sử giả ” ?

Nguyễn Huy Thiệp đã trả lời một cách đích đáng : “ Không ai đánh nhau với cái xác chết , người ta chỉ khai thác các xác chết sao có lợi mà thôi ” .

Phải chăng cái xác chết mà nhà văn muốn nói ở đây là sự thật lịch sử về Nguyễn Huệ ?

Giữa Ngọc Hân – Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác và Ngọc Hân – Nguyễn Huệ của Trần Vũ , của Nam Dao có một chặng đường sa mạc không bao giờ tưởng có thể đi tới .

Đó là một sự đánh tráo con người và số phận Ngọc Hân – Nguyễn Huệ mà chỉ có tiểu thuyết mới có quyền năng làm như vậy . Như thế , phải chăng sẽ không có điểm hẹn lịch sử nào giữa một nhà viết sử và một nhà văn ? Thế giới của nhà viết sử và của nhà văn thì không phải là một ?

Cho nên rõ ràng nó không có chỗ cho một sự đối đầu cần thiết giữa các quan điểm lịch sử với quan điểm văn học mà chúng ta mong đợi .

Và vì thế chuyện viết sử và chuyện viết của nhà văn có những đối tượng và mục đích khác nhau . Cùng lắm nhà viết sử đi tìm sự thật còn nhà văn trên cả sự thật đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật .

Trở về lại với khung cảnh sử học Việt Nam , đặc biệt phía những người Quốc Gia người ta nhận thấy từ Trần Trọng Kim tiếp nối Hoa Bằng , Phạm Văn Sơn , Tạ Chí Đại Trường , Vũ Ngự Chiêu và đến người viết mới đây nhất về Tây Sơn , tác giả Trần Gia Phụng thì ít nhiều đều đi theo một một đường thẳng của hình học phẳng mà không bắt gặp bất cứ con đường nào khác .

Tạ Chí Đại Trường

Riêng Tạ Chí Đại Trường – ông có thế giá sử học – ông có những cố gắng khám phá , những biện luận thông minh sắc bén và trí thức , nhưng đôi khi cũng lùi bước trước những “ gánh nặng lịch sử ” .

Có thể ông đã không viết khác được .

Tạ Chí Đại Trường càng tỏ ra cái tài tuấn biện luận sử học thì một mặt khác cho thấy sự biện luận ấy là do thiếu tài liệu sử , thiếu thông tin sử học . Giả dụ rằng , ông có trong tay đầy đủ chứng liệu sử học từ nhiều nguồn thì chỉ việc khệ nệ bê ra và khỏi cần đến biện luận ?

Ngày nay đọc lại bài khảo cứu của ông về cuộc hành quân ra Bắc trong chiến dịch Việt – Thanh cho thấy sự khan hiếm tài liệu thật rõ rệt . Các biện luận của ông về chiến dịch này không còn đứng vững nữa vì thiếu cơ sở .

Lấy một tỉ dụ , người ta đọc thấy những câu chuyện hư cấu, những huyền thoại về Tây Sơn được viết lại trong “ ngoại thư ” Hoàng Lê Nhất Thống Chí ( HLNTC ) – một tập sách mà thật ra chỉ là sự pha trộn khéo léo giữa một số sự kiện có thể “ giả định là thực ” cộng với hư cấu ! Linh Mục Nguyễn Phương , giáo sư sử học đại học Huế có viết một bài : ” Giá trị Hoàng Lê Nhất Thống Chí “ đăng trên báo Bách Khoa , ngày 14-5-1963 , trang 15-22 Trong đó linh mục Nguyễn Phương đánh giá thấp giá trị lịch sử của tập sách và cuối cùng ông xếp vào loại sách truyện , thứ ngoại thư .

Tạ Chí Đại Trường trong tác phẩm Lịch sử nội chiến Việt Nam 1771 – 1802 cũng thừa nhận Hoàng Lê Nhất Thống Chí là không dùng được vì tính cách truyện của nội dung tập tài liệu .

Vậy mà cũng chính Tạ Chí Đại Trường trong phần viết về : Chiến tranh tiêu diệt họ Trịnh , vì không có tài liệu nào khác về phía nhà Nguyễn cũng như về phía sử Trung Hoa . Ông đã đành lòng ghi nhận : Phần viết này thì đều lấy lại ở Hoàng Lê Nhất Thống Chí !

Sự trung thực đáng quý . Nhưng nó lại thật là mâu thuẫn với tư cách một người viết sử .

Những “ kiến thức có sẵn ” ấy do sự lập đi lập lại bởi nhiều người, bởi nhiều “ sách vở viết theo ” do những nguyên do khác nhau đã dần trở thành những “ gánh nặng lịch sử ” khó phá vỡ được ?

Đã đến lúc phải can đảm trút đi cái “ Gánh nặng lịch sử này ” .

Cũng vậy , đọc một vài cuốn sách sử như : Nhà Tây Sơn của Trần Gia Phụng mới đây , năm 2005 , mà tính cách bảo hoàng trong tầm nhìn cũng như tài liệu sử toát ra ngay trong phần thư mục liệt kê sách đọc . Thiếu vắng các tài liệu về phía người Pháp hoặc xử dụng không đúng mức , thiếu vắng các tài liệu về phía người Anh và quan trọng hơn cả thiếu vắng các sử liệu Tàu được trích dẫn như một phản biện .

Và nhất là thiếu vắng một cái nhìn lịch sử , một chọn lựa “ đúng ” trong chiều kích nhìn một sự kiện lịch sử . Đây là một trong cái thiếu sót lớn nhất của tác giả Trần Gia Phụng .

Cho nên có lẽ có thể kết luận khi đọc sách của Trần Gia Phụng là đọc cái gì , đọc tài liệu như thế nào thì viết như thế nấy .

Xin đưa ra một bằng chứng để làm bằng cớ về số quân nhà Thanh trong cuộc chiến Việt Thanh . Số quân nhà Thanh sang đánh nước ta được sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí phóng lên đến 500.000 , chỗ tài liệu khác xuống 300.000 quân . Riêng sử gia Tạ Chí Đại Trường thì đành “ khiên cưỡng ” chấp nhận con số 200.000 quân được coi là chấp nhận được bằng vào các sử liệu của Việt Nam .

Nhưng ngay từ thập niên 1960 thì một ông sử gia Trung Quốc , ông Tưởng Quân Chương , dựa theo Thanh sử , châu bản cũng như Tấu chương của Tôn Sĩ Nghĩ đã đưa ra một con số “ sửng sốt ” . Tưởng Quân Chương cho rằng Tôn Sĩ Nghị chỉ mang ” 8.000 quân ” sang Việt Nam , trong khi đó Nguyễn Văn Nhạc đã tụ tập mười vạn binh mã để đánh quân Thanh , vì vậy quân Thanh đại bại .

Nguyễn Hiến Lê

Để đáp lễ tức khắc Tưởng Quân Chương , các tác giả Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Hữu Ngư viết bài trên Bách Khoa , số 77 , ngày 15-3-1960 , trang 23 : “ Bàn về đính chính sử liệu Việt Nam nhân một bài viết của học giả Trung Quốc Tưởng Quân Chương ” .

Trích lại trong Sự thực sử học : một con đường ngắn nhấn dẫn tới đoàn kết dân tộc, tác giả Vũ Ngự Chiêu , Phần tài liệu đọc thêm II : Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn . Đăng trên Báo Đi Tới số 84 , Bộ mới , Tôn giáo và Dân tộc , trang 159 .

Vấn đề ở đây là để phản bác học giả Trung Quốc , ông Nguyễn Hiến Lê đã dựa trên tài liệu chính sử nào ? Tài liệu của các thừa sai Pháp , tài liệu Thanh sử hay tài liệu của các học giả viết bằng tiếng Anh ?

Ai là nhà sử học trên có thẩm quyền tinh thần để đưa ra một con số “ gần đúng ” với sự thật lịch sử ?

Tác giả Nguyễn Duy Chính , trong tập biên khảo Việt Thanh chiến dịch . Quân Thanh tiến vào Thăng Long đã đưa ra một con số khá tương cận với con số của học giả Trung Quốc khi ông viết :

” Việc dựng lại các trận đụng độ giữa quân Thanh và quân Nam trong vòng một tháng tiến binh của họ cần phải được cân nhắc để không quá sơ sài như sử nước ta mà cũng không huyênh hoang như sử Trung Hoa .

Vấn đề quân số nhà Thanh đem sang nước ta là bao nhiêu cũng cần được đánh giá lại . Việc khẳng định 20 , 30, 50 vạn như nhiều sách vở khó có thể coi là chính xác, phần lớn do nhận định chủ quan và dựa trên ước đoán tổng quát .

Riêng sách vở của Trung Hoa thì họ luôn luôn nhắc lại con số trong Đại Thanh thực lục là một vạn quân mặt đông và tám ngàn quân mặt tây đưa đến con số 18.000 quân cho cả hai mặt “ .

Và tác giả Nguyễn Duy Chính giải thích thêm là ” vua Càn Long chỉ sử dụng quân của bốn tỉnh phía Nam và tây nam như một cuộc chiến ủy nhiệm khác hẳn các chiến dịch khác thường điều động nhiều cánh quân từ nhiều vùng, nhất là Bát kỳ Binh ở miền Bắc “ [ Xin đọc thêm bài viết của cùng tác giả về “ Từ Quân Doanh kỷ lược đến Khâm Định An-Nam kỷ lược ”, đăng trên Gio-o.com ( http://www.gio-o.com/nguyenduychinh.html ) ]

Giữa con số đề nghị của Tạ Chí Đại Trường là 200.000 ngàn quân Thanh và con số của Nguyễn Duy Chính chứa tới 20.000 người , đâu là con số giả định có thể chấp nhân được gần đúng ?

Người viết xin mượn chữ của Phạm thị Hoài phải chăng cần có kết quả của những phép tính trừ trong việc đọc về các con số trong chiến dịch Việt-Thanh ?

3. Giải trừ huyền thoại về cách đối xử tàn nhẫn của nhà Nguyễn Gia Long đối với Quang Trung Nguyễn Huệ

Có một điều cần lưu ý bạn đọc là những tài liệu liên quan đến sự “ bạo tàn ” của Nguyễn Ánh khi mới lên ngôi thì đều xuất phát từ hai nguồn tài liệu : 

Thứ nhất từ các lá thư của các thừa sai Pháp trong Archives des Missions Étrangères de Paris , Cochinchine , trong đó có các tài liệu như : Lettres édifiantes et curieuses của Gia Tô Hội . Bộ Nouvelles lettres Édifiantes et curieuses do Đặng Phương Nghi hoặc do Nguyễn Ngọc Cư dịch hoặc Những Lời thuật của Barisy về Trận Thị Nại , Thư của giáo sĩ Le Labousse cũng về Trận Thị Nại hoặc Lời thuật của Brisy về trận Phú Xuân . Cả ba tài liệu trên đều do giáo sư Hoàng Xuân Hãn chuyển ngữ .

Thứ hai và đây là phần quan trọng nhất là các vụ trả thù Tây Sơn lại do chính các sử gia triều Nguyễn chính thức tường thuật lại . Điều đó cho thấy thái độ công khai hóa các trừng phạt vì họ cho rằng trừng phạt đó là xứng đáng , là xử theo luật . Bây giờ người đọc cho là xử phạt quá tàn độc như hình phạt cho voi giày xé là có ghi trong luật lệ hẳn hoi . Giả dụ Tây Sơn có quyền lực trong tay mà bắt được giặc có lẽ cũng không làm khác hơn .

Về các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê

Khi dịch các tài liệu của Hội Thừa sai Ba Lê , bà Đặng Phương Nghi cũng ghi nhận tính cách “ tế nhị ” khi phải dịch những lá thư đó . Tuy nhiên , không thể phủ nhận tính cách cập nhật và tinh cách nhân chứng của các lá thư này .

Đọc các thư từ hay bài tường thuật của các thừa sai Ba Lê cho thấy những nhận xét chi li , tỉ mỉ , tính chất người đậm nét và những biểu lộ tình cảm cũng rất người của các lời tường thuật . Nó như chuyện kể thực , sống động và trung thực .

Điều này cũng chứng tỏ Vũ Ngự Chiêu đã bất công khi đánh giá các tài liệu này .

Các lời tường thuật có tính truyền đạt , được sự cảm thông của người đọc không thua gì một bài phóng sự của một tay viết báo bây giờ . Đọc không thể không mủi lòng , rơi lệ vì sự tàn bạo của con người , của kẻ thắng trận đối với kẻ bại trận . Nhất là đối với các phụ nữ, vợ các tướng tá bại trận .

Xin được trích dẫn vài đoạn tiêu biểu .

“Sau đó , Nguyễn Vương hỏi tôi đã trông thấy các ngụy tướng chưa ; thấy tôi đáp rằng chưa , ngài cho lệnh giải họ tới . Rồi ngài bảo tôi đi xem các chị em của Tiếm vương ( Cảnh Thịnh ) . Tôi đã tuân lệnh . Những tù nhân này ở một ngôi nhà kín , hơi tối , thiếu vẻ thanh nhã ; trong cảnh huống của họ , có sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại . Tất cả có 5 người ; một 16 tuổi rất đẹp , một thiếu nữ 12 tuổi , con vương phi Đàng Ngoài , dung mạo tầm thường ; còn ba người khác từ 16 đến 18 có nứỚc da hơi sẫm , nhưng dung mạo xinh đẹp . Trong một ngục thất khác không xa , có thân mẫu của vị thiếu phó , tướng chỉ huy đạo quân bao vây thành Quy Nhơn . Bà ta độ 55 tuổi và có nhan sắc . Trong trạng huống bất hạnh , bà tỏ ra rất cương quyết , có vẻ trinh thục và không tự tôn . Rồi tới vợ phò mã Nguyễn Văn Trị , là chị ruột của Tiếm Vương . Còn bà Tư-Khấu Định , vợ tướng chỉ huy pháo binh , có võ tướng ; Bà Tham-lĩnh Thông , vợ phó đô đốc hải quân và sau nữa còn rất nhiều người , muốn nhớ hết phải ghi cả một niên giám trong ký ức .

Nguyễn Vương đã để cho cướp phá tất cả dinh thự của các tướng địch và tôi tức giận các binh lính đã đập vỡ và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tay họ; chắc chắn có những tòa nhà tuy xây cất theo lối Trung Hoa nhưng nếu ở Paris thì có lẽ được coi là những lâu đài tráng lệ , nhiều vườn đẹp trồng nhiều dị thảo và nhiều bình cho Nhật Bản .

Tóm lại , đó là chung cục việc báo thù của Nguyễn Vương và chắc hẳn ít là nỗi oán cừu của ngài rất hời hợt” .

Về Chính sử triều Nguyễn

Nay thử đọc một số trích đoạn được ghi chép trong chính sử triều Nguyễn về các hình phạt “ dã man ” dành cho kẻ chiến bại :

“Tháng 11 làm lễ tuyên cáo võ công . Ngày Quý dậu tế thiên địa thần kỳ , Ngày Giáp tuất hiến phù ở Thái miếu .Hiến Phù : Dâng những người bắt được trong chiến tranh ) .

Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực , Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy , Quang Thiệu , Quang Bàn ra ngoài cửa thành , xử án lăng trì cho 5 voi xé xác ( Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay chân , rồi cho voi xé , đó là một thứ cực hình ) , đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất di , còn xương đầu lâu của Nhạc , Huệ , Toản và một của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại ( Ngoại đồ gia : Sau đổi là vũ khổ . Năm Minh Mệnh thứ hai đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi ) . Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu , Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép , bêu đầu cho mọi người biết . Xuống chiếu bố cáo trong ngoài ”.
( Trích Thực Lục , trang 531 ) .

Theo tài liệu Bissachère ghi ở trên còn đưa ra chi tiết anh em nhà Cảnh Thịnh trước khi chết còn phải chứng kiến cảnh các lính tráng tiểu tiện vào sọt đựng hài cốt của Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc .

Căn cứ vào sự việc được chính thức sử gia nhà Nguyễn kể lại thì quả thực cách hành xử của Nguyễn Ánh quả là quá tàn độc đội với kẻ đã chết cũng như đối với con cháu và tướng tá thuộc hạ của Nguyễn Huệ .

Cũng vì thế , các nhà viết sử Việt Nam đều đồng loạt lên án Nguyễn Ánh , Gia Long . Từ Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược , Phạm Văn Sơn trong Việt sử toàn thư , Hoa Bằng trong Quang Trung , anh hùng dân tộc đến Vũ Ngự Chiêu đều cùng đồng loạt lên án Nguyễn Ánh Gia Long .

Các sử gia Trần Trọng Kim và Phạm Văn Sơn chê trách triều đình nhà Nguyễn hẹp lượng . Hoa Bằng thương tiếc cho người anh hùng Quang Trung bị gán cho chữ Ngụy .

Trần Gia Phụng chê trách Nguyễn Ánh viện cớ việc trả thù chỉ là dựa trên “ nghĩa lớn trong kinh Xuân Thu ” mà thực ra là trái với đạo lý cổ truyền của dân tộc .

Vũ Ngự Chiêu thì viết :

” Không ai phủ nhận được một điều : Cách đối xử của các vua nhà Nguyễn ( 1802-1945 ) với Quang Trung Nguyễn Huệ và gia đình Tây Sơn cực kỳ tàn nhẫn . Theo Đại Nam Thực Lục , Chính biên , từ tháng Một Tân Dậu , ngay khi tái chiếm kinh thành Huế , Nguyễn Chủng cho lệnh phá hủy mộ Quang Trung , “ bổ săng , phơi thây bêu đầu ở chợ ” . Con trai , con gái , họ hàng và tướng hiệu của nhà Tây Sơn ” 31 người đều bị lăng trì cắt nát thây ” … Sự trả thù còn trút xuống dòng dõi Nguyễn Văn Nhạc dưới thời Minh Mạng (…) “
( Trích Việc nghiên cứu nhà Tây Sơn ( 1778-1802 ) Nguyên Vũ , Ngàn năm soi mặt , 2002 . Trích lại trong báo Đi Tới , số 84 , bộ mới , trang 159 ) .

Qua những tư liệu vừa trích dẫn trên cũng như sự đồng thuận của các người viết sử cho thấy dư luận nói chung đều lên án cách hành xử của các vua quan nhà Nguyễn đối với Tây Sơn – một người được coi là anh hùng dân tộc .

Tuy nhiên , cũng cần nhìn lại và đánh giá lịch sử cho công bằng .

Thực sự Nguyễn Ánh có phải là người có bản tính tàn độc đối với kẻ bại trận không ?

Căn cứ vào chính sử Nhà Nguyễn cho thấy Nguyễn Ánh không phải ác độc như cái nhìn miệt thị của các người viết sử .

“ Trừ cỏ xấu , cốt để nuôi cho lúa tốt; giết kẻ ác , cốt để cứu giúp dân lành . Vả chăng một phủ Quy Nhơn đều là đất đai cũ , nhân dân cũ của ta , từ thuở Tây Sơn nổi loạn , dùng làm sào huyệt , nhân dân bị thế bắt buộc , không thể không theo (…) . Vậy ra lệnh từ nay phàm khi đối trận chém giết thì không kể, còn bắt được người tại trận, không kể người ở Thuận Hóa, Bắc Hà, Quảng Nam , Quảng Ngãi , Quy Nhơn , đều được thưởng như nhau bất tất phân biệt ; người từ Quảng Ngãi về Bắc thì cho lưu lại để thu dùng , người ở Quy Nhơn trở vào thì cấp cho tiền gạo rồi thả về . Đó thực là đánh bằng nghĩa mà dạy bằng nhân vậy . Ta đã đinh ninh dặn bảo , nếu có ý trái lệnh giết càn thì tức là hạng quân kiêu căng giận dữ , do lòng tàn nhẫn , đều chiếu theo quân pháp mà trị tội ”
( Trích “ Quốc Sử Quán Triều Nguyễn . Đại Nam Thực Lục ”, tập một , trang 471-472 , nxb Giáo Dục ) .

Và đối với bọn cựu thần nhà Lê và những hương cống học trò cũng như con cháu họ Trịnh , Nguyễn Ánh đều lấy lẽ phủ dụ , thấu rõ tâm tình của họ để thu phục họ . Sử nhà Nguyễn viết :

“ Ta sẽ nghe lời nói thử việc làm , tùy tài bổ dụng , cho người hiền được có vị , người tài được có chức , họp lòng nghĩ , chia mưu làm , để cùng nên đạo trị nước . (…)

Với dòng họ Trịnh sử viết “ Tiên thế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia . Trung gian Nam Bắc chia đôi , dần nên ngăn cách , đó là việc đã qua củ người trước , không nên nói nữa . Ngày nay trong ngoài một nhà, nghĩ lại mồí tình thích thuộc bao đời , thương người còn sống , nhớ người đã mất , nên lấy tình hậu mà đối xử . Vậy cũng báo cho nhau , họp chọn lấy một người trong họ giữ việc thờ cúng , để giữ tình nghĩa đời đời “ .
( Trích ĐNTL, trang 507-508 ) .

Cách ứng xử như trên , có tình có nghĩa nào phải của một kẻ tàn độc ?

Riêng đối với La Sơn phu tử được coi là cố vấn cận thần của Tây Sơn , bốn lần được Nguyễn Huệ vời ra giúp nước đã được Nguyễn Ánh đối đãi khoan hồng như Sử sách ghi :

“ Thả Xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về . Vua dụ rằng : “ Khanh là người có tuổi tác đạo đức , rất được người ta trông cậy . Sau khi trở về núi nên khéo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều , khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta ” . Bèn sai quan quân đưa về.( Trích ĐNTL , trang 445 ) .

Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao Nguyễn Ánh , Gia Long lại có mối thâm thù và muốn trả món nợ cừu hận ấy ? Phải chăng Nguyễn Huệ cũng xử sự tàn độc khi chiến thắng ?

Những việc làm “ tàn độc ” của Tây Sơn hầu như bị sử sách bỏ quên

Việc Nguyễn Ánh làm thì được kể lại kỹ càng . Nhưng việc của Tây Sơn làm thì không đụng tới . Phải được hiểu như thế nào về sự việc này ?

Xin đọc trích dẫn một số sự việc khi Nguyễn Huệ Bắc tiến do linh mục Thomas Thiện viết phúc trình :

“Chừng một tháng nay , một vị tướng của tầu Attila – Nguyễn Huệ tên là Vach Quinh đã trở lại xứ Nghệ mộ rất nhiều lính . và bắt dân chúng cung cấp một số gạo lớn . Với những hành động tối dã man , tên ác quỷ đó thường hay xẻo tai , lột da mặt từ trán cho tới miệng , đánh nhừ tử cho đến chết những viên xã trưởng hay những đại diện cho các làng xã không tuân lệnh hắn ngay (…) . Ai nếu đều tin chắc rằng Bắc Vương ra Bắc Kỳ là để chiếm ngai vàng vương quốc mà thôi .

Những người ra trình diện đều bị bắt ngay lập tức . Họ phaỉ trả một số tiền chuộc ít hay nhiều tùy theo chức vụ và tư cách của họ nếu họ muốn chạy tội . Còn nếu không có tiền chuộc , họ sẽ bị xử tử (…) . Phẫn nộ trước các hành động khinh thị ý ngài , Bắc Vương liền cho bắt họ lại và ra lệnh tịch thu tài sản của họ . Ngược lại họ cứng đầu mãi , thì họ sẽ bị giết (…) Quân Tây Sơn ra lệnh cho dân làng ông phải đem nộp ông ta ngay nếu không cả làng sẽ bị cướp phá hoàn toàn . Dân làng buộc lòng phải tuân lệnh và vị quan khốn nạn này lại rơi vào tay của quân Tây Sơn “ bạo tàn ” , chúng liền xử tử ông và treo đầu ông bên lề đường ”

Ký tên . Thomas Thiện, linh mục người Bắc Kỳ .
( Trích Tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ , Đăng Phương Nghi ,Tập san sử địa , số 9-10 , Sàigòn , 1968 , từ trang 196-198 ) .

Có hai tài liệu do Ngô Bắc dịch mới đây chứng minh rằng Tây Sơn đã dùng hải tặc Trung Hoa trong việc Bắc tiến . Đám Hải tặc Trung Hoa đã gây nhiều kiếp nạn trong vùng mà chúng đi qua hoặc trú đóng đúng như nội dung bản phúc trình của Thomas Thiện vừa được trích dẫn ở trên . Tài liệu do Dian H. Murray viết với tựa đề : ” Các ảnh hưởng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn trên sự phát triển của Hải tặc Trung Hoa “ . Để viết tài liệu này , Murray cũng đã dẫn chứng hàng chục tài liệu liên quan của các sử gia Tầu như Shun-tehsien-chih , Kuang-tung t’ung-chih , Chu Huai , 8 chuan , 1827 , v…v….

Điều đó cho thấy binh đội Tây Sơn đi đến đâu dân chúng lầm than khổ sở vì bị cướp bóc , bắt lính và tàn sát dân chúng đến đó .

Nào ai đã viết lại về các sự việc này ?

Riêng đối với dòng họ Nguyễn Ánh thì kể như không một người nào sống sót dưới bàn tay của Tây Sơn , trừ lại còn mình Nguyễn Ánh . Theo Trần Gia Phụng ghi lại thì :

  Thứ nhất chú , bác ruột Nguyễnh Ánh bị giết là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần , Tân chính vương Nguyễn Phúc Dương .

  Thứ nhì anh em ruột của Nguyễn Ánh cũng bị Tây Sơn giết là Nguyễn Phúc Đông ( anh ruột ) và Nguyễn Phúc Mân , Nguyễn Phúc Thiên ( em ruột ) .

  Thứ ba quan trọng hơn cả , Tây Sơn đã cho quật mộ Nguyễn Phúc Côn ( thân phụ cả Gia Long ) đem hài cốt đổ xuống sông năm 1790 .

Về việc này , xin đọc kỹ chính sử nhà Nguyễn đã viết lại như sau :

“ Tháng 9 , ngày Ất Hợi , sửa lại sơn lăng .

Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn văn Huệ tham bạo vô lễ , nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc ( tức lăng Trường Mậu ) rất tốt , định dem hài cốt vợ táng ở đó . Hôm đào huyệt , bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra , gầm thét vồ cắn , quân giặc sợ chạy . Huệ ghét không muốn chôn nữa . Sau Huệ đánh trận hay thua , người ta đều nói các lăng liệt thánh khí tốt nghi ngút , nghiệp đế tất dứt . Huệ bực tức , sai đồ đảng đào các lăng , mở lấy hài cốt quẳng xuống vưc….(…) . Đến nay Huyên đem việc tâu lên Vua thương xót vô cùng , thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại (….) . Ngày kỷ Hợi , vua thân đến tế cáo , nghẹn ngào sa lệ , bầy tôi đều khóc cả “
( Trích ĐNTL , trang 466 ) .

Chẳng những thế , Tây Sơn Nguyễn Huệ còn đào hết lăng tẩm Tám đời của chúa Nguyễn tại Thừa Thiên , ném xuống sông . Nhưng điều mà Nguyễn Ánh không thể tha thứ được là phần mộ của Nguyễn Phúc Côn , thân sinh của Nguyễn Ánh cũng bị khai quật và hài cốt bị ném xuống sông .

Theo tài liệu ghi lại không lấy gì làm chắc chắn trong Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết chi tiết như sau :

“ Theo truyền thuyết khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức đức Hưng tổ ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá , sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới . Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi đi tìm lại hài cốt của thân phụ nghe người làng tường thuật , ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ . Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ , sọ liền hút những gọt huyết này ( lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người ) ” .
( Trích “ Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả ” , trang 193 , nxb Thuận Hoa , Huế 1995 . Trích lại trong bài viết của cụ Võ Hương An “ Bàn về Tây Sơn Nguyễn Ánh. Chuyện đời vay trả ” ) .

Dưới cái nhìn thông tục, đời thường , cụ Võ Hương An cho rằng cuộc trả thù của Nguyễn Ánh chỉ là một cuộc vay trả . Đời có vay thì có trả . Nói khác đi sự trả thù có ý nghĩa chính đáng , chấp nhận được nếu đặt trong bối cảnh một xã hội theo thứ “ Văn Hóa nuôi thù ” vốn tồn tại nơi người Việt Nam .

Trả thù đôi khi trở thành một thúc bách luân lý và bổn phận .

Kết luận

Nay về phía Hà Nội , vào năm 2008 đã có một hội thảo “ đánh giá lại Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn ”từ đó có một chuyển hướng trong cách nhìn và đánh giá lại sử đời nhà Nguyễn theo một cái nhìn công bình và khách quan hơn . Những đánh giá sử học dựa trên yêu cầu chính trị xem ra không còn thỏa đáng nữa .

Về số nhà viết sử tại miền Nam trước 1975 nay không còn lại mấy người , nhưng thiển nghĩ họ cũng cần xác định và đánh giá lại những bài viết của chính họ nhằm trả lại cho Nguyễn Ánh một vị trí xứng đáng hơn trong lịch sử Việt Nam .

Đã đến lúc một số những nhà viết sử của miền Nam Việt nam Cộng Hoà hiếm hoi còn sót lại phải tự họ điều chỉnh lại tầm nhìn, tầm hiểu biết sử, đánh giá lại “ những công trình sử học của chính họ và của đồng nghiệp ” .

Phải làm gấp đi . Thời giờ không còn bao nhiêu nữa cho họ .

Và nay còn một chút hy vọng , có một số người viết sử chuyên ngành , tham khảo nhiều nguồn tài liệu từ nhiều nguồn – từ tiếng Trung Quốc , tiếng Pháp , tiếng Anh .

Hy vọng họ như những con tàu phá băng , phải phá vỡ từ bên trong những kiến thức đã đông cứng . Không thể cứ mãi sống trong những huyễn tượng sử không thật , tự dối mình và dối người .

Công việc đó , Nguyễn Duy Chính đang âm thầm một mình , bỏ hết thì giờ và công sức viết lại sử đời Tây Sơn .

Nguồn dcvonline.net

Hơn 100 bức ảnh hiếm về Việt Nam năm 1980

Nhiếp ảnh gia người xứ Wales Philip Jones Griffiths (1936 –2008) được cả thế giới biết đến với nhứng bức ảnh kinh điển về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng không phải ai cũng biết đến một loạt ảnh đặc sắc được ông thực hiện ở Việt Nam năm 1980, 5 năm sau khi cuộc chiến chấm dứt. Sau đây là những hình ảnh của ông được đăng tải trên trang Magnum Photos.

5 năm sau chiến tranh, những dẫy hào trú ẩn trong một ngôi trường ở vùng quê vẫn chưa bị vùi lấp.

Trong chiến tranh, do điều kiện y tế thiếu thốn nên cắt bỏ chi là một biện pháp được thực hiện phổ biến với những người lính bị thương. Vào thời hậu chiến có rất nhiều người bị mất chi, và sản xuất chân tay giả trở thành một ngành công nghiệp quan trọng ở Việt Nam.

Chiếc máy may MiG-21 từng được phi công Việt Nam dùng để bắn hạ máy bay B-52 của Mỹ được trưng bày trong bảo tàng Quân đội, Hà Nội.

Trẻ em trong một trường mẫu giáo ở nông thôn.

Bên trong cửa hàng bách hóa trung tâm ở Hà Nội.

Ca sĩ biểu diễn phục vụ quần chúng ngoài trời, TP HCM.

Vật dụng của học viên trường giáo dưỡng Bình Triệu, nơi quy tụ những người nghiện ma túy ở TP HCM.

Các học viên trong trường giáo dưỡng Bình Triệu.

Một bé gái là con lai Mỹ – Việt bán thuốc lá dạo ở TP HCM.

Dân làng đào kênh dẫn nước vào đồng ruộng.

Một khoảng ao gần Hoàng thành Huế được khoanh lại để nuôi cá.

Đổ mực bút bi, một nghề trên phố phường Hà Nội thời hậu chiến.

Những người phụ nữ nhặt phế liệu tại địa điểm từng là trại Evans, một căn cứ bộ binh lớn của Mỹ.

Những người ăn xin phía ngoài nhà thờ Lớn, Hà Nội.

Những đứa trẻ hiếu kỳ tập trung bên bờ sông ở đồng bằng sông Cửu Long để ngắm các phóng viên ngoại quốc. Việc kết thúc cuộc chiến đã khiến dân số Việt Nam bùng nổ.

Du khách xem những quả bom tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở TP HCM.

Các tân binh tập thể dục buổi sáng tại một đơn vị quân đội.

Một khối nhà tập thể mang phong cách Xô Viết được xây ở Hải Phòng, trên nền của khu dân cư đã bị bom Mỹ san bằng.

Một đứa trẻ trên con đường lịch sử ở Mỹ Lai, nơi 504 dân thường vô tội đã bị lính Mỹ thảm sát năm 1968.

Những người trẻ tuổi đua xe máy vào buổi đêm tại TP HCM, một hoạt động bị luật pháp ngăn cấm.

Người đồng tính luyến ái, những đối tượng chưa được xã hội Việt Nam công nhận vào năm 1980.

Một cụ bà, người đã trải qua ít nhất 2 cuộc chiến tranh và những đứa trẻ đang được lớn lên trong hòa bình.

Buổi lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh lãnh tụ cách mạng V. I. Lenin.

Trên một con kênh ở đồng bằng sông Cửu Long.

Lễ kỷ niệm ngày Thống nhất đất nước tại TP HCM.

Tín đồ Công giáo ở TP HCM tham gia buổi lễ diễu hành.

Người dân cầm chân dung Hồ Chủ tịch trong buổi lễ.

Người dân cầm chân dung Hồ Chủ tịch trong buổi lễ.

Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường phố của thành phố mang tên Người.

Các thanh niên tập quân sự tại công viên Lênin, Hà Nội.

Các chiến sĩ diễu hành về Nhà Hát Lớn trong buổi lễ kỷ niệm chiến thắng ở Hà Nội.

Xác xe cơ giới vẫn chất đầy ven Quốc lộ 1 trên địa phận miền Bắc sau gần 1 thập niên. Đây là tàn tích của hoạt động đánh phá đường giao thông có quy mô lớn nhất lịch sử do Mỹ tiến hành trong chiến tranh Việt Nam.

Những đứa trẻ chơi đùa trên xác một con tàu quân sự bị bỏ lại tại bãi biển gần thành phố Đà Nẵng.

Những người đã nổ phát súng đầu tiên trong phong trào Đồng Khởi chống chính quyền Ngô Đình Diệm ở huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, ngày 17/1/1960. Từ trái qua phải là các ông Nguyễn Văn Thông, Lê Văn Kính, Phạm Văn Giai và Nguyễn Văn Dũng.

Các thương binh tập hợp để xem trận đá bóng tại một trung tâm phục hồi chức năng gần Hà Nội.

Người thương binh và đứa con xem đá bóng.

Bên cạnh thương binh chiến tranh, những vụ tai nạn do nổ bom mìn còn sót lại xảy ra hàng ngày khiến nhu cầu về chân tay giả ở Việt nam thời hậu chiến rất cao.

Những đứa trẻ Mỹ Lai đứng trên con đường làng, nơi 12 năm trước rất nhiều người họ hàng của chúng đã bị lính Mỹ thảm sát.

Một người dân làng Mỹ Lai đứng trước bản danh sách các nạn nhân của vụ thảm sát ngày 17/2/1968.

Hai cậu bé ngồi trên xác trực thăng Mỹ để lại từ thời chiến.

Thị trấn Xuân Lộc, nơi 5 năm trước đã diễn ra trận đánh lớn cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, trước khi quân đội Giải phóng tiến về Sài Gòn và thống nhất đất nước.

Trẻ em ở Xuân Lộc – thị trấn từng bị hủy hoại nặng nề khi không lực Sài Gòn thả một quả bom nhiệt áp CBU-55, loại vũ khí phi hạt nhân tàn bạo nhất trong kho vũ khí của Mỹ nhằm tiêu diệt sinh lực quân đội Giải phóng.

Trẻ em bên một khu nhà bị đạn bom phá hủy ở nông thôn Việt Nam.

Lớp học ở miền quê, nơi việc khắc phục hậu quả chiến tranh diễn ra chậm hơn vùng đô thị.

Khu chung cư do CHDC Đức (cũ) xây dựng tại Vinh, thành phố miền Trung đã bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh Việt Nam.

Một quán giải khát mở tại nhà riêng, dấu hiệu hiếm hoi của kinh tế tư nhân tại Việt Nam sau chiến tranh.

Một cửa hiệu tạp hóa mọc lên phía ngoài ngôi nhà bỏ trống do gia đình đã xuất cảnh ra nước ngoài.

Trẻ em trên cầu Thê Húc, Hà Nội.

Trong một vườn trẻ, nơi trẻ em được hưởng bữa trưa miễn phí.

Thị xã Lạng Sơn, một năm sau cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc tháng 2/1979.

Các chiến sĩ trẻ tham gia buổi mít-tinh tại nhà hát TP HCM.

Chiếc xe bọc thép của Mỹ trở thành “tài sản” có giá trị nhất của một hộ dân ở Củ Chi.

Một cậu bé người Việt lai “Mỹ đen” đi xem biểu diễn văn nghệ mừng ngày 30/4.

Trẻ em tập trung quanh một thương binh để nghe kể chuyện.

Một thương binh bị mất cả hai mắt níu tay một tân binh, người chăm sóc ông tại nhà tình nghĩa dành cho cựu chiến binh.

Một chiến sĩ đứng gần cánh cổng của Hoàng thành Huế.

Du khách xem sa bàn tái hiện chiến dịch giải phóng Sài Gòn ở Bảo tàng Quân đội, Hà Nội.

Học viên trong trại giáo dưỡng dành cho các phụ nữ từng hành nghề mại dâm tại TP.HCM tập dượt biểu diễn văn nghệ.

Khung cảnh sông nước ở đồng bằng sông Cửu Long năm 1980.

Khung cảnh sông nước ở đồng bằng sông Cửu Long năm 1980.

Bà Lê Thị Nhiếp, người làng Bình Khánh, tỉnh Bến Tre kể: “Tôi bị dính bom napalm vào 3h chiều ngày 9/4/1964, khi ba chiến đấu cơ Mỹ ném bom xuống làng… Rất nhiều người chết dù không có binh sĩ Giải phóng nào trong làng. Tôi sẽ không bao giờ quên tội ác mà người Mỹ ra với cơ thể tôi. Bây giờ tôi phải chịu đựng đau đớn. Nhưng tôi không phải là ai đó quá quan trọng, đã có hàng nghìn trẻ em phải chịu thảm cảnh như vậy”.

Trong một ngôi làng từng bị hủy diệt, những đứa trẻ của một số gia đình còn sống sót sau cuộc chiến đang chờ đợi những ngôi nhà được xây dựng lại.

Sau cuộc chiến, nhiều người dân làng bị li tán đã trở về miền quê của mình, nơi hứng chịu sự tàn phá nặng nề của chiến tranh.

Một tượng đài được dựng lên để tưởng nhớ những người dân vô tội bị giết hại trong chiến tranh.

Trường giáo dưỡng dành cho gái mại dâm ở TP. HCM, nơi các phụ nữ lầm lỡ được quan tâm chăm sóc, chu cấp về vật chất, học nghề và tham gia các hoạt động văn hóa.

Một học viên trong trại giáo dưỡng. Từ năm 1975 – 1990, nạn mại dâm được kiểm soát khá hiệu quả ở Việt Nam. Nhưng sự phát triển của kinh tế thị trường đã khiến hoạt động mại dâm bùng nổ thời kỳ sau đó.

Những đứa trẻ trong trại giáo dưỡng dành cho gái mại dâm, TP HCM.

Một chiếc ô tô chạy trên con đường chất đầy những bó lúa vừa gặt. Người nông dân tận dụng điều này thay cho việc đập lúa.

Trại trẻ mồ côi số 6, TP HCM.

Nhiều đứa trẻ trong trại có cha mẹ đã mất trong cuộc chiến tranh Việt nam.

Trẻ em trong trại trẻ mồ côi số 6, TP HCM.

Xe tăng, máy bay, súng ống… là những đồ chơi ưa thích của trẻ em Việt Nam thời hậu chiến.

Một buổi sáng chủ nhật trong nhà thờ Lớn, Hà Nội.

Một cựu chiến bịnh bị chấn thương cột sống do mảnh bom trong thời gian hoạt động trên Đường mòn Hồ Chí Minh ngồi xe lăn trên con đường mòn của làng A Lưới, Huế.

Các mặt phẳng sạch sẽ, kể cả mặt đường Quốc lộ 1 thường được người dân tận dụng để phơi thóc lúc trời nắng.

Một quán nước phía ngoài Hoàng thành Huế.

Bé gái mặc áo dài ngồi phía ngoài đền thờ của đạo Cao Đài ở Tây Ninh.

Bên trong đền thờ, các tu sĩ Cao Đài tiến hành các buổi lễ 8 tiếng một lần.

Tín đồ đạo Cao Đài mặc một kiểu áo dài màu trắng, chia thành hai bên nam nữ khi hành lễ.

Các tín đồ nam giới.

Bao thuốc lá bên trong đựng dược phẩm trị liệu của học viên trường giáo dưỡng Bình Triệu, nơi tập trung những người nghiện ma túy ở TP HCM.

Một người ăn xin tàn tật trên đường phố của TP HCM.

Cây rừng bị thiêu rụi để người dân làm nương rẫy. Những thân cây khô sau đó sẽ được tận dụng để làm củi.

Người dân làm nông nghiệp trên những khoảng rừng bị đốt trụi.

Giáo sư – bác sĩ Tôn Thất Tùng (1912-1982) bên một bệnh nhi. Ông là một bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu gan.

Bác sĩ Tôn Thất Tùng bên một cựu chiến binh, người đã nhiễm chất độc da cam trong chiến tranh và biến chứng thành ung thư gan.

Bác sĩ Tôn Thất Tùng cầm hình vẽ lá gan minh họa bệnh tình của bệnh nhân.

Trẻ em trong bảo tàng Chứng tích chiến tranh, TP HCM.

Những thân cây trơ trụi ở Tây Ninh, gần biên giới Campuchia.

Một cửa hàng bán sách cũ trên vỉa hè.

TAM THẬP LỤC KẾ CỦA TÔN TỬ BINH PHÁP

Tôn Vũ-Tôn tử binh pháp-Tam thập lục kế

1. Dương đông kích tây (Đánh lạc hướng đối phương)
Kế “Dương đông kích tây” là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía tâỵ
Trong tất cả mọi vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia, nói điều này mà làm điều nọ, ấy là “Dương đông kích tây” vậỵ
Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.
Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như:
– Tạo tin đồn. – Làm rối tai rối mắt địch. – Buộc đối phương lo nhiều mặt. – Mê hoặc ý chí của địch. – Nghi binh. – Làm phân tán lực lượng đối phương. – Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch.
Nguyên tắc của ” Dương đông kích tây” là bí mật và chủ động. Bị động coi như phải chịu sự khống chế của địch.
Điều kỵ khi dùng kế ” Dương đông kích tây” là để lộ cơ.
Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động.
2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)
Kế “Điệu hổ ly sơn” là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng.
Kế “Điệu hổ ly sơn” có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa oai hổ mà hoành hành.
3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim)
Kế “Nhất tiễn song điêu” là dùng một mũi tên bắn chết hai con chim.
Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa.
4. Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết)
Kế “Minh tri cố muội” là biết thật rõ chuyện đấy, nhưng làm ra vẻ không biết gì.
Với người xưa, đây là một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâu.
Cái đức của người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng phu không thể không giấu thiên hạ.
Tóm lại, biết rất nhiều mà tỏ ra không biết một là kế “Minh tri cố muội” vậỵ
5. Du long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng)
Kế “Du long chuyển phượng” là biến cái này thành cái kia, bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng.
Cái kế này rất phổ biến, trong dân gian ta gọi là “Treo đầu dê, bán thịt chó”.
6. Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp)
“Mỹ nhân kế” là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được.
Giai nhân từ ngàn xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được bằng đôi mắt biếc và nụ cười xinh đẹp.
Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi, nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân.
Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có quyền thế.
7. Sấn hỏa đả kiếp (Theo lửa mà hành động)
Kế “Sấn hỏa đả kiếp” là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn.
Có hai loại “Sấn hỏa đả kiếp”: Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp.
Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm.
Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta.
Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta.
Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có.
Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ.
Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo giữa không khí và nước.
Trong sử sách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi. Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề, lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở.
Trương Nghi thật là con người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ nghiệp thống nhất cho nhà Tần.
Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam – Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châu.
“Sấn hỏa đả kiếp” đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồi.
8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)
Kế “Vô trung sinh hữu” là từ không mà tạo thành có.
Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ “chọc trời khuấy nước”. Mục đích của khuấy nước là làm rối beng sự việc lên để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi.
Kế “Vô trung sinh hữu” hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú.
9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương)
“Tiên phát chế nhân” là ra tay trước để dành chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng.
Kế “Tiên phát chế nhân” là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần nhất.
Các vụ xảy ra trong lịch sử như: Lý Thế Dân tại Huyền Vũ Môn, Võ Tắc Thiên phế lập Lư Lăng Vương, Ung Chính cướp Bảo Tòa, Từ Hi độc sát Quang Tự, Gia Cát Lượng lấy đất Quang Trung… Tất cả đều là áp dụng thủ đoạn “chớp nhoáng” không cho địch kịp trở tay, không cho dư luận phản ứng kịp.
Vẫn có câu “Tiên hạ thủ vi cường” là vậỵ
10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ làm cho rắn sợ)
Kế “Đả thảo kinh xà” là đập vào cỏ, làm động cho rắn sợ.
11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người)
Kế “Tá đao sát nhân” là mượn dao để giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình.
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Sát nhân bất kiến huyết, kiến huyết phi anh hùng”. (Giết người không thấy máu, thấy máu không anh hùng).
Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết người. Điểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột, thật đáng kể là một tay thông minh, gian hùng.
12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta)
Kế “Di thể giá họa” là đem xác chết hay đồ vật gì bỏ vào nhà người khác để giá họa.
Kế này thường được dùng bởi khối óc quỷ quyệt thông minh, tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hại. Như vậy gọi là “giết người không thấy máu”.
13. Khích tướng kế (Kế chọc giận tướng giặc)
“Khích tướng kế” là kế chọc giận tướng giặc, làm tướng giặc nổi giận. Nổi giận sẽ mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được con người mình.
Mạnh Tử nói: “Nhất nộ nhi an thiên hạ”.
Trong đời có nhiều sự việc được thành tựu bằng một cơn giận và cũng có nhiều việc thất bại bởi một cơn giận.
Bởi vậy cái kế khích tướng cũng là một trong những diệu kế, nếu đạt ra thì kiến thiên hạ, cùng thì mang họa vào thân.
Khích tướng còn là khơi dậy cái hùng khí của người khác để người ấy làm việc cho ta.
Đối tượng tốt nhất của kế khích tướng là những người có tính tình bạo tháo hay sẵn sàng phẫn nộ.
Tuân Tử bảo rằng: “Lời nói khéo êm như lụa, lời nói ác nhọn như giáo mác”.
Thuyết là tiến dẫn lời nói, cái nghĩa căn bản của thuyết làm cho người ta nghe theo. Hiệu quả của thuyết rất lớn. Bởi thế mới có câu: “Thiên hạ tĩnh, nhất ngôn sử chi động. Thiên hạ động, nhất ngôn sử chi tĩnh”. (Thiên hạ đang yên lặng, một lời nói làm náo loạn. Thiên hạ đang náo loạn, một lời nói làm lắng dịu).
Căn bản mưu thuật của thuyết, theo Tuân Tử có bốn điều: Cơ, dũng, trí, biến.
– Cơ: Là xem thời độ thế, nhân lợi thuận tiện.
– Dũng: Là quyết đoán nói những điều không ai dám nói.
– Trí: Là biết rõ sự tình, tâm lý, giải quyết được thắc mắc, chế phục được người.
– Biến: Là biến hóa, trong các trường hợp bất trắc.
Mục đích của thuyết có năm điều:
– Làm cho người hiểu rõ.
– Làm cho người tin tưởng.
– Làm cho người đồng tình.
– Làm cho người phục.
– Làm cho người theo.
Đạt được năm mục đích trên thì kể như nắm chắc phần thắng trong tay.
14. Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)
Kế “Man thiên quá hải” là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù.
Man thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như một quẻ trong Dịch lý đã nói. Man thiên, không thể ngồi đợi nó tới như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó.
Kế “Man thiên” đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích cực.
Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt.
Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí.
Ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy rơm, đợi lúc trời sương mù, âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi tên.
15. Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)
Kế “Ám độ trần sương” là bí mật đưa quân qua con đường mà không ai nghĩ rằng ta sẽ đi qua.
Kế này áp dụng giữa lúc hai bên đang đấu tranh, chiến đấu với nhau.
Mỗi bên đều ra sức giấu mục tiêu thật của mình rồi đưa ra mục tiêu giả mà lừa đối phương.
Đây là công việc rất phức tạp, có một quá trình khúc triết. Như “Tôn Tử Binh Pháp” viết: “Việc binh là trá ngụy, có thể mà làm ra vẻ không có thể, dùng đấy mà tỏ ra không dùng, gần giả làm như xa, xa giả làm như gần. Lấy lợi mà dụ, gây rối mà đuổi, thấy khỏe thì tránh. Đầu tiên là làm mọi cách giảm nhược lực đối phương, sau rồi mới tiến hành dự định.
Muốn dụng kế này phải là người có tầm nhìn xa hiểu rộng và một khối óc tuyệt vời.
16. Phản khách vi chủ (Đổi vị khách thành vị chủ)
Kế “Phản khách vi chủ” là đổi địa vị khách thành địa vị chủ.
“Phản khách vi chủ” là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp.
“Phản khách vi chủ” là nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợi.
17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)
“Kim thiền thoát xác” là con ve sầu vàng lột xác.
Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác.
Kế “Kim thiền thoát xác” có một phạm vi rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.
18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành)
“Không thành kế” là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ.
Kế này có hai loại:
– Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát.
– Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt.
“Không thành kế” thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định.
19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)
“Cầm tặc cầm vương” là dẹp giặc phải bắt chúa giặc.
Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như “Điệu hổ ly sơn”, “Mỹ nhân kế” hay “Man thiên quá hải” đều có thể dùng cho kế “Cầm tặc cầm vương”. Để đối phó với một nhân vật anh hùng, thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng như nhau.
Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích anh hùng và mỹ nhân kế.
“Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc” là vậy.
Việt Vương thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ giam cầm Phù Sai. Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Đó là những cách gián tiếp để cầm vương.
20. Ban chư ngật hổ (Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)
Kế “Ban chư ngật hổ” là giả làm con heo để ăn thịt con hổ.
Lão Tử nói: “Người cực khôn khéo mà làm ra vụng về”, cũng như câu “đại trí nhược ngu”. Người đi săn thường học tiếng heo kêu rồi tự giả làm heo để nhử con hổ.
Đối với kẻ thù, ta hãy giả ngu như một con heo, trên bề mặt cái gì cũng thuận chịu, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng cung kính để cho địch mất hết nghi âm. Chờ thời cơ chín, tìm thấy chỗ nhược của kẻ thù mà đập đòn sấm sét.
– Dùng việc không gì quan trọng bằng bí mật.
– Hành động không gì quan trọng bằng thừa lúc bất ý.
– Dò xét không gì quan trọng bằng làm cho địch không hay biết.
– Bên ngoài ra vẻ loạn mà bên trong rất có cơ ngũ.
– Tỏ ra đói mệt nhưng thật là no khỏe.
– Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường.
Những câu trên đây chính là căn bản lý luận của kế “Ban chư ngật hổ” vậy.
21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rồi phá cầu)
“Quá kiều trừu bản” là qua cầu rồi thì phá cầu, ý nói một người sau khi đã thành công, muốn hưởng thụ một mình nên giết hại hoặc xa lánh những người bạn đã đồng lao cộng khổ với mình.
Kế “Quá kiều trừu bản” thường trái ngược với kế “Ban chư ngật hổ”. Qua cầu cất nhịp là lúc đắc thời đắc thế đem thuộc hạ ra mà khai đạo. Còn giả tiếng heo là kế áp dụng giữa lúc ở vào thế kẹt.
Đứng trên lập trường đạo lý thì cất nhịp cầu là một hành động vong ân bội nghĩa.
Lưu Bang nổi danh là người qua cầu cất nhịp lớn nhất trong lịch sử. Lúc Lưu Bang hàn vi còn đi ăn cắp gà, thôi thì Bang nói đủ các điều ngon ngọt dễ nghe để tựu chúng lập đảng. Đến khi nên cơ nghiệp rồi, lo việc củng cố quyền thế, Lưu Bang chẳng ngại gì hết, đổi lại thái độ, nghi ghét triều thần.
Người thứ nhất mà Lưu Bang lôi chém là Hàn Tín, rồi đến Bành Việt, Anh Bố, bỏ tù Tiêu Hà, Trần Hi, Phàn Khoái.
Trương Lương thấy họa chẳng chóng thì chày cũng đến với mình, nên bỏ trốn lên rừng học đạo tu tiên.
22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau)
“Liên hoàn kế” là nối liền với nhau thành một dây xích.
“Liên hoàn kế” còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt.
Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng “Liên hoàn kế”. Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước làm cho bùn nhão ra.
Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương hoa tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ.
Tuy vậy, vẫn phải phân biệt “Mỹ nhân kế” với “Liên hoàn kế”.
Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.
23. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt)
Kế “Dĩ dật đãi lao” là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức.
Kế này viết ở trong thiên “Quân Tranh” của bộ “Tôn Tử Binh Pháp”: “Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt” nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch.
Cũng có ý nói nên chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Đợi địch mỏi mệt, tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích.
Tôn Tử gọi thế là: “Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên chín từng trời”.
Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời cơ chưa chín thì đứng yên như trái núi. Khi cơ hội vừa tới thì lập tức lấp sông, chuyển bể.
Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn.
Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích.
Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi Quan Độ.
Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủy.
Tất cả đều lấy ít đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏe. Tất cả đều là kết quả sử dụng tài tình sách lược “Dĩ dật đãi lao”.
24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)
“Chỉ tang mạ hòe” là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.
25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng)
“Lạc tỉnh hạ thạch” là ném đá vào đầu kẻ đã rơi xuống giếng.
Rơi xuống giếng lại còn ném đá vào đầu nạn nhân. Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng – Mạnh thì phải là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt.
Căn bản triết lý của “Lạc tỉnh hạ thạch” là chi phối được thì mới chiếm đoạt được, và nhân từ với kẻ thù tức là tàn nhẫn với chính ta.
Lưu Bị lúc nào hé miệng cũng nói những điều nhân từ, lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng ông lại là người cũng giỏi thủ đoạn “Lạc tỉnh hạ thạch” nhất.
Chẳng vậy mà khi Lã Bố vốn là người làm nhiều ân huệ đối với Lưu Bị, nào việc bắn kích ở Viên Môn, nào việc cho Lưu Bị nương tựa ở căn cứ mình… Đến lúc Lã Bố bị bắt sau khi thất trận Từ Châu, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo: “Ông không nhớ chuyện Đinh Nguyên và Đổng Trác hay sao?” (Đinh Nguyên và Đổng Trác đều nhận Lã Bố làm con nuôi, nhưng đều bị chết vì tay Lã Bố.
Lưu Bị đã không kể đến ơn nghĩa, lại còn đưa đòn độc “Lạc tỉnh hạ thạch” hạ Lã Bố. Như vậy, Lã Bố làm sao khỏi chết!
26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế)
“Hư trương thanh thế” là thổi phồng thanh thế để cho người ta chóa mắt, nể sợ.
Đời Tam Quốc, Tào Tháo tiến xuống Giang Định, rầm rộ cả trăm vạn hùng quân. Tháo định dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền phải hàng phục. Nhưng Khổng Minh trông thấy âm mưu này nên chỉ ba vạn quân với một số mưu kế và trận gió đông đã đánh bại quân Tào.
Khi sử dụng kế này, trước hết phải xem mục đích và giá trị của nó thế nào đã, rồi mới định cỡ to nhỏ.
27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi)
Kế “Phủ để trừu tân” là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra (bớt lửa cho nước khỏi trào).
Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi, không để nó tiếp tục ác liệt.
Chỗ diệu dụng kế “Phủ để trừu tân” là không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất, khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà họ không biết.
Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế “Phủ để trừu tân” lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn, nhỏ có hiệu quả nhỏ.
Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế song thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng!
Ở chiến trường, kế “Phủ để trừu tân” lại càng dày đặc, giăng mắc như mạng nhện.
28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ)
“Sát kê hách hầu” nghĩa đen là giết con gà cho con khỉ sợ.
Theo truyền thuyết dân gian, con khỉ rất sợ trông thấy máu, cho nên khi người ta muốn dạy khỉ, trước hết họ giết một con gà, bắt con khỉ nhìn thấy đống máu bê bết rồi mới bắt đầu giáo hóa. Lúc bắt khỉ cũng thế, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến cho khỉ bủn rủn chân tay thì đến bắt.
“Sát kê hách hầu” có tác dụng lớn, làm cho các vụ mới nở ra trong trứng nước bị rơi vào cảnh bối rối, sợ sệt.
29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)
“Phản gián kế” là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch.
Tôn Tử nói: “Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương đối dễ hơn biết người. Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián điệp”.
30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào)
“Lý đại đào cương” là đưa cây lý chết thay cho cây đào.
Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.
31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt con dê về)
“Thuận thủ khiên dương” theo nghĩa đen là thuận tay dắt con dê về.
Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu. Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.
32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra)
“Dục cầm cố tung” theo nghĩa đen là muốn bắt cho nên thả ra.
Muốn thực hành kế này, phải có một nhãn quan sâu rộng, một tấm lòng nhẫn nại vô song. Những kẻ cấp công cận lợi không bao giờ có đủ tài trí để thi hành nó.
Kế “Dục cầm cố tung” không thi hành theo cái nghĩa đen của nó. Kế này nói lên sự mềm dẻo cho mọi chính sách, thứ nhất là chính sách thu phục lòng người, giữ người.
33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)
“Khổ nhục kế” là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.
34. Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)
“Phao bác dẫn ngọc” nghĩa đen là ném hòn ngói để thu về hòn ngọc. Tức là dùng tiểu vật để đoạt một đại vật, như người đi câu vậy.
Dân gian thường nói “thả con tép bắt con tôm” cũng là kế này.
35. Tá thi hoàn hồn (Mượn xác để hồn về)
“Tá thi hoàn hồn” nghĩa là mượn xác để hồn về.
Ý kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình.
Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ.
Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà.

36. Tẩu kế (Chạy, lùi, thoát thân)
“Tẩu kế” nghĩa là chạy, lùi, thoát thân.
Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là “kế chạy”?
Lại có câu: “Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách”. (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!)
Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn. Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là có thể thắng hoài. Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả trăm ngàn biến chuyển. Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không phải là nhân tài.
Chạy có nhiều phương thức. Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang đường thủy… Các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để bảo toàn lực lượng.
“Tẩu kế” không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức khỏe, lực lượng.
Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận tiện để quật lại, ấy mới thực là “Tẩu kế”.
Sau hết phải lo đến điểm nguy của kế chạy: Khi chạy, sẽ mất tinh thần, sự việc hoàn toàn lỏng lẻo, mất sự tin tưởng ở xung quanh. Nếu không giải quyết cho chính xác những vấn đề trên thì “tẩu” không còn là một kế hoạch nữa, mà là một sự tan rã vậy!

http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1n1ntntn31n343tq83a3q3m3237nvntn

Binh pháp Tôn Tử và chiến thuật đòi tăng lương

“Bộ binh pháp” – sách chiến thuật do Tôn Tử soạn thảo vào đời Xuân Thu Chiến Quốc (thế kỷ thứ 6) đã trở nên nổi tiếng với 36 kế của nó. 36 kế trong “Binh pháp Tôn Tử” không chỉ được áp dụng vào chiến tranh, mà còn được áp dụng rất nhiều vào các khía cạnh khác của xã hội. Thậm chí, người ta còn áp dụng một số kế trong đó để đề xuất tăng lương nữa. Bạn có muốn thử không? Hãy chọn kế nào hợp lý nhất với hoàn cảnh của mình nhé.

1.Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)

Ông chủ, ông nhất định không chịu tăng lương cho chúng tôi ư? Được thôi, chúng tôi có đủ khả năng và sự nhẫn nại để đình công và không đi làm nữa. Đến lúc đó, ai là người chịu thiệt? Có lẽ không phải là chúng tôi.

2.Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)

Hãy thử đánh tiếng là có công ty khác mời bạn về làm với mức lương khả dĩ hơn, đồng thời cho ông chủ biết không những bạn mà nhiều nhân viên khác cũng có ý định rời bỏ công ty sang làm việc cho một công ty khác. Nếu việc này xảy ra thì công ty sẽ ra sao? Không ai hiểu rõ điều này sẽ rõ hơn ông chủ của bạn. Cứ chờ kết quả xem sao.

3.Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)

Khi ông chủ không để ý, bạn có thể bán đi một số giấy phế liệu của công ty hoặc dùng điện thoại của công ty gọi đường dài nhưng lại dùng vào việc riêng. Mặc dù việc làm nhỏ nhặt này của bạn không ăn nhằm gì, chỉ như “muối bỏ biển”, nhưng dần dần nó sẽ “tích gió thành bão”. Khi sếp biết, bạn hãy trình bày “hoàn cảnh” của mình, có thể bạn sẽ được đưa vào danh sách tăng lương.

4.Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)

Tung tin rằng sếp chuẩn bị tăng lương cho toàn thể nhân viên. Khi tất cả mọi người đều biết thông tin đó, ai cũng nghĩ mình sắp đựợc tăng lương. Điều này sẽ tăng áp lực lên ông chủ. Để giảm bớt “độ nóng”, ông chủ sẽ tăng lương.

5.Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)

Nếu như hiện tại bạn cảm thấy đòi tăng lương quá khó thì trước tiên hãy đòi tăng tiền làm thêm. Đợi “thời cơ chín muồi”, hãy đẩy mạnh hơn nữa yêu cầu tăng lương của bạn với ông chủ. Lúc này thành công sẽ đến dễ dàng hơn.

7.Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)

Đầu tiên, bạn phải toàn tâm, toàn ý tranh thủ cơ hội yêu cầu tăng lương. Nếu yêu cầu của bạn thành công, bạn nên “có đi có lại” với những người đã ủng hộ mình, có thể chỉ là một câu cảm ơn hoặc một món quà nhỏ bày tỏ tấm lòng biết ơn của bạn với họ. Như vậy, mọi việc của bạn sẽ “xuôi chèo mát mái”.

8.Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)

Nếu yêu cầu đòi tăng lương của bạn khó có thể thực hiện, hãy làm đơn xin làm thêm một số việc ngoài chức trách. Bạn đảm bảo rằng mình có thể làm thêm việc trong phạm vi năng lực của mình theo yêu cầu của công ty. Bạn chấp nhận đi công tác hoặc làm thêm giờ mà không yêu cầu tăng thêm bấy kỳ khỏan phụ phí nào. Lúc đó, vì tinh thần làm việc hết mình của bạn, ông chủ không thể không tăng lương cho bạn.

9.Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)

Bạn xin nghỉ ốm nhưng không bàn giao những công việc quan trọng của công ty cho đồng nghiệp khác. Nếu bạn là một nhân viên cao cấp thì cách này rất hiệu quả. Ông chủ sẽ cuống lên khi không có bạn. Lúc này, chỉ cần nhẹ nhàng đề xuất tăng lương thì chắc chắn mức lương của bạn sẽ được cải thiện.

10.Mỹ nhân kế (Kế dùng người đẹp)

Mọi người cùng nhau góp tiền lại rồi thuê một nhân viên trẻ đẹp để tiếp cận ông chủ hoặc bà chủ. Nhân viên này có nhiệm vụ hằng ngày nói tốt về thành tích làm việc cũng như năng lực của những nhân viên thuê mình, đồng thời không quên mục đích chính là đề nghị tăng lương cho những nhân viên “gương mẫu” đó. Chiến thuật này phải áp dụng theo tinh thần “mưa dầm thấm lâu”. Do đó, việc tăng lương còn phải chờ vào thời gian.

11. Tẩu kế (Chạy, lùi, thoát thân)

Nếu bạn đã áp dụng mọi chiêu thức trên nhưng không đem lại hiệu quả gì, chứng tỏ ông chủ của bạn quá rắn hoặc bạn thực sự không có năng lực để được tăng lương. Lúc này, chỉ còn một chiêu thức cuối cùng là thôi việc và đi tìm một công việc khác lương cao hơn.

Tam thập lục kế – Binh pháp cầm quân-Tam quốc diễn nghĩa chú giải

1. Kế thứ nhất: Khổ nhục kế.

“Khổ nhục kế” là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch nhằm hoàn thành một mục đích nào đó. Ngay từ khởi đầu, Tào Tháo là người đầu tiên sử dụng kế này để thích sát Đổng Trác. Sau khi Viên Thiệu lệnh cho Đổng Trác đem quân Tây Lương vào kinh giúp vua dẹp loạn Thái Giám. Loạn đã dẹp yên thì Đổng Trác cũng phế vua, lập Hán Hiến Đế (khi đó 9 tuổi) lên ngôi, rồi tự phong mình làm Tướng Phụ, thao túng việc triều chính. Tất cả các văn thần võ tướng đều phẫn uất vì sự tàn ác và tham lam vô độ của Đổng Trác, nhưng không dám manh động vì thế lực của Đổng Trác lúc đó quá lớn.


Tào Tháo và Thất Tinh Đao
Tào Tháo, lúc đó chỉ là một Kiêu kỵ Hiệu Úy (một chức quan nhỏ, đảm trách việc giữ cửa cho Đổng Trác) cũng căm hận Đổng Trác tận xương, nhưng vẫn cúc cung tận tụy phục vụ chiếm lòng tin của Đổng Trác. Tào Tháo tận tụy đến nỗi được Đổng Trác cho vào trướng phủ mà không cần phải tra xét như tất cả người khác.

Biết được Đổng Trác tin mình, Tào Tháo bí mật gặp Tư Đồ Vương Doãn để mượn Thất Tinh Đao gia truyền, thanh đoản đao này được rèn từ một viên thiên thạch nên có thể chém sắt như chém bùn. Chỉ có thanh Thất Tinh Đao này mới đâm thủng được ngọc giáp mà Đổng Trác luôn mặc trong người.
Kế sách thất bại, Tào Tháo buộc phải lưu vong, chiêu binh mãi mã, tạo nên một trường ly loạn kịch tính nhất trong lịch sử Trung Hoa mà ta đã biết.


Tào Tháo – tự Mạnh Đức trên bước đường trốn chạy sự truy đuổi của Đổng Trác

Từ khi manh nha, cho đến khi hành động mất 12 năm, 12 năm để chiếm lòng tin của Đổng Trác, đúng là khổ nhục. Sau này ở trận Xích Bích, Hoàng Cái một tướng tài của Đông Ngô, chịu đòn để hiến kế Khổ Nhục, hứa hẹn sẽ hàng Tào và đem thuyền lương đến hàng. Tuy nhiên khi phó hội Hoàng Cái chỉ đem quân ra đánh Tào, thuyền Hoàng Cái vốn không có lương thực, binh khí như lời hứa mà chỉ có đồ dẫn hỏa. Tướng Tào là Văn Sính đã nhìn rõ cái hành xử của Hoàng Cái không phù hợp với thư xin hàng, nhưng đã muộn.


Lão tướng quân Hoàng Cái với “khổ nhục kế” đánh lừa Tào Tháo làm nên thành công của trận Xích Bích lừng danh. Bốn mươi côn trượng mà Hoàng Cái phải chịu trước trướng lệnh Chu Du, đã làm Tào Tháo trúng kế khổ nhục này, mà bại trận tại Xích Bích.

2. Kế thứ hai: Mỹ nhân kế
“Mỹ nhân kế” là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được. Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có quyền thế. Đời bao giờ cũng thế “anh hùng nan quá mỹ nhân quan”

Trong Tam Quốc, mỹ nhân kế liên quan đến một địa danh gọi là Phụng Nghi Đình, chính ở nơi này, Lữ Bố đã dùng Phương Thiên Họa Kích đâm vào kẻ hở ngọc giáp của Đổng Trác. Đổng Trác mạng vong cũng vì một sóng mắt giai nhân, được xem là một trong Tứ Đại Mỹ Nhân của Trung Quốc – Điêu Thuyền. Điêu Thuyền là nghĩa nữ yêu quý của quan Tư Đồ Vương Doãn, sắc đẹp khuynh quốc khuynh thành, am hiểu cầm kỳ thi họa.


Điêu Thuyền và quan Tư Đồ Vương Doãn

Mỹ nhân Điêu Thuyền

Sau khi Tào Tháo mưu sát Đổng Trác không thành, gia đình Vương Tư Đồ đang đứng trước họa sát thân, nguy hiểm gần kề, Tư Đồ đã sắp xếp cho Điêu Thuyền tình cờ gặp Lữ Bố vì thế đã thoát khỏi cảnh nhà bị tra xét.


Mã trung Xích Thố, nhân trung Lữ Bố.

Biết Lữ Bố “cắn câu”, Tư Đồ Vương Doãn đã sử dụng Điêu Thuyền cho một “mỹ nhân kế” lưu doanh thiên cổ. Vương Tư Đồ biết rõ tính háo sắc của Đổng Trác, nên cho Điêu Thuyền hầu trà. Không ngoài dự đoán, Đổng Trác cũng “dính câu”, nên triệu Điêu Thuyền vào cung làm phi cho Hán Hiến Đế.


Tướng Quốc Đổng Trác

Sau khi vào cung, Đổng Trác liền bí mật đem nàng về My Ổ (nơi ăn chơi trác táng của Đổng Trác), Điêu Thuyền mật báo cho Tư Đồ Vương Doãn, Tư Đồ rỉ tai cho Lữ Bố rằng “nghĩa nữ của ta không làm phi cho vua, mà làm thiếp cho Đổng Tướng Quốc tại My Ổ”.


Lữ Bố “hí” Điêu Thuyền

Lữ Bố lòng đau như cắt, nhưng không dám làm gì, vì Đổng Trác là nghĩa phụ. Điêu Thuyền đã than khóc, nói về sự ngược đãi và nỗi nhớ thương Lữ Bố khi gặp hắn ta. Xót người yêu, cũng như bị Vương Doãn tác động, Lữ Bố đã đâm chết Đổng Trác ở Phụng Nghi Đình. Điển cố này được lưu truyền cho đến ngày nay, là tiêu biểu cho thí dụ về Mỹ Nhân Kế.

3. Kế thứ ba: Khích tướng kế
“Khích tướng kế” là kế chọc giận đối phương, làm đối phương nổi giận. Nổi giận sẽ mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được con người mình. Trong đời có nhiều sự việc được thành tựu bằng một cơn giận và cũng có nhiều việc thất bại bởi một cơn giận. Nói về kế khích tướng thì có lẽ không ai qua được Gia Cát Khổng Minh, mà nạn nhân không ai xa lạ là Đại Đô Đốc lừng danh văn võ song toàn của Đông Ngô – CHU DU.

Ngọa Long tiên sinh, Gia Cát Khổng Minh
Đại Đô Đốc Đông Ngô Chu Du, tự Công Cẩn
Nhớ khi Khổng Minh qua Đông Ngô thuyết sứ liên minh Tôn – Lưu kháng Tào, Chu Du đã từ chối vì thấy không có lợi lộc gì cho Đông Ngô, chỉ có lợi cho Lưu Bị. Lúc đó Khổng Minh đã “khích” Chu Du như sau: Tào Tháo sau khi chiếm được Giang Đông, sẽ đem Giang Đông Nhị Tuyệt về Hứa Xương làm của riêng. Chu Du thắc mắc, Giang Đông Nhị Tuyệt là gì, thì Khổng Minh đáp đó là Đại Kiều và Tiểu Kiều – mỹ nhân Giang Đông. Khổng Minh vờ như không biết Tiểu Kiều là vợ của Chu Du, Đại Kiều là vợ Tôn Sách.

Giang Đông Nhị Tuyệt – Đại Kiều và Tiểu Kiều

Khi cứ tin rằng Tào Tháo muốn chiếm vợ mình, Chu Du nổi giận, và quyết định liên minh Tôn – Lưu kháng Tào. Cơn giận của Chu Du đã trúng vào kế khích tướng của Khổng Minh vậy. Cũng là khích tướng kế, cũng là Chu Du và Khổng Minh, và nạn nhân cũng giống như trên Ai mà nhận Chu Du làm idol, thì coi cái này chắc tức chết.
Sau khi Tôn-Lưu liên minh, Khổng Minh phải đại diện Lưu Bị ở lại Giang Đông, chịu sự điều động dưới trướng của Chu Du. Biết Khổng Minh tài trí hơn người, thần cơ diệu đoán, có thể là tai họa của Đông Ngô sau này, Chu Du lập kế giết Khổng Minh.
Chu Du lệnh cho Khổng Minh cầm quân đi đánh quân lương của Tào Tháo, Khổng Minh nhận lệnh mà không hề suy nghĩ điều gì. Lỗ Túc tham quân của Chu Du, mới hỏi Khổng Minh có biết là Chu Du đưa mình đi chết không? Khổng Minh cười nhạt và đáp: Đại Đô Đốc của Đông Ngô không đủ tài trí để đi đánh trận này đâu, tại hạ sẽ cho Chu Du mở rộng tầm mắt.


Lỗ Túc và Khổng Minh
Lỗ Túc về thuật lại lời của Khổng Minh cho Chu Du, nổi giận vì bị Khổng Minh xem thường, Chu Du phát lệnh xuất binh đánh quân lương Tào Tháo, mà không cần Khổng Minh ra tay. Lại một lần nữa Chu Du trúng kế khích tướng, và Khổng Minh thoát nạn sát thân.

4. Kế thứ tư: Liên hoàn kế
“Liên hoàn kế” là nối liền với nhau thành một dây xích, còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt. Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng “Liên hoàn kế”. Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.

Nói về Liên Hoàn Kế, ta phải nói đến Long Trung Tam Kế mà Khổng Minh hiến cho Lưu Bị nhằm lấy thiên hạ. Nếu Lưu Bị không dở dở ương ương, thì có lẽ kế sách này đã thành, thử hỏi với tài trí của ba anh em kết nghĩa chợ Vườn Chuối, quên! Vườn Đào mới đúng, thì bao nhiêu lâu mới trung hưng được Hán Thất.


Khổng Minh hiến “Long Trung Tam Kế” với bước thứ hai là lấy Tây Xuyên. Bản đồ Tây Xyên do Khổng Minh vẻ cho Lưu Bị
 
Lưu Bị – tự Huyền Đức

Quan Vũ – tự Vân Trường
Trương Phi – tự Dực Đức

Khổng Minh đã hiến kế liên hoàn như sau:

1. Lấy Kinh Châu.
2. Lấy Tây Thục.
3. Lấy thiên hạ.

Đào viên kết nghĩa

Khổng Minh đã tính toán được thời gian là 10 năm cho liên hoàn kế này, nếu không có 2 ông em trời ơi đất hỡi của Lưu Bị thì có lẽ kế liên hoàn này là hoàn mỹ nhất

5. Kế thứ năm: Phản gián kế

“Phản gián kế” là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch.


Bản đồ Trung Quốc thời Tam Quốc phân tranh
Trong trận Xích Bích, Chu Du đã dùng Phản gián kế để giết chết Đô đốc và Phó đô đốc Thủy sư của quân Tào là Sái Mạo và Trương Doãn. Hai người này tinh thông thủy chiến, là Đề đốc Thủy sư trước đây của Kinh Châu – Lưu Biểu. Sau khi Kinh Châu lọt vào tay quân Tào, Sái Mạo và Trương Doãn hàng Tào và được phong làm Đô đốc và Phó đô đốc phụ trách đóng chiến thuyền và huấn luyện thủy quân ở Động Đình hồ.

Nơi này gọi là cửa Xích Bích, ngày nay là di tích ở Trung Quốc
Tào Tháo có ưu tư của Tào Tháo, khi Tôn – Lưu liên mình, quân Lưu Bị đánh bộ thiện chiến, còn quân Tôn Quyền – Chu Du thì tinh thông thủy chiến. Chu Du có ưu tư của Chu Du, khi Đô đốc Thủy sư của quân Tào không hề kém cạnh Chu Du.

Biết được ưu tư của Tào Tháo, Tưởng Cán, một tham quân dưới trướng, hiến kế chiêu hàng Chu Du, vì Tưởng Cán là bạn đồng môn trước đây của Chu Du,


Chu Du để Tiểu Kiều hầu rượu cho mình và Tưởng Cán. Tiểu Kiều cũng là một mắc xích trong kế phản gián này
Tưởng Cán một mình vượt sông Trường Giang qua đất Đông Ngô gặp Chu Du. Chu Du biết rõ mục đích của Tưởng Cán nên giả vờ vui mừng vì gặp lại bạn cũ, mời Tưởng Cán vào trướng uống rượu hàn huyên rồi cho ngủ chung giường với mình trong trướng lệnh
Thực ra Chu Du đã giả say ngủ mê mệt không biết gì để Tưởng Cán mặc sức lục lạo các công lệnh, mật thư được bày hớ hênh la liệt trên bàn. Chu Du còn giả mớ ngủ nói “vài ngày nữa ta sẽ lấy đầu Tào tặc”.
Tưởng Cán tìm được một bức mật thư mang tên Sái Mạo gởi cho Chu Du với nội dung sẵn sàng phản Tào, dẫn quân Kinh Châu (lúc đó thuộc Tào rồi) nội công ngoại kích một trận chém đầu Tào Tháo. Tưởng Cán giấu bức mật thư đó vào trong tay áo, rồi sáng sớm khi Chu Du còn ngủ đã không từ mà biệt quay về phương Bắc.

Sái Mạo – Đô đốc Thủy sư của Tào Tháo

Tưởng Cán trình bức mật thư đó cho Tào Tháo, nổi giận Tào Tháo lập tức chém đầu Sái Mạo và Trương Doãn, rồi giao chức Đô Đốc Thủy Sư cho Vu Cấm, còn Mao Giới lĩnh chức Phó Đô Đốc. Hai tướng này không hề có kinh nghiệm thủy chiến nên kết quả trận Xích Bích ra sao, chắc ai cũng rõ.
Chỉ với một kế phản gián, Chu Du đã loại được ưu tư của mình, đưa Tào Tháo vào thế không còn chọn lựa. Nói cho cùng, Tào Tháo vì nghi ngờ Sái Mạo từ trước nên đã không ngần ngại chém. Thương cho Sái Mạo, nếu Sái Mạo không dâng Kinh Châu cho Tào Tháo mà quyết chiến một trận rồi sau đó mới hàng thì có lẽ sẽ không bị chém chết như thế. Bán chúa cầu vinh không bao giờ có kết cuộc tốt đẹp cả.

6. Kế thứ sáu: Không thành kế.
“Không thành kế” là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ. Kế này có hai loại:

– Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát.
– Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt “Không thành kế” thực ra là một cách tạo nghi ngờ cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định. Nói về không thành kế, phải nhắc đến chuyện Khổng Minh lừa Tư Mã Ý ở Tây Thành. Sau khi Mã Tốc làm mất Nhai Đình, đường quân lương của Tây Thục bị đứt, Khổng Minh quyết định lui binh và đem hết quân lương của mình ở Tây Thành làm hành trang trên đường về Thục quốc.

Mã Tốc – chủ tướng (phải), không nghe lời khuyên của Vương Bình – phó tướng (trái), để mất Nhai Đình, làm mất đường vận lương của Tây Thục. Tư Mã Ý quyết bắt cho được Khổng Minh hầu kết thúc cuộc chiến. Biết Khổng Minh sẽ vận lương về Thục, Tư Mã Ý đem 10 vạn quân thiết kỵ tiến đánh Tây Thành. Tây Thành là một thành nhỏ tựa lưng vào núi, dùng để chứa quân lương của Tây Thục, nên binh giữ thành đa số là già yếu, tất cả quân sĩ đều theo lệnh rút về Tây Thục chỉ để lại 1 vạn để tải lương, không thể chống lại 10 vạn quân của Tư Mã Ý.

Tư Mã Ý – Đại Đô Đốc Bắc Ngụy.
Biết rõ thực lực của mình, Khổng Minh đã ra lệnh mở toang 4 cửa thành, sai vài quân sĩ giả dạng thường dân, đứng quét rác ngoài cổng thành như không biết chuyện gì xảy ra. Đồng thời Khổng Minh cũng ra lệnh hạ xuống tất cả cờ xí và bảo binh lính rút đi hết. Một mình lên mặt thành ngồi đánh đàn chờ Tư Mã Ý.

Khổng Minh ngồi đánh đàn trên mặt thành chờ quân Tư Mã Ý
Tư Mã Ý vốn tính đa nghi, thấy 4 cửa thành mở toang, không một bóng người, ngoại trừ vài “người dân” đang quét rác trước cổng, lại thấy thế núi chung quanh thành âm u đáng ngại nên tưởng rằng Khổng Minh đã sắp xếp phục binh. Tư Mã Ý đã quyết định lui binh, Khổng Minh thoát nạn sát thân, quân lương không mất vì kế “không thành” này
Khi Tư Mã Ý biết là nghi binh chứ không phải phục binh thì đã muộn. Khổng Minh đã rút lui an toàn về Tây Thục.

7. Kế thứ bảy: Hư trương thanh thế
“Hư trương thanh thế” là thổi phồng thanh thế để cho người ta chóa mắt, nể sợ.

Khi đem quân đi đánh Đông Ngô, Tào Tháo tiến xuống Giang Định, rầm rộ cả trăm vạn hùng quân. Tháo định dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền phải hàng phục. Khi Khổng Minh vào gặp Tôn Quyền, Lỗ Túc có dặn dò Khổng Minh rằng: đừng nói thật thực lực quân Tào Tháo cho Tôn Quyền biết, Lỗ Túc tuy ở phe chủ chiến nhưng vẫn trúng kế hư trương thanh thế này của Tào Tháo. Nhưng Khổng Minh trông thấy âm mưu này nên chỉ ba vạn quân với một số mưu kế và trận gió đông đã đánh bại quân Tào.


Tôn Quyền – tự Trọng Mưu, Chúa Công Đông Ngô tuổi trẻ tài cao.
Chu Du nhận kiếm lệnh từ Tôn Quyền, thống lĩnh ba quân Đông Ngô kháng Tào

Khi sử dụng kế này, trước hết phải xem mục đích và giá trị của nó thế nào đã, rồi mới định cỡ to nhỏ. Tiếc thay, kế này của Tào Tháo không thể qua mắt Chu Du, chứ đừng nói đến Khổng Minh.

8. Kế thứ tám: Lạc tỉnh hạ thạch
“Lạc tỉnh hạ thạch” là ném đá vào đầu kẻ đã rơi xuống giếng. Rơi xuống giếng lại còn ném đá vào đầu nạn nhân. Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng – Mạnh thì phải là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt. Căn bản triết lý của “Lạc tỉnh hạ thạch” là chi phối được thì mới chiếm đoạt
được, và nhân từ với kẻ thù tức là tàn nhẫn với chính ta. Lưu Bị lúc nào hé miệng cũng nói những điều nhân từ, lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng ông lại là người cũng giỏi thủ đoạn “Lạc tỉnh hạ thạch” nhất. Chẳng vậy mà khi Lã Bố vốn là người làm nhiều ân huệ đối với Lưu Bị, nào việc bắn kích ở Viên Môn tránh cho Lưu Bị một trường huyết chiến với Viên Thiệu, nào việc cho Lưu Bị nương tựa ở căn cứ mình ở Từ Châu…


Lữ Bố bắn kích ở Viên Môn
Đến lúc Lã Bố bị bắt sau khi thất trận Từ Châu vì không nghe lời khuyên bảo của Trần Cung, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo: “Ông không nhớ chuyện Đinh Nguyên và Đổng Trác hay sao?” (Đinh Nguyên và Đổng Trác đều nhận Lã Bố làm con nuôi, nhưng đều bị chết vì tay Lã Bố. Lưu Bị đã không kể đến ơn nghĩa, lại còn đưa đòn độc “Lạc tỉnh hạ thạch” hạ Lã Bố. Như vậy, Lã Bố làm sao khỏi chết!

Lữ Bố bị quân Tào Tháo bắt trong trận chiến ở Từ Châu

Lưu Bị với quỷ kế “Lạc tỉnh hạ thạch” không cho Lữ Bố một con đường sống.

Điêu Thuyền khâm liệm cho Lư Bố Dùng kế này không phải Lưu Bị giả nhân giả nghĩa mà là một kế sách tiêu hao bớt binh lực của Tào Tháo những ngày sau. Vô độc bất trượng phu.
9. Kế thứ chín: Tá đao sát nhânMượn dao giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù. Nói đến kế sách này, phải nhắc đến cuộc đấu trí gay cấn giữa Khổng Minh và Chu Du. Biết Khổng Minh tài trí hơn người có thể là tai họa của Đông Ngô sau này, Chu Du lập kế mượn tay Tào Tháo giết chết Khổng Minh, tiếc thay kế này của Chu Du bị Khổng Minh “đọc” được nên bất thành. Lợi dụng Khổng Minh phải phục vụ dưới trướng mình trong liên minh Tôn – Lưu, cũng như biết rõ cách hành binh của Tào Tháo là đánh vào quân lương của địch. Chu Du đã nhắc Khổng Minh về chiến thắng của Tào Tháo ở Quan Độ trong trận chiến với Viên Thiệu, khi đó, Tào Tháo đã đánh vào kho lương của Viên Thiệu ở Quan Độ, làm cho quân tình của Viên Thiệu rối loạn, không đánh mà tan.


Viên Thiệu trong trận chiến ở Quan Độ
Với cách hành binh như thế, nên Tào Tháo rất chú trọng việc canh chừng quân lương, thường là cho quân tinh nhuệ canh giữ nghiêm ngặt, nên việc đánh vào quân lương Tào Tháo là việc cực kỳ khó khăn và nguy hiểm.
Trong trận Xích Bích, trại lương Tào Tháo được đặt trên đỉnh Thiên Sơn và được 3 vạn quân bản bộ canh giữ. Chu Du đã ra lệnh cho Khổng Minh dẫn 2000 thiết kỵ đi đánh trại lương, thì chẳng khác nào mượn tay Tào Tháo để giết Không Minh vậy. Cũng may, Khổng Minh “đọc” được kế này và trả lại bằng một kế khích tướng mà thoát nạn.
10. Kế thứ mười: Sấn hỏa đả kiếp
Tranh thủ nhà cháy mà đánh cướp, lợi dụng lửa để hành động. Có hai loại “Sấn hỏa đả kiếp”: Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp. Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm. Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta. Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta. Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có. Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ.
Lưu Bị, trước trận Xích Bích, chỉ là một lãnh chúa nhỏ nắm trong tay một thành Tương Dương người thưa quân ít. Quân có vài ngàn, tướng có Quan Trương Triệu 3 người. Sau “tam cố thảo lư” mời được Khổng Minh mới có liên hoàn kế “Long Trung Tam kế” mà bước đầu tiên là lấy Kinh Châu.


Lều cỏ Khổng Minh ở Ngọa Long Cương
Lợi dụng thất bại của Tào Tháo ở Xích Bích, Tào Tháo phải lui quân về Hứa Xương vì Mã Đằng và Hàn Toại “đâm sau lưng”, chỉ để lại Tào Nhân trấn giữ Nam Quận (cửa ngõ đi vào Kinh Tương – thủ phủ của Kinh Châu). Đông Ngô của Tôn Quyền và Lưu Bị đều muốn chiếm Kinh Châu, nhưng không ai dám động thủ trước. Khổng Minh đã sử dụng kế Vô Trung Sinh Hữu (sẽ diễn giải chi tiết vào các bài sau) để lừa Chu Du đi đánh Nam Quận.

Tào Nhân, mãnh tướng của Tào Tháo, trấn giữ thành Nam Quận
Trận công thành Nam Quận, Chu Du trúng kế mai phục của Tào Nhân, trúng một tên độc, và cũng đã trả lại Tào Nhân một trận mai phục bằng cách giả chết khiến Tào Nhân dẫn đại quân từ Nam Quận công thẳng vào trại doanh Đông Ngô. Khi hai bên còn đang giằng co thì Khổng Minh đã sai Triệu Tử Long dẫn quân vào chiếm Nam Quận, sau đó dùng ấn tín của Tào Nhân lừa các thành trì khác để rồi Quan Công và Trương Phi mỗi người chiếm giữ một thành.
Kế Sấn Hỏa Đả Kiếp làm cho Chu Du hộc máu, tội nghiệp idol của người ta quá.
11. Kế thứ mười một: Giương Đông Kích Tây
Giương Đông kích Tây, vờ đánh một hướng nhưng thực chất là đánh hướng ngược lại.
Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị. Điều kỵ khi dùng kế ” Giương đông kích tây” là để lộ cơ. Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động. Sau khi thua trận Xích Bích, Tào Tháo cùng tàn quân bị Khổng Minh sai Trương Phi và Triệu Tử Long truy sát nhưng không giết, chỉ thu lấy binh khí.

Triệu Vân, tự Tử Long
Khổng Minh xem thiên văn, biết được số của Tào Tháo chưa tận, nên đã sử dụng kế Giương Đông Kích Tây ở Hoa Dung Đạo để Quan Công và Tào Tháo làm nên một điển cố lừng danh thời Tam Quốc là “Hoa Dung Đạo, Quan Công tha Tào”
Hoa Dung Đạo có hai con đường để về Nam Quận, một con đường lớn xa hơn 50 dặm và một con đường nhỏ chỉ có 20 dặm. Mọi người khuyên Tào Tháo nên đi đường lớn vì đường nhỏ chắc chắn có phục binh, nhưng Tào Tháo không nghe. Vì cho rằng Gia Cát Lượng đang sử dụng kế Giương Đông Kích Tây đốt lửa trong đường nhỏ, thực ra đường lớn mới có phục binh. Đi tiểu lộ Tào Tháo tái ngộ Quan Công và đúng như dự đoán của Khổng Minh, Quan Công đã tha Tào.

12. Kế thứ mười hai: Ám độ Trần Thương.

Ải Trần Thương là yết hầu dẫn đến Trung Nguyên.

Kế “Ám độ Trần Thương” là bí mật đưa quân qua con đường mà không ai nghĩ rằng ta sẽ đi qua.
Kế này áp dụng giữa lúc hai bên đang đấu tranh, chiến đấu với nhau. Mỗi bên đều ra sức giấu mục tiêu thật của mình rồi đưa ra mục tiêu giả mà lừa đối phương. Muốn dụng kế này phải là người có tầm nhìn xa hiểu rộng và một khối óc tuyệt vời. Sau khi bị Lưu Bị lừa lấy mất Kinh Châu, Chu Du đã sai Lỗ Túc đi thuyết khách đòi lại sau khi thế tử Lưu Kỳ – kế vị Lưu Biểu, cai quản Kinh Châu – qua đời. Khổng Minh xin bên Đông Ngô ở lại Kinh Châu cho đến khi lấy được Tây Thục. Biết Khổng Minh và Lưu Bị chẳng bao giờ “nhả” Kinh Châu ra, Chu Du đã sử dụng kế Ám Độ Trần Thương để bí mật tiến đánh Kinh Châu bắt ngờ.

Chu Du thông báo cho Lưu Bị rằng quân Đông Ngô sẽ lấy Tây Thục giúp cho Lưu Bị và mượn đường đi ngang Kinh Tương để tiến vào đất Thục. Khổng Minh sau khi đọc văn thư thông báo mượn đường Kinh Tương đã nhận ra ngay mưu kế này của Chu Du. Một trận phục binh do Trương Phi và Triệu Tử Long thống lĩnh đã đánh tan tác quân Đông Ngô ngay tại cửa ngõ Kinh Tương. Kế Ám Độ Trần Thương bất thành. Idol Chu Du lại “hộc máu” trong trướng lệnh.


Trước khi lui quân về Giang Đông theo hướng Đông Nam mà Khổng Minh đã mở cho, Chu Du đã uất ức quay lại nhìn Kinh Châu lần cuối.
13. Kế thứ mười ba: Man thiên quá hảiKế Man thiên quá hải là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù.
Kế Man thiên đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích cực.
– Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt.
– Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí.Khổng Minh cũng lợi dụng sương mù, không phải để quăng lựu đạn, mà làm nên một điển cố “thuyền cỏ mượn tên”. Sau khi thất bại trong việc mượn tay Tào Tháo giết Khổng Minh, Chu Du đã đem quân lệnh buộc Khổng Minh phải nộp 100 ngàn mũi tên trong 10 ngày. Khổng Minh không những không do dự mà còn nói rằng chỉ cần 3 ngày là xong. Quân lệnh trạng được Khổng Minh viết trước mặt Chu Du, nếu việc không hoàn thành đúng thời hạn, trảm theo quân pháp.
Đến ngày thứ ba, Khổng Minh xin Lỗ Túc cho mình 10 chiếc thuyền nhỏ, trên thuyền chất đầy cỏ khô, để mình đi lấy tên. Khổng Minh cùng Lỗ Túc đi đến trước hạm thuyền của Tào Tháo ở Xích Bích đánh trống khiêu chiến, sương mù dày đặc, Tào Tháo vốn đa nghi, sợ Chu Du phục binh nên lệnh cho quân sĩ không xuất chiến mà chỉ dùng loạn tiển bắn vào các chiến thuyền Chu Du. Không những dưới thuyền bắn qua, Tào Tháo còn ra lệnh trên bờ bắn xuống nữa. Không đầy một canh giờ, 10 chiếc thuyền cỏ của Khổng Minh đã chi chít tên cắm vào, Khổng Minh ra lệnh lui thuyền và thu tất cả 130 ngàn (dư 30 ngàn) mũi tên đó nộp cho Chu Du.


Thuyền cỏ mượn tên
Với kế “Man thiên quá hải” Khổng Minh đã lừa lấy được tên của Tào Tháo và làm cho Chu Du bái phục thốt lên “Người này tài trí hơn ta bội phần”.
14. Kế thứ mười bốn: Cầm tặc cầm vương

Cầm tặc cầm vương là dẹp giặc phải bắt chúa giặc. Kinh Châu có 9 quận. Sau khi Khổng Minh dùng kế “Sấn hỏa đả kiếp” lấy được 5 quận của Kinh Châu, Lưu Bị lo ngại vì 5 quận này đều “bốn bề thọ địch”, Mã Lương – Kinh Châu tài tử – đã hiến kế cho Lưu Bị là lấy tiếp 4 quận còn lại của Kinh Châu là Linh Lăng, Quế Dương, Hàn Đương và Trường Sa. Bốn quận này thái bình, các chiến cuộc chưa bao giờ xảy đến ở đấy nên rất thích hợp cho việc nuôi quân, ủ lương của Lưu Bị. Thái thú Linh Lăng là Lưu Độ, tuổi già sức yếu, nên giao tất cả việc quân cơ cho Lưu Hiền, là con trai độc nhất mà Lưu Độ hết mực yêu thương hơn cả tính mạng mình. Tướng giữ thành là Hình Đạo vinh, một kẻ văn dốt võ nát nhưng cái miệng thì … Trận đầu tiên, Hình Đạo Vinh bị Trương Phi bắt đem về, Khổng Minh tha chết và giao nhiệm vụ đến đêm mở cửa thành cho Lưu Bị tiến quân vào.


Trương Phi đánh thành Linh Lăng

Hình Đạo Vinh về tâu với Lưu Độ rằng minh đã dùng kế trá hàng để dụ Lưu Bị và Khổng Minh vào thành cho Lưu Độ bắt để lập công với triều đình. Biết Hình Đạo Vinh sẽ lập kế phục binh, Khổng Minh đã “tương kế tựu kế” cho người giả làm Lưu Bị đêm đó công hạ thành Linh Lăng. Lưu Bị “giả” thua bỏ chạy khỏi thành, Hình Đạo Vinh và Lưu Hiền đuổi theo rồi lọt vào ổ phục kích của Trương Phi. Kết quả là Hình Đạo Vinh bị Trương Phi chém chết còn Lưu Hiền thì bị bắt.

Lưu Bị đem Lưu Hiền trả lại cho Lưu Độ, cảm kích ơn tha mạng Lưu Độ đã dâng thành Linh Lăng cho Lưu Bị. Kế “Cầm tặc cầm vương” của Khổng Minh đã thành công mỹ mãn.

15. Kế thứ mười lăm: Dĩ dật đãi lao
Kế Dĩ dật đãi lao là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức. Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch. Nói về kế sách này phải nói đến cuộc chiến ở Kỳ Sơn của Tư Mã Ý và Khổng Minh. Trong cuộc chiến này, quân Tây Thục của Khổng Minh phải vận lương hết sức cực khổ từ Tây Xuyên đến Trung Nguyên, đường xa hàng ngàn dặm lại phải đi qua núi non trùng điệp gặp trời mưa bão, đường xá hư hỏng nên việc chuyển lương hết sức khó khăn. Khổng Minh muốn tốc chiến tốc thắng vì vấn đề quân lương đang là mối lo rất lớn. Trong khi đó Tư Mã Ý biết được điều này nên đã kiên thủ không đánh dù Khổng Minh đã dùng nhiều kế để khích nộ các tướng sĩ Bắc Ngụy.


Quân Tây Thục vận lương bằng “Mã Ngưu xa” – Khổng Minh chế ra xe này để vận lương qua sạn đạo
Thậm chí Khổng Minh còn gởi cẩm bào phụ nữ cho Tư Mã Ý với ngụ ý nói rằng Tư Mã Ý nhút nhát như đàn bà. Các tướng sĩ Bắc Ngụy đều căm tức xin Tư Mã Ý được ra trận sống chết với quân Tây Thục rửa mối nhục bị coi thường này. Trước trướng lệnh, Tư Mã Ý đã nói với các sĩ tốt của mình như sau: “Các chư tướng hãy nghe ta! Hãy kiên thủ khộng đánh, chiến thắng ắt sẽ thuộc về ta. Chậm lắm là một tuần trăng nữa!”

Đại Đô Đốc Bắc Ngụy Tư Mã Ý – tự Trọng Đạt
Đúng như dự đoán, quân lương của Tây Thục đến chậm. Khổng Minh phải dùng kế cướp lương của Tư Mã Ý làm nên một trận lửa ở Thương Dương Cốc, rồi hộc máu vì không “đốt” được quân của Tư Mã Ý hầu chấm dứt chiến dịch Bắc Phạt.

Tư Mã Ý định tự sát ở Thương Dương Cốc, nhưng bổng nhiên trời đổ mưa. Trời cứu Tư Mã Ý, đến nổi Gia Cát Lượng phải hộc máu thốt lên “Trời giúp Ngụy không giúp Thục”
Tư Mã Ý đã lần đầu tiên đưa Khổng Minh vào thế không còn chọn lựa. Cái hay của kế “Dĩ dật đãi lao” trong trường hợp này là chỗ đó.

16. Kế thứ mười sáu: Tẩu vi kế
Tẩu kế nghĩa là chạy, lùi, thoát thân.
Lại có câu: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách. (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!) Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn. Tẩu kế không phải là chạy dàị Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lạị Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức khỏe, lực lượng. Đáng lẽ kế này làm phần kết của series, nhưng đã hứa với một người nên phải type trước. Cái chạy hay nhất trong Tam Quốc Chí là cái chạy của Khổng Minh và Lưu Bị khỏi thành Tân Dã về Giang Hạ. Khi Tào Tháo đem đại quân công phạt Kinh Châu, Lưu Biểu lúc đó đã chết, Lưu Tông con trai thứ được Sái Mạo đưa lên làm Thích Sử Kinh Châu đã không chiến mà hàng, dâng Kinh Tương cho Tào Tháo.


Lưu Biểu, tự Cảnh Thăng – Thích sử Kinh Châu
Lúc đó Lưu Bị đang đóng ở thành Tân Dã, là một thành nhỏ cách Kinh Tương không xa, biết Tào Tháo sẽ đem đại quân đánh Tân Dã đến nơi, Khổng Minh bày Tẩu kế cho Lưu Bị – là bỏ thành Tân Dã mà rút về Giang Hạ, nơi có năm vạn quân của Lưu Kỳ – con trai trưởng của Lưu Biểu – đang trấn giữ.

Triệu Tử Long đoạn hậu, bảo vệ gia quyến Lưu Bị trong cuộc rút chạy khỏi Tân Dã
Trên bước đường rút chạy, Khổng Minh đã bày kế làm chậm bước chân quân Tào bằng trận hỏa ở Tân Dã, bằng trận thủy ở sông Yên, bằng phục binh ở Gò Bác Vọng. Nhưng cũng suýt chết vì Lưu Bị nhất quyết đem dân chúng ở Tân Dã đi theo. Kế cùng, Khổng Minh sai Quan Công dùng ngựa Xích Thố đến Giang Hạ nhờ Lưu Kỳ đem thuyền tới bến Giang Tân đón Lưu Bị

Xem Kinh Châu địa đồ, để thấy rõ hơn cuộc rút chạy khỏi Tân Dã
Lưu Kỳ đã đúng hẹn ở bến Giang Tân cứu cho Lưu Bị khỏi họa sát thân, lại cho Lưu Bị dùng Giang Hạ làm căn cứ kháng Tào và vĩnh kết liên minh với Đông Ngô. Đây là kế tẩu để thực hiện một kế sách lâu dài của Khổng Minh. Tẩu kế này đã giúp cho Lưu Bị lấy Kinh Châu sau này.

17. Kế thứ mười bảy: Tá thi hoàn hồn
“Tá thi hoàn hồn” nghĩa là mượn xác để hồn về. Ý kế này chỉ rằng: Khi yếu thế, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình. Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ. Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà. Trương Lỗ ở Hán Trung tấn công vào Ích Châu (Tây Xuyên – Thục quốc) của Lưu Chương. Biết thế địch mạnh và biết sức không địch lại quân Hán Trung của Trương Lỗ. Lưu Chương đã theo lời hiến kế của Trương Tùng và Pháp Chính mời quân Kinh Châu của Lưu Bị vào Xuyên Thục, để chống Trương Lỗ. Lưu Bị đem theo 2 tướng là Hoàng Trung và Ngụy Diên cùng quân sư Bàng Thống đóng quân 5 vạn của mình ở ải Gia Minh trên đất Xuyên Thục. Tất cả quân lương của Lưu Bị đều được Xuyên Thục chu cấp đầy đủ.


Ngụy Diên, tự Vân Trường, tướng giũ thành Trường Sa – Kinh Châu
Lưu Bị đã đánh tan quân Trương Lỗ, đem lại thái bình cho Xuyên Thục, nhờ vào kế “Tá thi hoàn hồn” này của Trương Tùng. Nhưng hỡi ôi, Trương Tùng không thể nào đọc được kế “Thuận thủ khiên dương” của Khổng Minh nhằm chiếm Tây Thục làm căn cứ để lấy thiên hạ trong Tam Trung Long kế. Sau này, Lưu Chương lại mời ngược Trương Lỗ vào Xuyên Thục để đánh Lưu Bị, thì lại dính vào kế “Phao chuyên dẫn ngọc” của Khổng Minh nên mất nước Thục vào tay Lưu Bị

Kế này nếu không có cái đầu siêu việt thì chắc chắn sẽ mang đến tai họa.

18. Kế thứ mười tám: Thuận thủ khiên dương

Thuận tay bắt dê, phải tranh thủ nắm lấy cơ hội nằm trong tầm tay. Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu. Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ. Biết Lưu Chương – Thích sử Ích Châu (Tây Xuyên – Thục quốc) – là người nhu nhược, trước hay sau Ích Châu cũng mất vào tay Tào Tháo hay Trương Lỗ. Khổng Minh đã khuyên Lưu Bị tận dụng mối quan hệ họ hàng xa làm quen với Lưu Chương, để chiếm Ích Châu sau khi đã chiếm được Kinh Châu.


Khổng Minh hiến kế “Thuận thủ khiên dương”
Lưu Bị vốn nhân nghĩa, khi không đủ “lý” để tấn công Xuyên Thục, thì bất ngờ nhận được lời kêu cứu của Lưu Chương vào Xuyên chống Trương Lỗ. Và cũng vì “nhân nghĩa” nên Lưu Bị đã dẫn quân vào Xuyên để “giúp đở họ hàng”. Trời đã giúp Lưu Bị để Khổng Minh và Bàng Thống sử dụng các kế khác giúp Lưu Bị đoạt Xuyên. Nói về nắm bắt thời cơ, ít ai qua được Khổng Minh.
19. Kế thứ mười chín: Di thi giá họa
Kế “Di thể giá họa” là đem xác chết hay đồ vật gì bỏ vào nhà người khác để giá họa. Kế này thường được dùng bởi khối óc quỷ quyệt thông minh, tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hại. Khi Lưu Bị đánh tan quân Trương Lỗ ở ải Gia Minh, vì muốn Lưu Bị phải quay về Kinh Châu sợ để lâu sinh họa, nên Lưu Chương đã cấp lương cho Lưu Bị thiếu thốn và chậm chạp, Bàng Thống đã khuyên Lưu Bị nhân dịp này đánh chiếm Tây Xuyên, nhưng thấy rằng Lưu Chương là họ hàng Hán Thất, lại vô cớ cướp nhà người nên Lưu Bị hết sức băn khoăn. Bàng Thống đã sử dụng kế “Di thi giá họa” để tìm cho Lưu Bị một cái cớ để đánh chiếm Tây Xuyên.

Phụng Sồ Bàng Thống, tự Sĩ Nguyên
Bàng Thống đã thảo một bức mật thư cho Trương Tùng – quân sư của Lưu Chương – với nội dung rằng nhờ Trương Tùng mở cửa thành vào nữa đêm để Lưu Bị dẫn quân vào đánh úp Lưu Chương. Bàng Thống đã bảo người đưa thư đưa “nhầm” thư đó cho bào huynh của Trương Tùng là Trương Hào. Đang đêm, Trương Hào vào cung bẩm báo sự việc cho Lưu Chương. Trương Tùng lập tức bị chém đầu còn Lưu Chương theo kế của Hoàng Quyền mời quân Trương Lỗ vào Xuyên để đánh Lưu Bị. Đến lúc này, Lưu Bị không còn quân lương lại bị binh Trương Lỗ tấn công nên buộc lòng phải rút về Kinh Châu. Kế “Di thi giá họa” của Bàng Thống thành công, tạo hiềm khích cho Lưu Bị và Lưu Chương, để rồi hy sinh ở gò Lạc Phụng cho kế “Kim thiền thoát xác”, khiến Lưu Bị phải quay quân trở lại đánh Tây Xuyên.
20. Kế thứ hai mươi: Kim thiền thoát xác Ve sầu lột xác, sử dụng bộ dạng mới để làm quân địch bất ngờ trở tay không kịp

Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu hoặc chờ một cơ hội phản công khác. Kế “Kim thiền thoát xác” có một phạm vi rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được. Lưu Bị dẫn đại quân từ Tây Xuyên trở về Kinh Châu trên đường phải đi ngang qua một nơi gọi là Gò Lạc Phụng. Đây là nơi rất dễ phục binh, biết chắc Lưu Chương sẽ cho người phục binh ở đây nên Bàng Thống đã quên mình cho kế “Kim thiền thoát xác”.


Lưu Bị và Bàng Thống trên đường về Kinh Châu, sắp đi qua Gò Lạc Phụng
Bàng Thống mượn ngựa Đích Lư của Lưu Bị dẫn hai ngàn quân đi tiền trạm. Quân Tây Xuyên thấy ngựa Đích Lư nên nhầm tưởng Bàng Thống là Lưu Bị, nên đã tập trung loạn tiễn vào đó. Bàng Thống trúng tên chết ở Gò Lạc Phụng. Lưu Bị đau lòng cực độ khi hai ngàn quan tiền trạm và Bàng Thống chết tất. Đã dẫn quân quay lại Tây Xuyên đánh Lưu Chương.
Lưu Bị quyết định quay lại đánh Tây Xuyên

Kế “Kim thiền thoát xác” này giá là một Phụng Sồ Bàng Thống thật quá đắt cho Lưu Bị!

21. Kế thứ hai mươi mốt: Phao chuyên dẫn ngọc
Ném gạch đưa ngọc đến, đưa miếng nhỏ ra để dụ địch nhằm đạt cái lợi lớn hơn. Tức là dùng một tiểu vật để đạt được một đại vật. Giống như câu “bỏ con săn sắt, bắt con cá rô” Khổng Minh đã dùng kế này để chiêu hàng Mã Siêu. Sau này Mã Siêu là một trong Ngũ Hổ Tướng của Lưu Bị gồm: Quan Công, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.


Mã Siêu, con trai Mã Đằng, uy vũ dũng mãnh không thua kém Lữ Bố. Tướng tiên phong của quân Tây Lương. Sau khi Mã Đằng bị Tào Tháo giết chết vì phát hiện ra kế trá hàng. Quân Tây Lương tan vỡ, Mã Siêu dẫn tàn quân 2 vạn về đầu quân dưới trướng Trương Lỗ ở Hán Trung. Biết Mã Siêu là hãn tướng, Trương Lỗ rất mực tin dùng, còn định gã con gái cho, nhưng Dương Tùng – quân sư của Trương Lỗ – ngăn cản . Khi Lưu Chương đồng ý cắt 20 quận Xuyên Thục cho Trương Lỗ để nhờ quân Trương Lỗ đánh đuổi Lưu Bị khỏi Tây Xuyên. Mã Siêu được lệnh tấn công quân Lưu Bị tại ải Gia Minh, một trận đấu lưu danh thiên cổ giữa Trương Phi và Mã Siêu hơn 300 hiệp bất phân thắng bại, từ sáng đến tối. Lưu Bị ở trên thành theo dõi cuộc chiến, rất thích Mã Siêu nhưng không biết làm cách nào để mang về. 
Trương Phi đấu với Mã Siêu
Biết ý muốn Lưu Bị, Khổng Minh đã dùng kế “Phao chuyên dẫn ngọc” đem Mã Siêu về cho Lưu Bị. Biết Dương Tùng – quân sư của Trương Lỗ – là một kẻ tham lam, Khổng Minh đã cho người đem ngọc ngà châu báu đến tặng cho Dương Tùng, rồi rỉ tay Dương Tùng rằng Mã Siêu sau khi đuổi được Lưu Bị, có thể chiếm lấy Tây Xuyên làm đối trọng với Trương Lỗ.
Xét thấy việc đó là “điều chắc chắn xảy ra”, Dương Tùng đã tâu với Trương Lỗ và ra cho Mã Siêu 3 điều quân lệnh.
1. Trong một tháng phải phá được quân Lưu Bị
2. Phải bắt sống được Lưu B
3. Phải tiến quân vào Tây Xuyên.
Dĩ nhiên 3 điều trên khó như lên trời. Mã Siêu lập tức bị Trương Lỗ triệu về Hán Trung, nhưng khi đến Thành Đô – thủ phủ của Hán Trung – thì giáp sĩ đã không cho Mã Siêu vào thành vì sợ Mã Siêu làm phản. Không còn đường để đi, Mã Siêu đành dựng trại ngoài cổng thành.


Mã Đằng, cha Mã Siêu, bị Tào Tháo bắt sau khi kế trá hàng thất bại

Khổng Minh đã tới thuyết khách Mã Siêu về với Lưu Bị bằng câu chuyện cái chết của Mã Đằng – cha Mã Siêu dưới tay Tào Tháo. Và việc hưởng ứng huyết thư giết giặc Phò Hán của Hán Hiến Đế mà Lưu Bị và Mã Đằng là những nhân tố tích cực. Với một kế “phao chuyên dẫn ngọc”, Khổng Minh đã mang về cho Lưu Bị một hãn tướng mà Tào Tháo rất thèm muốn.
22. kế thứ hai mươi hai: Chỉ tang mạ hòe
“Chỉ tang mạ hòe” là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.
Trong trận đại chiến với đại quân của Viên Thuật, gặp lúc lương thảo thiếu thốn, Vương Hậu là quan coi việc quân lương của Tào Tháo vào bẩm báo rằng quân lương chỉ còn đúng 3 ngày. Tào Tháo bèn lệnh cho Vương Hậu chỉ cấp phát lương cho các trại một nửa ngày thường. Bị ăn đói, binh lính kêu than. Thấy vậy Tào Tháo mới lập kế đổ tội cho quan coi lương Vương Hậu là lừa dối trong cấp phát lương rồi chém lấy đầu Vương Hậu. Quân Tào từ đấy sợ không dám kêu ca nữa mà hết lòng đánh Viên Thuật.

Tào Tháo bêu đầu Vương Hậu trước trướng lệnh, rồi ban rượu thịt cho binh sĩ ăn nhậu no say
Kế “chỉ tang mạ hòe” của Tào Tháo thật “vô tiền khoáng hậu”! 23. Kế thứ hai mươi ba: Lý đại đào cương.
Mận chết thay đào, đưa người khác ra thế thân gánh vác tai họa cho mình.Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.Lại nói tiếp về chuyện Tào Tháo, trên đường dẫn đại quân đi đánh Viên Thiệu, đại quân Tào Tháo phải đi ngang qua một cánh đồng lúa. Bất thình lình ngựa kéo tướng xa của Tào Tháo giật mình chạy vào cánh đồng một quãng xa, làm hư hại tất cả lúa mà nó chạy qua.


Tướng xa của Tào Tháo

Lúc đó Tào Tháo đã gọi viên quan phụ trách chính sự tới hỏi:
– Quân lệnh của ta nếu làm hư hại tài sản của bá tánh thì xử phạt thế nào?
Viên quan lo chính sự liền thưa:
– Bẩm thừa tướng, theo luật phải trảm!
Tào Tháo liền bảo:
– Vậy ngươi hãy lập tức ra lệnh chém đầu ta.
Viên quan run sợ nói:
– Thừa tướng được miễn tội chết vì thân đang mang trọng trách quốc gia.
Đứng trước ba quân, Tào Tháo nói:
– Tội chết có thể tha nhưng tội sống không thể dung. Nay ta cắt râu thay đầu để bảo toàn quân pháp. Đợi ngày sau thắng trận, ban sư sẽ luận công tội mà xử.
Tất cả ba quân đều nể phục và từ đó rất hiếm gặp tình trạng quân lính của Tào Tháo vi phạm quân pháp.

Quân sĩ Tào Tháo nghiêm minh bậc nhất

Thật đáng khen cho Tào Tháo với diệu kế “lý đại đào cương” này! Kế này đã làm cho quân pháp của Tào Tháo được coi là nghiêm minh nhất trong thời Tam Quốc.
24. Kế thứ hai mươi bốn: Vô trung sinh hữu
Không có mà làm thành có.Kế “Vô trung sinh hữu” hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú. Nói đến kế này thì đành phải nhắc đến idol của ai đó (cố né lắm nhưng không né được) – CHU DU.
Như đã nói ở trên, sau khi thất bại ở Xích Bích, Tào Tháo lui quân về Hứa Xương chỉ để lại hai vạn đại quân ở Nam Quận do Tào Nhân trấn thủ. Muốn chiếm được Kinh Châu trước tiên phải công hạ được Nam Quận, cả Chu Du và Khổng Minh đều biết rõ điều này và cùng đều thèm muốn Nam Quận như nhau.

Khổng Minh với kế “vô trung sinh hữu”
Theo binh pháp, nếu muốn công hạ một thành như Nam Quận phải cần ít nhất sáu vạn quân. Khổng Minh, lúc đó quân chỉ một vạn, đã đưa quân đến Du Khẩu dựng trại làm như sắp sửa công hạ Nam Quận. Bán tín bán nghi, Chu Du liền đến Du Khẩu lấy cớ là thăm Lưu Bị và thăm Lưu Kỳ đang bệnh nặng để xem rõ thực hư vì Lưu Kỳ đang nắm trong tay năm vạn quân ở Giang Hạ cộng với một vạn quân của Lưu Bị là sáu vạn đủ để công hạ Nam Quận.
Thực ra, Khổng Minh đã bày kế “vô trung sinh hữu” để lừa Chu Du đánh Nam Quận thay mình. Khổng Minh đã gọi Lưu Kỳ đang bệnh nặng từ Giang Hạ đến Du Khẩu rồi cho tương kiến Chu Du.
Gặp được Lưu Kỳ tại Du Khẩu, Chu Du càng tin rằng Lưu Bị sắp công hạ Nam Quận là thật. Liền nói với Khổng Minh rằng: “Trong trận Xích Bích con em Giang Đông đã hi sinh không ít, nên việc đánh chiếm Kinh Châu mà cụ thể là Nam Quận phải để cho Đông Ngô”. Khổng Minh liền đáp: “Chúc cho Đông Ngô mã đáo thành công nhưng Đại Đô Đốc nên cẩn trọng vì Tào Nhân là một mãnh tướng không dễ đối phó”. Bị khích, Chu Du liền nói: “Nếu trong 30 ngày, Đông Ngô không công hạ được Nam Quận thì mời Lưu hoàng thúc đến lấy”.
Quân Đông Ngô công hạ thành Nam Quận Hay cho Khổng Minh, giỏi cho Khổng Minh! Quân tướng không có là bao nhưng vẫn làm như có đủ bằng một Lưu Kỳ bệnh hoạn, lừa Chu Du công hạ Nam Quận rồi sau đó dùng tiếp kế “Sấn hóa đả kiếp” mà chiếm lấy. Trận thua này đã làm Chu Du sinh bệnh nặng mà thác với câu trăn trối bất hủ “Thiên sinh Du, hà thiên sinh Lượng”. Tội nghiệp cho Chu Du quá.

25. Kế thứ hai mươi lăm: Phủ để trừu tân
Rút củi đáy nồi, đánh tiêu hao hậu cần để làm quân địch dần phải thua hoặc làm cho một vấn đề của ta của ta bớt đi sự trầm trọng đưa đến việc nguy cấp một kết cục.

Nói đến kế này lại nhắc đến Idol Chu Du của người ta (thiệt tình không muốn nói nhưng phải nói vì Idol hẹp hòi quá). Sau khi bị Lưu Bị phỗng tay trên mất Kinh Châu , Chu Du căm hận đến tận xương nên quyết định lấy cho bằng được Kinh Châu. Chu Du cho người về xin với Tôn Quyền thêm ba vạn đại quân tăng cường. Thấy tình hình căng thẳng vì biết chắc Lưu Bị sẽ tử thủ Kinh Châu, trận chiến đó có thể gây nên lưỡng bại câu thương mà người hưởng lợi là Tào Tháo, Lỗ Túc đã hiến kế “Phủ để trừu tân” cho Tôn Quyền làm nguội bớt cái đầu đang nóng của Chu Du.


Tôn Quyền với kế “Phủ để trừu tân”
Lỗ Túc khuyên Tôn Quyền gọi Chu Du về giải cứu Hợp Phì vì quân Trương Liêu của Tào Tháo đang tấn công Hợp Phì và Tôn Quyền đang thua. Biết Tôn Quyền không muốn mình đánh Kinh Châu, Chu Du liền trao lại binh quyền rồi cáo bệnh về quê dưỡng thương.

Tham quân Lỗ Túc, tự Tử Kính
Thật ra, việc đánh Hợp Phì là giả còn việc gọi Chu Du về để giảm bớt tình hình căng thẳng ở Kinh Châu là thật. Nếu Chu Du vẫn quyết chiến với Lưu Bị thì người có lợi nhất là Tào Tháo, liên minh Tôn – Lưu không còn trong thời điểm này là không có lợi, nhất là cho Đông Ngô.

Chu Du trao lại bình quyền cho Tôn Quyền, về quê dưỡng thương
Việc gọi Chu Du về trong khi quan hệ Tôn – Lưu có nguy cơ sứt mẻ là hết sức khôn ngoan, thể hiện được tầm nhìn về đại cuộc của Lỗ Túc và Tôn Quyền. Kế “Phủ để trừu tân” trong trường hợp này không hay nhưng cần thiết.

26 .Kế thứ hai mươi sáu: Dục cầm cố túng
Muốn bắt thì phải thả. Kế này được gọi là cao kế vì người sử dụng nó phải luôn đặt mình trong tình trạng “không có” để rồi làm cho “có” cái mà mình muốn. Một bước cao hơn của kế “Vô trung sinh hữu”.

Sau khi thua trận ở Từ Châu, ba anh em Lưu – Quan – Trương thất lạc nhau, Tào Tháo rất yêu tài Quan Công nên đã sai Trương Liêu là bạn đồng môn của Quan Công thuyết Quan Công theo Tào. Không còn đường chọn lựa Quan Công đành phải theo lời thuyết khách của Trương Liêu đem Nhị Tẩu về hàn Tào Tháo.


Trương Liêu thuyết Quan Công hàng Tào

Quan Công trả ấn tín lại cho Tào Tháo rồi lên đường tìm Lưu Bị

Biết Quan Công vẫn ngày đêm hướng về Lưu Bị, Tào Tháo tặng ngựa Xích Thố cho Quan Công để đi tìm Lưu Bị và Trương Phi. Không thể phụ tình cảm của Tào Tháo đành cho mình, Quan Công đã quay trở lại và giúp Tào Tháo chém hai tướng tài của Viên Thiệu là Nhan Lương và Văn Xú.


Quan Công từ biệt Tào Tháo

Đây là cái hay của kế “Dục cầm cố túng” vì trước đó tường của Tào Tháo không ai địch lại Nhan Lương và Văn Xú của Viên Thiệu cả.

27. Kế thứ hai mươi bảy: Phản khách vi chủ
Từ chỗ là khách biến thành vai chủ, lấn dần dần đất của địch để đến chỗ địch không còn chỗ đứng. Lưu Bị chiếm được Ích Châu của Lưu Chương, tự lập làm Ích Châu mục. Sau đó, Tào Tháo cũng chiếm Hán Trung của Trương Lỗ rồi đem quân đến Hợp Phì đánh nhau với Tôn Quyền, giao Hán Trung lại cho Trương Cáp và Hạ Hầu Uyên .Tướng Ngụy là Trương Cáp tiến đánh ải Hà Manh bị tướng Thục là Hoàng Trung đánh bại. Nhân cơ hội đó, năm 218 Lưu Bị tấn công Hán Trung nên sai Hoàng Trung đến chiếm núi Định Quân là nơi Tào Tháo cất giữ lương thảo. Trận chiến tại núi Định Quân bùng nổ. Hạ Hầu Uyên trấn giữ núi Định Quân báo tin cho Tào Tháo, Tào Tháo bèn đem quân đến Hán Trung và hạ lệnh cho Hạ Hầu Uyên đánh nhau với Hoàng Trung. Hoàng Trung đóng quân ở chân núi Định Quân, sai Trần Thức ra địch bị quân Ngụy bắt sống. Sau đó, Hoàng Trung dùng kế bắt tướng Hạ Hầu Thượng của Hạ Hầu Uyên. Hạ Hầu Uyên sau đó bèn rút quân về và không ra đánh nữa. Hoàng Trung được Pháp Chính bày kế chiếm núi Đối Sơn nằm ở phía tây núi Định Quân là ngọn núi cao từ đó có thể thấy được toàn bộ núi Định Quân. Hoàng Trung đánh bại Đỗ Tập, tướng của Hạ Hầu Uyên rồi chiếm núi Đối Sơn. Hạ Hầu Uyên tức giận đem quân đến núi Đối Sơn khiêu chiến với Hoàng Trung mặc dù Trương Cáp đã can ngăn. Hoàng Trung theo kế Pháp Chính đợi đến khi quân của Hạ Hầu Uyên mỏi mệt, Hoàng Trung kéo quân xuống rồi chém chết Hạ Hầu Uyên. Thừa thắng, Hoàng Trung kéo quân đến chiếm núi Định Quân. Trương Cáp địch không nổi, bỏ chạy. Quân Thục thắng lợi. Đây là kế ” Phản khách vi chủ” lấn dần từng phần đất của Hạ Hầu Uyên sau đó đưa đến tiêu diệt trọn vẹn quân Ngụy ở Định Quân sơn.

28. Kế thứ hai mươi tám: Điệu hổ ly sơn
Dụ hổ ra khỏi núi để giết hổ hoặc dụ hổ ra khỏi rừng để giết các hồ ly dựa oai hổ. Ở thời Tam quốc,kế này rất thường được sử dụng để giết tướng giặc hoặc để cướp doanh trại địch. Có nhiều cách dể “dụ hổ” ra “khỏi núi” và một võ phu không tinh thông binh pháp như Trương Phi cũng có thể xài được kế này. Sau khi quay trở lại đánh Tây Xuyên của Lưu Chương, Lưu Bị sai người bảo Khổng Minh lập tức dẫn quân vào Tây Xuyên hỗ trợ. Trương Phi được lệnh đi tiền trạm, đường đến Tây Xuyên qua nhiều đồi núi hiểm trở. Tướng Tây Xuyên là Nghiêm Nhan lợi dụng địa hình này để đánh chặn Trương Phi, không thông thuộc địa hình Trương Phi bèn dùng kế “Điệu hổ ly sơn” để dụ Nghiêm Nhan ra khỏi thành rồi giết chết Nghiêm Nhan mở thông đường đến Tây Xuyên cho đại quân Kinh Châu.
Thật ra, Trương Phi là một kẻ thích uống rượu nên đã dùng rượu làm kế. Sau khi công thành không được, Trương Phi hạ trại rồi cho tướng sĩ ăn nhậu no say còn mình thì giả say như chết.


Trương Phi giả say dụ Nghiêm Nhan

Thám báo về báo cho Nghiêm Nhan là Trương Phi đang say ngủ trong trai doanh, Nghiêm Nhan bèn xuất binh khỏi thành để đánh úp Trương Phi. Trận mai phục này của Trương Phi đã giết chết Nghiêm Nhan làm toàn bộ Thục quân phải hàng, mở đường đại quân của Khổng Minh vào Xuyên.


Trương Phi chém chết Nghiêm Nhan

29. Kế thứ hai mươi chín: Minh tri cố muội

Kế “Minh tri cố muội” là biết thật rõ chuyện đấy, nhưng làm ra vẻ không biết gì.

Với người xưa, đây là một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâu. Cái đức của người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng phu không thể không giấu thiên hạ. Tóm lại, biết rất nhiều mà tỏ ra không biết một là kế “Minh tri cố muội” vậỵ Nói đến kế này, phải nói đến Tôn Quyền, một chúa công tuổi trẻ tài cao, nhìn xa trông rộng của Đông Ngô.


Tôn Quyền 9 tuổi đã bàn việc quân cơ với cha – là Tôn Kiên.
Sau khi trúng kế “Phủ Để Trừu Tân” của Lỗ Túc, Chu Du buộc phải về thành Công An theo lệnh của Tôn Quyền nhưng trong lòng vẫn ấm ức muốn tiến đánh Kinh Châu. Chu Du đã để lại Lã Mông và Đinh Thượng cùng 3 vạn đại quân ở Du Khẩu. Thấy Chu Du vẫn còn ý định tiến đánh Kinh Châu làm tăng nguy cơ tan vỡ liên minh Tôn Lưu, Tôn Quyền bèn hỏi Chu Du: “Binh quyền Giang Đông là của cha anh ta tạo dựng hay của Chu Du nhà ngươi?”. Điều này khiến Chu Du nổi giận trả lại binh phù Đại Đô Đốc cho Tôn Quyền với lý do về phủ dưỡng thương.

Chu Du trả lại binh phù, cáo bệnh dưỡng thương
Ngày hôm sau, Tôn Quyền và Lỗ Túc đến thăm Chu Du tại phủ. Tôn Quyền “vờ” ủng hộ ý kiến của Chu Du là phải lấy Kinh Châu bằng mọi giá, dĩ nhiên Lỗ Túc phải lên tiếng can ngăn vì nếu tiến đánh Kinh Châu liên minh Tôn Lưu tan vỡ thì kẻ có lợi nhất chính là Tào Tháo. Tôn Quyền “vờ” mắng Lỗ Túc là “một kẻ hũ nho dốt nát”, không nhìn xa trông rộng, không thấy đại địch kề bên, có ân tình vơi Gia Cát Lượng, thân làm tham quân nhưng bất tuân ý chỉ của Đại Đô Đốc. Tôn Quyền “phạt” Lỗ Túc không được tham gia chuyện quân, cắt hết chức tước đuổi về phủ. Thật hay cho kế Minh Tri Cố Muội của Tôn Quyền đã không làm mất mặt của Chu Du, qua đó ngăn chặn được bạo loạn có nguy cơ xảy ra vì sau trận Xích Bích, tất cả tướng sĩ đều chỉ nghe theo lệnh Chu Du, chứ không nghe Tôn Quyền.

Chu Du nợ Lỗ Túc một ân tình vì kế “minh tri cố muội” của Tôn Quyền
Cái hay của kế này còn ở chỗ Tôn Quyền đã làm cho Chu Du mắc nợ Lỗ Túc một ân tình, để rồi về sau trước khi chết Chu Du đã trân trối lại là trao binh quyền Đại Đô Đốc cho Lỗ Túc theo đúng ý của Tôn Quyền. Kế Minh Tri Cố Muội này khi dùng phải có một cái đầu nhìn xa hơn người khác, phải có tính kiên nhẫn để đè nén tất cả các cảm xúc vì phàm là người trần ai cũng tỏ ra mình là người khôn ngoan chứ ít ai làm ra vẻ ngu dốt, nhất là những người ở vị trí cấp cao.

30. Kế thứ ba mươi: Du long chuyển phượng

Kế “Du long chuyển phượng” là biến cái này thành cái kia, bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng để dễ bề khống chế hoặc đánh lừa kẻ khác về “cái thật”. Nói đến kế này ta phải nhắc đến Khổng Minh qua ba đạo mật hàm mà Khổng Minh trao cho Triệu Tử Long khi Lưu Bị đi hỏi cưới Tôn Thượng Hương.


Tôn Thượng Hương – Công Chúa Đông Ngô

Biết tin vợ Lưu Bị mất Chu Du liền hiến kế cho Tôn Quyền là gả Tôn Thượng Hương (lúc đó 18 tuổi) cho Lưu Bị (48 tuổi) và bắt Lưu Bị ở rể Đông Ngô, mục đích của Chu Du là giam lỏng Lưu Bị ở Đông Ngô rồi dùng Lưu Bị để đổi lấy Kinh Châu hoặc giết Lưu Bị để cho quân Kinh Châu lâm vào cảnh rắn mất đầu nhằm tiến đánh Kinh Châu dễ dàng.


Tôn Thượng Hương xin Tôn Quyền đừng gả mình cho Lưu Bị vì không muốn làm công cụ để đổi lấy Kinh Châu.
Kế này của “ai đồ” Chu Du làm sao qua mắt được của Ngọa Long tiên sinh nhưng phải công nhận là đã đưa Khổng Minh vào thế khó. Nếu không chấp nhận hôn ước thì xem như coi thường Đông Ngô, khi đó nguy cơ liên minh Tôn Lưu tan vỡ là hết sức cao, còn chấp nhận hôn ước thì chẳng khác nào đưa Lưu Bị vào chỗ chết, trúng kế của Chu Du. Sau một đêm suy nghĩ, Khổng Minh đã sử dụng kế Du Long Chuyển Phụng thay đổi tình thế giúp Lưu Bị vừa được vợ vừa đào thoát về Kinh Châu an toàn.

Đây là nội dung ba đạo mật hàm mà Khổng Minh trao cho Triệu Tử Long:
– Đạo mật hàm thứ nhất Khổng Minh căn dặn Triệu Tử Long rằng khi đến địa phận huyện Lư Giang của Đông Ngô, lập tức sai tất cả binh lính cập bến vào, mua tất cả các sản vật châu báu tại huyện này rồi phao tin rằng Lưu Bị mua lễ vật để hỏi cưới Tôn Thượng Hương. Mục đích của việc này là báo tin cho Ngô Lão Thái – mẹ của anh em Tôn Quyền – mà Khổng Minh biết chắc rằng hôn sự giả này bị bưng bít.


“Cỏ non” Tôn Thượng Hương nghe lời mẹ chờ ngày nạp mạng cho “trâu già” Lưu Bị
Đạo hàm này bước đầu đã biến “con rồng” Lưu Bị thành “con phụng” của Đông Ngô.
– Đạo mật hàm thứ hai, Khổng Minh muốn Triệu Vân quay về Kinh Châu thông báo tình hình bằng cách can gián với Lưu Bị đừng ham mê vinh hoa phú quý mà Đông Ngô ban cho rồi quên đi đại cuộc trung hưng Hán thất. Việc can gián này khiến “con phụng” Lưu Bị vờ nổi giận, đuổi Triệu Vân về Kinh Châu. Khổng Minh đã sai lính đánh Triệu Vân 30 côn trượng vì tội phò chủ mà bỏ chủ. Buộc Triệu Vân phải quay lại Giang Đông tìm cách đào thoát về Kinh Châu theo mật hàm thứ 3.

Tôn Quyền dặn dò em gái: “Ưng hay không ưng là tùy ý muội, nếu muội ưng thuận thì trong rèm Cam Lộ Tự thổi sáo, đại cuộc Kinh Châu thành bại giờ nằm trong tay muội”
– Ở đạo mật hàm cuối cùng này thì dành cho Lưu Bị với dặn dò chỉ mở ra lúc nguy cấp.
Khi Lưu Bị dẫn Tôn Thượng Thương quay về Kinh Châu, dọc đường bị quân Đông Ngô truy đuổi, Lưu Bị đã dùng uy quyền công chúa của Tôn Thượng Hương buộc lính Đông Ngô mở đường. Thuyền đón gia quyến Lưu Bị an toàn ở bến sông dưới sự hộ tống của Hoàng Trung và Ngụy Diên. Trước sự căm tức của Chu Du, Khổng Minh đã gởi đến hai câu thơ để “chọc quê” Chu Du:

“Chu Lang mưu kế an thiên hạ/Hao binh tổn tướng mất phu nhâ”

Hai câu này đã làm idol của người ta tức hộc máu rồi té xuống ngựa. Thật không chê được kế “Du Long Chuyển Phượng” của Khổng Minh

31. Kế thứ ba mươi mốt: Tiên phát chế nhân

“Tiên phát chế nhân” là ra tay trước để dành chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng.

Kế “Tiên phát chế nhân” là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần nhất.

Kế này phải nói đến Ngô Lão Thái – mẹ của Tôn Quyền dành cho idol Chu Công Cẩn. Khi huynh trưởng Tôn Sách – Chúa công Đông Ngô – bị phục kích mà chết, trước khi chết Tôn Sách đã giao Đông Ngô lại cho Tôn Quyền với lời trăn trối “nội sự hỏi Trương Liêu, ngoại sự hỏi Chu Du”.


Chu Du khóc Tôn Sách

Vị chúa trẻ này đăng cơ chưa lâu thì Giang Đông đứng trước họa xâm lăng của Tào Tháo. Thực
hiện đúng lời dặn anh mình, dù trong lòng đã có quyết sách, Tôn Quyền đã hỏi Trương Liêu (muốn hàng Tào) và hỏi Chu Du (muốn đánh Tào). Theo truyền thống phong kiến Trung Hoa “phu vong tử thế” thì quần thần Giang Đông sẽ phò con trai Tôn Sách là Tôn Liêu (lúc đó còn ẵm ngửa) làm chúa công. Biết binh tướng đều nằm trong tay Chu Du, và Đại Kiều – vợ Tôn Sách thì không đủ mưu lược để ngồi sau màn nhiếp chính nên Tôn Sách đã trao Đông Ngô lại cho em trai Tôn Quyền. Để trấn áp quần hùng cụ thể là Chu Du – người đang nắm giữ tất cả binh tướng, có thể lật đổ Tôn Quyền non trẻ bất cứ lúc nào, Tôn Lão Thái đã sử dụng kế “Tiên Phát Chế Nhân” để khống chế Chu Du.


Tôn Sách trao ấn tín Đông Ngô cho Tôn Quyền trước khi chết.


Tôn Quyền vâng lời mẹ, thuận ý anh, đảm nhận trọng trách cai quản Giang Đông

Ngô Lão Thái gọi Chu Du vào trước linh vị Tôn Sách, với tư cách một người mẹ, bà nói với Chu Du: “…Ta trung niên mất chồng, lão niên mất con, cuộc đời thử còn ai đau đớn bằng? Ta vốn xem ngươi như là con ruột, quan tâm chăm sóc không thua gì huynh đệ Tôn Sách của ngươi. Ngươi với con trai ta ngoài tình huynh đệ còn có nghĩa quân thần, nay con trai ta thác, giao trọng trách nuôi dạy Tôn Quyền cho ngươi, ngươi hãy xem nó như một đứa em trẻ người non dạ, giúp đỡ nó cai quản Giang Đông để thiên hạ có thể thấy được một Chu Du vừa văn võ song toàn vừa trung tâm như thiếc đúng như lời trăn trối của con trai ta trước lúc phân kỳ. Còn nếu ngươi không nghĩ thế thì cứ tự nhiên dùng binh quyền để phế Tôn Quyền, tự lập làm chủ Giang Đông…”


Ngô Lão Thái thuyết giảng Chu Du trước linh vị Tôn Sách

Dĩ nhiên với một người tính tình cương trực, hiểu đạo lý quân thần như Chu Du thì tuy nắm binh quyền trong tay nhưng Chu Du vẫn không dám phế vua tự lập vì Chu Du cho rằng nếu làm như thế thì chẳng khác gì Tào Tháo – tên tội nhân thiên cổ. Thật xuất sắc cho kế Tiên Phát Chế Nhân của Ngô Lão Thái.

32. Kế thứ ba mươi hai: Ban trư ngật hổ

Kế “Ban trư ngật hổ” là giả làm con heo để ăn thịt con hổ. Người đi săn thường học tiếng heo kêu rồi tự giả làm heo để nhử con hổ.
Đối với kẻ thù, ta hãy giả ngu như một con heo, trên bề mặt cái gì cũng thuận chịu, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng cung kính để cho địch mất hết nghi âm. Chờ thời cơ chín, tìm thấy chỗ nhược của kẻ thù mà đập đòn sấm sét.
– Dùng việc không gì quan trọng bằng bí mật.
– Hành động không gì quan trọng bằng thừa lúc bất ý.
– Dò xét không gì quan trọng bằng làm cho địch không hay biết.
– Bên ngoài ra vẻ loạn mà bên trong rất có cơ ngũ.
– Tỏ ra đói mệt nhưng thật là no khỏe.
– Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường.
Những câu trên đây chính là căn bản lý luận của kế “Ban trư ngật hổ” vậy.

Ở kế này, phải nhắc lại Lưu Bị khi còn ở rể Đông Ngô.
Biết Khổng Minh đã giúp mình thoát khỏi họa sát thân bằng hôn sự “giả thành thật” (Lưu Bị này hơi bị hên, trâu già khú mà có cỏ non gặm, nước miếng mình chảy ròng ròng).


Lưu Bị xuất kiếm náo động phòng
Vì làm rể Đông Ngô nên Lưu Bị được chu cấp và đối xử như một ông hoàng, lương tiền-sản vật-mỹ nữ…không thiếu thứ gì, phủ đệ thì xa hoa sang trọng không kém cung điện Tôn Quyền.

Biết Chu Du đem vật chất để lung lạc ý chí nhằm giam lỏng mình ở Đông Ngô, Lưu Bị đã sử dụng kế “ban trư ngật hổ” để lừa Chu Du, nhằm tạo điều kiện cho Triệu Tử Long có cơ hội “can gián”, rồi bị đuổi về Kinh Châu như kế hoạch của Khổng Minh.


Thường Sơn Triệu Tử Long
Mỗi ngày Lưu Bị đều đàn ca hát xướng, say sưa cùng mỹ nữ, rượu thịt ê hề, vờ như không nghĩ gì đến Kinh Châu nữa. Lưu Bị “diễn” hay đến nổi chính Chu Du cũng phải nhận xét rằng: “hắn đã như thế thì Kinh Châu thuộc về Đông Ngô ta một ngày không xa”. Công Cẩn ơi là Công Cẩn, bị Lưu Bị lừa đến độ trốn đi hơn nửa canh giờ mà vẫn không ai biết, người ta đi đường bộ thì lại đuổi theo bằng thuyền, chặn ở bến sông thì lại bị tập kích. Hẹp hòi như thế mà vẫn có người nhận làm “ai đồ” mới chết chứ. Lưu Bị đã trong kế có kế mà sử dụng kế “ban trư ngật hổ” này theo ý của Khổng Minh
33. Kế thứ ba mươi ba: Nhất tiễn hạ song điêu

Kế “Nhất tiễn song điêu” là dùng một mũi tên bắn chết hai con chim.
Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa.

34. Kế thứ ba mươi bốn: Đả thảo kinh xà

Kế “Đả thảo kinh xà” là đập vào cỏ, làm động cho rắn sợ. Nói đến kế này, thì phải nhắc đến việc Đổng Trác dời đô từ Lạc Dương về Trường An. Sau khi Lữ Bố bại dưới tay 3 huynh đệ Lưu Quan Trương, quân Tây Lương của Đổng Trác rúng động, thừa thắng xông lên, 50 vạn quân của 18 lộ chư hầu do Viên Thiệu thống lĩnh tấn công quân Đổng Trác đến kinh thành Lạc Dương. Thấy tình hình nguy cấp, Đổng Trác quyết định đem quần thần văn võ và Hán Hiến Đế bỏ Lạc Dương để dời đô về Trường An. Bá quan nhất mực can ngăn, hết người này đến người kia nhưng vẫn không lay chuyển được Đổng Trác bởi lẻ bá quan không hề biết được quân tình đã đến hồi gấp rút, quân Viên Thiệu chỉ còn cách Lạc Dương không đầy 600 dặm.


Đổng Trác
Lạc Dương, kinh đô truyền đế của nhà Hán hơn 400 năm, là biểu tượng uy quyền của Hán triều. Nơi đây sản vật phong phú, phong cảnh hữu tình, dập dìu tài tử giai nhân, là cơ quan hành chính đầu não của Trung Hoa thời đó. Tất cả mọi nơi đều nhìn về Lạc Dương như một vầng mặt trời soi sáng ý chỉ của Vua. Lạc Dương còn có nghĩa là Hán triều vẫn còn dù thời cuộc có ly loạn, Lạc Dương mất đi có nghĩa là vận số Hán triều đã tận. Vì thế khi dời đô, văn võ quần hùng can gián hết sức quyết liệt là điều dĩ nhiên, trong đó viên quan lo chính sự là Trương Á là người quyết liệt nhất. Biết không thể thuyết phục được bá quan, giữa triều Đổng Trác rút kiếm chém chết Trương Á rồi nói với bá quan “Ai phản đối chuyện dời đô thì kết quả sẽ như thế đó”, nói xong sai lính xốc nách Hán Hiến Đế mang ra ngoài. Mọi người thấy Trương Á bị chém chết giữa chính điện, ai cũng kinh hải nên đành phải răm rắp tuân lệnh Đổng Trác thu dọn gia quyến theo Hán Hiến Đế lui về Trường An. Kế “Đã thảo kinh xà” của Đổng Trác trong việc dời đô này đã góp phần không nhỏ trong việc đặt dấu chấm hết cho Hán triều, bắt đầu một thời kỳ gọi là Tam Quốc.

35. Kế thứ ba mưoi lăm: Quá kiều trừu bản
“Quá kiều trừu bản” là qua cầu rồi thì phá cầu, ý nói một người sau khi đã thành công, muốn hưởng thụ một mình nên giết hại hoặc xa lánh những người bạn đã đồng lao cộng khổ với mình.
Kế “Quá kiều trừu bản” thường trái ngược với kế “Ban trư ngật hổ”. Qua cầu cất nhịp là lúc đắc
thời đắc thế đem thuộc hạ ra mà khai đạo. Còn giả tiếng heo là kế áp dụng giữa lúc ở vào thế kẹt. Đứng trên lập trường đạo lý thì cất nhịp cầu là một hành động vong ân bội nghĩa. Nói về hành động vong ân bội nghĩa này phải nói đến Tào Tháo.

Khi thích sát Đổng Trác bất thành, Tào Tháo đã lẫn trốn nhiều nơi để tránh lệnh truy nã, lưu lạc đến huyện Thuận Thành rồi bị Trần Cung – huyện lệnh Thuận Thành bắt được. Biết Tào Tháo vì giúp vua nên mang trọng tội, Trần Cung đã không giao nộpTào Tháo cho triều đình mà còn cùng Tào Tháo trốn đi để mưu đồ đại sự. Dĩ nhiên trong lệnh truy nã nay có thêm cái tên Trần Cung – tự Công Đài nữa.


Tào Tháo bị bắt tại huyện Thuận Thành
Tào Tháo và Trần Cung ngày trốn đêm đi, lưu lạc đến vùng Lũng Sơn thì đói và mệt nhưng không thể nào vào thành vì quân lính tra xét hết sức gắt gao. Vùng Lũng Sơn này có một thôn làng tên Lữ Thành, người trưởng thôn Lữ Bá Sa là huynh đệ kết nghĩa của Tào Tung – cha Tào Tháo. Lữ Bá Sa là một người rất trọng nghĩa khí nên khi Tào Tháo và Trần Cung tìm đến tá túc đã giết gà mổ dê để thết đải Tào Tháo như thượng khách

Tào Tháo và Lữ Bá Sa

Tào Tháo và Trần Cung trên đường bôn tẩu
Trong nhà hết rượu, đích thân Lữ Bá Sa đã vào thành mua rượu, còn dặn dò người trong thôn chuẩn bị tiệc để mình hàn huyên cùng Tào Tháo. Hỡi ôi! Tào Tháo vốn tính đa nghi, khi thấy mọi người chuẩn bị dây thừng thì cứ nghĩ là sắp sửa trói mình để nộp quan, bèn không ngần ngại giết chết tất cả mấy mươi mạng già trẻ lớn bé, phụ nữ trẻ em trong thôn, để khi nhận ra được rằng dây thừng dùng để trói lợn thì đã muộn

Khi phát hiện ra dây thừng dùng trói lợn, thì đã muộn. Mấy mươi mạng đã bị Tào Tháo giết sạch
Trần Cung mắng Tào Tháo vong ân bội nghĩa, không xứng làm chuyện lớn

Chưa hết, Tào Tháo còn chận Lữ Bá Sa, lúc đó đang mang rượu về, rồi thừa cơ đâm chết. Chỉ vì muốn diệt cỏ tận gốc mà ngay cả bá phụ của mình, người sẳn sàng che chở cho mình trên bước đường bôn tẩu, Tào Tháo cũng không tha.

36. Kế thứ ba mươi sáu: Sát kê hách hầu
“Sát kê hách hầu” nghĩa đen là giết con gà cho con khỉ sợ.
Theo truyền thuyết dân gian, con khỉ rất sợ trông thấy máu, cho nên khi người ta muốn dạy khỉ, trước hết họ giết một con gà, bắt con khỉ nhìn thấy đống máu bê bết rồi mới bắt đầu giáo hóa. Lúc bắt khỉ cũng thế, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến cho khỉ bủn rủn chân tay thì đến bắt. “Sát kê hách hầu” có tác dụng lớn, làm cho các vụ mới nở ra trong trứng nước bị rơi vào cảnh bối rối, sợ sệt. Lại nói đến Đổng Trác với kế “Sách kê hách hầu” để trấn áp quần thần. Sau khi dời đô về Trường An, 18 lộ chư hầu vì tranh giành quyền lợi nên không đánh mà tự tan rả. Bất chiến tự nhiên thành khiến Đổng Trác càng đắc chí, càng ăn chơi sa đọa, hủ hóa với tất cả phi tần, lủng đoạn triều chính, quyến uy lấn áp vua.


Đổng Trác với kế sách “Sát kê hách hầu”
Thấy thế lực Đổng Trác như thế, một vài viên quan khuyên Đổng Trác nên phế vua để tự mình lên ngôi, trong số đó có một quan văn tên Trương Ôn là mạnh mồm nhất. Biết bá quan tuy ngoài miệng khuyên mình như thế nhưng thực chất ai cũng muốn giết mình, và Trương Ôn chính là người ngày đêm gửi mật thư cho Viên Thiệu đánh Trường An cứu vua, nên Đổng Trác đã cho người chém đầu Trương Ôn rồi lấy máu pha rượu bắt tất cả các văn thần võ tướng đều phải uống, nếu không uống có nghĩa là mọi người không nói thật, vẫn có tư tưởng không quy thuận.
Chén rượu máu đó đã làm tất cả văn võ bá quan kinh khiếp đến độ từ đó về sau không còn một ai dám chống đối hay tạp phản nữa (dĩ nhiên ngoại trừ quan tư đồ Vương Doãn)