Chế Bồng Nga: Anh Hùng Chiêm Quốc

Ngô Viết Trọng
Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng được hình thành với một quá trình gần giống nhau. Bắt đầu là những bộ lạc nhỏ ở kề cận nhau, vì nhu cầu nào đó mà hợp lại với nhau hoặc thôn tính lẫn nhau. Dần dần các bộ lạc nhỏ yếu biến mất và các bộ lạc mạnh trở thành những tập thể xã hội lớn hơn gọi là “nước”. Các xã hội ngày xưa cứ thế mà diễn tiến như là một việc tất nhiên. Điển hình như nước Trung Hoa ngày nay là một tập hợp của hàng vạn nước nhỏ tạo nên!

Xã hội Việt Nam cũng là một quần thể gồm nhiều dân tộc có tiếng nói, phong tục tập quán khác nhau hợp lại. Trong đó Việt tộc (người Kinh) chiếm đa số. Về lãnh thổ, Việt Nam là một dải đất hình chữ S nằm ven Biển Đông, chạy dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Để tạo dựng được một giang sơn như thế, Việt Nam không thể tránh khỏi việc phải thôn tính hoặc xâm lấn đất cát của một số nước láng giềng! Đó là công việc của người xưa đã phải làm để tồn tại.
Trên dải đất hình chữ S Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều chùa miếu, lăng mộ, đền tháp lâu đời của các dân tộc thiểu số nằm rải rác khắp nơi. Nổi bật là những dấu tích thành trì, những ngôi tháp cổ biểu tượng cho nền văn minh cổ của dân tộc Chiêm Thành ở miền Trung. Đặc biệt là khu Thánh địa Mỹ Sơn ở Quảng Nam đã được tổ chức quốc tế UNESCO chọn là một trong các di sản văn hóa thế giới.
Khu Thánh địa Mỹ Sơn đã ghi lại dấu tích một thời vàng son của dân tộc Chiêm Thành. Thời Việt Nam còn nằm dưới ách Bắc thuộc, Chiêm Thành – tên cũ là Lâm Ấp rồi Hoàn Vương – đã nhiều phen gây bối rối cho Trung Hoa qua những vụ tranh chấp lãnh thổ, ngăn cản bước bành trướng của đế quốc to lớn này. Rất nhiều viên thứ sử, thái thú, huyện lệnh tàn ác của Trung Hoa đã mất đầu dưới tay người Chiêm. Người Chiêm cũng từng đánh vào các nước Mã Lai, Java, Chân Lạp, có lần còn đột kích luôn vào cả đảo Hải Nam để cướp ngựa nữa. Nói chung dân tộc Chiêm Thành đã có một quá khứ oanh liệt chẳng kém ai!
Ngày nay thì người Chiêm đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Trong bài “Tìm Hiểu Cộng Đồng Người Chăm Tại Việt Nam”, Tiến sĩ Dân tộc học Nguyễn Văn Huy có đoạn viết:
“Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu? Không lẽ họ đã bị tiêu diệt hết sao? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không?
Câu trả lời là dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sống lâu đời tại miền Trung mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng: da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên để chứng minh một điều: dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.”
Lời nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy chắc không xa thực tế mấy. Những cuốn Việt sử xưa nhất đều có chép vụ tháng giêng năm Ất Tị (1365) quân Chiêm đã bắt hàng trăm thanh thiếu niên nam nữ của Đại Việt đang vui chơi Hội Xuân ở đất Bà Dương (Hóa Châu) đem về nước! Bắt về để làm gì? Nếu muốn giết đám trẻ đó, người Chiêm đủ khả năng để giết tại chỗ mà! Tiếp theo, mỗi lần Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt thắng trận lại bắt về không biết bao nhiêu thiếu nữ và đàn bà trẻ để làm gì nếu không phải là làm quà ban thưởng cho các quan quyền làm thê thiếp hay nô lệ? Tới năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ chiếm được xứ Động Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đưa lính tráng vào trước để khai khẩn đất đai tính chuyện ăn ở lâu dài. Thế nhưng năm sau, khi đưa vợ con những người này vào để đoàn tụ gia đình bằng thủy lộ, không may lại gặp bão đánh chìm thuyền bè, hầu hết số người này đều bị chết đuối. Vậy, những người lính làm di dân không may ấy sẽ tìm vợ ở đâu nếu không phải là những đàn bà Chiêm Thành? Tới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các chúa Nguyễn còn đưa bao nhiêu đợt tù binh bắt được của họ Trịnh vào khai khẩn đất Chiêm Thành nữa, họ cũng phải lập gia đình chứ? Nhưng họ dễ gì kiếm được đàn bà Đại Việt khi đang ở trên đất Chiêm!
Thực tế như ở Thừa Thiên – Huế, chỉ điểm sơ ở các làng Vân Thê (xã Thủy Thanh), La Vân (La Chữ), An Mỹ (Thế Lại Thượng) đã có nhiều cư dân mang họ Chế. Hỏi dân địa phương họ ước tính người họ Chế trong ba làng đó đã lên tới vài ngàn người. Đó là chưa nói đến các họ khác mà vua Minh Mạng đã ban cho những người Chiêm trên toàn quốc: Bá, Đàng, Hứa, Lưu, Hán, Lộ, Mã, Châu, Ngụy, Từ, Tạ, Thiên, Ức v.v…
Đến đây thiết tưởng cũng nên nói sơ về vấn đề “Họ” của người Chiêm một chút:
Ngày xưa người Chiêm chưa có họ. Những người đã đạt được một địa vị quan trọng trong xã hội thường tự chọn tên một vị thần, một vị thánh, một vị vua danh tiếng, một đấng anh hùng mình tôn sùng ghép vào tên mình để tăng thêm vẻ tôn quí. Như chữ “Chế”, chữ “Trà” đứng trước tên người mang ý nghĩa như một biểu tượng về một tước vị, một giai cấp cao sang hoặc để “thiên mệnh hóa” cái địa vị đương thời của người ấy. Sau này một số người Chiêm đầu hàng các vua Việt mới được các vị vua ấy ban “họ chính thức” theo ý nghĩa Việt Nam.
Đến đời vua Minh Mạng thì nước Chiêm bị sát nhập hẳn vào Việt Nam. Vua Minh Mạng đã bắt buộc những người Chiêm chưa có họ đều phải nhận cho mình một họ trong danh sách các họ do vua chỉ định để triều đình tiện việc thống kê hộ tịch.
Ngày nay dân tộc Chiêm đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng Việt Nam, lãnh thổ cũ của Chiêm Thành cũng đã trở thành một phần lãnh thổ Việt Nam. Vậy ta có thể coi lịch sử Chiêm Thành như một phần của lịch sử Việt Nam không? Sao lại không được nhỉ? Làm sao phủ nhận được sự liên can lịch sử của triều đại Chế Bồng Nga nước Chiêm Thành với lịch sử thời Trần mạt của Đại Việt? Người viết nghĩ cộng đồng Việt Nam cũng có thể hãnh diện với lòng chung thủy, dám hi sinh mạng sống của mình để giữ tròn trinh tiết với chồng của một vương phi Mỵ Ê, hãnh diện với những công trình văn hóa mà dân tộc Chiêm đã để lại cho đất nước Việt Nam lắm chứ!
Còn nữa, nói tới dân tộc Chiêm mà quên nói tới vị vua anh hùng Chế Bồng Nga là một điều thiếu sót! Đó là một vị anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu!
Sở dĩ người viết phải nhấn mạnh điểm anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu vì ngày nay người ta hay lạm dụng danh hiệu anh hùng quá đáng như anh hùng diệt tăng, anh hùng sản xuất phân xanh, anh hùng lao động v.v…! Danh hiệu này được dùng như một phần thưởng để ban phát một cách vô tội vạ! Điều mỉa mai là vẫn có lắm kẻ mê say nó đến quên mạng! Người viết còn nhớ hồi ở tù cải tạo, có một số bạn tù đói thắt ruột nhưng khi ra lao động vẫn cố gắng cuốc đất tối đa để cuối tuần được bầu làm “anh hùng lao động”! Lạm dụng đến nỗi có người phải than ngày nay là thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”!
Vậy, phải như thế nào mới xứng đáng là anh hùng chính hiệu?
Theo nghĩa nguyên gốc thì anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Ngay chữ “anh” đã tự nó xác định cái ý nghĩa đẹp đẽ, thơm tho, tinh khiết của chính nó! Chữ “hùng” thì mang ý nghĩa sức mạnh, khả năng, lòng quả cảm, sự khôn khéo, sự chiến thắng…
Hai chữ này đi chung với nhau nó trở thành tiếng kép để chỉ hạng người vượt trội những người khác về mặt tài năng hay đức độ, tạo nên được những thành tích phi thường có lợi cho nhân quần xã hội, ít nhất họ cũng để lại được một tấm gương sáng đẹp cho người đời soi chung.
Từ ngữ anh hùng thường chỉ dùng giới hạn trong phạm vi một dân tộc, một đất nước, một liên bang thôi. Không nghe ai nói tới anh hùng quốc tế bao giờ! Để được gọi là anh hùng chính hiệu, nhân vật đó phải được dư luận quốc dân gạn lọc qua một thời gian dài mới định được!
Trong bộ sách “Tam Quốc Chí” của văn hào La Quán Trung, ở hồi thứ 21, có đoạn Tào Tháo uống rượu luận anh hùng với Lưu Bị nghe rất lý thú, xin lược lại như sau:
Trong khi uống rượu, Tào Tháo hỏi Lưu Bị có biết anh hùng trong thiên hạ đời nay là ai không? Lưu Bị đã nêu lên một số người đang có danh vọng, đang cát cứ một phần lãnh thổ của nước Trung Hoa đương thời, nhưng tất cả đều bị Tào Tháo bác đi. Tào Tháo cho Viên Thuật là nắm xương khô trong mả, Viên Thiệu thì mặt bạo mà gan non, thấy của thì quên mệnh, Lưu Biểu chỉ có hư danh mà không có thực tài, Tôn Sách thì dựa vào uy danh của cha, Lưu Chương là chó giữ nhà, Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại… là đám tiểu nhân lúc nhúc không đáng đếm xỉa. Tiếp đó Tào Tháo dõng dạc nói: “Người anh hùng ấy à? Anh hùng phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả máy Vũ Trụ trong lòng, có chí nuốt Trời mửa Đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ!”. Lưu Bị hỏi lại: “Ai là người đáng mặt như thế?”. Tào Tháo không còn úp mở nữa, chỉ thẳng vào Lưu Bị rồi lại chỉ vào mình mà nói: “Anh hùng trong thiên hạ đời nay chỉ có sứ quân và Tháo!”. Lưu Bị nghe rụng rời cả chân tay, đôi đũa ông đang cầm cũng rơi xuống đất…
Theo cách luận này thì muốn làm anh hùng quả thật là khó!
Mạc Đăng Dung là một tướng có tài, khi triều Lê suy yếu, loạn lạc khắp nơi, ông ra công đánh Nam dẹp Bắc rồi cướp ngôi nhà Lê dựng nên triều nhà Mạc. Công nghiệp như thế nhưng chưa thấy sử sách nào khen ông ta là anh hùng cả! Vì sao? Vì Mạc Đăng Dung chỉ có “hùng” mà không có “anh”! Vì ông đã cam tâm dâng hiến một phần lãnh thổ của Đại Việt cho Trung Hoa để cầu chước bảo vệ ngai vàng, phản lại quyền lợi của dân tộc!
Nguyễn Thân, một đại thần triều Nguyễn thời Pháp thuộc là người nhiều mưu lắm kế, giúp Pháp dẹp được rất nhiều cuộc khởi nghĩa, nhất là diệt được phong trào Văn Thân của Phan Đình Phùng. Ông là một vị tướng bách chiến bách thắng, đã được chính phủ Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh đệ ngũ hạng rồi Bắc Đẩu bội tinh đệ tứ hạng. Với triều Nguyễn, ông được phong Cần chính điện Đại học sĩ, Túc liệt tướng Diên Lộc quận công. Bước đường công danh như vậy là đã tột đỉnh. Thế nhưng cuối cùng ông chỉ để lại trong lòng người dân Việt vỏn vẹn cái danh hiệu “Việt gian”! Vì ông cũng chỉ có “hùng” mà không hề có “anh”, cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, giết hại những người dân tranh đấu cho quyền lợi dân tộc!
Ngược lại, các nhân vật như Triệu Thị Trinh, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Trương Định, Nguyễn Thái Học v.v… là những người không chịu khuất phục trước bọn giặc cướp nước, quyết kháng chiến tới cùng, dù thất bại họ vẫn được quốc dân nhớ ơn thờ kính, xưng tụng là những bậc anh hùng. Tên tuổi họ ngàn năm vẫn sáng ngời trong sử sách!
Trở lại chuyện vua Chế Bồng Nga: Khi ông lên ngôi vua thì nước Chiêm vừa trải qua một trận dịch hạch khủng khiếp. Ông vừa lo việc hàn gắn vết thương cũ vừa lo việc phát triển quân đội để tái chiếm những vùng đất cũ của Chiêm Thành đã bị Đại Việt xâm chiếm. Trong bước đầu ông đã thành công rất vẻ vang. Nhờ mưu trí tuyệt vời, quân đội hùng mạnh, ông đã chiến thắng Đại Việt nhiều trận oanh liệt. Nhưng ông không hề nuôi ý định thôn tính Đại Việt. Ông đã sáng suốt nhận ra được những mối nguy sẽ xảy đến nếu Chiêm Thành thôn tính Đại Việt: Thứ nhất, dân Đại Việt sẽ quật cường vùng dậy như nhiều lần trước họ đã làm với người Trung Hoa. Thứ hai, nếu Đại Việt không vùng dậy nổi thì Chiêm Thành sẽ thành ở sát cạnh Trung Hoa, chẳng khác chi con dê phải ở sát cạnh một con báo! Ông đã cố thực hiện một giải pháp khác giữ được an toàn cho nước Chiêm hơn. Ông chủ trương duy trì sự tồn tại của một nước Đại Việt để làm bình phong che chắn thế lực Trung Hoa! Dùng Trần Húc con vua Nghệ Tôn không thành, ông lại định dùng Trần Nguyên Diệu, con thứ vua Duệ Tôn làm con bài chủ cho giải pháp này! Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Không ngờ cuộc đời của một vị vua anh hùng ngang dọc một thời lại bị kết thúc đau đớn chỉ vì một sơ suất nhỏ! Ông đã không thực hiện được ước nguyện. Nếu Chế Bồng Nga cẩn thận hơn một chút, không biết cục diện khu vực Đông Nam Á ngày nay sẽ ra thế nào! Phải chăng đó là sự dàn xếp của định mệnh?
Người viết vốn thích đọc lịch sử nước nhà, đã từng gặp nhiều đoạn sử oái oăm. Đôi khi chỉ cần một sự rủi may nhỏ nhoi cũng đủ làm thay đổi cả một cục diện lớn. Khi đọc qua đoạn sử này người viết không thể không suy nghĩ băn khoăn. Rõ ràng nhân vật Chế Bồng Nga, về nhiều mặt không thể tách rời dòng sử Việt được. Vì thế nên người viết mạo muội gom góp một ít tài liệu viết nên thiên tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga: Anh hùng Chiêm quốc.
Có một điều người viết xin thưa trước với quí độc giả: Tuy viết tiểu thuyết lịch sử chứ không phải khảo cứu lịch sử, nhưng người viết luôn chủ trương xây dựng tác phẩm của mình không đi quá xa nguồn chính sử! Tiếc rằng tài liệu về nhân vật Chế Bồng Nga trong chính sử quá hiếm và quá ngắn gọn. Về dã sử tuy có nhiều hơn nhưng thường rất mơ hồ, hoang đường nên sự gạn lọc khá khó khăn. Vì vậy, thiên tiểu thuyết lịch sử này có thể vấp nhiều lầm lỗi dễ gây sự hiểu biết sai lạc cho độc giả như nhà văn tiền bối Lan Khai từng vấp phải. Theo chính sử, nhân vật Đỗ Tử Bình là một viên quan tham lam, gian dối, sự gian dối của y đã tạo thành ngòi nổ cho trận chiến Việt – Chiêm năm 1377 mà kết quả là quân Việt đại bại, vua Trần Duệ Tôn bị giết. Thế mà trong tập tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga của nhà văn Lan Khai, nhân vật Đỗ Tử Bình lại được biến thành người giết được Chế Bồng Nga, là vị cứu tinh của nhà Trần! Thật sự người bắn hạ được Chế Bồng Nga chính là Đô tướng Trần Khát Chân, lúc đó Đỗ Tử Bình qua đời đã lâu.
Hi vọng với sự tiến triển của ngành nghiên cứu sử học, trong tương lai người ta sẽ tìm thêm được những tài liệu lịch sử về nước Chiêm chính xác hơn. Mong quý độc giả ai thấy những thiếu sót trong tập sách này xin chỉ giáo cho. Người viết lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe và xét lại để bổ chính khi sách được tái bản.
Sacramento, tháng 3 năm 2011
Trân trọng kính chào quý độc giả!

Sau khi quân Mông Cổ bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược hai nước Đại Việt và Chiêm Thành, hai dân tộc này đã trải qua một thời gian sống hòa bình, thân thiện bên nhau ngót hai mươi năm. Vua Đại Việt Trần Nhân Tôn cũng như vua Chiêm Chế Mân đều rất cảm kích lòng dũng cảm, ý chí bất khuất của nhau trước lũ giặc lớn Mông Cổ. Khi vua Nhân Tôn đã xuất gia, trong một lần vân du sang Chiêm Thành, ngài đã hứa gả người con gái út của ngài là Huyền Trân công chúa cho vua Chế Mân. Thế nhưng khi vua Chế Mân xin thực hiện lời hứa đó, triều đình Đại Việt lúc bấy giờ đã do vua Anh Tôn lãnh đạo lại dùng dằng không muốn chịu. Bất đắc dĩ vua Chế Mân phải dâng hai châu Ô và Rí cho Đại Việt để làm sính lễ. Việc này đã làm cả triều đình lẫn dân chúng nước Chiêm bất mãn.
Năm Bính Ngọ*, Huyền Trân công chúa được vua Chế Mân phong làm hoàng hậu. Nhưng cuộc tình duyên này không được lâu dài. Vua Chế Mân sống với Huyền Trân công chúa chưa được một năm thì mất. Hoàng tộc Chiêm Thành tôn hoàng tử trưởng Chế Chí lên kế vị vua cha.
Vua Anh Tôn thương em, sợ Huyền Trân sẽ bị hỏa thiêu với chồng theo tục lệ Chiêm Thành – vua mất thì các hậu, phi của vua cũng phải hỏa thiêu theo vua(?) nên sai Đại hành khiển Trần Khắc Chung lập mưu cướp bà đem về Đại Việt.
Vụ cướp lại công chúa đã làm người Chiêm càng thêm bất bình. Vua Chế Chí quá tức giận, đã tìm cách chiếm lại hai châu đất cũ. Thế là tình hình giao thiệp giữa hai nước bấy giờ càng ngày càng trở nên căng thẳng. Năm Nhâm Tý*, vua Anh Tôn thân hành đem quân đánh Chiêm Thành. Vua Chế Chí thấy quân Trần quá mạnh, có ý muốn đầu hàng. Ngặt nỗi quân dân Chiêm vì quá phẫn uất, thúc ép ông phải kháng cự. Kết quả vua Chế Chí đã bị bắt sống. Vua Anh Tôn bèn hội các quan ở Đồ Bàn để bàn định việc cai trị nước Chiêm. Vua hỏi:
-Nay vua Chiêm đã bị bắt, quân Chiêm đã tan rã, ta có nên nhân dịp này đặt quan lại để cai trị nước Chiêm không?
Thiên tử chiêu dụ sứ Đoàn Nhữ Hài thưa:
-Đánh bại quân đội một nước có thể dễ nhưng cai trị một nước thì rất khó! Muốn cai trị nước Chiêm không phải bệ hạ chỉ để lại một số quan lại là đủ! Tuy rằng có thể tuyển mộ những binh lính tại địa phương nhưng làm sao tin tưởng chúng được? Còn nếu để lại nhiều binh lính của ta thì rất bất tiện: nào giải quyết vấn đề lương thực, vấn đề tình cảm gia đình, làm sao cho lớp binh lính xa nhà ấy được yên tâm để phục vụ? Chưa hết, nếu lỡ quân Bắc lại sang xâm lấn, lực lượng ta đã bị xé mỏng, bấy giờ tính sao? Theo thiển ý của thần, bệ hạ nên lựa chọn một người nào đó trong hoàng tộc nước Chiêm, phong cho y làm chúa rồi bắt y triều cống hàng năm thì vẫn lợi hơn là cai trị nước Chiêm để rồi gánh thêm bao nhiêu mối lo âu, xin bệ hạ xét định!
Các quan đều tán thành ý kiến ấy. Vua Anh Tôn nghe lời, phong cho người em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu để cai quản nước Chiêm, lấy hiệu là Chế Năng. Ổn định tình hình nước Chiêm xong, vua Anh Tôn cho rút quân về nước.
Nhưng Chiêm Thành thần phục Đại Việt chưa bao lâu lại trở chứng. Do tinh thần phẫn nộ của dân Chiêm về mối hận Ô Rí thúc đẩy, Chế Năng lại bước theo con đường Chế Chí đã đi. Năm Mậu Ngọ* Chế Năng kéo quân xâm phạm hai châu Ô và Rí. Lúc bấy giờ ở Đại Việt vua Trần Minh Tôn đã lên thay vua Anh Tôn, ông cử Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Trước khi xuất quân, vua Minh Tôn nói với Huệ Vũ:
-Với uy vũ của thúc phụ, chuyến đi này nhất định phải thành công. Tuy thế, trẫm chưa biết phải xử trí thế nào khi đã chiến thắng. Thúc phụ có cao kiến gì không?
Huệ Vũ đáp:
-Trước đây Thượng hoàng đã chinh phạt Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm. Thượng hoàng có hỏi ý các quan có nên chiếm đất Chiêm không, các quan đều bàn chưa nên. Lý do là sợ phải xé mỏng lực lượng của ta trong khi mối đe dọa của phương Bắc vẫn còn đó. Thượng hoàng bèn lựa một người trong hoàng tộc Chiêm phong làm chúa để y cai quản lấy nước Chiêm, buộc hàng năm triều cống Đại Việt. Lần phạt Chiêm này cũng chẳng xa cách lần trước mấy, tình hình cũng chẳng khác nhau, tôi nghĩ ta cũng nên bắt chước kế hoạch của Thượng hoàng là hơn!
Vua Minh Tôn nói:
-Nếu thúc phụ cũng có ý ấy, xin thúc phụ cứ tùy tiện!
Huệ Vũ bèn cử Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến đi tiên phong. Trong trận đụng độ đầu tiên, quân Chiêm đã kháng cự rất mãnh liệt. Quân Đại Việt thua lớn, Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến bị tử trận. May có Điện súy Phạm Ngũ Lão tiếp ứng kịp thời quân Đại Việt mới chuyển bại thành thắng. Quân Chiêm lại tan tác chạy. Huệ Vũ thừa thế tiến thẳng vào tới Đồ Bàn. Chế Năng hoảng sợ phải dẫn cả hoàng gia chạy sang nương náu ở Java là quê mẹ của ông ta. Triều đình Chiêm Thành như rắn mất đầu, các quan lại, các lãnh chúa người đầu hàng, kẻ chạy trốn hết.
Chiếm xong Đồ Bàn, Huệ Vũ bèn cho yết bảng phủ dụ chiêu an dân Chiêm. Ông kêu gọi ai làm công việc gì nay trở về với công việc nấy. Ông cũng ra lệnh cấm tuyệt quan quân Đại Việt quấy nhiễu dân Chiêm. Ai phạm tội nặng như giết người, hiếp dâm đều bị xử chém. Tội vừa như cướp bóc, trộm cắp thì phải chịu đánh đòn, trường hợp nghiêm trọng có thể bị tước quân tịch và bắt làm nô lệ. Nhờ lệnh đó, dân Chiêm có phần yên lòng, dần trở lại làm ăn như cũ.
Một hôm Huệ Vũ cho đòi tất cả các quan chức lớn nhỏ cũ của nước Chiêm đã đầu hàng tập trung tại nhà hội Vĩnh Xương trong thành Đồ Bàn rồi tuyên bố:
-Trước đây Trần đế đã đánh bại Chế Chí, đáng lẽ ngài đã sát nhập nước Chiêm vào lãnh thổ Đại Việt! Thế nhưng vì lòng nhân ái, ngài đã phong Chế Năng làm Á hầu để cùng các ngươi cai quản nước Chiêm! Không hiểu sao Chế Năng và các ngươi lại ôm lòng phản trắc, gây hấn tạo tình trạng bất an cho dân cả hai nước. Trần triều bất đắc dĩ lại phải ra tay trừng phạt. Nay nước Chiêm thêm một lần nữa coi như đã mất! Với quyền lực trong tay, ta sẽ đặt các quan Đại Việt cai trị dân Chiêm! Còn các ngươi, ta có thể giam vào ngục thất hoặc đày ải làm nô lệ suốt đời cho biết thân, các ngươi nghĩ thế nào?
Nghe Huệ Vũ hỏi thế, các quan chức Chiêm Thành đều lộ rõ nét mặt buồn bã lo âu nhưng chẳng ai dám hé môi. Huệ Vũ nhìn khắp bọn họ một lượt rồi nói tiếp:
-Ta nói như thế có phải không? Tại sao triều đình Đại Việt đã dung dưỡng các ngươi, trả quyền chức cho các ngươi, cho các ngươi tự cai trị lấy nhau, thế mà các ngươi lại a tòng với kẻ phản bội chống lại Trần triều như các ngươi đã hành động vừa rồi? Tại sao các ngươi không biết khuyên Chế Năng bỏ cái thói ăn cháo đá bát ấy? Một người khuyên y có thể không nghe nhưng nhiều người khuyên lẽ nào y lại chẳng nghe? Cũng bởi các ngươi không tốt nên y mới dễ dàng thuyết phục cùng nhau làm cái việc vong ân bội nghĩa ấy! Kinh nghiệm xương máu đã rành rành trước mắt, Đại Việt ta đâu còn dám để các ngươi tự trị? Chính các ngươi đã tự đưa dân tộc các ngươi đến chỗ diệt vong! Các ngươi còn có lời gì để nói nữa không?
Không khí im lặng ngột ngạt bao trùm cả sân hội. Đám cựu quan chức Chiêm Thành hầu hết gục mặt âu sầu tuyệt vọng. Bỗng một cụ già khoảng ngoài bảy mươi lấy can đảm đứng dậy tiến lên quì lạy Huệ Vũ rồi nói với giọng tha thiết:
-Bẩm Đại vương, chúng tôi đã lỡ dại phạm tội với thiên triều! Cúi xin thượng quốc mở lượng hải hà bỏ qua lỗi lầm cho lũ mán mọi lạc hậu này! Nếu Đại vương cho nước Chiêm chúng tôi được tự trị một lần nữa, dân Chiêm chúng tôi xin thề chẳng bao giờ còn dám phản bội! Nếu chúng tôi còn phạm lời thề xin trời tru đất diệt!
Nghe vị cựu quan già làm thế, nhiều người khác cũng bắt chước nhau cúi lạy Huệ Vũ:
-Cúi xin Đại vương mở lượng hải hà tha thứ cho dân Chiêm chúng tôi một lần nữa! Chúng tôi sẽ tuân phục thờ kính thiên triều như thờ cha mẹ, chẳng bao giờ còn dám ăn ở hai lòng!
Huệ Vũ đợi đám cựu quan chức Chiêm Thành van lạy một hồi rồi mới hỏi:
-Có chắc các ngươi thề không bao giờ còn phản bội thiên triều nữa không?
Một thoáng hi vọng lóe lên, đám cựu quan chức Chiêm Thành đồng loạt hô lớn:
-Chúng tôi xin thề! Chúng tôi xin thề! Kẻ nào sai lời xin trời tru đất diệt!
Huệ Vũ lại nhìn khắp đám người Chiêm sa cơ thất thế một lượt rồi tiếp:
-Thề với trời đất không phải là chuyện chơi đâu! Khi được phong tước Á hầu để cai quản dân Chiêm, Chế Năng đã long trọng thề sẽ tuyệt đối trung thành với thiên triều, thế nhưng rồi y lại phản bội lời thề! Kết quả y đã làm được cái gì? Chỉ thấy cảnh xương tan máu đổ giáng lên đầu dân Chiêm! Chính bản thân Chế Năng đã trở thành kẻ vong gia thất thổ khốn đốn ở quê người! Các ngươi phải nhớ bài học đó! May là thiên tử lòng nhân bao la nên cử ta đánh dẹp! Nếu việc này giao cho một tướng khác, chưa chắc các ngươi còn được yên lành như hôm nay! Thấy các nguơi đã biết hối hận về sự phản bội của mình ta cũng động lòng. Ta biết các ngươi chỉ vì ngây ngô dại dột nên bị Chế Năng dụ dỗ hoặc ép buộc phải làm việc quấy thôi! Vốn tình thiên tử thương dân Chiêm chẳng khác gì dân Đại Việt! Ngài đâu muốn để dân Chiêm phải buồn khổ, đau lòng! Khi ta xuất chinh, ngài đã cho phép ta được quyền tùy tình hình mà giải quyết. Để thể hiện lượng khoan hồng của thiên tử, ta sẽ cho nước Chiêm được tự trị một lần nữa, các ngươi nghĩ thế nào?
Đám dân Chiêm đang âu sầu ủ rũ như vừa chợt tỉnh ngủ, họ ngơ ngác nhìn nhau như dò hỏi. Nhưng cũng chẳng có một ai lên tiếng. Huệ Vũ lại tiếp:
-Quân bất hí ngôn, ta thay mặt thiên tử cho dựng lại nước Chiêm thật đấy! Triều đình Đại Việt muốn có một nước Chiêm mới mẻ biết sống thuận hòa với Đại Việt để dân chúng hai nước cùng được yên ổn làm ăn. Một nước Chiêm mới cần phải có một triều đình mới để cai trị muôn dân. Nhưng muốn có một triều đình vững mạnh phải kết hợp được thật nhiều nhân tài. Các ngươi tất biết rõ những ai hiện ở trong nước đáng mặt nhân tài. Các ngươi hãy thăm dò, vận động, tiến cử những người có tài có đức ấy đứng ra giúp nước. Nước Chiêm có lập lại được hay không là do chính các ngươi! Ta hứa khi nước Chiêm đã được tái lập quân Đại Việt sẽ rút về nước!
Nghe đến đây quan dân Chiêm đồng loạt reo vui:
-Đội ơn Thánh hoàng! Đội ơn Đại vương! Thánh hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế!
Huệ Vũ nở một nụ cười tươi tắn:
-Đã đồng lòng như vậy, các ngươi phải gắng làm tròn bổn phận của mình! Ta sẽ tiếp tay cho các ngươi!
Lúc bấy giờ có viên tù trưởng tên Hiệu cai quản vùng Nghĩa Sơn nổi tiếng là một tay anh kiệt ít người sánh kịp. Trước đây Hiệu đã cùng con là Thủ (Patalsor) từng làm tướng chỉ huy quân Chiêm đánh nhau với quân Đại Việt nhiều trận. Khi Chế Năng chạy trốn sang Java thì cha con Hiệu dẫn một số thuộc hạ ẩn thân vào chốn rừng núi để mưu đồ việc phục quốc. Nay nghe tin vua Trần cho tái lập nước Chiêm, Thủ bàn với cha:
-Thưa cha, nay có tin Đại Việt cho gây dựng lại nước Chiêm, không biết có đúng không? Nghe nói họ đang kêu gọi nhân tài nước Chiêm ra lập triều đình mới, cha nghĩ mình có nên tham gia không?
Tù trưởng Hiệu nói:
-Tin ấy đã được thông báo nhiều nơi, tức là có thật. Chắc là họ sợ người Trung Hoa đánh vào phía Bắc nên muốn rút quân về giữ nước đấy! Ta đang mưu việc phục quốc nay nhà Trần lại cho phục quốc lẽ nào ta không tham gia? Tuy thế, phải đề phòng cạm bẫy! Cha bây giờ cũng già rồi, có chết cũng không tiếc. Riêng con là một nhân tài đất nước đang cần, nếu bị gài bẫy thì uổng lắm! Chi bằng con cứ tiếp tục công việc đã dự tính, để một mình cha thử ra yết kiến Huệ Vũ vương xem sao! Nếu Huệ Vũ vương đặt cạm bẫy thì cũng chỉ hại được một mình cha. Còn nếu Huệ Vũ vương thật tình có thiện chí cho gây dựng lại nước Chiêm, cha sẽ gọi con ra cũng không muộn!
Thế rồi tù trưởng Hiệu về Đồ Bàn xin yết kiến Huệ Vũ vương Quốc Chẩn. Huệ Vũ vốn đã nghe tiếng tù trưởng Hiệu, nay thấy ông ta xin yết kiến thì mừng lắm. Vương ân cần hỏi han Hiệu về tình hình nước Chiêm, về cách cai trị dân. Tù trưởng Hiệu thấy thái độ mềm mỏng nhiệt thành của Huệ Vũ cũng trả lời rất thành thật. Huệ Vũ có vẻ hài lòng lắm. Sau một hồi nói chuyện, Huệ Vũ kết luận:
-Ông quả là bậc nhân tài. Thay mặt đấng thiên tử, ta quyết định chọn ông làm chúa nước Chiêm Thành kể từ hôm nay. Ta hi vọng ông sẽ đem hết tài năng để phụng sự đất nước ông. Ta tin tưởng ông sẽ làm mọi cách để hàn gắn tình hữu nghị giữa hai nước Việt Chiêm và dân hai nước sẽ sống yên ổn bên nhau mãi mãi. Ông thấy thế nào?
-Đa tạ Đại vương đã tin yêu kẻ hèn này mà phó thác việc lớn. Tuy thế, kẻ hèn này chỉ có thể làm bề tôi mà không dám nhận ngôi vị chúa tể nước Chiêm Thành!
Huệ Vũ ngạc nhiên hỏi:
-Ông chớ khiêm nhường! Ta đã tiếp xúc với nhiều nhân vật có tiếng của nước Chiêm nhưng chẳng ai có kiến thức bao quát như ông cả. Chẳng lẽ ông còn nghi ngại điều gì?
-Bẩm, tôi không nghi ngại gì nhưng dân Chiêm Thành sẽ không chịu để tôi làm chúa đâu!
-Tại sao vậy? Ta cho ông cầm quyền sinh sát trong tay sao lại sợ điều đó?
-Bẩm, Đại vương chưa rõ tập quán của dân Chiêm. Dân Chiêm tuy trông yếu hèn vậy nhưng tập quán và niềm tin của họ khó lay chuyển lắm. Xưa nay họ vẫn chỉ ủng hộ những người có gốc gác liên hệ đến hai bộ tộc Cau* và bộ tộc Dừa* – tức là dòng dõi quí tộc – lên làm chúa. Người Chiêm tin hai bộ tộc ấy do nữ thần Bà Mẹ Đất Nước (Pô Inư Nưgar) trao nhiệm vụ cai trị quốc dân. Tôi cũng dân Chiêm nhưng bất quá là một tù trưởng nhỏ, một tướng lãnh, thuộc giai cấp thấp mới vươn lên, dẫu làm chúa được cũng chỉ bị coi là tiếm vị, không sớm thì muộn cũng sẽ bị dân lật đổ.
-À, hóa ra là vậy! Nhưng ông đừng lo! Sau lưng ông còn có Đại Việt mà! Chẳng lẽ dân Chiêm dám coi thường Đại Việt? Ông cứ giúp ta đi!
Tù trưởng Hiệu có vẻ suy nghĩ một hồi rồi thưa:
-Bẩm Đại vương, là kẻ bại trận đã được Đại vương tha chết lại còn giao phó trọng trách làm chúa Chiêm Thành, lẽ ra tôi phải gắng sức để báo đáp ơn sâu! Ngặt nỗi, nay tôi đã hơn năm mươi, sức mòn trí nhụt khó gánh vác nổi trọng trách ấy. Tôi hiện có đứa con tên là Thủ đang độ trai tráng, cũng có chút hiểu biết về việc trị dân. Nếu Đại vương không chê, xin cho nó gánh vác việc đó thay tôi, tôi sẽ đứng sau lưng giúp đỡ nó, dám mong Đại vương chuẩn thuận cho!
Huệ Vũ ngạc nhiên hỏi:
-Ông còn có đứa con giỏi như vậy sao nãy giờ ông chẳng nhắc tới? Thủ so với ông thế nào?
-Thưa, theo tôi nghĩ, Thủ hơn tôi mười phần!
-Vậy bây giờ Thủ đang ở đâu? Ông gọi ra gặp ta gấp để ta xem thế nào!
-Thưa, xin Đại vương thư thả cho. Vì Thủ hiện đang ở chốn rừng sâu.
-Thì ra ông vẫn còn nghi ngờ thiện chí của ta?
-Xin Đại vương thông cảm. Binh pháp có nói “binh là trá”, thú thật tôi cũng phải đề phòng, nếu phải chết cũng chỉ chết một mình tôi. Nay thấy Đại vương quả thật lòng muốn cho dựng lại nước Chiêm, tôi sẽ gọi Thủ về ra mắt Đại vương!
Quốc Chẩn cười mà khen:
-Cha con ông quả thật giỏi lắm! Ta đã chọn đúng người rồi!
Không lâu sau đó, tù trưởng Hiệu dẫn Thủ vào yết kiến Huệ Vũ vương. Sau khi phỏng vấn Thủ một hồi, Huệ Vũ càng tỏ vẻ vui mừng:
-Cha con ông đã chịu nhập cuộc thì thật đáng mừng cho cả hai nước! Ta sẽ phong Thủ làm chúa nước Chiêm.
Cha con tù trưởng Hiệu liền quì xuống bái tạ Huệ Vũ.
Hôm sau Huệ Vũ cho tổ chức lễ tấn phong Thủ làm Hiệu Thánh Á vương. Thủ lấy hiệu là Chế A Nan và tôn phong thân phụ ông làm Thái thượng vương. Thế là Chế A Nan trở thành vị vua đầu tiên của vương triều thứ 12 nước Chiêm Thành.
Tổ chức triều đình nước Chiêm xong, Huệ Vũ vương Quốc Chẩn giữ đúng lời hứa, cho rút quân về Đại Việt. Nước Chiêm Thành cứ theo lệ mỗi năm lại cử sứ giả sang triều cống Đại Việt một lần.
Từ khi Chế A Nan lên cầm quyền nước Chiêm, nhờ sự cố vấn, trợ lực tận tình của Thái thượng vương Hiệu và hai người bạn chí thiết là Du Đà và Bố Tân, ông đã mở đầu một triều đại khá hùng mạnh. Bên trong, ông đã xây dựng lại quân đội, bên ngoài, ông đã khéo léo ngoại giao không làm mất lòng các nước láng giềng. Từ biên giới Đại Việt ở phía Bắc đến biên giới các nước Lào, Chân Lạp phía Tây, phía Nam, đến cả mặt giáp biển phía Đông đều trở nên yên ổn. Dân Chiêm Thành đã được sống trong cảnh ấm no, thanh bình một thời gian.
Trong khi Chiêm Thành đang dần hồi sức thì ở Đại Việt, Thượng hoàng Anh Tôn rồi Điện súy Phạm Ngũ Lão lần lượt qua đời. Sự tranh chấp quyền hành, địa vị giữa các đại thần trụ cột của triều đình Đại Việt cũng bắt đầu chớm dậy.
Nhắm vào hiện tượng đó, các vương tử vương tôn của hai bộ tộc Cau và Dừa đua nhau thúc đẩy vua Chế A Nan dấy quân đánh Đại Việt để thu hồi phần lãnh thổ đã mất. Nhưng Chế A Nan không chịu nghe họ. Những người này bực mình liền sách động dân chúng công kích vào nhược điểm Chế A Nan không thuộc dòng vua chính thống và cho ông chỉ là tên tay sai của Đại Việt. Trong triều lẫn ngoài dân chúng có nhiều người nghe theo, gây thành một phong trào chống đối Chế A Nan. Chế A Nan lo sợ phải sai sứ sang Trung Hoa cầu phong với nhà Nguyên(Quí Hợi). Vua Nguyên bèn cử sứ sang phong tước vương cho nhà vua. Nhờ vụ phong tước này mà phong trào chống đối vua Chế A Nan bị khựng lại.
Nhà Trần biết được việc Chiêm Thành giao thiệp với nhà Nguyên thì nổi giận. Vua Minh Tôn bèn sai Huệ Túc vương đem quân phạt Chiêm. Nhưng Huệ Túc vương đánh không thắng được, phải rút quân về (Bính Dần).
Cuộc chiến thắng quân Đại Việt của vua Chế A Nan đã làm dân Chiêm mát mặt. Uy tín nhà vua tự nhiên vọt tăng cao. Phong trào chống đối vua Chế A Nan bị xẹp hẳn. Quân đội Chiêm Thành càng ngày càng hùng mạnh thêm.
Ở Đại Việt, cuộc tranh giành quyền lực giữa các trọng thần trong triều càng ngày càng trở nên trầm trọng. Kết quả tệ hại nhất là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn, một vị hoàng thân và cũng là một võ tướng có nhiều chiến công hiển hách đã bị gièm pha rồi bị giết vào năm Mậu Thìn. Quân đội Đại Việt càng ngày càng suy yếu.
Vua Chế A Nan chỉ có hai người con: công chúa Đa Lợi và hoàng tử Chế Mỗ. Khi công chúa Đa Lợi đến tuổi trưởng thành, vua Chế A Nan cho kết hôn với một viên quan trẻ trong triều là Trà Hòa Bố Để. Cha của Bố Để vốn là một cận vệ của vua Chế Năng. Khi quân Đại Việt tiến vào Đồ Bàn đánh đuổi Chế Năng, cả gia đình Bố Để đều chết thảm giữa đám loạn quân, chỉ một mình Bố Để may mắn thoát được. Vì thế, Bố Để rất căm hận người Việt. Ý chí phục thù Đại Việt đã thúc đẩy Bố Để khổ công chăm lo tập luyện, học hỏi để trở thành một nhân tài. Vua Chế A Nan thấy Bố Để có nhiều tài lạ nên thương yêu, tin cậy lắm.
Khác hẳn với Trà Hòa Bồ Để, hoàng tử Chế Mỗ không được thông minh, lại lười biếng học hành, ưa chơi bời lêu lổng. Có khi Chế Mỗ còn giao du với cả những kẻ không ra gì. Vua Chế A Nan rất lo buồn về sự hư hỏng của hoàng tử. Vua đã tìm những thầy giỏi để lo việc giáo huấn cho Chế Mỗ nhưng vẫn không thấy kết quả gì. Chính Thái thượng vương Hiệu cũng tham gia trong việc uốn nắn đứa cháu khó dạy này nhưng rồi ông cũng chán nản lắc đầu. Thế rồi vua phải giao phó việc giáo dục hoàng tử cho người bạn tin cậy là Du Đà. Vua nghĩ Du Đà là người thân thiết, chắc chắn ông ta sẽ gắng dạy dỗ hoàng tử và hoàng tử cũng sẽ nể nang ông ta mà chịu vâng lời hơn.
Dù tánh khí hoàng tử có vẻ bất thường nhưng đã vào tuổi trưởng thành nên được vua cha cấp cho một ngôi biệt điện rộng rãi để tập sự cuộc sống tự lập. Trong biệt điện có cả một số tôi tớ lo việc hầu hạ phục dịch. Lại có cả một đội lính đóng gần điện lo việc bảo vệ cho hoàng tử. Ông đã dành riêng một phòng trong điện để làm nơi đọc sách và học hành. Giảng quan Du Đà cũng được dành riêng một phòng làm nơi ăn ở.
Từ khi nhận nhiệm vụ, Giảng quan Du Đà đã hết lòng chăm lo công việc được giao phó. Một mặt ông tận tình dạy dỗ Chế Mỗ, bắt Chế Mỗ giới hạn các vụ rượu chè hát xướng, một mặt ông dặn đội bảo vệ an ninh tìm cách ngăn chận bớt những vụ giao du của Chế Mỗ với bên ngoài. Sự kiểm soát ráo riết này đã làm Chế Mỗ dần sinh ra bất mãn. Một lần không kiềm chế nổi cơn tức giận, hoàng tử đã hung hăng mắng nhiếc Du Đà. Thấy Du Đà nhẫn nhịn, Chế Mỗ được thế càng coi thường ông hơn. Vua Chế A Nan hay được việc đó chỉ biết lắc đầu đau khổ. Ông cố răn đe Chế Mỗ mãi nhưng vẫn không kết quả. Cuối cùng Du Đà phải xin từ chức.
Thái thượng vương Hiệu cũng lo rầu khôn xiết. Ông than thở với vua A Nan:
-Nhà ta vốn chẳng thuộc giai cấp cao sang, mấy đời hao tổn biết bao nhiêu tâm lực mới vươn lên được địa vị hôm nay. Con cháu đã mọn mảy lại sinh phải thằng Chế Mỗ ngu đần ngỗ nghịch này ta e rồi con cháu ta thứ dân lại hoàn thứ dân thôi!
Vua Chế A Nan an ủi:
-Xin cha bớt ưu phiền. Con sẽ nhờ Bố Tân thay Du Đà dạy dỗ nó một thời gian xem sao!
Khi vua Chế A Nan ngỏ ý nhờ Bố Tân dạy dỗ Chế Mỗ, Bố Tân đáp:
-Tánh khí hoàng tử thất thường như vậy kiềm hãm cho được không dễ! Tuy thế, tôi cũng xin thử sức sáu tháng xem sao! Thành công được thì tốt, nếu thất bại, xin bệ hạ thông cảm tìm người khác thay thế cho!
Vua Chế A Nan nói:
-Mong ông vì gia đình ta mà gắng sức! Ta sẽ không quên ơn ông!
-Tâu vâng! Tôi sẽ làm hết sức mình!
Hằng ngày Thái thượng vương Hiệu vẫn theo dõi việc học hành của Chế Mỗ. Ông đã tìm mọi cách để hỗ trợ, an ủi, khuyến khích Bố Tân kiên nhẫn làm nhiệm vụ. Ông sợ nếu Bố Tân cũng nản lòng thì thật khó tìm ai thay thế. Nhưng nhận nhiệm vụ chưa được bao lâu Bố Tân đã bắt đầu lộ vẻ chán nản. Thấy tình trạng như vậy, phò mã Bố Để tâu với vua A Nan:
-Hay bệ hạ thử cho hoàng tử theo hạ thần tập làm quen với công việc một thời gian xem sao? Hạ thần có thể dẫn dụ làm cho hoàng tử vui mà quên bớt thói ăn chơi lêu lổng!
Vua A Nan nghe lời Bố Để vui mừng nói:
-Ý kiến của con hay đấy. Nếu con làm được việc đó ta sẽ trọng thưởng!
Thế rồi vua vẫn để Bố Tân tiếp tục dạy dỗ Chế Mỗ, nhưng mặt khác, vua buộc hoàng tử phải bỏ một số thì giờ nhất định, hằng ngày phải theo chân Trà Hòa Bố Để để học việc. Ban đầu Chế Mỗ vùng vằng không muốn vâng lệnh. Vua Chế A Nan dọa:
-Ngươi muốn sau này lên làm vua thì cũng phải biết sơ qua về công việc triều đình ra sao để điều khiển các quan chứ! Ngươi không biết gì hết thì ai phục tùng ngươi? Người ta làm sai hay đúng ngươi làm sao phân biệt được để thưởng phạt? Nếu ngươi không chịu học việc ta sẽ truyền ngôi cho người khác!
Chế Mỗ bất đắc dĩ phải nghe theo. Từ đó hàng ngày ông phải bỏ một ít thời gian để học việc. Không ngờ chẳng bao lâu sau Chế Mỗ lại trở nên thích thú với sự học việc này. Từ đó Chế Mỗ với Bố Để gần gũi nhau như hình với bóng. Gánh nặng của Bố Tân cũng tự nhiên được trút bỏ. Ông không còn kêu ca gì với vua Chế A Nan nữa.
Mỗi khi Thái thượng vương Hiệu hoặc vua A Nan hỏi đến, bao giờ Bố Để cũng có những lời tốt lành để nói về hoàng tử. Sự thay đổi của Chế Mỗ đã làm Thái thượng vương Hiệu và vua A Nan giảm bớt phần nào nỗi ưu phiền.
Thấy Thái thượng vương Hiệu đã già yếu, vua Chế A Nan cho dựng một biệt thự ở một nơi yên tĩnh ngoài hoàng thành để ông an dưỡng. Biệt thự được xây bên sườn một đồi thông mát mẻ, dưới chân đồi có một dòng suối nước chảy quanh năm. Đó là một khu vực cảnh trí thật tuyệt vời do chính Thái thượng vương Hiệu chọn. Nhưng ông chưa kịp dời đến ở thì Chế Mỗ, trong một lần theo Bố Để học việc, đã dẫn một thiếu nữ vào biệt thự để làm chuyện dâm ô. Một người lính gác biệt thự phát giác được, liền trình với Bố Để. Nào ngờ Bố Để sợ việc tiết lộ ra ngoài bèn đem người lính ấy kết tội phạm kỷ luật mà giết mất! Nhưng chuyện ấy cũng không giấu được thiên hạ. Vua A Nan tức giận đòi Chế Mỗ đến hỏi tội, Chế Mỗ sợ nên chối phăng. Vua lại hỏi Bố Để nhưng Bố Để cũng chối. Vua A Nan tuy bực mình nhưng thấy chàng rể luôn che chở con mình cũng tạm yên tâm. Ông chỉ quở trách Chế Mỗ sơ sài chiếu lệ. Từ đó Chế Mỗ càng thêm tin cậy, càng ỷ lại vào Bố Để.
Thái thượng vương Hiệu biết được việc Bố Để cố tình bao che Chế Mỗ ông càng bực bội thêm. Ông càng thất vọng về đứa cháu duy nhất của mình. Một người tư cách như thế làm sao cai trị muôn dân? Làm sao có thể giữ gìn cơ nghiệp do cha ông gây dựng? Ông than trách số phận của mình. Cha con ông mọn mảy quá, không có thêm được một mống con cháu khá hơn Chế Mỗ để yên lòng phó thác việc mai sau! Ông thường nói với vua A Nan:
-Cha không tin Chế Mỗ có thể giữ được cơ đồ nhà ta! Ước sao ơn trên cho con sinh thêm được một hoàng tử nữa! Khi đó dẫu nhắm mắt cha cũng yên lòng!
Chính câu nói này đã ám ảnh vua A Nan một thời gian khá dài.
Không biết có phải do lòng khấn nguyện của Thái thượng vương Hiệu đã được đấng thiêng liêng nào cảm ứng không mà khi ông đã vào tuổi 65, bỗng nhiên người thiếp* của ông là A Lý báo cho ông biết bà đã có thai. Ông vui mừng hết sức. Hằng ngày ông chỉ còn biết lo việc đốc thúc chăm sóc sức khỏe cho A Lý và nôn nóng mong đợi ngày bà khai hoa nở nhụy.
Nhưng Thái thượng vương Hiệu đã không được may mắn thấy mặt đứa bé ra đời. Ông đã đột ngột lâm bệnh nặng đúng vào thời điểm người thiếp chuyển bụng lâm sàng. Khi ông tắt thở cũng chính là lúc đứa bé cất tiếng khóc chào đời. Sự trùng hợp lạ lùng đó đã khiến nhiều người lấy làm kinh dị, phỏng đoán lung tung.
Hài nhi là một đứa bé trai trông khôi ngô sáng sủa lắm. Vua Chế A Nan đặt tên cho cậu là Bà Bỉ Na Tác Nhĩ (Po Binasor). Vị hoàng tử này xếp theo hệ thống gia đình là vai chú của hoàng tử Chế Mỗ. Hoàng tử Na Tác Nhĩ càng lớn càng thông minh, tướng mạo lại khôi ngô chững chạc lạ thường nên vua Chế A Nan thương quí lắm. Na Tác Nhĩ mới lên ba vua Chế A Nan đã cho tìm thầy để dạy cậu học hành. Các thầy học đều phải khen cậu là một bậc thần đồng.
Khi so sánh cậu em trai Na Tác Nhĩ với đứa con ruột Chế Mỗ, vua A Nan cảm thấy rõ sự cách biệt nhau một trời một vực. Đã bao lần ông phân vân nghĩ đến việc mai sau. Về căn bản thì Chế Mỗ không thể nào trở thành một ông vua trị nước giỏi được! Nhưng truyền ngôi cho Chế Mỗ hợp lý hơn, sẽ không mấy ai có lý do để chống đối. Chế Mỗ ngang bướng kém cỏi nhưng đã trưởng thành, lại đang được phò mã Trà Hòa Bố Để là một trọng thần có tài ủng hộ. Còn Na Tác Nhĩ tuy thông minh, nổi tiếng thần đồng, nhưng còn nhỏ quá. Cậu ta có thể trở thành một vị minh quân, nhưng truyền ngôi cho Na Tác Nhĩ chắc chắn sẽ gặp sự chống đối, ít nhất là sự chống đối từ Chế Mỗ và những người bảo thủ trong triều.
Sở dĩ vua Chế A Nan phải phân vân về chuyện đó vì ông luôn bị ám ảnh bởi lời nhận xét của thân phụ ông “Cha không tin Chế Mỗ có thể giữ được cơ đồ nhà ta!”. Hơn nữa, lúc bấy giờ ông cũng đã lớn tuổi, sức khỏe ông đã xuống dốc. Nhiều triệu chứng bệnh hoạn trong ông dần nẩy sinh. Cứ suy nghĩ về vấn đề này ông lại thấy đầu óc rối tung lên. Nếu không truyền ngôi cho Chế Mỗ thì chuyện nồi da xáo thịt có thể xảy ra. Nhưng nếu truyền ngôi cho Chế Mỗ thì cơ đồ do cha con ông gây dựng có thể tan tành! Ông rất chán nản khi nghĩ tới thực tế: Chế Mỗ chưa bao giờ hé lộ được chút dấu hiệu tài năng nào cả! Một hôm vua Chế A Nan thăm dò Bố Để:
-Ta thấy hoàng tử Chế Mỗ tài năng kém cỏi lại ham chơi quá, không biết sau này có gánh vác nổi việc nước không? Em ta là Na Tác Nhĩ thông minh lanh lợi hơn nhiều nhưng còn quá nhỏ, ngươi nghĩ ta nên làm thế nào?
Trà Hòa Bố Để ngẫm nghĩ một lát rồi thưa:

-Bẩm Phụ vương, con nghĩ hoàng tử Chế Mỗ không phải tầm thường đâu! Chỉ vì Phụ vương còn tại vị nên hoàng tử chưa phát lộ tài năng đấy thôi.
Vua A Nan lộ vẻ ngạc nhiên hỏi:
-Làm sao ngươi biết được điều đó?
Trà Hòa Bố Để thưa:
-Bẩm Phụ vương, một lần hoàng tử rủ con đi săn trong rừng, buổi trưa gặp một giòng suối mát nên chúng con cùng xuống tắm. Tắm xong con lên trước, hoàng tử vẫn còn mê mải ngâm mình dưới nước. Khi đang mặc y phục lại, con ngạc nhiên thấy một ông già tiên phong đạo cốt xuất hiện. Ông chăm chú nhìn xuống suối mà lẩm bẩm: “Quý quá, quý quá, đất nước này từ nay sẽ hưng thịnh mãi!”. Con nghe mà không hiểu gì cả nên hỏi ông lão: “Cụ khen cái gì vậy?”. Ông lão nói: “Tôi nói chàng thanh niên đang tắm kia! Gần vú trái của chàng có cái bớt đỏ chính là dấu hiệu đại quý đấy. Sau này chàng sẽ trở thành một vị vua hiển hách!”. Con lại hỏi: “Cụ ở đâu đến và nhờ đâu mà đoán được vận mạng con người như thế?”. Ông lão nói: “Ta là đệ tử chân truyền của Quỷ Cốc Tử từ Trung Hoa vân du sang đây. Ta rất mừng biết được nước Chiêm từ nay sẽ hưng vượng trở lại!”. Nói xong, ông lão cười ha hả rồi đi vùn vụt như bay, trong giây lát đã mất dạng. Việc xảy ra khác thường quá, con nghĩ dẫu có nói ra cũng chẳng ai tin. Vả lại, nói ra có thể làm cho hoàng tử sinh lòng kiêu hãnh sợ tổn đức đi nên con cũng im luôn! Nhưng từ đó con hết lòng nể phục và luôn lo giúp đỡ, bảo vệ hoàng tử. Con tin tưởng thế nào cũng có ngày hoàng tử phát lộ tài ba một cách phi thường!
Vua Chế A Nan kinh ngạc suy nghĩ một hồi rồi nói:
-Hèn gì! Hoàng tử quả có cái bớt đỏ lớn ở gần vú trái, không ngờ đó là cái tướng đại quí! Phải rồi, chính năm hoàng tử ra đời ta được Huệ Vũ vương phong làm Hiệu Thánh Á vương! Đã vậy ta còn lo lắng gì nữa? Nếu ta có mệnh hệ nào, ngươi gắng phò tá hoàng tử để giữ nước nhé!
-Phụ vương cứ yên chí. Lẽ nào con lại dám quên ơn tri ngộ của Phụ vương và hoàng tử. Việc giúp hoàng tử gây dựng lại một nước Chiêm hưng thịnh cũng là ước nguyện của con. Con sẽ hết lòng làm tròn chức phận của mình!
Từ đó vua Chế A Nan chuyển giao dần các công việc trong triều cho hoàng tử Chế Mỗ lo. Tất nhiên đầu óc mẫn tiệp và bàn tay khéo léo của Trà Hòa Bố Để đã tỏ ra rất đắc lực trong vai trò phụ tá hoàng tử. Công việc nào cũng được giải quyết suôn sẻ, tốt đẹp khiến vua Chế A Nan rất hài lòng. Khi việc thành, dù lớn hay nhỏ, bao giờ Bố Để cũng nhường công đầu cho hoàng tử. Điều đó làm vua Chế A Nan càng mừng, càng tin yêu lòng trung hậu của Bố Để. Chế Mỗ cũng càng ỷ lại vào Bố Để thêm. Mọi việc vua cha giao phó Chế Mỗ đều để mặc Bố Để tùy tiện giải quyết, miễn sao công việc chạy là được.
Một thời gian sau vua Chế A Nan phong Bố Để làm Tể tướng. Với cương vị này Bố Để đã lần lượt thay thế những người thân tín của mình vào các chức vụ quan trọng trong triều. Một số quan lại để ý thấy tình trạng đó đâm ra lo ngại. Có người đã kín đáo báo cho Chế Mỗ biết để đề phòng nhưng Chế Mỗ nói:
-Những việc đó đều do ý ta cả. Từ nay Tể tướng ra lệnh gì các ngươi phải coi đó như là lệnh của ta và phải triệt để thi hành. Nếu không nghe lời, ta sẽ thẳng tay trừng trị chớ có trách.
Thấy không trông cậy gì ở Chế Mỗ được, các quan chán nản dần xa rời ông ta.
Vua Chế A Nan thì bệnh hoạn ngày càng tăng, đầu óc ông cũng dần kém minh mẫn. Một hôm Du Đà đem việc các quan xầm xì về thái độ có vẻ chuyên quyền của Bố Để tâu với ông, ông gạt đi:
-Bố Để là hạng người trung hậu, không nên nghi ngờ.
Thấy vua A Nan quá tin tưởng Bố Để, sợ nói nhiều sẽ rước vạ vào thân, mọi người cũng lơ dần. Chẳng bao lâu sau, Chế A Nan giao hết quyền hành cho Chế Mỗ để nghỉ ngơi an dưỡng. Đương nhiên Trà Hòa Bố Để trở thành người trực tiếp điều hành guồng máy triều đình bên cạnh vị hoàng tử bù nhìn. Mọi việc trong triều vẫn tiếp tục được giải quyết êm xuôi. Dần dần, các quan và ngay cả Du Đà đều cảm thấy phục tài Bố Để và tin tưởng Bố Để sẽ làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh!
Giữa năm Nhâm Ngọ thì vua Chế A Nan qua đời.

Thời bấy giờ ở nước Chiêm, mỗi lần một vị vua qua đời, người kế vị sẽ được triều đình tôn lên ngôi, vị vua mới sẽ đứng ra chủ trì lễ hỏa táng* cho vị vua cũ. Lễ hỏa táng là ngày lễ quan trọng bậc nhất trong đời người quá vãng. Làm lễ ấy thường phải lựa một ngày thật tốt. Nếu lễ hỏa táng không được thực hiện chu đáo, người sống có thể phải gánh chịu cái hậu quả âm oán, tai họa không biết đâu mà lường. Nếu chưa tìm ra ngày tốt gần thì phải chờ đợi ngày tốt kế tiếp, có khi lâu đến cả tháng. Vua Chế A Nan qua đời vào lúc rạng sáng. Vị Sư Cả, người có trách nhiệm coi ngày tốt để hỏa táng cho biết trong thời gian gần đó chỉ có một ngày tốt duy nhất lại đúng vào ngày thứ năm tính từ ngày nhà vua mất. Kế tiếp hơn một tháng sau đó không chọn được một ngày nào thích hợp với việc hỏa táng nữa. Nếu phải đợi chờ hàng tháng như thế, không những phải tốn kém nặng mà còn gây nhiều phiền phức khác nữa. Bất đắc dĩ triều đình Chiêm Thành phải chọn ngày vị Sư Cả cho là tốt gần nhất để làm lễ hỏa táng. Vì thế, đành phải lấy ngày kế tiếp sau ngày nhà vua mất làm ngày “lễ cho ăn” cho khớp với quá trình lễ hỏa táng! Lễ hỏa táng chính thức gồm bốn ngày liên tiếp: ngày thứ nhất làm “lễ cho ăn”, ngày thứ hai “lễ hát tang ca”, ngày thứ ba “lễ chém cây” và ngày thứ tư chính là “lễ hỏa táng”. Vì công việc cấp bách, Tể tướng Trà Hòa Bố Để đề nghị với hoàng tử Chế Mỗ:
-Bây giờ phải lo việc tang chế cho vương thượng cấp bách quá, nếu tổ chức lễ đăng quang nữa thì công việc lập chập, vất vả không bên nào chu đáo được. Vậy ta nên tập trung tổ chức lễ hỏa táng cho tốt đẹp đã. Sau đó thong thả sẽ tổ chức lễ đăng quang cho điện hạ tiện hơn!
Hoàng tử Chế Mỗ nói:
-Tể tướng xếp đặt sao cho tiện thì thôi!
Các quan hết thảy đều đồng ý như vậy. Sau khi cùng với Trà Hòa Bố Để lo lễ hỏa táng cho vua cha xong, hoàng tử Chế Mỗ hân hoan chờ ngày chính thức bước lên ngôi vị chủ tể nước Chiêm Thành. Ông nói với Trà Hòa Bố Để:
-Tể tướng phải tổ chức buổi lễ đăng quang cho ta thật long trọng, vượt hẳn các cuộc đăng quang của các vị tiên vương đấy nhé. Ta sẽ không quên công lao khó nhọc của ông đâu!
Bố Để mỉm cười thưa:
-Điện hạ đã dạy, tôi sẽ cố gắng làm theo ý của điện hạ. Điện hạ sẽ là một vị chúa hiển hách nhất của nước Chiêm từ xưa tới nay. Nhưng muốn việc tổ chức lễ đăng quang được hoàn hảo, phải có một thời gian ít nhất là năm bảy ngày để chuẩn bị mọi thứ. Bây giờ điện hạ cứ yên chí về nghỉ ngơi. Tôi sẽ tự tay soạn thảo chương trình buổi lễ và cho mọi phần hành tập dượt thuần thục xong sẽ mời điện hạ duyệt lãm trước khi chính thức đăng quang.
Chế Mỗ vui vẻ đồng ý ngay:
-Được, ông gắng lo cho xong sớm. Đừng để ta phải nóng lòng trông đợi!
-Xin tuân lệnh điện hạ. Tôi cũng mong cho việc lớn chóng thành. Điện hạ được vinh hiển tôi cũng được nở mày nở mặt lây vậy!
Quan tham mưu Chế Hồng Phúc thưa:
-Tể tướng trù liệu như vậy phải lắm. Phải có thì giờ chuẩn bị công việc mới hoàn hảo. Hơn nữa, điện hạ mới tuyển được quí nhân, cũng nên nhân dịp chờ đợi này để vui vẻ lo việc nhà. Khi đăng quang rồi điện hạ đâu còn được rảnh rỗi như bây giờ!
Nghe Hồng Phúc nói, Chế Mỗ nhớ ngay đến hai nàng kỹ nữ Mỵ Hương, Mỵ U mà ông mới tuyển được chưa bao lâu. Trong thời gian vừa qua, vì bận rộn việc tang chế phụ vương, Chế Mỗ không thể chuyên tâm vui vẻ với các giai nhân, nay có người nhắc, ông bỗng cao hứng cười mà nói đùa:
-Phải rồi! Lâu lâu các quan lại được nghỉ phép một thời gian để lo việc nhà, tại sao ta lại không có? Trước khi đăng quang ta cũng cần nghỉ phép một thời gian để lo việc nhà như các quan mới công bằng chứ!
Bố Tân nghe Chế Mỗ nói có vẻ chói tai, bèn thưa:
-Tiên vương đã qua đời, ngôi vua không thể để trống lâu ngày. Điện hạ nên tiến hành việc đăng quang sớm chứ sao lại bày chuyện nghỉ phép làm gì cho trở ngại việc công?
Chế Mỗ lộ vẻ giận nói bướng:
-Dù ta đã đăng quang hay chưa đăng quang thì ai cũng biết ngôi vua đó là của riêng ta! Về công việc trong triều trước sau vẫn do một tay Tể tướng Trà Hòa Bố Để giải quyết, có gì là trở ngại đâu? Ta không muốn nghe ông nói những lời dư thừa như thế!
Bố Tân bị Chế Mỗ mắng quê mặt bèn im tiếng. Trước đây, Bố Để vẫn luôn sát cánh với Chế Mỗ để cùng lo công việc triều đình. Thật ra Chế Mỗ chẳng hề biết gì về chính sự. Mọi việc ông đều làm theo sự sắp xếp, hướng dẫn của Bố Để cả. Tham dự vào các công việc này chẳng qua là do vua cha bắt buộc chứ thật sự Chế Mỗ chẳng có chút hứng thú nào. Bây giờ vua cha đã qua đời, ông muốn giao trọn việc triều chính cho Tể tướng Bố Để để ông được rảnh rang, tự do hưởng lạc. Nay nghe Bố Để hứa như vậy, Chế Mỗ rất yên tâm. Ông hớn hở trở về biệt điện tiếp tục việc vui chơi.
Vốn tính lười biếng, lại quá tin tưởng vào Bố Để, đã bốn ngày trôi qua mà Chế Mỗ vẫn chẳng thèm bước ra điện Thiết Triều – nơi triều đình làm việc – để xem thử Bố Để tiến hành công việc ra thế nào. Bố Tân thấy Chế Mỗ vô tâm như vậy bất đắc dĩ phải nhắc nhở:
-Tể tướng Bố Để đã hứa sẽ tổ chức cuộc lễ đăng quang cho điện hạ thật long trọng, không biết bây giờ ông ta đã lo tới đâu rồi?
Chế Mỗ đáp không do dự:
-Tể tướng đã hứa ta đâu cần lo lắng nữa!
Bình thường Bố Để lúc nào cũng tỏ ra hết lòng với Chế Mỗ, làm việc gì cho Chế Mỗ cũng tới nơi tới chốn. Thấy Bố Tân là vị thầy gần gũi với Chế Mỗ nên Bố Để cũng đối xử với ông rất thân tình. Ngược lại, Bố Tân thấy Bố Để lúc nào cũng khiêm nhường, mềm mỏng, đầy vẻ trung hậu nên cũng không nghi ngờ gì. Nay nghe Chế Mỗ nói như vậy Bố Tân cũng yên chí không nói gì thêm.
Nhưng đến ngày thứ bảy vẫn chẳng thấy Bố Để bẩm báo gì với Chế Mỗ, Bố Tân không sao khỏi sốt ruột. Ông nói với Chế Mỗ:
-Không hiểu sao lần này Tể tướng lo công việc lại chậm đến thế? Bảy ngày rồi chứ ít sao! Điện hạ nên ra triều xem xét ông ta chuẩn bị công việc thế nào, phải thúc đẩy ông ta vẫn hơn!
Chế Mỗ khen phải rồi cùng Bố Tân dẫn một toán thị vệ ra triều. Khi tới gần điện Thiết Triều, thấy quân lính canh gác nghiêm nhặt, ông rất mừng. Nhưng liền đó ông xiết bao kinh ngạc khi nghe tiếng loa cảnh báo vang lên:
-Lệnh của tân vương, những ai không có phận sự không được xâm nhập điện Thiết Triều. Ai bất tuân, sẽ bị nghiêm trị!
“Lệnh của tân vương tức là lệnh của ta, nhưng ta đâu có ra lệnh ấy? Đây chắc là Bố Để nhân danh ta mà truyền lệnh. Khá khen cho cái tính nghiêm chỉnh và cẩn thận của y!”. Chế Mỗ khen chưa hết lời thì một toán quân sĩ hùng dũng tuốt vũ khí xông ra chận ông lại. Người chỉ huy toán quân ấy chính là La Bút, một tên cận vệ của Bố Để. Chế Mỗ nổi giận nạt:
-Hỗn láo, bộ ngươi không có mắt hay sao?
La Bút lạnh lùng nói:
-Chúng tôi không cần biết ông là ai cả. Chúng tôi chỉ biết thi hành lệnh của tân vương. Nếu ông không chịu lui, chúng tôi sẽ áp dụng biện pháp cần thiết!
Chế Mỗ xám mặt hỏi lại:
-Ta đây là hoàng tử Chế Mỗ, nay Tiên vương đã qua đời, nếu ta không là tân vương thì còn ai đây nữa chứ? Chẳng lẽ ngươi không biết điều đó?
La Bút vung gươm trắng trợn nói:
-Tiên vương đã có lệnh truyền ngôi cho phò mã Trà Hòa Bố Để. Ông không còn can dự gì tới triều đình này nữa. Tân vương tha mạng cho ông là may lắm rồi! Yêu cầu ông rút lui ngay! Quân sĩ, hãy thi hành nhiệm vụ!
Toán quân ấy bỗng đồng loạt tiến tới một bước. Những ngọn đao sắc trong tay họ cũng đồng loạt vung lên. Đám vệ sĩ của Chế Mỗ hoảng sợ vội bao quanh bảo vệ chủ. Bố Tân nhảy ra đứng chặn trước mặt toán quân của La Bút, thét lớn:
-Chúng bây không được làm hỗn với đức điện hạ!
Thấy Bố Tân xuất hiện, bọn lính ấy hơi khựng lại. Chế Mỗ nói:
-Hãy kêu Trà Hòa Bố Để ra đây cho ta nói chuyện!
Nhưng La Bút trợn mắt quát:
-Biết điều hãy lui ngay! Nếu không, ta chẳng vị tình đâu!
Bố Tân thấy tình hình bất lợi, quay lại nói với Chế Mỗ:
-Chúng nó phản rồi. Xin điện hạ hãy tạm lui rồi tìm cách đối phó sau.
Chế Mỗ phẫn uất lắm nhưng chẳng biết làm sao hơn, đành quay trở về điện của mình. Ông hậm hực nói:
-Ta có bạc đãi Bố Để bao giờ đâu! Không ngờ nó phản ta như thế! Biết làm sao bây giờ?
Bố Tân ngẫm nghĩ một lát rồi thưa:
-Thú thật, tôi cũng không hiểu ra sao cả! Lâu nay tôi cứ tưởng Bố Để là người trung thành với điện hạ nhất. Nhưng nay rõ ràng Bố Để đã phản điện hạ, đâu còn nghi ngờ gì nữa! Càng khó hiểu là tại sao y vẫn để yên cho chúng ta thế này? Y toan tính gì nữa đây? Quyền hành y nắm hết trong tay, nếu y muốn hại ta đâu có khó! Chắc là y vị nể công chúa Đa Lợi nên nương tay! Nếu ta quyết liệt chống lại, y có thể tiêu diệt ta mất! Chi bằng cứ tạm thuận theo y để giữ thân cái đã rồi tính sau.
Chế Mỗ ứa nước mắt mếu máo:
-Chính ông cũng nói thế ta còn biết nhờ cậy ai?
Thế rồi Chế Mỗ vào phòng riêng đóng cửa lại. Một lát sau Bố Tân xin vào gặp Chế Mỗ. Chế Mỗ lại mếu máo hỏi:
-Ông cũng muốn bỏ ta rồi, còn vào đây làm gì nữa?
Bố Tân nói:
-Xin điện hạ bình tĩnh, hồi nãy điện hạ hỏi phải làm sao trong tình trạng này, tôi không dám nói thật vì sợ trong đám vệ sĩ của ta có thể đã có người của Bố Để gài vào, nói ý của mình ra nó sẽ báo lại với Bố Để. Giờ đây không có ai, tôi xin trình một ý kiến: Bố Để tuy đã đoạt được quyền hành nhưng không phải ai cũng phục tùng y đâu! Ta phải ngầm cho người dò ý những bề tôi cũ của Tiên vương, ai có bụng trung thành hãy liên kết với họ để gây dựng lại thế lực. Khi đã đủ sức, ta sẽ tìm cách giành lại ngôi báu.
Chế Mỗ nghe hơi mừng, ông nói:
-Kế ấy nghe được lắm! Ông đứng ra lo giúp ta việc đó được không?
-Điện hạ đã tin tôi mà giao việc, tôi đâu dám chối từ!
Lúc bấy giờ người của Bố Để đã nắm hết mọi then chốt của bộ máy triều đình. Vốn biết rõ Chế Mỗ hơn ai hết, Bố Để chẳng coi ông ta ra gì cả. Đến nỗi Bố Để chẳng thèm cho người theo dõi xem Chế Mỗ có hành động nào chống lại mình không! Toàn bộ nhân sự của hoàng gia vẫn sinh hoạt đều đặn như cũ, chẳng thay đổi mảy may. Nói chung là cả triều đình gần như đều dửng dưng trước sự tiếm quyền của Tể tướng Trà Hòa Bố Để.
Bố Tân tuy hơi lười biếng nhưng bản chất vốn rất thuần hậu, trung thành. Sau khi được Chế Mỗ giao phó sứ mạng, ông đã hăng hái lao vào công việc. Ông lần lượt bí mật tiếp xúc với một số quan lại trong triều. Nhưng ông đã gặp nhiều khó khăn trong việc thuyết phục họ. Tài năng của Trà Hòa Bố Để đã chinh phục được lòng người. Ai cũng tin Bố Để sẽ làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh. Hoàng tử Chế Mỗ kém cỏi quá, làm sao tin được ông ta có thể trở thành một vị vua hiền? Chỉ có lác đác vài người hứa ủng hộ nhưng đều xin giấu mặt. Điều mâu thuẫn là nhiều người còn nặng lòng sùng kính, nhớ ơn vị Tiên vương Chế A Nan nên không ai nỡ lòng hại Chế Mỗ. Chính Tể tướng Bố Để cũng biết điều đó nên vẫn để Chế Mỗ sống yên ổn.
Khi Bố Tân đến tiếp xúc với Du Đà, Du Đà khuyến cáo:
-Tôi biết ông vì hoàng tử mà làm việc này nhưng coi chừng nó có thể tác dụng ngược, trở lại làm hại hoàng tử đó!
-Xin ông cho biết rõ lý do?
-Ông gần gũi hoàng tử Chế Mỗ lẽ nào không biết điều ấy? Hoàng tử bản chất tầm thường, dù chiếm lại được ngôi báu chưa chắc hoàng tử sẽ làm được gì cho đất nước! Còn Bố Để là người có tài, có quyết tâm rửa hận cho dân tộc. Tuy hơi tham lam, nhưng Bố Để vẫn còn đủ tình người, vẫn biết trọng điều nhân nghĩa. Ông ta có thể trở thành một minh quân lắm chứ! Dù đang nắm trọn quyền hành trong tay, ông ta vẫn không nỡ làm hại hoàng tử chứng tỏ ông ta không phải là kẻ bạc tình. Hoàn cảnh đã đưa đến như thế, biết đâu đó chẳng là một vận hội mới cho nước Chiêm vươn lên? Nay ông giúp hoàng tử mong lật lại thế cờ, Bố Để và hoàng tử Chế Mỗ tất phải đối đầu nhau, thế là ông ép họ vào con đường phải giết nhau! Nếu trường hợp ấy xảy ra, tôi tin chắc hoàng tử phải thất bại, sẽ di hại đến cả hoàng gia nữa. Mà dù hoàng tử có thành công, nước Chiêm cũng sẽ đi đến chỗ suy yếu. Mấy lời chân thành, xin ông xét kỹ cho!
-Ông là người thân tín của Tiên vương mà nói thế tôi thất vọng hết sức. Tiên vương đã giao việc giáo dục và bảo vệ hoàng tử cho tôi, giờ đây tôi chỉ biết có hoàng tử Chế Mỗ. Để đáp ơn tri ngộ của Tiên vương, dù phải chết tôi vẫn phải thực hiện việc này.
-Tôi với ông đều chịu ơn Tiên vương như nhau. Nhưng ông phải hiểu là Tiên vương bao giờ cũng muốn gây dựng một nước Chiêm hùng mạnh không lệ thuộc Chân Lạp hay Đại Việt chứ! Giữa Bố Để và hoàng tử xem ai có thể làm cho nước Chiêm trở nên hùng mạnh theo ý nguyện của Tiên vương? Ông thấy rõ vấn đề đó chứ? Tôi không muốn để xảy ra cảnh huynh đệ tương tàn làm quốc gia phải suy yếu! Sự thể đã đến nước này hoàng tử làm sao lật lại thế cờ được? Một lần nữa xin ông suy nghĩ lại!
-Tôi đã nhất quyết. Nếu ông phá vỡ kế hoạch này, tôi đành chịu chết thôi!
-Tôi có lời khuyên ông là vì nghĩa vụ đối với nước Chiêm và cũng vì tình bằng hữu đối với ông nữa. Nếu ông không nghe tôi cũng chịu thôi. Nhưng xin hứa tôi không phá kế hoạch của ông đâu! Ông cứ yên tâm theo đuổi mục đích của mình. Tôi coi như không biết gì đến việc ông đang làm!
Khi Bố Tân đã đi khỏi, Du Đà than thở:
-Thật khó mà ngăn chận được cảnh huynh đệ tương tàn! Đáng tiếc là cái ông hoàng ngu tối khùng điên này đã tự tìm cái chết! Không chỉ hại thân mà còn làm liên lụy đến cả hoàng gia nữa chứ! Ai có thể che chở họ đây? Đáng thương cho hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, khôi ngô tuấn vỹ như vậy mà không được hưởng phước đời!
Đêm hôm đó Du Đà không thể nào ngủ được. Hễ nhắm mắt ông lại thấy những cảnh đâm chém nhau diễn ra. Chỉ toàn là cảnh người Chiêm chém giết người Chiêm! Nhiều lần ông thấy cảnh Chế Mỗ bị chém đầu! Mỗi lần như vậy ông lại phải mở bừng mắt ra. Thao thức một hồi ông lại cố nhắm mắt ngủ tiếp. Nhưng những cuộc đâm chém nhau vẫn không rời khỏi đầu óc ông. Tới khi thấy cảnh một tên lính đưa cao ngọn đao và một cậu bé khôi ngô tuấn tú hiên ngang ngẩng đầu chờ chết, ông đã hét lớn: “Không thể được!Ta phải cứu cậu bé này!”
Cậu bé trong giấc mộng mà Du Đà nói đó chính là Na Tác Nhĩ, em cùng cha khác mẹ với vua Chế A Nan. Du Đà là người thân cận với vua Chế A Nan nên biết khá rõ về cậu bé. Na Tác Nhĩ ra đời đúng vào lúc thân phụ cậu là Thái thượng vương Hiệu mất. Một năm sau mẹ cậu cũng qua đời. Chế A Nan thương em nên cho người hết lòng chăm sóc, dạy dỗ cậu. Năm ấy Na Tác Nhĩ mới lên bảy tuổi nhưng to xác, khỏe mạnh trông như một trẻ lên mười. Cậu lại thông minh, siêng năng học hành, chịu khó tập luyện võ nghệ. Mới ngần ấy tuổi nhưng cậu đã rành việc cỡi ngựa bắn cung. Chế A Nan vẫn hay hãnh diện nói với mọi người: “Na Tác Nhĩ là con voi thần của nhà ta! Sau này cậu ấy sẽ là rường cột của đất nước Chiêm Thành đấy”.
Nếu cuộc tranh giành ngôi báu giữa ông anh rể và cậu em vợ không thể tránh được, Na Tác Nhĩ chắc sẽ trở thành mục tiêu thứ hai mà Trà Hòa Bố Để phải nhắm đến. Kế sách nhổ cỏ phải nhổ tận gốc vẫn là kế sách mà hầu hết những kẻ soán vị xưa nay đều áp dụng. Na Tác Nhĩ tuy còn bé, nhưng chắc hẳn Bố Để không thể bỏ quên cậu. Suy nghĩ như thế nên ngay hôm sau, Du Đà đã bí mật tìm cách đưa Na Tác Nhĩ trốn khỏi Đồ Bàn.
Từ ngày vua Chế A Nan trao quyền điều khiển việc nước cho hoàng tử Chế Mỗ, Tể tướng Bố Để vẫn thường thay mặt hoàng tử để sắp đặt mọi việc. Hôm ấy, Bố Để đã cho mời các chức sắc tôn giáo quan trọng, đồng thời chỉ thị các quan lớn nhỏ trong triều tề tựu tại sân trước nhà hội Vĩnh Xương để nghị sự. Quân sĩ được điều động bố trí canh giữ nghiêm ngặt tất cả các địa điểm trọng yếu tại kinh thành. Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, Tể tướng Trà Hòa Bố Để xuất hiện bước lên diễn đàn tuyên bố:
-Nước Chiêm Thành ta được gây dựng từ xưa, vẫn nổi tiếng là một nước anh hùng. Nhưng thời gian gần đây Chiêm Thành hay bị các nước láng giềng xa gần thay nhau đe dọa, lấn áp. Hết Chân Lạp tới Mông Cổ, hết Mông Cổ tới Đại Việt, dân ta phải luôn trực tiếp hoặc gián tiếp làm tôi mọi cho người ngoại chủng, cực nhục trăm bề. Chúng ta không thể sống trong tình trạng đen tối đó mãi. Khi còn sống, Tiên vương ta từng nuôi mộng phải làm sao để nước Chiêm mãi mãi về sau không còn lệ thuộc ai nữa! Nước Chiêm nhất định phải vùng lên, phải hùng mạnh, phải đủ sức chống trả mọi cuộc xâm lăng. Nhất là phải lấy lại cho được những phần đất cát mà Đại Việt đã lừa dối tiền nhân chúng ta để tước đoạt! Tiếc thay, Tiên vương chưa thực hiện được ý nguyện thì ngài đã qua đời! Trong thời gian trị vì, Tiên vương đã đem lại cảnh sống ấm no, thanh bình cho dân Chiêm ta. Bây giờ ngài mất rồi, liệu dân Chiêm ta còn được hưởng tiếp cảnh sống an lạc đó không? Khó lắm, nếu vị vua kế nghiệp không có đủ tài đức để trị dân, giữ nước như Tiên vương! Làm sao thực hiện cái ý nguyện mà Tiên vương là lấy lại phần đất Đại Việt đã cướp của nước ta? Các ngươi có muốn chúng ta phải tiếp tục thực hiện ý nguyện của Tiên vương không?
Hàng trăm cái miệng cùng hô vang:
-Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương! Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương!
Trà Hòa Bố Để dõng dạc hỏi tiếp:
-Tất cả mọi người đều muốn thực hiện ý nguyện của Tiên vương phải không?
Cử tọa lại đồng loạt hô vang:
-Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương! Phải thực hiện ý nguyện của Tiên vương!
Trà Hòa Bố Để lại tiếp tục:
-Muốn thực hiện ý nguyện của Tiên vương, nước Chiêm bắt buộc phải có một đấng chủ tể bản lãnh vượt người, đủ khả năng dẫn dắt toàn dân, làm sao cho người người đoàn kết một lòng, đi theo một đường, cùng hướng tới một mục đích, mới mong thành công được! Các ngươi đồng ý như thế không?
-Đồng ý! Đồng ý! Đồng ý!
Trong lúc mọi người đang hăng say hướng tâm trí tìm một nhân vật thượng đẳng có khả năng xoay chuyển thời thế thì Trà Hòa Bố Để đổi sang một giọng đầy xúc động:
-Đau đớn thay, trời không thương dân Chiêm! Tiên vương anh hùng như thế, ý chí siêu việt như thế mà trời không cho thọ để dẫn dắt dân tộc Chiêm tới nơi tới chốn như ý nguyện của ngài! Trời cũng chẳng cho ngài được một người con xứng đáng như ngài mong ước! Hoàng tử Chế Mỗ sinh ra chỉ biết ham chơi, không có một chút tài đức nào cả làm sao có thể nối chí Tiên vương? Khi còn sống, Tiên vương đã từng khổ sở than thở việc đó. Như thế có phải là lòng trời không thương nước Chiêm ta không? Trời hỡi trời! Sao trời nỡ làm thế? Bây giờ dân Chiêm chúng tôi phải làm sao để thực hiện ý nguyện của Tiên vương, để tự cứu lấy mình?
Thế rồi Bố Để ôm mặt khóc nức nở. Tiếng khóc của Bố Để như truyền cả nỗi uất hận, tủi nhục của những kẻ bị ức hiếp, chà đạp vào lòng mọi người. Chỉ một lát sau tiếng sụt sịt đã lan ra khắp nơi. Đột nhiên có ba vị quan cùng tiến lại gần Bố Để rồi sụp quì xuống. Một vị có vẻ lớn tuổi nhất trong số đó hướng về Bố Để nói với giọng nghẹn ngào:
-Tôi là Chế Hồng Phúc xin có một lời thưa với Tể tướng: Nay Tiên vương đã khuất núi, vận nước có thể đổi thay. Hoàng tử Chế Mỗ là người ít tài, khó giữ được kỷ cương như trước. Chiêm Thành đang cần có một đấng minh quân để đưa đất nước tiến lên. Trong triều hiện nay chỉ có Tể tướng là người có khả năng tạm quyền việc ấy! Tể tướng là rể của Tiên vương thì cũng như con Tiên vương thôi. Vì đại sự quốc gia, chúng tôi thỉnh cầu Tể tướng hãy lên ngôi chủ tể nước Chiêm để giữ cho nước Chiêm khỏi bị suy yếu, khỏi sa vào cảnh lệ thuộc nước ngoài. Được như vậy thì may phước cho dân Chiêm lắm!
Hai vị quan kia cũng nói:
-Chúng tôi cũng một ý như lão tham mưu Chế Hồng Phúc! Xin Tể tướng nhận lời cho!
Rồi không đợi Trà Hòa Bố Để trả lời, lão quan Chế Hồng Phúc quay lại phía cử tọa hỏi lớn:
-Quý vị có đồng ý tôn phò mã Trà Hòa Bố Để lên ngôi vua không?
Mọi người đều quỳ xuống một lượt chắp tay hướng về Trà Hòa Bố Để vừa xá vừa tung hô:
-Trà Hòa đại vương vạn tuế! Trà Hòa đại vương vạn tuế!
Tể tướng Trà Hòa Bố Để hơi mất tự nhiên giây lát rồi với nụ cười rạng rỡ, ông khoát tay ra hiệu cho mọi người:
-Thôi, các ngươi bình thân đi! Ta thật lòng chẳng ham địa vị chủ tể nước Chiêm, nhưng các ngươi đã thương quý ta, tin tưởng ta, ủng hộ ta ngồi vào địa vị ấy, ta phải gắng nghe theo chứ biết làm sao bây giờ! Trước các chức sắc tôn giáo, các quan lại của triều đình đại diện cho quốc dân Chiêm Thành, ta trân trọng tuyên thệ: kể từ giờ phút này phải tìm mọi cách để đưa nước Chiêm tới chỗ hùng cường, giàu có, thoát khỏi mọi sự chèn ép của các lân bang, sau đó sẽ tiến tới việc thu hồi lại những phần đất cát của tổ tiên đã bị các lân bang chiếm đoạt! Ta kêu gọi các chức sắc tôn giáo, các quan lại và toàn dân Chiêm phải triệt để kề vai sát cánh ủng hộ ta, giúp đỡ ta, như vậy ta mới có thể sớm thực hiện được những nguyện vọng ấy!
Đến đây lão quan Chế Hồng Phúc lại hô lớn:
-Tân vương vạn tuế! Chúng tôi nguyện một lòng ủng hộ ngài. Trời đất thánh thần cũng sẽ phò trợ, giúp đỡ ngài chu toàn sứ mệnh!
Toàn thể cử tọa đồng loạt hô theo:
-Tân vương vạn tuế! Chúng tôi nguyện một lòng ủng hộ ngài. Trời đất thánh thần cũng sẽ phò trợ, giúp đỡ ngài chu toàn sứ mệnh!
Thế rồi hôm sau Tể tướng Trà Hòa Bố Để chính thức làm lễ lên ngôi vua Chiêm Thành.Vụ cướp ngôi của Trà Hòa Bố Để đã diễn ra thật êm ả. Hoàng tử Chế Mỗ thấy mình cô thế quá, không dám có một phản ứng nào. Ông chỉ biết khóc lóc, ôm mối phẫn hận nằm miết trong điện, phó mặc cho số mệnh đẩy đưa…
Sau khi đăng quang, vua Bố Để hội triều thần để bàn định kế hoạch trị quốc. Trên thực tế vua Bố Để đã cầm quyền từ lâu nhưng đây là lần đầu tiên ông chính thức ngự trên ngai vàng để ban hiệu lệnh cho quần thần. Nhà vua mở đầu:
-Từ đây ta là chủ tể của nước Chiêm, ta sẽ dốc hết sức hết lòng để gây dựng một nước Chiêm thật hùng mạnh. Châm ngôn có câu “dại hai người hơn khôn một mình”, nếu không có các ông hợp sức, ta sẽ không làm gì được! Ta rất cần sự hợp sức, góp ý của các ông! Vậy, ngay từ giờ phút này, ai có kế hoạch gì hay cứ trình bày ta nghe thử. Nếu dùng được, ta sẽ thưởng, nếu dùng không được, ta cũng chẳng quở trách đâu!
Vua Bố Để nói xong thì một viên quan tâu:
-Thần là La Khâm xin thưa: Tiên vương vốn là người do Đại Việt lập nên, lâu nay hằng năm nước ta vẫn triều cống Đại Việt. Nay Tiên vương đã qua đời, bệ hạ lên kế nghiệp, tưởng ta cũng nên cử sứ sang Đại Việt báo tang cho phải phép và xin phong vương cho bệ hạ luôn thể. Nếu không làm việc đó, thần sợ sẽ bị Đại Việt bắt bẻ làm khó cho ta.
La Khâm nói xong thì tướng quân Lạc Thích tiếp lời:
-Việc báo tang và xin phong vương là việc rất cần thiết, không thể bỏ lơ được. Tuy thế, sự tồn tại của hoàng tử Chế Mỗ cũng là một trở ngại lớn. Nếu Đại Việt hỏi tại sao không lập con mà lại lập rể vua cũ lên kế vị, ta biết trả lời sao? Theo thần nghĩ, ta nên giải quyết vấn đề Chế Mỗ cho êm ấm trước đã!
Vua Bố Để hỏi:
-Theo ông, ta nên giải quyết như thế nào?
Lạc Thích nói không ngần ngại:
-Chắc bệ hạ đã từng nghe câu ngạn ngữ “trảm thảo trừ căn” của người Trung Hoa? Vì việc lớn của quốc gia, đâu cần câu nệ một điều nghĩa nhỏ! Thần nghĩ ta cứ đặt Đại Việt trước một sự đã rồi vẫn là thượng sách!
Lão tham mưu Chế Hồng Phúc vội ngăn:
-Bệ hạ không nên nghe lời ấy! Dân Chiêm vẫn còn nhiều thiện cảm với Tiên vương. Hoàng tử Chế Mỗ chưa làm gì nguy hiểm đến nỗi bệ hạ phải xử sự như thế! Ngoài ra hoàng tử lại là em của hoàng hậu, chẳng lẽ bệ hạ không sợ hoàng hậu đau lòng? Nếu có chuyện không hay xảy đến cho hoàng tử thần sợ dân chúng sẽ bất mãn, sẽ nghi ngờ đến đức lớn của bệ hạ. Bệ hạ nên cho người bảo vệ an ninh, khuyên lơn, an ủi hoàng tử chắc hẳn mọi việc sẽ tốt hơn! Còn với Đại Việt, ta chỉ cần báo với họ hoàng tử trí óc không được bình thường không coi việc nước được cũng xong! Theo thần biết, sau khi Huệ Vũ vương Quốc Chẩn bị giết, quân đội Đại Việt đang ở trên đà suy yếu. Hiện nay họ không muốn gây hấn với ai đâu. Thần nghĩ dù biết ta báo cáo không thành thật, họ cũng sẽ lờ đi cho yên chuyện.
Mọi người đều khen Hồng Phúc nói có lý. Vua Bố Để phán:
-Ý kiến của Chế Hồng Phúc hay lắm! Cứ như vậy mà thi hành!
Vua lại nói với La Khâm:
-Ông giúp ta việc đi sứ Đại Việt nhé! Ta sẽ chỉ thị lo mọi chuyện cần thiết giúp ông. Ông chuẩn bị để lên đường càng sớm càng hay!
Giao việc cho La Khâm xong, vua Bố Để hỏi Chế Hồng Phúc:
-Ông lo việc thuyết phục hoàng tử Chế Mỗ được không?
Chế Hồng Phúc thưa:
-Thần sẽ cố gắng. Nhưng xin bệ hạ cho một chỉ thị thật rõ ràng để thần dễ ăn nói với ông ta!
-Được. Ông hãy yêu cầu hoàng tử thực hiện các điểm sau đây: Thứ nhất, không được rời khỏi kinh thành nếu không có sự đồng ý của ta. Thứ hai, không được tự ý gặp gỡ các quan chức lớn nhỏ trong triều một cách riêng tư, lén lút. Thứ ba, tuyệt đối không được tiếp xúc với bất cứ sứ đoàn ngoại quốc nào khi họ đến Đồ Bàn. Nếu hoàng tử giữ được ba điều kiện ấy thì bỗng lộc của hoàng tử vẫn được giữ nguyên như cũ. Sẽ không có một ai được xâm phạm đến một cọng lông chân của hoàng tử và những người trong gia đình ông ta.
Chế Hồng Phúc lộ vẻ vui mừng:
-Bệ hạ đã cư xử độ lượng như thế thần tin mọi việc sẽ êm đẹp cả!
Việc thương thuyết với Chế Mỗ không gặp khó khăn gì. Vừa nghe Chế Hồng Phúc phân tích sự lợi hại giữa hai con đường hòa hay chiến, Chế Mỗ liền đồng ý tuân thủ những điều mà Bố Để đã đưa ra. Khi Chế Hồng Phúc báo lại tin này, vua Bố Để khen:
-Ông quả là tay nhìn xa thấy rộng! Ta hi vọng vụ đi sứ Đại Việt của La Khâm cũng sẽ thành công như ông tiên liệu!
Vấn đề nhân sự đã tạm ổn, Trà Hòa Bố Để bắt đầu lo việc chấn chỉnh guồng máy cai trị mới.
Ba tháng sau La Khâm trở về Đồ Bàn cùng với một sứ đoàn của Đại Việt. Không ngờ cuộc đi sứ này đã mang lại kết quả vượt ngoài sự mong muốn của Trà Hòa Bố Để: Nhà Trần chẳng hề cật vấn La Khâm về việc chàng rể nối ngôi bố vợ mà lại còn ân cần cử sứ giả theo La Khâm sang Chiêm viếng tang và phong vương cho Bố Để nữa.
Thế là vấn đề Đại Việt coi như yên, Bố Để nói với Chế Hồng Phúc:
-Những điều ông tiên liệu quả không sai. Nếu Đại Việt không gặp chuyện bất thường, chẳng đời nào họ dễ dàng phong vương cho ta như thế!
Ông lại quay sang hỏi La Khâm:
-Ông được yết kiến thiên tử mấy lần? Ta nghe nói ngài còn trẻ lắm, trông diện mạo ngài như thế nào?
-Thưa, hai lần. Thiên tử còn rất bé, theo thần biết ngài chỉ mới lên bảy, vui vẻ hồn nhiên lắm. Khi thần dâng biểu, viên thị thần tiếp nhận biểu chưa kịp dâng lên, ngài đã khoát tay tươi cười nói “cho sứ giả bình thân”.
-Thế Thượng hoàng có được khỏe không?
-Thưa, mấy lần thần vào chầu đều chẳng gặp được ngài mà chỉ gặp ấu vương và các quan đại diện, có thể ngài đang se mình.
Trà Hòa Bố Để hớn hở nói:
-Nhà Trần suy rồi! Thượng hoàng thì già yếu bệnh hoạn, ấu vương thì chưa biết việc nên chẳng ai quan tâm đến việc thay ngôi đổi chủ ở Chiêm Thành cả. Đây chính là cơ hội tốt cho nước Chiêm lo việc chấn chỉnh nội bộ, phục hồi sức mạnh để chờ ngày rửa hận! Các khanh phải gắng giúp ta, chớ bỏ lỡ cơ hội quí báu này!
Chế Hồng Phúc thưa:
-Tâu vâng, chúng thần sẽ ra sức giúp bệ hạ phục hồi sức mạnh của nước Chiêm, chờ ngày rửa hận!
Các quan đồng loạt nói:
-Chúng ta phải ra sức phục hồi sức mạnh nước Chiêm, chờ ngày rửa hận!
Lúc bấy giờ hoàng tử Đạt Vân mới mười ba tuổi cũng theo cha ra triều lên tiếng:
-Con cũng xin ra sức giúp cha rửa hận cho dân tộc!
Bố Để mừng rỡ nói với mọi người:
-Con ta còn nhỏ mà cũng có ý chí như thế thì quả thật lòng trời cũng muốn giúp ta!
Thế rồi Bố Để ráo riết đốc thúc việc tập luyện quân đội. Hàng trăm con voi cũng được ra công dạy dỗ thuần thục sẵn để sử dụng trong trận mạc. Ông còn chỉ thị cho thợ đóng hàng trăm chiến thuyền để tăng cường cho thủy quân. Mặt khác, ông cho đốc thúc dân chúng chăm lo việc chăn nuôi, trồng trọt, dự trữ lương thực để chờ lúc dùng tới. Thế lực nước Chiêm càng ngày càng vững mạnh. Các nước lân cận như Chân Lạp, Lào, Java thấy thế đều nể nang, không còn dám gây hấn, quấy nhiễu như trước.
Trà Hòa Bố Để thấy công việc mình làm đã có nhiều kết quả, ông vui mừng lắm. Trong một buổi chầu, ông nói với các quan:
-Lâu nay chúng ta ngày đêm vất vả luyện tập quân đội, thúc đẩy toàn dân ra sức làm việc, sản xuất lúa gạo, chăn nuôi dê gà, tất cả chỉ nhắm mục đích làm cho nước Chiêm mạnh lên. Nay mọi mặt đã có vẻ khả quan, các khanh liệu bao lâu nữa chúng ta đủ sức đánh Đại Việt?
Chế Hồng Phúc thưa:
-Theo nhận xét của thần, nước ta nay quả thật đã mạnh lên nhiều. Tuy thế, việc đánh Đại Việt, thần nghĩ chớ nên tính vội! Vua Đại Việt tuy thơ ấu thật, nhưng nay vẫn còn có Trần Mạnh (Thượng hoàng) còn được dân Việt qui phục đang nắm giữ quyền hành. Chúng ta cứ tiếp tục làm sao cho nước Chiêm mạnh thêm, năm ba năm nữa khi Trần Mạnh qua đời, chúng ta lo gì không quật ngã được Đại Việt!
Vua Bố Để chưa kịp nói gì thì hoàng tử Đạt Vân hăng hái nói:
-Thấy đủ sức thì cứ làm chứ biết bao giờ ông ấy qua đời?
Vua Bố Để lộ vẻ mừng nói với hoàng tử:
-Con cũng biết nóng ruột vì chuyện này ư? Anh dũng như thế mới xứng đáng con ta chứ!
La Khâm thưa:
-Đây là việc lớn của quốc gia, phải đắn đo thật kỹ! Khi thần đi sứ sang Đại Việt thì Trần Mạnh đang bệnh. Tuy vậy, ông ta mới ngoài bốn mươi, việc sống chết cũng khó mà liệu được. Thần nghĩ, bây giờ chúng ta thử thăm dò sức mạnh của họ trước xem sao rồi hãy tính!
Một vị quan hỏi lại:
-Thăm dò sức mạnh của Đại Việt bằng cách nào?
-Dễ lắm! Cứ việc bỏ lơ việc triều cống một thời gian xem họ phản ứng như thế nào. Nếu họ cho người sang khiển trách ngay tức là họ còn mạnh, còn quan tâm tới việc ngoài cõi. Ta chỉ việc xin lỗi vì lý do mất mùa túng thiếu nên triều cống trễ là xong. Nếu họ lờ đi hoặc chậm trách hỏi, rõ ràng đó là một thái độ dè dặt, lúng túng. Qua các thái độ ấy, ta có thể phỏng đoán sức mạnh của họ. Khi đó chúng ta quyết định cũng kịp!
Trà Hòa Bố Để khen:
-Ý kiến của La Khâm hay lắm! Ta cứ thử ngưng việc triều cống xem Đại Việt phản ứng thế nào rồi tính!
Trước đây Chế Mỗ nghe theo lời Bố Tân nên đã qui hàng Bố Để. Lúc bấy giờ Chế Mỗ chưa có thế lực nào hậu thuẫn, nếu không qui hàng làm sao tồn tại được! Hơn nữa, ông vẫn tin Đại Việt không bao giờ chấp thuận Bố Để làm vua nước Chiêm vì Bố Để không phải là con vua Chế A Nan do Đại Việt lập nên. Tới khi thấy Trà Hòa Bố Để được vua Đại Việt cử sứ sang phong vương, Chế Mỗ mới hỡi ôi! Quá phẫn uất về việc này, ông liền gọi Bố Tân đến trách:
-Ông khuyên ta tạm hòa với Bố Để để chờ thời, bây giờ Đại Việt đã phong Bố Để làm chúa Chiêm Thành, ta biết làm sao đây?
Bố Tân nói:
-Thật khó hiểu tại sao Đại Việt lại xử sự nông nổi như vậy? Điện hạ có lỗi gì với họ đâu mà họ nỡ bỏ rơi để phong vương cho Bố Để? Tôi nghĩ chắc hẳn Bố Để báo cáo gian với Đại Việt!
Chế Mỗ bực bội nói:
-Đại Việt đã bỏ rơi ta, ta chỉ còn biết nổi loạn thôi!
-Xin Điện hạ phải cẩn thận, không nên nóng nảy! Bố Để đã có âm mưu đoạt ngôi từ trước nên hắn đã mua chuộc và cấy người của hắn khắp nơi. Mình rục rịch là hắn biết ngay. Tốt hơn hết phải tìm cách cho người sang Đại Việt tìm hiểu nguyên do. Nếu quả Bố Để đã khai gian về vấn đề người kế tự của Tiên vương để đoạt ngôi, ta phải khiếu nại. Như vậy mới mong Đại Việt buộc Bố Để trả ngôi cho Điện hạ. Nếu không có Đại Việt hỗ trợ, sợ trong nước không ai dám theo ta đâu! Đã không có người theo ta làm gì được?
Chế Mỗ khẩn khoản nói:
-Theo ông nghĩ ta nên sai ai đi Đại Việt bây giờ?
-Trước hết ta phải lựa người khéo léo mới gánh vác nổi việc này. Và cũng phải đợi lúc Bố Để với Đại Việt có sự xục xịch nào đó đã mới dễ ăn nói. Một điều cần thiết nữa là ta phải sắm lễ vật thật nhiều. Chứ Bố Để mới cho người sang xin phong, đương nhiên nó phải đút lót hậu hĩ những kẻ có quyền thế trong triều đình Đại Việt. Họ mới ăn của Bố Để đó, giờ ta đòi truất phế Bố Để dễ gì họ nghe?
-Đã tới nước này trăm sự nhờ ông liệu giúp ta vậy!
-Điện hạ đã muốn thế, tôi nào dám từ nan! Tuy nhiên, xin Điện hạ kiên nhẫn, thư thả cho một thời gian. Ta cũng cần chuẩn bị trước phần nào về mặt nhân sự. Nếu không, giả như Bố Để trả lại ngôi, không lẽ Điện hạ dùng lại toàn bộ người của Bố Để? Hoặc giả nếu quân Đại Việt sang hỗ trợ cho Điện hạ, thấy ta không có người để sai khiến họ cũng sẽ coi thường!
Chế Mỗ hỏi lại:
-Theo ông, bây giờ ta phải làm gì trước?
-Tôi sẽ tiếp tục công việc trước kia, tìm những người còn trung thành với Tiên vương để thuyết phục họ sẵn sàng ra phò tá Điện hạ khi Điện hạ cần đến.
-Ông nghĩ thời gian làm công việc đó khoảng bao lâu?
-Thưa, không thể đoán trước! Chúng ta đâu có hoạt động công khai được mà dễ tính toán? Xin Điện hạ ráng chờ đi! Người có lòng chờ đợi thì cơ hội sẽ đến!
Chế Mỗ thở dài:
-Ông gắng giúp ta nhé! Ta sốt ruột lắm rồi!
-Thưa vâng, tôi sẽ vì Điện hạ mà gắng sức!
Tuy đã ước hẹn vậy, nhưng cứ vì lẽ này lẽ nọ cản trở, Bố Tân vẫn chưa thực hiện được gì. Lòng hi vọng vào một ngày phục quốc của Chế Mỗ cũng héo mòn dần theo năm tháng.
Trong khi ở Chiêm Thành Trà Hòa Bố Để cướp ngôi của em vợ thì ở Đại Việt tình hình cũng chẳng mấy sáng sủa. Những viên quan có tài chính trị nổi bật như Trần Nhật Duật, Trần Khắc Chung, Đoàn Nhữ Hài đều không còn nữa. Thượng hoàng Minh Tôn tuy chưa già lắm nhưng hay bệnh hoạn, nhất là chứng đau mắt luôn hành hạ ngài. Vua Dụ Tôn thì còn quá nhỏ. Vì thế, khi thấy Chiêm Thành bỏ cống ngang xương, Thượng hoàng chỉ nói:
-Có thể năm nay nước Chiêm mất mùa. Nó mới phạm một lần cứ tạm bỏ qua đi. Nếu sang năm nó không triều cống nữa sẽ trách luôn cũng không muộn!
Nhưng năm sau Chiêm Thành vẫn tiếp tục bỏ triều cống. Lại nhằm lúc Đại Việt mất mùa, đói kém, trộm cướp xảy ra khắp nơi. Vài nơi đã có những đám giặc lớn nổi lên. Phần lớn những phần tử gây biến loạn này lại là những gia nô của các vương hầu. Vì thế Thượng hoàng luôn bận rộn việc đánh dẹp để chỉnh đốn vấn đề trị an. Những năm kế tiếp tình hình trong nước cũng chẳng khá hơn. Cứ vất vả với việc nội trị như thế thì giờ đâu mà lo việc bên ngoài! Thế là Chiêm Thành cứ tiếp tục bỏ việc triều cống.
Mãi đến năm Bính Tuất* Trần triều mới sai Phạm Nguyên Hằng sang Chiêm trách hỏi. Bố Để viện lẽ mấy năm nước Chiêm mất mùa liên tiếp nên không đủ sức triều cống. Phạm Nguyên Hằng biết Bố Để nói dối nhưng phải giả làm ngơ, chỉ dùng lời lẽ phải trái để khuyên Bố Để nên tránh chuyện tranh chấp giữa hai nước. Cuối cùng Bố Để xin hứa sẽ cho sứ sang cống như trước.
Tin này lọt đến tai Bố Tân, ông mừng rỡ thưa với Chế Mỗ:
-Cơ hội tốt của Điện hạ đã đến rồi đó! Nghe Bố Để đã tự ý bỏ triều cống Đại Việt bốn năm năm nay. Có lẽ trong thời gian này Đại Việt cũng không được yên nên họ cũng phải giả lơ. Nay họ đã cho người sang trách hỏi việc ấy. Rõ ràng là hai bên không còn mặn nồng với nhau nữa! Điện hạ phải nhân cơ hội này cho người sang Đại Việt tố cáo sự dối trá của Trà Hòa Bố Để thế nào cũng được việc!
Chế Mỗ nghe nói rất mừng, nhưng rồi ông lại lo lắng:
-Người để sai đi thì có rồi, nhưng lễ vật tính làm sao đây? Ta chỉ còn giữ được một ít vàng, chuyến này chắc sạch kho quá!
Bố Tân rất hiểu nỗi khó khăn của Chế Mỗ. Trước kia ngoài phần bổng lộc, ông còn được các quan lớn nhỏ nay biếu mai tặng để lấy lòng nên chuyện vàng bạc đối với ông không thành vấn đề. Nhưng nay những vụ biếu tặng lễ lạt đó hoàn toàn không còn nữa. Trong thời gian gần đây Chế Mỗ lại phải chi ra quá nhiều để ông lo việc vận động nhân sự. Lần này nhất định phải hao tốn gấp bội những lần trước. Nhưng lẽ đời “tiếc tiền mua cá không tươi”, không chịu chi ra làm sao mong nên việc? Bố Tân vừa an ủi vừa thúc đẩy Chế Mỗ:
-Thưa, lúc cần hao tốn thì phải hao tốn. Đây là lúc Điện hạ cần chi tiêu nhất. Việc nên hay hư có thể được quyết định trong lần này đấy!
Nghe Bố Tân nói thế, Chế Mỗ phải quyết định sai Lan Đồ Thu đi sứ Đại Việt. Nhưng khi Lan Đồ Thu đến Thăng Long thì sứ giả của Trà Hòa Bố Để là A Thích đã có mặt ở đó rồi. Lan Đồ Thu sợ đụng đầu với A Thích, buộc lòng phải tạm trú ở ngoại ô Thăng Long để đợi, chưa dám vào thành chầu thiên tử. May lúc đó A Thích cũng đã xong việc, sắp về nước nên Lan Đồ Thu khỏi mất công lẩn tránh lâu.
Số là cuối năm ấy sứ đoàn Chiêm do A Thích dẫn đầu sang triều cống Đại Việt. Vì biết lúc này Đại Việt đang suy yếu, không muốn gây hấn với ai, nên Trà Hòa Bố Để chỉ cống lấy lệ, lễ vật rất đơn bạc. Các quan nhà Trần thấy thế đều giận, họ nói:
-Chiêm Thành lúc này lên mặt quá đáng! Mấy năm đã bỏ cống, bây giờ bất đắc dĩ phải cống lại thì chỉ cống qua loa chiếu lệ, quả là nó muốn thách thức triều đình ta!
Lúc bấy giờ Thượng hoàng vẫn là người quyết định mọi việc trong nước. Trước khi quyết định các vấn đề, Thượng hoàng vẫn hay hỏi ý Cung Tĩnh vương Nguyên Trác. Có nhiều việc ngài còn giao hẳn cho Nguyên Trác quyết định luôn. Nay nghe các quan bàn tán như vậy, Nguyên Trác nói với Thượng hoàng:
-Mặc nó, mình cứ lún cho nó kiêu rồi sẽ có cách trị nó.
Thượng hoàng nghe lời, cho nhận lễ vật và tiếp đãi sứ đoàn A Thích tử tế. Sau đó lại hậu thưởng để ủy lạo sứ giả rồi cho về. A Thích vừa rời khỏi Thăng Long thì Lan Đồ Thu xin vào yết kiến vua Minh Tôn. Nguyên Trác cười hớn hở tâu:
-Phụ hoàng thấy chưa? Đây chính là lúc ta trừng phạt Trà Hòa Bố Để đấy!
Thượng hoàng hiểu ý Nguyên Trác, ngài nói:
-Con nói có lý lắm. Việc đó trẫm giao cho con giải quyết.
Nguyên Trác cho tiếp đãi sứ đoàn Lan Đồ Thu rất chu đáo. Ông lại còn mở tiệc riêng đãi Lan Đồ Thu. Trong bữa tiệc này, Nguyên Trác đã dò hỏi rất kỹ về tình hình nước Chiêm. Lan Đồ Thu cũng trình bày nỗi uất hận của hoàng tử Chế Mỗ và những người còn trung thành với Tiên vương Chế A Nan đối với sự tiếm đoạt ngôi vua của Trà Hòa Bố Để. Lan Đồ Thu kết luận:
-Hiện nay dân Chiêm đang trông đợi thượng quốc cho quân sang giết Bố Để để trả lại ngôi vua cho hoàng tử Chế Mỗ. Nếu thượng quốc vì nghĩa lớn mà làm việc đó, dân Chiêm chúng tôi sẽ chẳng bao giờ dám quên ơn.
Cung Tĩnh vương Nguyên Trác nói:
-Cổ nhân có câu “mình giúp mình trước trời sẽ giúp mình sau”. Sứ giả của Bố Để vừa sang triều cống, nếu Đại Việt tiến quân đánh Bố Để liền thì hóa ra Đại Việt lật lọng quá, làm sao giữ trọn được chữ tín với thiên hạ? Ông nên khuyên hoàng tử vận động dân chúng nổi lên chống Bố Để trước đi. Khi đó Đại Việt sẽ có cớ để đưa quân vào đất Chiêm hòa giải cho hai bên. Trong dịp này, Đại Việt sẽ tùy cơ ứng biến tìm cách trả lại ngôi vua cho hoàng tử. Ông thấy hợp lý không?
Lan Đồ Thu thưa:
-Thượng quốc đã dạy bảo như thế, tôi sẽ trình lại với hoàng tử để người quyết định!
Cung Tĩnh vương tiếp lời:
-Ông cứ yên chí. Hễ ở Chiêm Thành có biến động thì quân Đại Việt sẵn sàng làm hậu thuẫn bảo vệ hoàng tử ngay.
Vì quá nóng lòng đoạt lại ngôi vua nên khi nghe Lan Đồ Thu thuật lại lời Cung Tĩnh vương Nguyên Trác, Chế Mỗ mừng rỡ lập tức ra lệnh khởi nghĩa bất chấp sự can gián của Bố Tân. Nhưng Trà Hòa Bố Để đề phòng cẩn thận quá nên phe Chế Mỗ nổi lên chỗ nào bị dập tắt ngay chỗ đó. Chế Mỗ cùng Bố Tân, Lan Đồ Thu phải bỏ cung điện kéo tàn quân chạy ra biên giới Đại Việt. Nhà Trần được tin liền cử Bảo Uy vương Trần Hiến xuất quân tiếp cứu Chế Mỗ. Biết tin Đại Việt đã ra quân, Trà Hòa Bố Để liền ra lệnh ngừng truy sát phe Chế Mỗ. Ông không muốn Đại Việt lấy cớ này để can thiệp vào đất Chiêm. Chế Mỗ nhân cơ hội đó, chấn chỉnh lại hàng ngũ, chiếm giữ một vùng đất giáp biên giới Đại Việt để làm căn cứ. Quân Đại Việt thấy Trà Hòa Bố Để không tiến nữa cũng án binh bất động. Khi tình hình đã tạm lắng dịu, quân Đại Việt rút lui dần. Chế Mỗ thấy mình sức yếu mà việc cầu viện Đại Việt lại không ra gì, bèn xin hòa với Trà Hòa Bố Để. Bố Để nể tình nhạc gia và vợ nên cũng chấp thuận.
Tuy đã được Bố Để cho ở yên, nhưng mối hận mất ngôi trong lòng Chế Mỗ chẳng bao gìờ nguôi được. Ông vẫn luôn cho người đi lại với trấn thủ Hóa Châu là Hưng Hiếu vương, đút lót vàng bạc để gây cảm tình, mong một ngày nào đó Hưng Hiếu vương sẽ khuyên vua Trần cử binh đánh Bố Để. Những việc làm thầm lén này đã không qua mắt được Bố Để. Thấy dung dưỡng Chế Mỗ mãi sẽ có ngày mang họa nên đầu năm Nhâm Thìn, Bố Để bất ngờ đem quân tấn công vào sào huyệt của Chế Mỗ. Lần này cả Lan Đồ Thu lẫn Bố Tân đều tử trận. Chế Mỗ cùng một nhóm thuộc hạ chạy thoát được, mang theo một con voi trắng, một con ngựa trắng và một số phẩm vật khác sang Hóa Châu xin cứu viện.
Hưng Hiếu vương bèn cho người đưa Chế Mỗ về Thăng Long trình bày sự tình với Thượng hoàng. Trong dịp này Chế Mỗ than phiền việc Cung Tĩnh vương Nguyên Trác đã hứa sẽ giúp ông lấy lại ngôi vua nhưng rồi không thực hiện. Thượng hoàng bèn cho một người hầu thân tín là Tước Tê năng lui tới với Chế Mỗ để an ủi ông ta. Một hôm Chế Mỗ kể với Tước Tê một chuyện cổ tích như sau:
“Ngày xưa có một ông vua nuôi một con khỉ lớn, rất yêu quí nó, muốn cho nó biết nói. Ông ta cho rao nếu người nào nuôi dạy con khỉ nói được sẽ thưởng một vạn lạng vàng. Có một người hứa sẽ dạy được. Vua mừng lắm, sai hắn nuôi con khỉ. Người ấy nói hàng tháng dùng thuốc phí tổn đến trăm lạng vàng, sau ba năm mới có kết quả. Vua nghe theo. Ý hắn nghĩ rằng vua, hắn và con khỉ trong ba năm sẽ có một kẻ chết, cứ lấy vàng của vua đã mà chẳng cần phải có kết quả. Chế Mỗ tôi tin tưởng lời hứa của triều đình mà theo về với chúa thượng. Thế mà trải bao năm tháng vẫn chưa nghe ngày được trở về nước. Sự thể của tôi cũng giống chuyện đó”.
Khi nghe Tước Tê thuật lại lời Chế Mỗ, Thượng hoàng thương tình bèn xuống chiếu chuẩn bị binh lương để đánh Chiêm Thành.
Năm Quí Tỵ*, đại quân của Đại Việt hộ tống Chế Mỗ theo đường bộ tiến vào đất Chiêm. Quân Chiêm giữ biên giới không dám chống cự, tránh lui hết. Tuy thế, quân Đại Việt tiến đến Cổ Lũy thì phải ngưng lại để đợi lương thực. Trong khi đó, đội thuyền chở lương đi đường thủy vừa gặp sóng bão dữ quá vừa bị thủy quân Chiêm Thành ra sức ngăn chận, quấy rối, không sao tiến lên nổi. Đại quân đi theo đường bộ đợi mãi không thấy đội thuyền chở lương thực đến, đành phải rút quân về. Chế Mỗ thấy việc không thành, quá thất vọng, buồn rầu mà sinh bệnh. Chẳng bao lâu sau thì Chế Mỗ mất.
Được tin Chế Mỗ mất, Trà Hòa Bố Để thở phào nhẹ nhõm nói với các quan:
-Thế là từ nay ta khỏi lo gì về mặt biên giới phía bắc nữa!
Các quan ngạc nhiên hỏi lại:
-Bệ hạ dựa vào đâu để tin chắc như vậy?
Trà Hòa Bố Để cười:
-Có chứ! Quân do thám đã cho ta biết rõ điều ấy. Thượng hoàng Đại Việt nay đã quá già, Trần Hạo (Dụ Tôn) thì còn trẻ con, nhân tài thì thưa thớt. Trong tình trạng đó Đại Việt giữ mình còn khó khăn, sức đâu để đe dọa nước khác?
La Khâm hào hứng thưa:
-Gặp cơ hội tốt này Chiêm Thành ta nên chuẩn bị đánh Đại Việt để lấy lại phần lãnh thổ đã mất là vừa! Nếu chậm trễ, lỡ Đại Việt có vua giỏi lên cầm quyền ta hối hận cũng không kịp!
Trà Hòa Bố Để khen:
-Ông nói rất phải. Thật tình ta cũng đã nghĩ đến điều đó. Song lo tính việc lớn quốc gia không thể cẩu thả. Trước đây ta từng muốn đánh Đại Việt nhưng lão quan Chế Hồng Phúc đã cản trở vì lý do chưa phải thời cơ. Trần Mạnh tuy đã già yếu nhưng uy đức vẫn còn vang vọng trong lòng thần dân của ông ta. Lòng dân Đại Việt chưa ly tán, ta chưa chắc làm gì nổi. Nhưng khỏi phải lo, ta nghĩ ông ấy chẳng còn sống bao lâu nữa đâu! Giờ chúng ta cứ việc huấn luyện binh sĩ thật tinh nhuệ, tích trữ lương thực thật dồi dào để chờ sẵn. Còn Trần Hạo chỉ là một đứa con nít ham chơi, khi y lên cầm quyền ta sẽ ra tay cũng chưa muộn.
Các quan đều nói:
-Bệ hạ liệu tính như thần! Lo gì việc lớn không thành!
Mùa xuân năm Đinh Dậu* Thượng hoàng Đại Việt lâm bệnh mà qua đời. Vua Dụ Tôn lúc bấy giờ đã hăm hai tuổi nhưng quá ham chơi, chẳng biết chăm lo chính sự nên kỷ cương triều đình trở nên hết sức lơi lỏng. Các nịnh thần bắt đầu tác oai tác quái, các vị trung thần chán nản rút lui dần. Một nhà đại nho nổi tiếng trung trực, đức độ là Chu An (Văn Trinh) dâng sớ xin chém đầu bảy nịnh thần nhưng vua Dụ Tôn không nghe. Chu An lấy làm buồn bèn xin cáo quan về ở ẩn. Trà Hòa Bố Để nghe được tin này mừng lắm. Ông nói với các quan:
-Thời cơ đã đến! Đây chính là lúc nước Chiêm ta thu hồi những phần lãnh thổ đã mất!
Trong mấy năm qua quân đội đã được huấn luyện thuần thục, lương thực đã được chuẩn bị đầy đủ, Chiêm Thành thừa sức để mở một cuộc Bắc chinh. Điều làm nhà vua phấn khởi nhất là hoàng tử Đạt Vân tuy còn trẻ đã trở thành một viên dũng tướng khó ai địch nổi.
Trước khi ra quân, vua Trà Hòa Bố Để cho tổ chức một cuộc duyệt binh lớn ở gần cửa Thị Nại. Trong dịp này dân Chiêm đã tận mắt chứng kiến sức mạnh của họ qua một cảnh tượng hết sức hùng tráng: Vua Bố Để và hoàng tử Đạt Vân trông lẫm liệt như hai vị thiên thần, ngự trên lưng hai thớt voi to lớn nổi bật giữa hàng trăm viên dũng tướng. Quân sĩ thì lớp lớp đông như kiến, cơ nào đội nấy, gươm đao sáng lòa. Hàng trăm con voi trận nhịp nhàng tiến thối theo hiệu lệnh, dũng mãnh, hùng hổ tưởng như phút chốc dẫm nát cả rừng già. Về mặt thủy, hàng ngàn chiến thuyền lớn nhỏ đội ngũ lớp lang, cờ xí nườm nượp rỡ ràng như uy hiếp cả sóng biển. Trước khí thế ấy, toàn dân Chiêm đều vui mừng tin tưởng chỉ một thời gian ngắn nước Chiêm sẽ rửa sạch mối thù hận cũ…
Nhưng người tính không bằng trời tính, ý chí quật cường của vua tôi nước Chiêm đã không được lòng trời tán trợ. Một trận dịch hạch đã bất ngờ đổ ập xuống nước Chiêm. Trọng tâm của trận dịch hạch lại chính là thành Đồ Bàn! Nhiều tướng lãnh và hàng ngàn quân sĩ đang chuẩn bị lên đường tòng chinh bỗng lần lượt ngã bệnh. Chính vua Bố Để, hoàng tử Đạt Vân, lão tham mưu Chế Hồng Phúc đều bị thần dịch hạch mó tay tới. Sau một thời gian vật lộn với cơn bệnh, vua Bố Để may mắn qua khỏi được. Nhưng hoàng tử Đạt Vân và lão quan tham mưu Chế Hồng Phúc đã phải lìa đời cùng với ngót một phần ba cư dân của kinh đô. Sự thiệt hại to lớn của lực lượng quân sự do chính ông đã dày công gây dựng và nhất là cái chết của hoàng tử Đạt Vân, đứa con thân yêu và là nguồn hi vọng tương lai của ông đã làm ông vô cùng đau đớn. Từ đó vua Bố Để không thể nào phục hồi tinh thần để chăm lo việc nước như trước.Sau khi trận dịch hạch quái ác đã vô tình bẻ gẫy ý đồ Bắc tiến của vua Trà Hòa Bố Để, vị vua đầy ý chí và năng nỗ này đã trải qua một thời gian đau khổ cùng cực. Mọi việc triều chính ông đều phó mặc cho các quan giải quyết. Một hôm ông nói với triều đình với vẻ thống thiết:
-Người xưa nói “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên” quả không sai! Ta đã khổ công nhiều năm nay mới chuẩn bị được một đạo quân hùng mạnh, quân khí đầy đủ, lương thực dồi dào như vừa rồi. Không bao lâu nữa ta sẽ xua đạo quân hùng mạnh đó nghiến nát nước Đại Việt đang hồi suy yếu để rửa hận! Ngờ đâu cái trận dịch hạch quái ác kia đã hại ta, đã cứu chúng nó! Nay quân đội ta bị sứt mẻ quá lớn biết bao giờ phục hồi được? Đau khổ nhất là trời lại cướp mất đứa con yêu quí của ta, một vị thiếu niên anh hùng mà ta rất kỳ vọng! Trước đây ta vẫn tin nếu ta chưa hoàn thành được ý nguyện chắc chắn Đạt Vân sẽ đủ sức thực hiện tiếp công nghiệp đó! Nhưng bây giờ thì hết cả rồi! Ta lại còn thành kẻ tuyệt tự nữa chứ! Phải chăng ta có lỗi với trời nên trời phạt? Sao trời nỡ ác với ta như thế? Ý nguyện tiêu diệt nước Đại Việt để trả thù cho các đấng tiên nhân ta đã tan nát thật rồi ư? Ta già rồi, ta kiệt sức rồi, làm sao thực hiện ý nguyện nữa? Chư khanh ai đủ tài năng thực hiện tiếp ý nguyện của ta không? Ta xin phát nguyện, nếu có ai làm được việc đó, ta sẽ nhường ngôi cho kẻ ấy!
Cả triều đình đều cảm thông nỗi bức xúc của vua nhưng chưa ai có ý kiến gì. Vua Bố Để càng lộ vẻ âu sầu hơn. Mấy hôm sau vua lại hỏi:
-Không lẽ cả nước Chiêm đã hết anh hùng? Không lẽ nước Chiêm không còn ai muốn đánh Đại Việt để trả thù? Các khanh gắng tìm nhân tài, ta sẽ thưởng công xứng đáng. Anh hùng có thể ẩn trên rừng, nương thân dưới biển. Thậm chí, anh hùng có thể đang làm cường khấu hoặc đang ở trong ngục tối. Dù là kẻ đã phạm tội mà có chí khí, có tài năng, có thể giúp nước, ta cũng sẵn sàng xá tội để trọng dụng. Mong các khanh hiểu tấm lòng tha thiết của ta mà gắng tìm người giúp nước! Nếu không, nước Chiêm ta sẽ có ngày bị Đại Việt thôn tính!
Tể tướng La Khâm tâu:
-Xin bệ hạ bớt sầu não để tiếp tục lo việc nước. Tấm lòng tha thiết của bệ hạ đối với đất nước như vậy trời cũng cảm động chứ đừng nói là người! Xưa nay những anh hùng hào kiệt vẫn nhạy cảm hơn người. Họ nể trọng người có đức, yêu chuyện nhân nghĩa, lại dám chết vì tri kỷ. Hay bệ hạ thử xuống chiếu đại xá tội phạm một phen? Thấy bệ hạ mở rộng lòng như vậy ắt những anh tài còn ẩn trú đâu đó sẽ không còn lo ngại, họ sẽ lộ diện để giúp nước? Nhất là những kẻ bất đắc dĩ đã phạm lỗi lầm, nay có cơ hội này chắc hẳn sẽ vui lòng nghe theo để lập công chuộc tội, để phụng sự tổ quốc. Bệ hạ còn giữ được lòng tin yêu của thiên hạ thì lo gì việc lớn không thành?
Vua Trà Hòa Bố Để lắc đầu:
-Khanh thương ta mà nói vậy chứ thật ra ta tự biết sức ta lắm. Công sức và ý chí của ta nuôi dưỡng bao nhiêu năm đã bị trời hủy hoại, ta đuối sức rồi. Không trả thù Đại Việt được ta cũng hết lẽ sống. Ngay cả cái ngai vàng ta đang ngồi ta cũng chẳng còn tha thiết nữa. Khanh là kẻ có tài, nếu khanh liệu còn đủ trí lực có thể làm cho nước Chiêm mạnh lên để đánh bại Đại Việt, ta sẵn sàng trao ngai vàng này lại cho khanh. Khanh nghĩ thế nào?
La Khâm giật mình quì xuống nói:
-Tâu bệ hạ, chuyện đó không bao giờ có được! Tài đức và ý chí của bệ hạ ở đây không ai sánh nổi đâu! Thần chỉ là một kẻ hèn may nương nhờ uy đức của bệ hạ mới lập được vài chút công nhỏ thôi. Với lại, chính thần cũng già rồi đâu có thể nói chuyện cao xa được!
Vua Bố Để thấy thái độ hoảng hốt của La Khâm liền giải thích:
-Ta nói thành thật đó, khanh chớ áy náy! Thật lòng ta chẳng còn tham luyến cái ngai vàng này đâu! Khi Tiên vương qua đời, ta bất đắc dĩ phải cướp quyền của Chế Mỗ chẳng qua chỉ vì thấy Chế Mỗ quá bất tài không thể đối đầu với Đại Việt được! Nếu Chế Mỗ khá hơn một chút ta đâu có loại trừ y! Chính vì ta sợ nước Chiêm sẽ bị Đại Việt gặm nhấm dần nên phải tòng quyền vậy thôi! Đau thay! Cái lúc Đại Việt đang suy yếu thế này mà nước Chiêm ta chỉ biết ngồi trơ mắt mà ngó! Cái thế hai nước Việt Chiêm không thể lưỡng lập lâu dài được! Nước Chiêm không tiêu diệt được Đại Việt ắt sẽ chờ ngày bị Đại Việt tiêu diệt thôi! Vì thế, ta nguyện sẽ nhường ngôi cho bất cứ ai có thể làm cho nước Chiêm trở thành hùng mạnh lúc này!
Sự quan tâm lo lắng cho tiền đồ đất nước của vua Bố Để đã làm các quan văn võ đều xúc động. Lão tướng Lạc Thích tâu:
-Bệ hạ đã giãi bày cạn lẽ như thế, thần lẽ nào còn dám nghi ngại mà phụ tấm lòng của bệ hạ. Thần vốn biết Tiên vương có người em út tên Bà Bỉ Na Tác Nhĩ là một cậu bé thần đồng. Khi bệ hạ truất quyền Chế Mỗ thì Du Đà vì quí trọng hoàng tử Na Tác Nhĩ, sợ hoàng tử bị hại nên đã đem hoàng tử ẩn trốn nơi nào đó. Nay nếu bệ hạ xuống chiếu đại xá và triệu dụng hai người ấy chắc họ sẽ trở về. Du Đà là kẻ mưu trí, hoàng tử Na Tác Nhĩ cũng có tiếng thần đồng, chắc hẳn hai người ấy sẽ giúp ích bệ hạ được. Ngày xưa Trùng Nhĩ nước Tấn nhờ tha thứ và trọng dụng Đấu Tu* mà thiên hạ yên, nay sao bệ hạ không thử triệu dụng Du Đà?
Vua Bố Để lộ vẻ mừng:
-Ta nhớ ra vụ ấy rồi. Hoàng tử Na Tác Nhĩ là thúc phụ của vợ ta cũng như là thúc phụ của ta. Lúc này thúc phụ cũng khoảng hai mươi tuổi rồi. Khi Du Đà đưa thúc phụ Na Tác Nhĩ trốn khỏi kinh thành ta cũng có bực mình đôi chút. Nhưng vì ta chẳng có lòng hại đến người thân của Tiên vương nên cũng làm ngơ luôn. Phải tìm mời họ về giúp triều đình mới được. Khanh có biết bây giờ thúc phụ Na Tác Nhĩ và Du Đà đang ở đâu không?
Lạc Thích tâu:
-Thần thật sự không biết Du Đà đang ở đâu. Nhưng thần nghĩ trong triều thế nào cũng có người biết. Tuy vậy, nếu chỉ để các quan nói lại, hai người ấy chưa chắc đã tin. Tốt hơn hết là bệ hạ nên giáng chiếu công khai triệu dụng họ để quốc dân cùng biết thì nhất định họ sẽ yên lòng mà trở về.
Vua Bố Để nói:
-Ý kiến của khanh hay lắm. Ta sẽ triệu dụng hai người ấy!
Trong thời gian vụ tranh chấp ngai vàng giữa vua Bố Để và hoàng tử Chế Mỗ xảy ra tại Đồ Bàn, bộ tộc Churu, một bộ tộc tự trị đã ở trong hệ thống ảnh hưởng của vương quốc Chiêm Thành lâu đời dường như chẳng quan tâm gì tới biến cố đó cả. Họ chỉ lặng lẽ làm nghĩa vụ của một chư hầu đối với triều đình chứ không tham gia bênh ai chống ai. Nhờ thế nên trong khi nhiều bộ tộc khác bị ảnh hưởng bởi cảnh loạn lạc thì ở lãnh địa thuộc bộ tộc Churu người dân vẫn được sống yên bình.
Lúc bấy giờ tại một thôn nọ, nơi người dân phần đông sống với nghề làm rẫy, một hôm bỗng có một người đàn ông xa lạ dắt một đứa trẻ đến xin kiếm việc làm ăn. Người đàn ông khoảng bốn mươi, người tầm thước, trông khoẻ mạnh và hoạt bát lắm. Ông ta xưng tên là Lộ Đà, cậu bé theo ông gọi ông bằng chú chừng bảy tám tuổi, tên là Mạn Thuyết, trông cũng khôi ngô sáng sủa. Ban đầu Lộ Đà chỉ xin dựng một cái chòi nhỏ để hai chú cháu tạm trú. Hàng ngày ông làm thuê làm mướn để nuôi hai miệng ăn. Chỉ qua một thời gian ngắn, cậu bé Mạn Thuyết đã quen biết gần hết bọn trẻ trong vùng. Cậu bắt đầu theo lũ trẻ bắt cá bẫy chim hay làm các việc vặt để giúp đỡ ông chú. Nhờ bản chất thông minh, lanh lẹ, lại hào hiệp hay giúp người nên bọn trẻ đều yêu mến cậu. Cha mẹ chúng cũng rất vui khi chúng chơi với người bạn mới này. Khi đã yên tâm có thể để Mạn Thuyết ở nhà chơi với lũ trẻ, Lộ Đà bắt đầu theo chân những người thợ săn vào rừng săn bắn. Chẳng bao lâu sau ông đã nổi tiếng là tay thiện xạ. Ông cũng là người có nhiều kiến thức trong việc tổ chức các cuộc săn bắn tập thể. Lần săn nào cũng mang lại kết quả tốt. Các tay thợ săn trong vùng thấy vậy rất nể phục ông. Dần dần họ coi ông như người đầu đàn. Nhờ có Lộ Đà, tầm hoạt động của những thợ săn này càng nới rộng.
Mạn Thuyết mỗi ngày mỗi lớn khác thường. Trên mười tuổi cậu đã bắt đầu theo ông chú tập sự đi săn. Khoảng mười ba mười bốn tuổi cậu đã trổ mã thành một thanh niên cường tráng. Dần dần tài săn bắn của Mạn Thuyết đã vượt cả ông chú khiến thiên hạ đều khiếp phục cậu. Những phát tên của cậu buông ra vừa mạnh vừa rất chính xác. Con thú nào không may gặp phải cậu coi như hết số. Một tay thiếu niên giang hồ tứ chiếng tên là La Ngai nghe tiếng đồn đã tìm đến xin thi bắn với cậu. Kết quả Mạn Thuyết đã thắng La Ngai. La Ngai phục tài, xin kết nghĩa anh em với Mạn Thuyết. Lộ Đà thấy La Ngai cũng là một nhân tài hiếm hoi đã khuyên Mạn Thuyết kết nghĩa với y. Ông lại còn mời La Ngai ở lại với chú cháu ông nữa. Ít lâu sau, Lộ Đà rời bỏ nơi ở cũ, đến dựng một ngôi nhà sàn ở ven rừng để sống thoải mái hơn. Cả ba thành viên trong nhà đều là tay thiện xạ nên chẳng ai ngạc nhiên hay ái ngại cho họ khi họ dựng nhà ở sát khu rừng có nhiều thú dữ này. Ngôi nhà sàn này đã trở thành nơi tạm nghỉ cho đám thợ săn và cũng là chỗ trú chân an toàn cho những khách tha phương lỡ đường.
Từ ngày đến chỗ ở mới, Lộ Đà ít đi săn hơn. Ông hay phó mặc việc nhà cho Mạn Thuyết và La Ngai để có thì giờ chu du đây đó. Lộ Đà nói là đi chơi, nhưng chẳng bao giờ cho ai cùng đi, cũng chẳng cho ai biết lộ trình. Thường thường ông đi từng chuyến khoảng một tháng, lâu hơn là hai tháng. Trong thời gian ấy, Mạn Thuyết và La Ngai vẫn tìm niềm vui trong những cuộc săn bắn với các đồng nghiệp.
Lần đó Lộ Đà đi đâu đến hơn ba tháng vẫn chưa thấy về khiến Mạn Thuyết và La Ngai hết sức lo lắng. Hằng ngày những thợ săn khác cũng không ngớt hỏi han làm hai chàng càng thêm nóng ruột. Ai cũng lo sợ một chuyện bất trắc nào đó đã đến với người đầu đàn của họ. Họ thúc giục anh em Mạn Thuyết phải dò tìm ông Lộ Đà đang ở đâu và đang gặp phải chuyện gì? Khổ nỗi từ trước tới giờ Lộ Đà vẫn đi đi về về một mình, nào ai biết ông đi đâu, dễ gì tìm được?
May sao, anh em Mạn Thuyết bàn tính phương cách tìm kiếm chưa xong thì Lộ Đà lù lù hiện về! Đám thợ săn mừng rỡ kéo nhau đến vấn an. Ông vui vẻ báo cho họ biết một tin nóng hổi:
-Thầy trò tôi sắp về Đồ Bàn!
Ai nấy ngạc nhiên hỏi lý do, ông cười:
-Thủng thẳng sẽ biết!
Ba ngày sau Lộ Đà cho tổ chức một bữa tiệc rượu tại tư gia. Khách được mời dự gồm các vị chức sắc, các vị trưởng lão quanh vùng và đám thợ săn quen biết. Sau lời chào mừng quan khách, Lộ Đà bắt đầu đi vào vấn đề:
-Thưa quý vị, hôm nay chúng tôi trân trọng mời quý vị đến cùng chúng tôi uống chén rượu thân mật này, thật ra cũng có một số mục đích. Trước hết là để cảm tạ tấm lòng của quý vị – những người tiêu biểu cho dân tộc Churu – đã bao dung che chở chúng tôi trong hơn mười năm qua. Kế đến là để trình bày với quý vị một sự thật mà chúng tôi bất đắc dĩ đã phải giấu kín bao lâu nay như sau: Chúng tôi vốn gốc người Đồ Bàn, khi đương kim quốc vương lên ngôi, chúng tôi thuộc phe đối nghịch với ngài nên sợ ngài không dung thứ, buộc lòng chúng tôi phải tìm nơi trú ẩn. Đó là việc chúng tôi phải tự biết, vì xưa nay, bất cứ ai khi đã bị vua nghi ngờ thì chắc chắn khó mà sống yên. Chúng tôi đã phải cải trang, lẫn lút qua nhiều nơi mà vẫn chưa tìm được chỗ thích hợp để nương thân. Khi đến địa bàn sinh hoạt của dân tộc Churu, chúng tôi mới cảm thấy đã gặp được đất lành. Và chúng tôi đã sống gắn bó với dân tộc Churu nhiều năm qua như quý vị đã thấy! Nhưng nếu chỉ có vậy cũng chỉ là một việc nhỏ, chúng tôi đâu cần trình bày với quý vị làm gì? Đây là một tiết lộ rất quan trọng mà khi nghe được, chắc hẳn sẽ làm tất cả quý vị sẽ kinh ngạc cùng độ: Người thợ săn trẻ tuổi ưu tú nhất của chúng ta – Mạn Thuyết – chính là hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, em cùng cha khác mẹ của đấng Tiên vương Chế A Nan!
Toàn thể thực khách nghe qua đều sững sờ! Thật quá bất ngờ! Ai nấy đều hướng mắt về Mạn Thuyết. Phần đông, nhất là trong số thợ săn, vẻ hưng phấn, tươi vui lộ hẳn trên nét mặt họ. Ngược lại, số còn lại lộ vẻ hoang mang, lúng túng, thậm chí có phần hốt hoảng, lo ngại…
Có lẽ hiểu được tâm trạng của mọi người. Lộ Đà nói tiếp:
-Xin quý vị cứ yên lòng! Chúng tôi tiết lộ sự việc này không phải để lôi kéo, để áp lực hay để đùn đẩy quý vị vướng vào chuyện quốc sự phiền toái đâu! Xin báo với quý vị, quốc vương đã hạ chiếu cho tất cả con dân nước Chiêm, dù trước đây đã phạm bất cứ tội gì nay đều được phép ra giúp nước để lập công chuộc tội. Chính quốc vương cũng kêu gọi đích danh hoàng tử Na Tác Nhĩ và chính tôi – Du Đà chứ không phải Lộ Đà chỉ là cái tên mượn tạm – về triều sẽ được tha thứ lỗi cũ và trọng dụng. Vì vấn đề an ninh bản thân của chính mình, chúng tôi đã phải dò xét thật kỹ tính chân xác của bức chiếu chỉ. Chuyến này tôi đã đi xa nhà hơi lâu là vì thế. Nay chúng tôi đã biết được Chiêm vương hạ chiếu chỉ ấy với tất cả tấm lòng tha thiết của ngài. Ngài đã vì đại cuộc quốc gia mà khoan hồng với con dân như thế, chúng tôi đâu có thể khư khư ôm lòng nghi kỵ, tị hiềm đối với ngài? Bởi thế, chúng tôi đã quyết định trở về Đồ Bàn để giúp triều đình. Một lần nữa, chúng tôi xin cám ơn dân tộc Churu đã đùm bọc chúng tôi trong thời gian vừa qua. Chúng tôi sẽ không quên những ngày vui sống bên những người bạn Churu rất chân chất nhưng cũng rất quả cảm. Hôm nay chúng tôi xin tạm mượn chén rượu này để giã từ quý vị. Hi vọng sau này, nếu chúng tôi được quốc vương ủy thác một trọng trách nào đó, chính quý vị và con em của quý vị sẽ sẵn sàng tiếp tay với chúng tôi. Chúng ta sẽ cùng nhau chung sức xây dựng một nước Chiêm hùng mạnh không còn bị cường bang lấn áp nữa! Chúc quý vị được trọn vui hôm nay và hứa hẹn một ngày tái ngộ rất gần!
Lộ Đà vừa dứt lời thì tiếng vỗ tay của thực khách vang lên. Vẻ lo âu, sợ hãi trên một số gương mặt lúc này đã bay biến sạch. Nhiều người cao hứng hô lớn:
-Hoan hô hoàng tử Na Tác Nhĩ! Hoan hô hoàng tử Na Tác Nhĩ!
La Ngai cũng ngẩn ngơ giây lát rồi xốc tới ôm choàng lấy Mạn Thuyết tức Na Tác Nhĩ mà nói:
-Lâu nay tôi ở cạnh một bậc đại quí mà nào có biết gì! Từ nay xin nguyện làm tay chân của hoàng tử mãi mãi!
Na Tác Nhĩ cũng vui vẻ nắm tay La Ngai nói:
-Ta cũng sung sướng có được một người bạn như La Ngai! Chúng ta sẽ ở bên cạnh nhau, vui buồn có nhau, giúp đỡ nhau suốt đời!
Tiếp đó Du Đà, Na Tác Nhĩ lẫn La Ngai lần lượt đi mời rượu và nói chuyện với từng người. Buổi tiệc đã kéo dài từ buổi trưa tới mặt trời gần lặn mới tàn. Khách chủ đều trọn vui. Một số khách, cũng phần đông là đám thợ săn đã ngủ lại để sáng hôm sau đưa tiễn ba thầy trò Du Đà lên đường.
Sau khi hạ chiếu đại xá tội phạm toàn quốc và kêu gọi nhân tài ra giúp nước, vua Trà Hòa Bố Để gắng gượng làm việc trở lại. Nhưng chiếu chỉ phổ biến cả tháng mà vẫn chưa thấy ai ứng mộ, vua Bố Để lộ vẻ nôn nóng, than với quần thần:
-Cứ như tình trạng này thì bao giờ nước Chiêm mới mạnh lên được?
Tể tướng La Khâm tâu:
-Những người tài trí thường chẳng khinh xuất trước những việc lớn. Chắc hẳn họ phải thăm dò kỹ trước khi ứng mộ! Xin bệ hạ cứ kiên nhẫn chờ đợi!
Vua Bố Để trầm giọng:
-Đời người như bóng ngựa tơ qua cửa sổ. Nói thật với các khanh, đã nhiều đêm ta ngủ không được. Ta cứ sợ tìm chưa được người xứng đáng để ký thác hoài bão ta đã xuôi tay rồi!
Lời than thở của vị quốc vương như len sâu vào lòng đám quần thần. Hình như nó đã báo hiệu một điềm chẳng lành. Họ chỉ biết nhìn nhau ái ngại.
Một tháng nữa lại trôi qua, chỉ có mấy người ra ứng mộ nhưng đều là hạng tầm thường, vua Bố Để càng thất vọng. Thế rồi ngài phát bệnh, mấy ngày liền không thể lâm triều được.
Một hôm Tể tướng La Khâm vào thăm vua tại giường bệnh. Ngài chỉ nằm để nghe tâu bày chứ không ngồi dậy được. La Khâm lần lượt thưa lại những việc ông đã giải quyết. Nhà vua nằm nghe đến đâu gật gật đến đấy, tỏ dấu hài lòng…
-Tâu bệ hạ, còn tin này nữa, chắc bệ hạ nghe được sẽ vui lòng lắm… Viên Phụ giáo Du Đà đã cho người báo tin ông ta cùng hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ sắp về Đồ Bàn!
Vua Bố Để sáng mắt lên, ngài nhướng người muốn ngồi dậy, thều thào:
-Thật không? Khi nào thì họ về tới đây?
Người hầu vội vàng chạy đến. Nhà vua ra hiệu người hầu đỡ ngài ngồi dậy. Ngài nở một nụ cười nói với quan Tể tướng:
-Khanh nói đi! Khi nào họ về tới kinh thành?
-Tâu, theo thư hẹn họ sẽ về bằng đường thủy, nội ngày mốt sẽ vào cửa biển Thị Nại.
-Khanh hãy chuẩn bị mười thớt voi ra đón họ. Ta sẽ cùng đi với khanh!
Tể tướng La Khâm hoảng hốt nói:
-Không được đâu bệ hạ! Bệ hạ đang bệnh nặng không nên đi!
-Khanh cứ chuẩn bị đi! Ta đi được mà!
-Xin bệ hạ hiểu cho. Bệ hạ đi lỡ xảy ra chuyện không hay thần sẽ mắc tội với thiên hạ!
Vua Bố Để giải thích:
-Ta lâm bệnh chẳng qua vì sợ hoàng tử Na Tác Nhĩ không chịu về. Nay được tin hoàng tử sắp về bệnh ta ắt giảm. Mà dù bệnh ta chưa kịp giảm, ta cũng cần ra đón hoàng tử để hoàng tử thấy rõ tấm lòng của ta thế nào! Khanh cứ nghe lời ta đi!
Tể tướng La Khâm như đã thấy được tim gan của quốc vương. Biết không thể nào ngăn được ý định của ngài, ông tâu:
-Bệ hạ đã quyết, thần xin tuân mệnh. Bây giờ xin bệ hạ nằm nghỉ cho khỏe người!
Hai hôm sau, mặc dầu bệnh chưa thuyên giảm và quần thần hết sức can gián, vua Bố Để cũng nhất quyết ngự ra tận cửa biển Thị Nại để đón hoàng tử Na Tác Nhĩ. Khi thầy trò Du Đà rời thuyền bước lên dịch đình thì đoàn voi vua ngự cũng vừa đến. Thấy có lọng vua trên voi, họ ngạc nhiên lắm. Khi biết vua đang bệnh mà vẫn gắng đi đón hoàng tử Na Tác Nhĩ, họ cảm động vô cùng. Thật sự sau khi nghe được tin hoàng tử Na Tác Nhĩ sẽ trở về, vua Bố Để đã lên tinh thần nên cơn bệnh cũng đã suy giảm. Cả bọn Du Đà, Na Tác Nhĩ đều rơi lệ sụp quỳ trước con voi ngự mà nói:
-Quốc vương vạn tuế! Chúng thần là những kẻ có tội, sao bệ hạ lại nhọc công ra đón rước thế này làm chúng thần càng nặng tội thêm!
Vua Bố Để cũng lộ vẻ xúc động nói:
-Quí vị hãy bình thân! Chúng ta đều có lỗi cả, đừng nhắc chuyện cũ nữa! Ta rất vui mừng được gặp lại hoàng tử và quan Phụ giáo. Từ nay chúng ta sẽ sát cánh bên nhau để cùng lo việc nước! Mong quí vị sẽ vì triều đình, vì sự tồn tại của dân tộc Chiêm Thành mà ra sức!
Thế rồi nhà vua cho mời hoàng tử Na Tác Nhĩ và quan Phụ giáo Du Đà lên voi. Khi về tới Đồ Bàn, Tể tướng La Khâm mời hoàng tử Na Tác Nhĩ cùng quan Phụ giáo Du Đà và La Ngai tạm ở điện cũ của Chế Mỗ vừa được sửa sang lại.
Hôm sau, dù không được khỏe người, vua Bố Để vẫn sai bày tiệc để thết đãi hoàng tử Na Tác Nhĩ và quan Phụ giáo Du Đà. Trong tiệc, vua Bố Để đã nói chuyện khá nhiều với hoàng tử Na Tác Nhĩ. Qua cuộc tiếp xúc này, nhà vua rất mừng thấy hoàng tử quả là một nhân vật phi thường như ngài mong đợi. Ngài nói với quần thần:
-Ta đã tìm được người có thể thực hiện ý chí của ta! Ta tin thế nào hoàng tử cũng thành công! Bây giờ dẫu nhắm mắt ta cũng vui lòng!
Từ đó, hoàng tử Na Tác Nhĩ, Du Đà, La Ngai đều được giao phó một số công việc của triều đình. Hoàng tử Na Tác Nhĩ đã tỏ ra là một người có thực tài, đầu óc ngài hết sức linh mẫn, nhạy bén, giải quyết vấn đề nào cũng hợp tình hợp lý. Các quan trong triều ai cũng nể phục. Vua Bố Để cũng như Tể tướng La Khâm đều rất hài lòng và càng tin tưởng vào hoàng tử.
Một hôm vua Bố Để hỏi Tể tướng La Khâm:
-Khanh thấy hoàng tử Na Tác Nhĩ làm việc được không?
-Thưa, thần chưa thấy hoàng tử có khuyết điểm nào!
-Liệu hoàng tử có đủ khả năng thực hiện ý nguyện của ta không?
-Theo ý thần, có thể!
-Ta cũng có nhận xét như khanh. Nay ta có một chuyện muốn hỏi ý khanh!
-Bệ hạ cứ hỏi!
-Ta có một đứa cháu gái là Mỵ Thâm, con của chị ta. Hoàng tử Na Tác Nhĩ hiện vẫn chưa có vợ, ta muốn tác hợp cho hai trẻ, có nên chăng?
-Bệ hạ tính như vậy thì tốt lắm! Hai bên tình vốn đã thân sẽ càng thân hơn!
-Ta nhờ khanh và Du Đà đứng ra làm mai mối được không?
-Nếu bệ hạ quyết ý, thần sẽ nói chuyện với Du Đà!
Thế là một tháng sau hoàng tử Na Tác Nhĩ đã kết duyên cùng nàng Mỵ Thâm.
Ít lâu sau, Tể tướng La Khâm nại cớ già yếu, xin nghỉ việc. Vua Bố Để nói:
-Thời gian này ta cứ nay đau mai ốm mãi. Vì việc quốc gia không thể buông được nên ta phải gắng sức vậy thôi. Khanh tuy già yếu nhưng đầu óc vẫn còn minh mẫn, vẫn có thể giúp ta được. Hoàng tử Na Tác Nhĩ quả là tay anh tuấn nhưng còn non trẻ quá, ta chưa dám giao việc lớn. Khanh gắng ở lại một thời gian nữa đi!
La Khâm thưa:
-Thần vì chịu ơn tri ngộ của bệ hạ nên còn ở tới ngày nay chứ thật sự thần cũng mệt mỏi lắm rồi. Vả lại, muốn canh tân triều đình phải có người trẻ mới được! Thần nghĩ hoàng tử Na Tác Nhĩ xứng đáng giữ chức Tể tướng lắm! Người không phải chỉ có tài, có chí mà còn đắc nhân tâm nữa. Đã có ý trông cậy hoàng tử thực hiện ý nguyện, bệ hạ còn ngần ngại gì nữa mà không chuyển giao quyền hành cho hoàng tử?
Vua Bố Để thấy La Khâm đã cạn lời như vậy bèn chấp thuận. Hoàng tử Na Tác Nhĩ được vua cử tạm quyền Tể tướng. Việc thay thế này làm tinh thần các quan trong triều phấn khởi lắm! Ai cũng tin tưởng, hi vọng một vận hội tốt lành sẽ đến với nước Chiêm Thành!
Vua Trà Hòa Bố Để đã già, lại hay đau yếu nên các việc lớn nhỏ trong triều ông đều giao cho hoàng tử Na Tác Nhĩ giải quyết. Đến giữa năm Canh Tý* vua Bố Để lâm bệnh nặng mà qua đời.
Sau khi triều đình tổ chức lễ hỏa táng cho vua Bố Để xong, hội đồng hoàng tộc Chiêm Thành bèn họp lại để bầu người kế vị. Trước uy đức rực rỡ của hoàng tử Bà Bỉ Na Tác Nhĩ, các hoàng thân, quí tộc đương thời đều trở thành lu mờ. Thế là hội đồng hoàng tộc Chiêm Thành quyết định tôn Na Tác Nhĩ lên làm vua. Nhà vua lấy hiệu là Chế Bồng Nga, mở đầu một trang sử oai hùng, oanh liệt cho dân tộc Chiêm.

Sau khi cướp ngôi nhà Lý, nhà Trần đã dựng nên một triều đại cực thịnh với những vị anh quân nối tiếp nhau cầm quyền, tạo được những chiến công chống ngoại xâm lừng lẫy và những cuộc cải cách xã hội rất tốt đẹp khiến các lân bang đều phải kính nể. Đến đời thứ 5 tức là vua Minh Tôn, ngài hiền lành, đức độ nhưng lại thiếu sáng suốt nên đã gây ra những lỗi lầm đáng tiếc, di hại đến cơ nghiệp nhà Trần không ít. Xin nêu ra hai lỗi lầm rõ rệt nhất:
Thứ nhất, ngài đã nghe lời gièm của Trần Khắc Chung mà giết oan vị đại tướng quân có tài đánh dẹp là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn – cũng là nhạc gia của ngài – khiến quân đội Đại Việt trở nên suy yếu.
Thứ hai, ngài quá câu nệ phân biệt dòng đích, dòng thứ mà ít chú ý đến mặt đức độ, tài năng của các con để cất nhắc vào địa vị quốc chủ. Ngài đã tư vị, cưng chiều hoàng tử Hạo quá đáng mà không giáo dục kỹ càng khiến sau này khi lên cầm quyền, hoàng tử Hạo đã đẩy nhà Trần tới chỗ suy vong.
Từ khi khởi nghiệp, nhà Trần đã có tục vua cha nhường ngôi cho vua con khi ông còn sống để vua con tập sự trị vì thiên hạ và cũng để tránh nạn tranh ngôi của các hoàng tử khi vua cha qua đời bất ngờ. Năm Kỷ Tị*, vua Minh Tôn đã lớn tuổi mà con dòng đích vẫn chưa sinh, ngài rất lo buồn. Theo lời khuyên của một số đại thần, ngài đã nhường ngôi cho hoàng tử Vượng con dòng thứ, tức vua Hiến Tôn, để lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó hai người con dòng đích của Thượng hoàng là Nguyên Dục và Hạo mới lần lượt ra đời. Hoàng tử Nguyên Dục tánh khí hỗn láo, ngang ngược, rất khó dạy đã làm Thượng hoàng thất vọng. Hoàng tử Hạo thì ngược lại, ngoan ngoãn, thông minh hơn nên Thượng hoàng hài lòng lắm.
Đêm trung thu năm Kỷ Mão*, hoàng tử Hạo mới lên bốn, được đưa đi chơi thuyền trên Hồ Tây. Vì ham nghịch nước, bất ngờ hoàng tử Hạo bị rơi tỏm xuống hồ chìm nghỉm. Khi thợ lặn xuống nước tìm kiếm thì bắt gặp hoàng tử ở lỗ cống đơm cá đã uống nước đầy bụng và hết thở. Có người đã làm cho nước trong bụng hoàng tử ói ra nhưng hoàng tử vẫn không tỉnh. Thượng hoàng hoảng sợ sai ngự y sư Trâu Canh tìm cách cứu chữa. Trâu Canh nói: “Dùng kim châm sẽ sống lại nhưng chỉ sợ sẽ bị liệt dương”. Khi Trâu Canh dùng kim để châm thì quả thật hoàng tử Hạo sống lại được.
Năm Tân Tị* vua Hiến Tôn qua đời. Dù Thượng hoàng có nhiều người con thứ đã trưởng thành ngài vẫn chọn hoàng tử Hạo mới sáu tuổi lên kế vị. Hoàng tử Hạo đăng quang tự xưng là Dụ hoàng, đổi niên hiệu là Thiệu Phong. (Sau này khi mất Dụ hoàng sẽ được tôn miếu hiệu là Dụ Tôn, vậy cứ xin gọi là Dụ Tôn cho tiện). Thượng hoàng vẫn một mình quyết định mọi việc, đất nước vẫn chưa có gì đổi thay đáng kể.
Dụ Tôn càng lớn lên chứng bệnh liệt dương càng lộ rõ. Cả hoàng gia đều rất lo ngại. Tuy thế, vì thể diện của hoàng gia, vào năm Mậu Tý*, Dụ Tôn lập công chúa Ý Từ là con gái thứ 4 của Bình chương Huệ Túc vương Trần Đại Niên làm hoàng hậu. Việc lập hoàng hậu này không thể nào khỏi bị dư luận đàm tiếu. Thấy tình cảnh éo le ấy, thái y sư Trâu Canh tâu với vua Dụ Tôn:
-Căn bệnh của bệ hạ tuy ngặt nghèo nhưng vẫn có cách chữa được. Thần chỉ ngại Thượng hoàng cản trở thôi!
Dụ Tôn sáng mắt lên:
-Sao? Sao? Ngươi nói bệnh ta vẫn có cách chữa ư? Tốn kém bao nhiêu ta cũng chịu hết! Sao lại sợ Thượng hoàng cản trở chứ?
-Dạ, vì cách chữa này rùng rợn lắm, lại trái luân thường đạo lý nữa!
-Miễn sao ta lành bệnh là được! Đừng cố chấp, cứ nói cách chữa đi! Bất cứ giá nào ta cũng làm cho được! Thượng hoàng không cản trở ta đâu!
-Bệ hạ đã quyết như vậy thì thần xin nói. Trước hết là phải giết cho được trên mười đứa bé trai khỏe mạnh, lấy mật hòa với dương khởi thạch (?) mà uống rồi thông dâm với chị hoặc em ruột mình sẽ chữa được bệnh. Bệ hạ liệu có làm nổi không?
Dụ hoàng giật mình:
-Chữa như vậy thì ghê quá! Phụ hoàng là người nhân đức chắc ngài không chịu đâu! Ngươi có cách nào nói thật khéo để ngài chịu nghe không? Được việc ta sẽ trọng thưởng!
-Thần cũng biết phải giết trẻ con hàng loạt như vậy thì Thượng hoàng chẳng đời nào chịu. Hay bệ hạ trình với Thượng hoàng xin giết một hai đứa thôi. Xin cho người vào ngục hỏi trong đám tử tội, người nào đem con nít chết thay cho mình được, người đó sẽ được xá tội. Có thể có nhiều gia đình cần người lớn hơn trẻ con. Như vậy là một đổi một chứ bệ hạ không xử ép ai cả, chắc Thượng hoàng chịu nghe! Giải quyết được việc đó xong sẽ tính tới việc thông dâm với chị hay em ruột!
-Sao ban đầu ngươi nói phải giết hàng chục đứa bây giờ lại nói chỉ một hai?
-Dạ, đây là chữa bệnh cho chính bản thân bệ hạ, bệ hạ phải tự quyết định! Nếu xin giết nhiều quá Thượng hoàng không chịu thì lỡ việc mất. Bệ hạ chỉ cần được Thượng hoàng cho phép giết một hai đứa đã, số còn lại bệ hạ nên cho người ngầm lo lấy không tiện sao?
-Việc ghê gớm như vậy cần phải giữ bí mật mới được. Sai người khác làm e khi lộ chuyện mất. Ngươi là người chế thuốc có thể lo luôn giúp ta được không? Ngươi cần bao nhiêu tiền ta cũng cho hết!
-Dạ, thần làm việc này không phải vì tiền đâu! Nhưng muốn cho bệ hạ được lành bệnh, thần sẽ gắng sức. Sau này đắc chí xin bệ hạ đừng quên thần!
Dụ Tôn mừng rỡ đem việc ấy trình với Thượng hoàng Minh Tôn. Thượng hoàng lập tức cho đòi Trâu Canh đến, ngài hỏi:
-Ông nói đã có phương thuốc chữa trị bệnh liệt dương cho quan-gia phải không?
-Dạ đúng!
-Ông phải biết rằng việc giết một mạng người rất quan trọng, nhất là đối với trẻ con vô tội! Ông có chắc chắn làm đúng như vậy bệnh của quan-gia sẽ lành không? Nếu quan-gia lành bệnh, ông sẽ được trọng thưởng. Nếu không đúng, ông sẽ phải thế mạng, chịu không?
-Bẩm Thượng hoàng, nếu chữa theo phương thuốc của thần mà bệnh quan-gia không lành, thần xin chịu tội chết!

Thượng hoàng nghe Trâu Canh đoan chắc như thế liền sai viên quản ngục tìm hỏi đám tử tội về việc kiếm trẻ con chịu chết thay cho người lớn. Cũng kiếm được một số nhưng Thượng hoàng chỉ cho lấy hai người: Một là em chết thay cho anh và một con chết thay cho cha!
Trong vòng ba tháng, Trâu Canh đã chế đủ thuốc cho vua Dụ Tôn uống. Sau đó công chúa Thiên Ninh là chị ruột của vua Dụ Tôn lại tình nguyện thông dâm với vua. Kết quả không những vua lành bệnh mà ông còn trở thành vị vua dâm dật ngoại hạng!
Cũng vì cái ơn nghĩa ấy mà sau này Trâu Canh bị bắt quả tang thông dâm với cung nữ mà vua Dụ Tôn vẫn tha chết cho y!
Năm Đinh Dậu*, Thượng hoàng Minh Tôn băng ở cung Bảo Nguyên, vua Dụ Tôn chính thức nắm quyền cai trị quốc dân. Năm sau vua Dụ Tôn đổi niên hiệu là Đại Trị. Khi Thượng hoàng còn sống, vua Dụ Tôn còn kiềm hãm thói ăn chơi buông thả của mình, nay nắm quyền bính rồi, ông mặc sức thao túng, không ai có thể can ngăn được nữa.
Vua Dụ Tôn rất tin dùng viên Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương và viên Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu. Hai viên Hành khiển này luôn toa rập với nhau chuyên xúi giục vua ăn chơi xa xỉ thái quá, không thèm đoái đến nỗi thống khổ của muôn dân.
Tháng 10 năm Quí Mão*, vua Dụ Tôn cho đào hồ trong vườn ngự ở hậu cung đặt tên là Lạc Thanh Trì. Trong hồ xếp đá làm núi, bốn mặt đều khai ngòi cho nước chảy thông nhau. Trên bờ hồ trồng thông, trúc và các thứ hoa thơm cỏ lạ. Vua cho tìm những chim quí, thú lạ về nuôi trong đó. Phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng điện Song Quế (còn gọi là điện Lạc Thanh). Lại cho đào một hồ nhỏ khác. Sai người Hải Đông chở nước mặn chứa vào đó, đem các thứ hải vật như đồi mồi, cua, cá nước mặn về nuôi. Lại sai người Hóa Châu chở cá sấu thả vào đấy nữa. Ngoài ra, vua Dụ Tôn còn cho đào một hồ khác để nuôi cá diếc (thanh phụ) gọi là hồ Thanh Ngư. Vua đặt ra chức khách đô để coi giữ những hồ đó.
Về tửu lượng, vua Dụ Tôn cũng tỏ ra là một tay uống có hạng. Ngài hay cho tổ chức các cuộc thi uống rượu có thưởng mời các quan đến dự tranh tài. Tháng 4 năm Giáp Thìn* Chánh chưởng phụng ngự cung Vĩnh An là Bùi Khoan đã lập mẹo uống một mạch hết 100 thăng rượu. Vua Dụ Tôn tưởng thật, thưởng cho Khoan tước 2 tư. Tháng 5 cùng năm, vua Dụ Tôn đi hóng gió thưởng trăng lại uống một trận say khước nữa. Trong lúc say, ngài lội xuống sông tắm, bị cảm lạnh, phải nằm liệt giường hơn hai tháng.
Ngoài việc đam mê tửu sắc, ngài còn đam mê cờ bạc nữa. Trước kia các vị Tiên vương xử trị nghiêm khắc đối với dân cờ bạc bao nhiêu thì bây giờ vua Dụ Tôn lại dung dưỡng hạng người này bấy nhiêu. Nhiều lúc nhà vua đã chiêu tập những nhà giàu trong nước, như người làng Đình Bảng ở Bắc Giang, người Nga Đình ở Quốc Oai, vào cung đánh bạc. Có tiếng bạc ăn thua đến 300 quan tiền.
Vua Dụ Tôn cũng ra lệnh cho các vương hầu, các công chúa thay nhau tổ chức những cuộc vui chơi hát xướng. Ai sáng tác được những trò tạp hí vừa ý ngài sẽ được trọng thưởng. Nguyên trong hồi chiến tranh chống Mông Cổ, quân ta bắt được một tên phường hát của giặc tên Lý Nguyên Cát. Nguyên Cát rất giỏi hát, trẻ con các nhà quyền quí đều ưa tập hát theo điệu phương Bắc của y. Nguyên Cát lại sáng tác các vở tuồng cổ và tập cho các vai đào, kép trình diễn rất sống động. Người xem khó mà tránh được sự lôi cuốn bởi những niềm vui nỗi buồn tùy thuộc từng tuồng tích. Nước ta có hát tuồng cũng bắt đầu từ đấy!
Thấy quốc khố có hạn mà việc tiêu xài của mình vô độ như thế, vua Dụ Tôn đã tìm đủ cách để xoay ra tiền. Ngoài việc cho gia tăng các loại thuế má, vua Dụ Tôn còn sai các tư nô khai khẩn bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành, tỏi và các thứ rau. Người ta gọi chỗ phường ấy là “Toán viên” (vườn tỏi). Nhà vua cũng cho đày tớ và cung nhân làm quạt để bán cho dân.
Quan Ngự sử Bùi Thế Hiếu thấy việc chiếm đất của dân để canh tác sinh lợi cho nhà vua như vậy không được chính đáng, bèn dâng sớ xin can. Bọn Nguyễn Thanh Lương, Tâm Đức Ngưu và Bùi Khoan lấy làm bực mình nên xin vua khép Bùi Thế Hiếu vào tội khi quân. Bùi Thế Hiếu bị giam vào ngục, bọn chúng bèn cho người đầu độc chết. Từ đó ai cũng ngán sợ bọn nịnh thần này.
Nạn đói kém đã xảy ra nhiều nơi. Tháng 8 năm Mậu Tuất*, vua Dụ Tôn xuống chiếu khuyến khích các nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo. Các quan ở địa phương tính số xem số thóc bỏ ra bao nhiêu rồi trả lại bằng tiền. Đó là một việc làm để chứng tỏ đấng thiên tử vẫn quan tâm đến cuộc sống của muôn dân. Nhưng nạn đói cứ mỗi ngày một lan rộng mà quốc khố thì cạn kiệt, biết làm sao? Thế là thay vào cách trả tiền lại cho các nhà giàu, vua lại ban chức tước lớn hay nhỏ cho những người dâng thóc tùy số lượng họ dâng nhiều hay ít. Dĩ nhiên số thóc này đến tay dân đói thì ít mà vào túi riêng bọn nịnh thần thì nhiều. Một số nhà giàu lớn trong nước đã nhờ những dịp này để trở thành quan quyền.
Một hôm quan Đại hành khiển Nguyễn Trung Ngạn đến thăm quan Tư nghiệp Quốc tử giám là Chu An. Chu An nổi tiếng cương nghị, thẳng thắn, không ham công danh, không sợ quyền thế. Học trò của ông rất đông, có nhiều người xuất chính đã làm tới chức Hành khiển như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát. Ông cũng là thầy học của vua Dụ Tôn, là một trong những người mà vua Dụ Tôn rất tôn kính và vẫn nghe lời. Khi Chu An hỏi về việc nước, Nguyễn Trung Ngạn than thở:
-Như tiên sinh vẫn thấy đó, hiện nay bọn nịnh thần dối trá lộng hành lắm mà hoàng thượng đâu có biết! Như chuyện Bùi Khoan uống dối 100 thăng rượu trong một cuộc tiệc được thưởng hai tư, chuyện Trâu Canh gian dâm với cung nữ vẫn không bị xử tội, ngược lại viên thái giám tố cáo lại bị giết… Chuyện ngang ngược đến thế mà nào ai dám nói. Ai làm gì trái ý bọn nịnh thần là bị gièm pha hãm hại. Lớn nhỏ chi đều phải nín thở để giữ mình. Tôi chưa thấy thời nào chính sự lại suy bại đến thế này.
Chu An nói:
-Tôi có nghe tin đồn thời gian gần đây trong dân chúng thỉnh thoảng lại xảy ra các vụ trẻ em bị mất tích, chẳng rõ chuyện đó hư hay thật?
-Các vụ đó có xảy ra thật. Có người nghĩ là do đám tay chân của Trâu Canh bí mật bắt cóc về giết để chế thuốc. Thằng Tàu ấy dã man gian trá lắm. Nó chế thuốc để chữa bệnh cho hoàng thượng thì tội dã man cũng còn biện minh được đi, đằng này nó lại phỉnh hoàng thượng phải thông dâm với chị ruột mình, thật là vô đạo! Tiên sinh nghĩ có phải nó dối trá không? Thuốc đã hiệu nghiệm rồi mới thông dâm được chứ! Nếu thuốc chưa hiệu nghiệm thì dương vật nó mềm xèo làm sao thông dâm được? Thế mà nó biểu hoàng thượng phải thông dâm với chị ruột mình thuốc mới hiệu nghiệm mà hoàng thượng cũng thực hành! Cũng vì cái ơn đó mà sau này mấy lần các thái giám báo việc Trâu Canh dan díu với các cung nữ hoàng thượng đều làm ngơ. Lần mới nhất viên thái giám Phạm Thịnh đã bắt gặp quả tang Trâu Canh làm chuyện tồi bại ấy, ban đầu vua định đem giết nhưng rồi cũng tha. Chỉ khổ cho anh thái giám Phạm Thịnh không bao lâu sau đó phạm lỗi bị bắt giam rồi chết bất đắc kỳ tử trong ngục!
Chu An thở dài:
-Tôi cũng có nghe qua những chuyện đó. Không ngờ Trần triều nay gặp phải cái nạn này! Thưa thật với tiên sinh, tôi đã viết xong một tờ “Thất Trảm Sớ”, nay mai sẽ dâng lên hoàng thượng. Nếu ngài nghe theo mà thực hiện thì đó là vạn phúc cho nước, cho dân! Nếu ngài không nghe mà bắt tội tôi cũng chịu thôi.
Nguyễn Trung Ngạn hỏi lại:
-Tiên sinh là người mà Thượng hoàng rất kính trọng và lại là thầy của hoàng thượng nữa, lẽ nào hoàng thượng bắt tội? Chắc hẳn nội dung cái sớ mà Tiên sinh viết nghiêm trọng lắm?
-Tôi xin chém đầu bảy tên nịnh thần. Quan Đại hành khiển muốn coi thử không?
Nguyễn Trung Ngạn nói:
-Thôi, khỏi coi! Mới nghe qua tôi cũng biết ngay bảy tên nịnh thần tiên sinh nói là ai rồi! Chỉ sợ vua không chịu nghe thôi!
Khi Chu An dâng “Thất Trảm Sớ” lên vua Dụ Tôn, ngài xem rồi nói:
-Những người này là những bề tôi giỏi, làm việc đã quen. Nếu thay người khác thì công việc triều đình làm sao chạy được? Xin thầy bỏ qua những lỗi lầm nhỏ nhặt của họ đi!
Chu An thưa:
-Nếu bệ hạ không lo tính trước, những tên nịnh thần này sẽ làm hại nhà Trần đấy!
Vua Dụ Tôn nhíu mày nói:
-Việc này trẫm đã suy nghĩ kỹ. Xin thầy về nghỉ kẻo hại sức!
Biết không xoay chuyển được lòng vua, Chu An rất thất vọng. Sau đó ông nại cớ già yếu, dâng sớ xin nghỉ việc. Tuy vua Dụ Tôn tỏ vẻ lưu luyến, không thuận, ông vẫn cởi mũ áo đai ấn gởi lại nhà Quốc tử giám rồi về quê ở ẩn.
Cũng bởi kỷ cương triều đình quá suy bại nên giặc giã trong nước ngày càng nổi dậy như ong. Nhiều gia nô của các vương hầu và các công chúa cũng nhân dịp này trốn chủ bỏ đi làm giặc cướp. Vì thế, vua Dụ Tôn phải hạ chiếu buộc các gia nô của tầng lớp quyền quí này phải khắc chữ vào trán và khai tên tuổi vào sổ hộ tịch để dễ kiểm soát. Ai không chịu khắc chữ lên trán và không khai hộ tịch sẽ bị coi như giặc cướp. Hoạt động bền bỉ nhất là đám giặc Ngô Bệ trải qua một thời gian hơn 15 năm. Từ năm Giáp Thân*, Ngô Bệ đã tụ họp bọn vô lại ở núi Yên Phụ để ăn cướp. Quan quân phải vất vả hơn một năm sau mới đánh tan được chúng. Nhưng Ngô Bệ đã trốn được. Không cướp lớn được chúng trở thành cướp nhỏ lưu động bất định để tránh quan quân tìm theo dấu vết. Đến năm Mậu Tuất*, Ngô Bệ lại tập trung đồ đảng ở núi Yên Phụ, dựng đại kỳ trên núi, tiếm xưng vị hiệu, yết bảng nói cứu giúp dân nghèo. Y chiếm cả một vùng từ xã Thiên Liêu đến huyện Chí Linh. Quan quân các lộ lại phải vất vả mãi tới năm Canh Tí* mới bắt được Ngô Bệ cùng với 30 thuộc hạ ở Yên Phụ, đóng cũi đưa về kinh xử chém.
Lúc bấy giờ ở Trung Hoa cũng loạn lạc như rươi. Nhiều đám giặc đã đua nhau nổi lên chống nhà Nguyên. Mạnh nhất là ba thế lực Chu Nguyên Chương, Trần Hữu Lượng và Trương Sĩ Thành. Nhà Nguyên yếu thế phải lùi dần về phương Bắc. Về sau Chu Nguyên Chương đã đuổi được nhà Nguyên ra khỏi cõi và lần lượt đánh bại các đám giặc khác. Trần Hữu Lượng tự xưng là Hán vương là đối thủ lớn cuối cùng của Chu Nguyên Chương. Khi thấy mình yếu thế, Trần Hữu Lượng đã cử sứ giả sang Đại Việt cầu cứu. Sứ giả cho triều đình Đại Việt biết Hán vương Trần Hữu Lượng chính là con út của Trần Ích Tắc. Nhưng vua Dụ Tôn sợ mang vạ lây nên đã từ chối việc giao thiệp với Hán vương. Không lâu sau đó thì Trần Hữu Lượng bị Chu Nguyên Chương tiêu diệt

Từ khi vua Chế Bồng Nga lên ngôi, một mặt ông lo cải tổ việc nội trị, mặt khác, ông ráo riết tăng cường huấn luyện quân đội thật tinh nhuệ để chờ dịp thuận lợi sẽ mở cuộc Bắc chinh.
Để thăm dò sự phòng vệ và tinh thần chiến đấu của quân Đại Việt, ông sai một đội quân nhỏ giả làm cướp biển, thình lình đổ bộ lên cửa Dĩ Lý, phủ Lâm Bình đánh cướp. Nhưng quân phòng vệ địa phương đã chống trả dữ dội buộc đội quân giả cướp biển kia phải rút chạy.
Năm sau quân Chiêm Thành lại xâm phạm Hóa Châu nhưng thấy quân Đại Việt phòng bị quá kỹ, lại phải rút lui.
Sau những vụ thăm dò trên, trong một phiên chầu, Chế Bồng Nga nói với quần thần:
-Hiện nay Đại Việt do Trần Hạo cầm quyền, mà Hạo là một kẻ ăn chơi hoang dâm vô độ, không biết lo đến việc nước, lẽ ra đây là cơ hội tốt nhất để ta ra quân. Thế nhưng sau khi mở những cuộc thăm dò, ta biết được quân Đại Việt khắp nơi vẫn phòng thủ kỹ lắm. Muốn thắng họ, ta phải có một lực lượng mạnh gấp bội! Tạm thời ta hãy tiếp tục tuyển mộ thêm quân, rèn luyện cho tinh nhuệ thêm, đồng thời phải nghĩ ra một mưu kế nào thật hay mới xong!
Tướng La Ngai nói:
-Thần sợ cơ hội này ta không ra quân, nếu lỡ Đại Việt thay đổi chủ, có minh quân lên cầm quyền rồi thì ý chí nuôi dưỡng lâu nay của mình cũng thành công uổng!
Chế Bồng Nga cười:
-Ta chẳng quên điều đó đâu! Nhưng Đại Việt muốn có minh quân cũng phải đợi hàng chục năm nữa! Hiện giờ ở Trần triều có gương mặt nào đáng giá đâu mà ngại? Chắc khanh cũng rõ, trong phép đánh trận, muốn chắc ăn, ít nhất lực lượng tấn công cũng phải mạnh gấp năm gấp bảy lực lượng phòng thủ! Chứ không, dù thắng được họ, ta cũng phải chịu tổn thất không ít. Phải gắng tìm kỳ mưu, ít nhất là làm sao dụ chúng ra ngoài cõi mới hòng thắng được!
La Ngai lại nói:
-Quân Đại Việt lúc này không dám ra khỏi cõi đâu! Ta đã mấy lần khiêu khích mà chúng cũng chỉ thủ chứ không chịu truy kích, biết làm sao đây?
Bỗng tướng Mục Bà Ma lên tiếng:
-Tâu bệ hạ, thần có một mưu này có thể dụ quân Đại Việt ra khỏi cõi được!
Chế Bồng Nga tươi nét mặt nói:
-Khanh hãy nói ta nghe thử!
Mục Bà Ma nói:
-Thần biết, theo tục Hóa Châu trước đây, tháng giêng hàng năm, trai gái Đại Việt vẫn họp nhau ở đất Bà Dương để chơi trò đánh đu. Chúng ta nên cho người núp sẵn đầu nguồn, đợi họ bắt đầu cuộc chơi thì ập đến bắt hết đem về bắt làm nô lệ, tì thiếp chơi. Như vậy vua quan Đại Việt sẽ tức lộn ruột lên, chắc chắn họ phải xuất quân ra khỏi cõi để trả đũa! Bên ta đã chuẩn bị sẵn, họ làm sao khỏi lọt vào tròng của ta?
Chế Bồng Nga khen:
-Kế ấy hay lắm! Hãy cho thực hiện đi!
Thế là từ tháng 12 Giáp Thìn, một toán quân Chiêm đã đến đầu nguồn Bà Dương phục sẵn. Đầu xuân năm Ất Tỵ* hàng trăm con trai con gái Đại Việt mới lớn kéo nhau ra Bà Dương chơi trò đánh đu như các năm trước. Trong khi cuộc vui đang tiến hành thì quân Chiêm Thành đột ngột xuất hiện. Đám trẻ hoảng hốt chạy tán loạn. Nhưng quân Chiêm đã núp sẵn nhiều nơi nên đã bắt được gần hết. Chỉ có một số nhỏ chạy thoát được!
Hành động gây hấn này đã làm cả triều đình Đại Việt nổi giận. Vua Dụ Tôn muốn cử binh đi đánh trả đũa ngay. Ngài kêu gọi các tướng tình nguyện cầm quân chinh phạt nhưng ai cũng tìm cách thoái thác. Cuối cùng, mọi người đều đề cử Đồng tri môn hạ Đỗ Tử Bình lúc ấy đang đóng quân yểm trợ việc xây thành Hóa Châu làm tướng kéo quân đánh Chiêm Thành. Đỗ Tử Bình nhận được lệnh sợ quá bèn nại cớ lương thực chưa đủ, binh sĩ mệt mỏi vì suốt thời gian qua đã phục dịch trong việc xây đắp thành Hóa Châu mà xin tạm hoãn.
Thấy khiêu khích đến thế mà quân Việt vẫn chưa chịu ra khỏi cõi đánh trả thù, Chế Bồng Nga lại cho một đội quân đi đường biển thình lình đổ bộ tấn công phủ Lâm Bình. Không may quân Chiêm lại gặp phải quan phủ Lâm Bình là Phạm A Song phòng bị quá kỹ nên cũng không làm gì được, phải rút lui. Tuy vậy, quân Việt cũng chẳng thèm truy kích.
Cái tin ấy báo về triều đình Chiêm, Chế Bồng Nga lộ vẻ bực mình nói:
-Người Đại Việt lúc này nhát như con thỏ, cứ ẩn trong hang làm ta khó xử quá.
La Ngai nói:
-Đại Việt suy yếu quá rồi nên chỉ biết lo thế thủ. Quân ta lúc này tinh nhuệ lắm, sao bệ hạ không thử xua thẳng vào Thăng Long một phen, lẽ nào không thắng?
Chế Bồng Nga lắc đầu:
-Tướng giỏi cầm quân phải biết làm sao đánh thắng được giặc mà mình thiệt hại rất ít. Nay quân giặc tuy yếu thật nhưng chúng thủ kỹ như vậy, mình đánh bừa vào, dẫu thắng, giặc chết mười mình cũng chết tám, phỏng được lợi ích gì? Lỡ Chân Lạp hay Xiêm lại thừa cơ hội này đánh sau lưng ta trở tay sao kịp? Nhất định phải dùng kế “điệu hổ ly sơn”, dụ chúng ra khỏi hang ổ mới đánh chúng được! Nếu chúng đã ra ngoài, ta chỉ cần thắng một trận thật oanh liệt, thật tàn nhẫn là cướp được tinh thần chúng. Chúng đã rúng lòng rồi, ta làm mưa làm gió gì mà chẳng được! Rất tiếc là ta chưa tìm ra mưu kế gì để dụ chúng!
Tướng Mục Bà Ma thưa:
-Lần trước thần đã dâng một kế để dụ giặc nhưng không kết quả. Nay thần muốn dâng một kế khác không biết có thể dùng được không?
-Khanh cứ nói ta nghe thử!
-Thưa, bệ hạ thử cử sứ giả mang thư đến Thăng Long, đòi Trần Hạo trả lại đất Hóa Châu. Viện lẽ đất ấy vốn là của Chiêm quốc mà vua Chiêm đã dùng làm sính lễ để cưới công chúa Huyền Trân. Nhưng công chúa Huyền Trân đã tự ý trở về Đại Việt tại sao Đại Việt vẫn giữ lấy đất ấy? Nay xin trả lại Hóa Châu cho Chiêm Thành mới đúng lẽ! Nếu Trần Hạo sợ thế lực của ta mà trả đất lại thì tốt. Ta cũng sẽ nhân đó trả lại họ những người Đại Việt bị ta bắt vừa qua. Hai bên sẽ định lại ranh giới và chấm dứt chuyện thù hằn! Nếu Trần Hạo không chịu, ta dọa sẽ dùng võ lực để lấy lại! Như vậy Đại Việt còn nhịn sao được? Chắc hẳn họ sẽ xuất quân đánh ta!
Chế Bồng Nga mừng rỡ nhìn Mục Bà Ma nói:
-Hay lắm! Khanh đã nghĩ ra cái kế độc này Đại Việt làm sao nhịn nổi nữa? Khanh có thể đi sứ Đại Việt giúp ta luôn không?
-Bệ hạ đã sai khiến, thần xin tuân mệnh!
Thế là tướng Mục Bà Ma vâng mạng vua Chiêm sang Thăng Long đòi lại đất Hóa Châu.
Từ khi Thượng hoàng Minh Tôn mất, Chiêm Thành bỏ hẳn việc triều cống Đại Việt. Vua Dụ Tôn quá ham chơi, đâu nghĩ gì đến việc đó! Những vị trung thần nhìn xa biết rộng hầu hết đã tìm phương ở ẩn cả. Những kẻ còn ở lại, một số thì nín thở đợi thời, một số mặc cho thời thế xoay chuyển, gắng ôm lấy chút tước lộc tới đâu hay tới đó. Vua Dụ Tôn lại quá tin bọn nịnh thần, ai dám bày tỏ lời ngay nữa? Tháng 6 năm Bính Ngọ*, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thiếu úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sơ đến khuya mới về. Đêm đó vua uống quá say. Đến sông Chữ Gia, thuyền vua bị một bọn côn đồ chận lại cướp mất cả ấn tín lẫn kiếm báu truyền quốc. Vua lấy làm xấu hổ và tin sự việc này là một điềm chẳng lành. Nghĩ mình không còn sống bao lâu nữa, vua càng lao mình vào những cuộc chơi bời trác táng. Vì vậy, mặc cho Chiêm Thành khiêu khích, vua quan không hẹn nhưng đều đồng lòng làm ngơ, cố nhịn nhục.
Cho tới lúc Chiêm Thành ngạo nghễ cử sứ giả đến tận Thăng Long đòi lại đất cũ họ mới giật mình! Lòng tự ái cả vua lẫn quan đều bị đánh động! Vua Dụ Tôn nổi trận lôi đình, truyền đem Mục Bà Ma giam lại. Hoàng thân Nguyên Trác tâu:
-Chiêm Thành lờn mặt quá rồi! Không thể nhịn được nữa! Bệ hạ phải cử binh chinh phạt cho nó chừa cái thói hung hăng đi!
Vua Dụ Tôn nói:
-Quả thật Chiêm Thành đã coi trời đất không ra gì nữa! Trước đây ta đã cử Đỗ Tử Bình đi chinh phạt nhưng Đỗ Tử Bình xem bộ nhát quá, đã tìm cách thoái thác. Nay ta muốn giao ấn nguyên nhung cho Minh tự Trần Thế Hưng lo việc ấy được không?
Hoàng thân Nguyên Trác nhìn Trần Thế Hưng hỏi lại:
-Hoàng thượng tin tài lược của ông, muốn trao ấn nguyên soái cho ông đi trừng phạt Chiêm Thành, ông bằng lòng chứ?
Trần Thế Hưng tâu:
-Thần xin tuân mệnh!
Vua Dụ Tôn bèn cử Trần Thế Hưng làm thống quân , Đỗ Tử Bình làm phó, tiến binh đánh Chiêm Thành. Trần Thế Hưng chỉ huy đại quân đi trước, Đỗ Tử Bình dẫn hậu quân tiếp ứng. Tháng 4 năm Mậu Thân*, quân Trần kéo đến Chiêm Động. Lúc bấy giờ Chế Bồng Nga đã chuẩn bị trước, chọn địa điểm thuận lợi để phục kích sẵn. Sau đó Chế Bồng Nga cho một đạo quân nhỏ ra nghinh quân Trần. Đánh nhau một hồi quân Chiêm thua chạy. Quân Trần hăng hái đuổi theo, thế là lọt vào giữa ổ phục kích. Quân Chiêm liền đổ ra đánh một trận rất ác liệt khiến quân Trần phải tan rã. Trần Thế Hưng bị bắt sống. Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân thấy thế nguy không dám tiếp cứu, vội vã đem quân trở về. Khi về tới Thăng Long, sợ bị vua bắt tội, Đỗ Tử Bình lập tức cho người nhà đem vàng bạc đút lót hai viên Hành khiển là Tâm Đức Ngưu và Nguyễn Thanh Lương. Nhờ vậy, Đỗ Tử Bình chỉ bị vua khiển trách sơ rồi bỏ qua.
Sau khi thắng trận, Chế Bồng Nga cho người sang Đại Việt đề nghị trao đổi tướng Trần Thế Hưng với sứ giả Mục Bà Ma. Vua Dụ Tôn đành phải chấp thuận.
Chế Bồng Nga rút quân về tới Đồ Bàn thì nhận được tin nhà Minh đã đánh đuổi nhà Nguyên ra khỏi Trung Hoa và đóng đô ở Kim Lăng. Ông lo ngại nói:
-Trung Hoa đã đổi chủ, thế nào nhà Minh cũng thị uy với các nước láng giềng! Nếu ta không khéo léo là sinh kẹt ngay!
Thế rồi ông lập tức sai Hổ Đô Man đem hai con voi, hai con hổ và một số sản vật địa phương sang Kim Lăng triều cống để xưng thần. Việc này đã làm vua Minh hài lòng lắm. Vua Minh sai Ngô Dụng sang Chiêm đáp lễ ban cho Chiêm vương một bức thư có đóng dấu ngọc tỉ như sau:
“Ngày mồng 4 tháng 2 năm nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp, voi; lòng thành của Vương trẫm đã hiểu rõ. Tuy nhiên khi Hổ Đô Man chưa tới, sứ giả của trẫm cũng đã sẵn sàng đi đến nước Quốc vương. Sứ giả của trẫm đến báo cho Quốc vương biết rằng trước đây nước Trung Hoa bị rợ Hồ (Mông Cổ) trộm chiếm hàng trăm năm, khiến tập tục man di đầy rẫy, phế bỏ phong hóa Trung Hoa. Trẫm khởi binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn chúng, làm chủ Trung Hoa, thiên hạ bình an. Sợ các Di trong bốn phương chưa biết nên sai sứ giả báo tin cho các nước. Không ngờ sứ giả của vương tới trước, lòng thành thể hiện vững vàng, khiến trẫm rất vui. Nay ban một bản lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa là, lụa ỷ dệt kim tuyến, sai người đưa sứ giả về nước. Lại dụ Vương về đạo thờ nước lớn, Vương nên phụng thừa coi như đạo trời, khiến dân Chiêm Thành yên với nghề nghiệp, Vương giữ được lộc vị truyền đến con cháu, trời đất soi xét sự cố gắng, Vương chớ xem thường”.
Được thiên triều ân cần phủ dụ, Chế Bồng Nga rất mừng. Thế là ông vững tâm theo đuổi ý định chinh phạt Đại Việt. Để giành lấy lẽ phải về mình, Chế Bồng Nga đã sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô sang Kim Lăng tạ ơn đồng thời tố cáo vụ Đại Việt đã đem quân đánh Chiêm Thành năm trước trong đó có đoạn như sau: “… Vua An Nam đã sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đem đại quân xâm lấn nước thần. Nhưng nhờ hồng phúc của bệ hạ, nước thần đã đánh tan quân xâm lược, bắt sống được thống quân của giặc là Trần Thế Hưng. Tuy vậy, thần vẫn sợ An Nam sẽ tìm cách trả thù. Vì vậy, cúi xin bệ hạ thể hiện đức hiếu sinh, trừng phạt nặng nước An Nam để răn đe những kẻ vô đạo hiếu chiến tàn hại dân lành…”.
Cử sứ giả đi xong, Chế Bồng Nga tiếp tục chuẩn bị việc Bắc chinh. Lúc bấy giờ Đại Việt cũng đã cử sứ giả sang cống Minh triều nên vua Minh cố làm ra vẻ công bằng, cho Hàn lâm viện biên tu La Phục Nhân, Chủ sự bộ binh Trương Phúc mang thư đến cả hai nước Đại Việt lẫn Chiêm Thành để dàn hòa như sau:
“Trẫm vốn xuất thân từ giới bình dân, nhân thiên hạ loạn bèn khởi binh để bảo vệ làng xóm, không ngờ hào kiệt theo rất đông. Trẫm cầm binh vài năm, đất đai mở rộng, quân lính cường thịnh, được toàn dân tôn lên làm vua trị thiên hạ, nối dòng chính thống, đến nay đã được 3 năm. Các nước ngoài đến triều cống thì An Nam là nước đầu tiên, thứ đến Cao Ly rồi Chiêm Thành. Tất cả đều dâng biểu xưng thần, hợp với chế độ xưa, khiến trẫm rất vui lòng.
Mới đây Chiêm Thành sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô đến cống, tâu rằng An Nam mang binh đến xâm nhiễu, trẫm xem tờ trình lòng không được yên. Nghĩ rằng hai nước các ngươi từ xưa đến nay, cương vực đã định sẵn, đó là ý trời, không thể cậy mạnh mà làm càn. Huống đất đai các ngươi, cách Trung Hoa hết núi đến biển, lời nói về sự xâm nhiễu nhất thời khó mà biết được để trình bày rõ ràng cho trẫm hay. Các người được truyền đời nối đời đã lâu, việc giữ đất an dân, trên phụng đạo trời, tôn kính Trung Hoa, những việc này Vương trước của các ngươi chắc đã để lại lời dạy bảo, không đợi trẫm dụ mới biết. Trẫm làm chủ thiên hạ, việc đáng làm là trị loạn dẹp nguy, nay sai sứ đi quan sát sự việc, hiểu dụ các ngươi phải sợ trời, thủ phận. Nếu như cả hai dùng binh, năm này qua năm khác không ngừng, làm độc hại sinh linh, thượng đế hiếu sinh sẽ không bằng lòng, e rằng trên thì trời ghét, dưới thì lòng dân oán hận, mối họa sẽ không tránh được! Vương hai nước hãy nghe lời trẫm, tuân theo đạo lý, yên phận mình, để con cháu các ngươi được hưởng phúc lâu bền, há lại không tốt đẹp hơn ư? Khi chiếu thư tới, hai nước hãy tuân lệnh bãi binh!”
Khi sứ giả Trung Hoa đã về nước, La Ngai hỏi Chế Bồng Nga:
-Bây giờ vua Minh hạ chiếu dàn hòa như vậy bệ hạ tính sao?
Chế Bồng Nga cười mà nói:
-Vua Minh hạ chiếu cứ hạ chiếu, việc mình đã định mình cứ làm!
La Ngai hỏi lại:

-Như vậy là mình vẫn chuẩn bị đánh Đại Việt? Làm trái ý vua Minh như vậy lỡ vua Minh nổi giận giúp Đại Việt đánh ta thì sao?
Chế Bồng Nga lại cười:
-Khanh chớ ngại chuyện đó! Vua Minh hạ chiếu thư dàn hòa chiếu lệ để làm vừa lòng cả đôi bên thôi! Thực chất lão lại muốn cho đôi bên xung đột để lão thủ lợi đấy chứ! Ta còn lạ gì cái thói đểu giả của bọn vua quan Trung Hoa? Bên ngoài họ luôn lấy lễ giáo để ru ngủ thiên hạ nhưng chính họ làm chuyện gian tà độc ác hơn ai hết! Xưa nay không biết đã bao nhiêu nước vì tin vào những lời đạo đức của bọn vua quan Trung Hoa mà bị diệt vong đấy! Nếu Minh triều thấy ta suy yếu, họ sẽ tìm cách nuốt lốn nước ta ngay! Vì vậy, ta đánh Đại Việt cũng là một cách biểu dương lực lượng cho người Minh gờm mà đừng nghĩ đến chuyện thôn tính nước ta! Ta tin chắc khi chiến tranh giữa hai nước Chiêm Việt xảy ra, vua Minh cũng chỉ đứng ngoài can gián suông mà thôi! Đợi đến khi nào cả hai bên suy kiệt hết họ mới nhúng tay vào. Nhưng với ta họ chớ hòng!
La Ngai lại nói:
-Với ta thì khỏi lo, nhưng lần này Đại Việt sẽ đi về đâu?
Chế Bồng Nga nói:
-Đại Việt sẽ đi về đâu? Khanh nghĩ Đại Việt sẽ bị Trung Hoa nuốt ư? Khó lắm! Đại Việt đã từng là một cục xương mà Trung Hoa nuốt mãi không trôi! Ta mắc gì mà lo!
Nói xong Chế Bồng Nga cười một tràng dài sảng khoái.
Vua Dụ Tôn tuy có nhiều thê thiếp nhưng khi đã ngoài 30 tuổi ngài vẫn chưa có một mụn con nào. Hiến Từ thái hậu đã cho cầu đảo nhiều nơi nhưng vẫn không kết quả. Người anh cùng cha cùng mẹ của ngài là Cung Túc vương Nguyên Dục (đã mất) cũng không con. Hiến Từ thái hậu thất vọng hết sức: Dòng con đích của vua Minh Tôn có nguy cơ bị tuyệt tự! Thái hậu rất hoang mang trong việc lựa chọn người kế nghiệp sau này. Cuối cùng Thái hậu nghĩ đến người con nuôi của Cung Túc vương Nguyên Dục là Nhật Lễ. Vua Dụ Tôn thấy mẹ chăm sóc Nhật Lễ thì biết ý nên cũng chiếu cố đến Nhật Lễ nhiều hơn. Nhưng ngài vẫn còn do dự chưa quyết định lập tự. Sau vụ thua trận của Minh tự Trần Thế Hưng, vua Dụ Tôn buồn rầu mà sinh bệnh. Các ngự y đã hết lòng chạy chữa nhưng bệnh vẫn mỗi ngày mỗi tăng. Giữa năm Kỷ Dậu*, thấy bệnh đã ngặt, biết mình không thể sống nổi, Dụ Tôn cho mời các quan đến giường bệnh ngỏ ý truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ rồi qua đời. Vua ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi.
Trần Nhật Lễ vốn gốc họ Dương. Hồi còn sống, vua Dụ Tôn vẫn truyền các vương hầu, công chúa lần lượt thay nhau tổ chức những cuộc hát chèo, diễn các tuồng tích xưa tại gia để ngài và các quan đến thưởng thức. Lúc bấy giờ các bộ môn này mới được du nhập từ Trung Hoa vào, rất mới mẻ, hấp dẫn nên vua quan Đại Việt đều ưa thích. Cung Túc vương Nguyên Dục tuy là con dòng đích, lại là anh của vua Dụ Tôn, nhưng vì tính khí Nguyên Dục thất thường nên vua Minh Tôn bỏ đi mà chọn vua Dụ Tôn kế vị. Nguyên Dục rất say mê xem hát tuồng. Hôm xem tuồng “Vương Mẫu Hiến Bàn Đào”, vương thấy vợ con hát Dương Khuông là Đào thị đóng vai Tây Vương Mẫu đẹp lộng lẫy quá đâm ra si mê. Thế rồi vương ép Dương Khuông nhường Đào thị cho mình. Lúc ấy Đào thị đã mang thai với Dương Khuông hơn ba tháng. Vương vì quá si tình, bất chấp việc đó. Nửa năm sau Đào thị sinh được một bé trai. Vương nhận đứa bé làm con, đặt tên Trần Nhật Lễ. Khi vua Dụ Tôn gần mất, ông ngỏ ý với quần thần truyền ngôi cho Nhật Lễ. Các tôn thất nhà Trần và bá quan biết Nhật Lễ không phải gốc họ Trần nên không muốn tôn lập. Hiến Từ hoàng thái hậu bênh Nhật Lễ bèn nói:
-Cung Túc vương là con trưởng dòng đích đã không được làm vua lại mất sớm, thiệt thòi nhiều rồi. Nhật Lễ không phải là con của Cung Túc vương sao?
Mọi người kính sợ hoàng thái hậu mới tôn Nhật Lễ lên ngôi. Nhật Lễ bèn đổi niên hiệu là Đại Định, tôn Hiến Từ hoàng thái hậu làm Hiến Từ Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu, truy tôn cha là Nguyên Dục làm hoàng thái bá, tôn mẹ Đào thị làm hoàng thái phi, lập con gái của Cung Định vương Trần Phủ làm hoàng hậu.

Từ khi lên làm vua, Nhật Lễ ít khi ngó ngàng đến việc triều chính mà bắt đầu rượu chè bê bết, dâm dật hoang đàng còn hơn cả vua Dụ Tôn trước đó. Đào hoàng thái phi cũng kiêu lộng khác thường. Hồi còn là con hát, đóng các vai Tây Vương Mẫu, Võ Tắc Thiên, Lã Hậu là những người đàn bà có đủ quyền sinh sát thiên hạ, bà cũng từng mơ ước làm sao những tuồng tích mình đóng bỗng nhiên biến thành sự thật. Nào ngờ con tạo trớ trêu lại khiến bà trở thành vị hoàng thái phi thật! Khi đã được thỏa chí bình sinh, bà chẳng coi ai ra gì nữa. Thấy các hoàng thân quốc thích vẫn còn dựa vào nề nếp cũ, can ngăn, phê phán những hành vi của Nhật Lễ, bà rất bất bình. Một hôm, khi Nhật Lễ đến viếng mẹ, Đào thị nói:
-Hoàng nhi phải biết, làm vua phải có cái quyền của ông vua. Mẹ đã đóng nhiều tuống tích xưa, mẹ biết hết. Các ông vua xưa như Tần Thủy Hoàng, Hạng Vũ, Tào Phi đều muốn làm gì thì làm, muốn cho ai sống thì sống, muốn cho ai chết thì chết. Đâu như hoàng nhi uống một chung rượu cũng có người can, muốn coi một tuồng hát cũng có người gián. Nhất là mấy cái ông hoàng thân cứ ỷ thân tộc, vai trên, luôn ngăn cản những cuộc vui của hoàng nhi, như vậy làm vua đâu có sung sướng gì? Hoàng nhi phải làm sao cho họ khiếp sợ, không dám can gián gì nữa, đó mới thật là oai quyền của một ông vua!
Nhật Lễ nói:
-Thuở xưa con không biết sao chứ mới đây các thầy học đều dạy con, dù mình làm vua, vẫn phải nghe lời chú bác khuyên răn. Vì chú bác là những người cùng dòng họ với mình, trung thành với mình, sẽ cùng sống chết với mình khi nguy biến hơn người ngoài. Những khi họ ngăn cản những cuộc vui của con, con cũng bực mình lắm, nhưng biết làm sao?
Đào thị nói:
-Hoàng nhi tưởng mấy lão hoàng thân ấy cùng dòng họ với hoàng nhi sao? Mẹ nói cho hoàng nhi biết, hoàng nhi không phải họ Trần đâu! Họ gốc của hoàng nhi là họ Dương đấy!
Nhật Lễ ngạc nhiên hỏi:
-Mẹ nói thật ư? Sao lại có sự việc như thế?
Đào thị bèn kể ngọn ngành gốc gác thật của Nhật Lễ ra. Nhật Lễ nghe xong than:
-Trời đất ơi! Hóa ra con là người họ Dương! Bây giờ mình quyền quí cao sang thế này mà phải mang họ người khác thì đâu còn vinh dự gì?
-Hoàng nhi cũng nghĩ đến điều đó hở? Muốn cho họ Dương được vinh dự thì cứ việc đổi lại họ cũ thôi! Hoàng nhi gốc họ Dương đổi lại họ Dương đâu ai trách!
-Con chỉ sợ thiên hạ không phục thôi!
-Ai dám không phục chứ? Làm vua là do mạng trời chứ đâu phải tự con người làm nên? Nay trời đã trao thiên hạ cho hoàng nhi ai dám phản đối? Nếu hoàng nhi còn ngại ngùng thì cứ tạo vây cánh cho thật vững và kiếm cách tỉa dần đám thân vương có uy tín đi là xong.
Nhật Lễ nghe lời mẹ, cấu kết với bọn tiểu nhân để tạo thế lực mưu đồ thực hiện việc đổi lại họ Dương. Người triệt để hưởng ứng mưu đồ đó nhất lại chính là một người trong tôn thất nhà Trần: Trần Nhật Hạch. Hạch là cháu nội của Văn Hiến hầu ngày trước. Sau khi vụ án giết hại Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn được phanh phui minh bạch, vua Minh Tôn đã giáng Văn Hiến hầu làm thứ dân, xóa tên trong sổ hoàng tộc. Đến đời Dụ Tôn, Nhật Hạch nhờ dâng nhiều thóc trong vụ chẩn cứu dân đói nên được cho phục hồi họ cũ và được triệu dụng. Tuy thế, các tôn thất nhà Trần đa số vẫn có thái độ lạt lẽo, coi thường Nhật Hạch. Vì vậy, Nhật Hạch đâm ra căm hận họ. Tới khi Nhật Lễ lên làm vua, Nhật Hạch liền ra mặt ôm chân Nhật Lễ. Gặp cơ hội vừa được rửa hận, vừa được thăng tiến, lẽ nào Nhật Hạch lại bỏ qua? Được sự hậu thuẫn của Nhật Hạch, Nhật Lễ càng nghênh ngang không còn biết nể sợ ai nữa. Hiến Từ thái hoàng thái hậu thấy mối nguy cơ ấy đâm ra hối hận, bà than:
-Nó hư hỏng quá rồi! Nó phản rồi! Nếu biết trước vậy, ta đâu có giành ngôi báu cho nó!
Không ngờ lời than thở đó lọt đến tai Nhật Lễ. Nhật Lễ bí mật cho người bỏ thuốc độc vào thức ăn của Thái hoàng thái hậu. Một hôm Thái hoàng thái hậu dùng cơm nửa chừng thì ói máu ra mà mất.
Thấy Nhật Lễ hành động tàn bạo như vậy, Thái tể Nguyên Trác cùng con là Nguyên Tiết với hai người con trai của công chúa Thiên Ninh và một số tôn thất bèn họp nhau để tìm cách đối phó. Một đêm kia, họ bất ngờ xông vào thành định giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo qua tường, trốn dưới một gầm cầu. Mọi người lùng sục một hồi không thấy, bèn bỏ ra về. Khi trời sắp sáng, Nhật Lễ vào cung, chia người đi bắt cả thảy 18 người đã dự mưu ám hại mình. Cả bọn Nguyên Trác đều bị giết cả.
Nhật Lễ cũng muốn giết luôn cha vợ là Cung Định vương Trần Phủ lúc ấy đang giữ chức Thái sư Tả tướng quốc. Chi hậu nội nhân phó chưởng Nguyễn Nhiên biết được liền cấp tốc tìm gặp Cung Định vương báo tin:
-Ông phải lánh đi nơi khác ngay! Hoàng thượng sắp cho người đến bắt ông đấy!
Cung Định vương hoảng sợ nửa đêm tìm đến nhà quan Thiếu úy Trần Ngô Lang lánh nạn. Trần Ngô Lang ngạc nhiên hỏi:
-Thái sư Tả tướng quốc có việc gì mà nửa đêm phải đến đây vậy?
Cung Định vương đáp:
-Hoàng thượng đang muốn giết ta! Ông có cách gì cứu ta không?
Trần Ngô Lang nói:
-Hoàng thượng vô đạo, trước sau cũng gây họa cho nhà Trần. Thái sư là người mà hoàng tộc và cả thiên hạ đang trông cậy, sao không nhân dịp này xướng nghĩa để lấy lại cơ đồ?
Cung Định vương lắc đầu chán nản:
-Ta chẳng có ý muốn làm vua. Điều cần thiết bây giờ là làm sao để thoát nạn đã!
-Nếu Thái sư ở đây thì trước sau hoàng thượng cũng biết, tai họa sẽ lây đến cả tôi nữa. Chi bằng cứ lên Đà Giang tạm lánh rồi tính sau. Tôi sẽ ngầm thông báo việc này cho các vương thân, họ sẽ lên gặp Thái sư ở đó.
-Không được đâu! Nếu biết ta ở đó, thế nào hoàng thượng cũng cho quân lên bắt thôi!
-Thái sư khỏi lo! Tôi đang được hoàng thượng tin tưởng, nếu hoàng thượng phái quân đi, tôi sẽ có cách giúp Thái sư an toàn.
Cung Định vương nghe Trần Ngô Lang nói không tin tưởng lắm. Nhưng chẳng biết tính sao nữa, đành lặn lội lên trấn Đà Giang. Quả đúng như Trần Ngô Lang hứa, mấy ngày sau Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán và Thiên Ninh công chúa cũng đến hội ở đấy.
Nhật Lễ được tin Cung Định vương Trần Phủ đã đến Đà Giang, liền sai tướng Đinh Thịnh đem một đội quân đi bắt. Trần Ngô Lang dặn nhỏ với Đinh Thịnh:
-Kim thượng vô đạo không giữ mình được lâu đâu! Ông đi chuyến này đừng đánh đấm gì cả mà nên ở lại giúp Cung Định vương. Ngài sẽ trở về làm vua đó!
Đinh Thịnh vốn chẳng ưa gì Nhật Lễ nên vâng chịu ngay. Thấy sai đội quân của Đinh Thịnh đi bắt Cung Định vương không kết quả, Nhật Lễ lại lần lượt sai hai đội quân khác đi bắt tiếp. Nhưng cũng như đội quân của Đinh Thịnh, họ đều nghe lời dặn ngầm của Trần Ngô Lang, ở lại với Cung Định vương cả. Nhật Lễ lo sợ hỏi Trần Ngô Lang:
-Sao ta sai tướng nào đi bắt Trần Phủ họ cũng không về thế nhỉ? Quân giữ kinh đô hao hụt quá làm sao bây giờ?
Trần Ngô Lang nói:
-Có lẽ họ là những tướng nhẹ dạ nên bị Trần Phủ dụ dỗ chăng? Bệ hạ tuyển một đội quân khác cho thần đi một chuyến chắc bắt được Trần Phủ thôi!
Nhật Lễ khoát tay:
-Thôi thôi! Đi ba đội hao hụt quân số bảo vệ kinh thành lắm rồi. Lúc này nếu đưa thêm quân ngoài về đây làm sao ta tin tưởng được? Ông là người ta trông cậy, ông đi nữa ta biết bàn việc với ai?
Khoảng giữa tháng 11 năm Nhâm Tuất*, thấy lực lượng theo Cung Định vương đã đủ mạnh, các tôn thất bèn khuyên vương dựng cờ xướng nghĩa. Vương dùng dằng không chịu. Thiên Ninh công chúa nói:
-Thiên hạ này là của ông cha chúng ta, lẽ nào lại vứt bỏ cho người khác? Anh cứ mạnh dạn lên, chúng em sẽ tận lực phò tá anh!
Lúc ấy Cung Định vương mới quyết định khởi binh. Các vương thân bèn tôn Cung Định vương lên ngôi vua ở phủ Kiến Hưng, đổi niên hiệu là Thiệu Khanh, giáng Nhật Lễ xuống làm Hôn Đức công. Vua tự xưng là Nghĩa hoàng (khi Nghĩa hoàng mất được tôn miếu hiệu là Nghệ Tôn, vậy từ đây xin gọi là vua Nghệ Tôn cho tiện) rồi ngự giá về đóng ở Đông Bộ Đầu.
Tin này lan tới kinh đô, Nhật Lễ lo sợ hội triều thần lại bàn cách đối phó. Nhật Lễ nói:
-Nghe tin Trần Phủ đã làm phản xưng vua ở Kiến Hưng, bây giờ ta nên làm thế nào?
Đào hoàng thái phi nói:
-Hoàng nhi chớ hoảng hốt! Trước kia mẹ đóng tuồng thấy khi Ngũ Tử Tư nước Ngô đánh bại nước Sở, tướng Sở là Thân Bao Tư liền chạy sang nước Tần cầu cứu. Sau đó nước Tần đem quân giúp nước Sở, nước Ngô sợ phải rút quân về. Hoàng nhi cứ bình tĩnh lo công việc. Nếu có chuyện gì mẹ sẽ sang cầu cứu nước Chiêm Thành cho!
Nhật Lễ biết lỗi mình bỏ bê việc triều chính, giết hại tôn thất nhà Trần, lại mưu đổi lại họ Dương nên mới xảy ra sự việc này thì hối hận lắm. Ông ta lo sợ hỏi lại:
-Nếu sang cầu cứu Chiêm Thành, ta nói thế nào để họ chịu giúp ta?
Trần Nhật Hạch nói:
-Việc này không khó lắm đâu! Cứ nói với vua Chiêm là bệ hạ có ý muốn trả lại hai châu Ô và Rí cho Chiêm Thành để hai nước sống hòa bình với nhau nhưng bọn Trần Phủ không chịu nên làm phản! Thế nào vua Chiêm cũng kéo quân sang giúp ta thôi!
Trần Ngô Lang nói:
-Không nên làm thế! Nếu quả thật Trần Phủ đã làm phản thì thật khó chống! Ông ta nổi tiếng là người có đức lớn, đang được thiên hạ ngưỡng vọng. Quân ta ba lần được sai đi bắt Trần Phủ mà chúng lại đều theo Trần Phủ cả thì đủ biết. Bây giờ quân trấn giữ kinh đô đâu còn bao nhiêu làm sao chống lại nổi? Theo thần nghĩ, bệ hạ nên thoái vị đi, viết một bức thư tạ tội, mặc đồ thường ra đón tận ngoài thành. Trần Phủ là người nhân hậu, bệ hạ lại là con rể, chắc ông ta sẽ tha lỗi cho bệ hạ.
Trần Nhật Hạch giận dữ nói:
-Trần Ngô Lang muốn theo Trần Phủ làm phản rồi! Bệ hạ nên chém đầu hắn ngay!
Trần Ngô Lang cãi lại:
-Ta trình bày lẽ lợi hại cho hoàng thượng nghe sao ngươi dám nói là ta phản? Ngươi phải biết hoàng hậu chính là con ruột của Trần Phủ, Trần Phủ là người có đức lẽ nào lại muốn con gái mình trở thành kẻ góa bụa? Bộ ngươi muốn bệ hạ phải đem thân đi nhờ vã Chiêm Thành sao?
Nhật Lễ suy nghĩ một hồi rồi thuận nghe theo Trần Ngô Lang. Khi đón vua Nghệ Tôn trước cổng thành, Nhật Lễ phủ phục xuống đất xin tạ tội. Vua ôm Nhật Lễ rơi lệ mà nói:
-Không ngờ hôm nay sự thể lại đến thế này!
Cung Tuyên vương Trần Kính tuốt gươm ra quát:
-Nay vâng mệnh trời, đánh kẻ có tội. Tên tội nhân kia sao còn dám nói lôi thôi! Bệ hạ há vì lòng nhân từ bịn rịn mà bỏ mất nghĩa lớn sao?
Thế rồi Cung Tuyên vương bảo kẻ tả hữu lôi Nhật Lễ ra giữ lại. Các quan trong triều đều ra lạy mừng vua Nghệ Tôn. Vua nói với Chi hậu nội nhân phó chưởng Nguyễn Nhiên và Thiếu úy Trần Ngô Lang:
-Nếu không có hai ông tận tình che chở, giúp đỡ ta làm sao có ngày nay được? Ta sẽ trả ơn hai ông thật xứng đáng!
Nhật Lễ nghe được lời ấy mới biết mình đã nuôi ong tay áo, căm giận Trần Ngô Lang lắm. Sau đó vua Nghệ Tôn truyền giam Nhật Lễ ở phường Giang Khẩu. Trần Ngô Lang thấy Nhật Lễ đã ra thân như thế cũng thương hại, bịn rịn đi theo an ủi. Nhật Lễ bèn gọi Trần Ngô Lang vào trong màn, nói dối rằng:
-Ta còn một hũ vàng để trong cung, ngươi hãy đi lấy về đây!
Trần Ngô Lang quì xuống vâng lệnh. Nhật Lễ thừa dịp bóp cổ Trần Ngô Lang đến chết.
Vua Nghệ Tôn biết được nổi giận sai giết Nhật Lễ cùng với con trai của y là Liễu rồi truy tặng Trần Ngô Lang làm Nhập nội tư mã, ban tên thụy là Trung Mẫn Á vương.
Giết xong Nhật Lễ, vua Nghệ Tôn lại cho giết luôn Trần Nhật Hạch vì y là người trong hoàng tộc nhưng lại xúi giục Nhật Lễ giết hại các tôn thất.
Khi thấy con mình là Nhật Lễ bị giam rồi bị giết, Đào thị hoảng sợ dẫn mấy tên đày tớ trung thành chạy trốn. Thầy trò Đào thị cải trang làm dân hàng chợ, đi lần tới biên giới Chiêm Thành. Sau khi đã tìm cách vượt qua được biên giới, thầy trò Đào thị bị một toán quân Chiêm chận bắt. Toán quân Chiêm này sống ở biên giới Chiêm Việt nên cũng có nhiều tên biết tiếng Đại Việt, một tên hỏi:
-Các người là dân ở đâu đến? Định làm gì ở đây?
Đào thị nói:
-Tôi chính là hoàng thái phi Đào thị từ Đại Việt đến đây. Chúng tôi muốn xin diện kiến Chiêm vương để báo việc khẩn. Các người mau đưa chúng tôi đến gặp ngài chắc chắn các người sẽ được thưởng!
Đám lính Chiêm ngỡ vớ được vị quốc mẫu của Đại Việt, mừng rỡ đưa trình ngay với vị chủ tướng đóng ở biên giới. Sau khi hỏi sơ lược cớ sự, vị chủ tướng này thân hành đưa Đào thị thẳng về Đồ Bàn tâu trình với vua Chiêm Chế Bồng Nga.
Vua Chế Bồng Nga đã nuôi sẵn mộng Bắc chinh, chỉ vì qua mấy lần đánh thăm dò, thấy quân Đại Việt các nơi vẫn phòng thủ khá kỹ nên dật dờ chưa khởi sự. Nay nhận được tin Đại Việt có nội biến ông mừng lắm, cho đòi Đào thị vào chầu ngay. Đào thị vừa lạy khóc vừa bẩm:
-Bệ hạ anh minh và nhân hậu, con trai thiếp là vua Đại Định nước Đại Việt đã bị chết thảm dưới tay bọn phản loạn Trần Phủ. Xin bệ hạ minh xét, đem quân đánh Đại Việt để mở rộng đất Chiêm và cũng để trả thù cho con trai thiếp, thiếp xin đội ơn bệ hạ muôn đời!
Vua Chế Bồng Nga lớn giọng:
-Mụ này nói lạ chưa? Ta đánh Đại Việt để mở rộng đất Chiêm thì còn có lý! Tại sao ta phải đánh Đại Việt để trả thù cho con mụ?
Đào thị dập đầu thưa:
-Như vậy là bệ hạ chưa thấu rõ sự tình. Con trai thiếp là vua Đại Định vốn rất nể trọng bệ hạ, muốn hai nước Đại Việt và Chiêm Thành được sống hòa bình bên nhau. Vì thế, con trai thiếp định đem đất châu Ô và châu Rí trả lại cho bệ hạ. Không ngờ bọn Trần Phủ lại có ý muốn ngược lại, đã không chịu trả đất lại còn muốn đánh Chiêm Thành để chiếm thêm đất nữa! Do đó hai bên sinh hiềm khích nhau. Cuối cùng thì bọn Trần Phủ mưu phản giết hại con trai thiếp. Vì thế thiếp mới dám xin bệ hạ đánh Đại Việt để trả thù cho con trai thiếp.
Chế Bồng Nga cười:
-Mụ đàn bà này cũng giỏi khoa khích tướng đấy chứ! Mụ biết tình hình quan quân và dân chúng Đại Việt hiện nay ra sao hãy nói ta nghe thử?
-Tâu bệ hạ, mấy năm nay Đại Việt mất mùa liên tiếp, dân chúng thiếu đói, giặc giã nổi lên khắp nơi. Quan quân phải luôn đi đánh dẹp rất mệt mỏi, chán ngán. Tiếp đó lại trải qua mấy trận đánh nhau giữa con trai thiếp với Trần Phủ quân sĩ lại thêm một phen hao hụt đáng kể. Vả lại, Trần Phủ mới cướp ngôi, quan quân và dân chúng vẫn còn rất nhiều người không phục. Thiếp nghĩ, nếu đem quân đánh Đại Việt lúc này sẽ có nhiều người Việt làm nội ứng cho bệ hạ. Thiếp tin chắc bệ hạ tiến tới đâu sẽ thắng tới đấy. Xin bệ hạ đừng bỏ qua cơ hội này!
Chế Bồng Nga hơi ngạc nhiên vì lý lẽ rành rọt của người đàn bà Đại Việt. Phải chăng ý trời đã gởi vào miệng người đàn bà này? Ông hỏi thêm một số chi tiết về vụ biến động ở Đại Việt. Dĩ nhiên là người đàn bà gốc con hát này cũng khéo léo thêm thắt về sự kém cỏi của nhóm Trần Phủ và tình hình rối loạn của Đại Việt để vua Chiêm phấn khởi và quyết tâm ra quân hơn. “Đúng lắm, ta không thể bỏ qua cơ hội này”. Vua Chiêm nói với Đào thị:
-Được! Ta sẽ đánh Đại Việt để trả thù cho con trai mụ. Cho mụ lui.
-Đa tạ bệ hạ! Đa tạ bệ hạ! – Đào thị dập đầu lạy năm lạy rồi lui ra.
Sau một đêm suy nghĩ kế hoạch, sáng hôm sau vua Chế Bồng Nga truyền lệnh quan quân chuẩn bị Bắc phạt. Nhà vua thân hành chỉ huy đại đội thủy binh đi đường biển tiến về Đại Việt.
Tháng ba nhuận năm Tân Hợi* quân Chiêm Thành bất thần đánh vào cửa biển Đại An rồi tiến thẳng lên Thăng Long. Quân Đại Việt lâu nay chỉ quen đối phó với những đám giặc nhỏ không đáng kể nên rất chủ quan trong việc phòng bị. Bởi thế, khi quân Chiêm Thành đưa một lực lượng lớn tấn công bất ngờ, các lực lượng trú phòng ở quanh Thăng Long đều bị tan rã nhanh chóng. Vua Nghệ Tôn và toàn bộ hoàng gia phải lên thuyền lánh sang Đông Ngàn. Quân Chiêm Thành tràn vào thành Thăng Long đập phá kho tàng, vơ vét hết mọi thứ tài sản rồi đốt rụi cung điện, nhà cửa. Quân Chiêm cũng lùng sục bắt hết những đàn bà trẻ và con gái chúng gặp. Vua quan Đại Việt bàng hoàng chưa định tĩnh để lập kế hoạch kháng chiến thì quân Chiêm lại đột ngột rút về.
Sau trận thắng oanh liệt ấy, Chế Bồng Nga cho mở tiệc liên hoan tại Đồ Bàn. Trong dịp này, ông cũng cho đem số chiến lợi phẩm đàn bà con gái ban phát cho những chiến sĩ có công làm thê thiếp hoặc nô lệ. Trước hàng trăm quan chức, chiến sĩ và các vị mệnh phụ, phu nhân, vua Chiêm hãnh diện tuyên bố:
-Hôm nay là ngày vui lớn, ngày vinh quang nhất của dân tộc Chiêm Thành! Quân ta đã chiến thắng, đã làm cho người Đại Việt run sợ, không còn dám khinh thường người Chiêm ta nữa! Ta tin chắc từ nay dân tộc Chiêm sẽ thẳng đà tiến lên mãi! Nhân cuộc vui này, ta cũng mong được nghe những ý kiến có tính cách xây dựng trong việc trị nước, trong việc đối phó với các lân bang. Đặc biệt nhất là đối với hai nước Chân Lạp và Đại Việt, ta phải rửa sạch các mối tủi nhục mà tổ tiên ta đã phải gánh chịu với họ! Nào, ta sẵn sàng nghe ý kiến của các khanh đây!
Tể tướng Nhã Đam là người lên tiếng đầu tiên:
-Trước kia vua Trà Hòa Bố Để đã dụng biết bao nhiêu tâm lực để chấn chỉnh quân đội với ước vọng tiêu diệt Đại Việt để giải trừ hậu hoạn cho Chiêm Quốc. Nhưng ước vọng ấy không thành, khiến vua Trà Hòa Bố Để buồn rầu sinh bệnh mà qua đời. Nay bệ hạ đánh một trận đã làm quân Đại Việt tan tác, chiếm được Thăng Long, vua quan Đại Việt đều mất vía kinh hồn, vua Trà Hòa Bố Để ở cõi âm chắc cũng toại nguyện lắm! Tuy nhiên, thần không hiểu tại sao trong khi quân Đại Việt đã thua tan tác, mất hết tinh thần, bệ hạ không thừa cái thế chẻ tre ấy tiến quân tiêu diệt chúng luôn mà lại vội rút về?
Vua Chế Bồng Nga cười ha hả:
-Hốt chiến lợi phẩm nhiều quá, phải đem về cất đã chứ! Nếu không chịu rút sớm, lỡ bị giặc cướp lại có uổng công không?
Tể tướng Nhã Đam vui vẻ cười theo:
-Vậy là bệ hạ đã thực hành chính sách bắt cá bỏ giỏ: Một con trong tay chắc hơn mười con dưới nước!
Vua Chế Bồng Nga cười nói tiếp:
-Thực tế là vậy đó! Hơn nữa, việc chiếm đất, tiêu diệt Đại Việt không phải là nguyện vọng chính yếu của ta! Thật tình ta cũng chỉ muốn lấy lại phần đất họ đã chiếm của ta thôi!
Mọi người đều ngạc nhiên khi nghe vua Chiêm bày tỏ ý kiến ấy. Một vị quan khác nói:
-Trước đây vua Trà Hòa Bố Để nhất quyết tìm mọi cách tiêu diệt Đại Việt để trừ hậu hoạn cho Chiêm Thành, nay bệ hạ lại nói không có nguyện vọng chiếm đất hay tiêu diệt Đại Việt nghĩa là sao? Chúng thần đầu óc u tối chưa thể nào hiểu được thánh ý, xin bệ hạ dạy bảo cho!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Chư khanh không chịu đọc sử sách làm sao hiểu nổi vấn đề! Trước đây quân Mông Cổ đông gấp bội quân Đại Việt đã chiếm Thăng Long mấy lần mà rốt cuộc đều bị đánh tan tành, mười phần chỉ còn một, chạy trốn như chuột! Quân ta làm sao sánh nổi với quân Mông Cổ hồi ấy? Trong trận chiến vừa qua, ta chiếm được Thăng Long mau chóng không phải hoàn toàn nhờ quân sĩ thiện chiến mà còn nhờ ở yếu tố bất ngờ nữa. Suốt mấy trăm năm nay Chiêm Thành có bao giờ đánh Thăng Long đâu mà ngờ? Thật sự quân ta cũng chỉ phá vỡ được mấy tuyến phòng thủ của giặc ở gần Thăng Long thôi. Sớm muộn gì lực lượng giặc cũng sẽ tập trung lại để phản công! Nếu còn dây dưa ở thêm, không những cái gì ta đã chiếm được có thể vuột mất mà còn mệt sức, hao quân nữa! Ta rút quân sớm cũng nhằm mục đích làm cho giặc không kịp truy cản. Còn vấn đề tiêu diệt Đại Việt, ta được lợi cái gì? Hay chỉ rước lấy tai họa đến gần thêm? Làm khổ cho dân ta thêm? Theo ý ta, nước Đại Việt tồn tại vẫn có lợi cho nước Chiêm ta hơn là nó bị tiêu diệt!
Các quan lại một lần nữa trố mắt nhìn nhau. Tể tướng Nhã Đam lại tâu:
-Chúng thần tin tưởng bệ hạ nhìn xa biết rộng, nhưng những lời bệ hạ nói ra, thú thật chúng thần chưa thấu hiểu. Tại sao Đại Việt tồn tại lại có lợi cho nước Chiêm ta hơn? Xin bệ hạ dạy bảo cho chúng thần được rõ!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta đã suy nghĩ nhiều rồi, các khanh đừng bao giờ nuôi mộng sát nhập Đại Việt vào Chiêm Thành! Thứ nhất, dân tộc Đại Việt là một dân tộc quật cường rất khó chinh phục! Nước Trung Hoa lớn mạnh thế kia, họ đã từng chiếm Đại Việt làm quận huyện trải ngót nghìn năm mà chúng còn vùng dậy được, nay nước ta làm sao cai trị chúng nổi? Thứ hai, nếu ta tiêu diệt được Đại Việt tức là ta tự đem cái biên giới nước ta lại gần nước Trung Hoa, như thế có phải là ta tự đem cái khổ, cái lo thường trực đến bên lưng mình không? Những nhà lãnh đạo biết xa thấy rộng đều thấy rõ cái họa đó nên đã cố tránh! Vua Chế Mân trước kia không chịu giúp Mông Cổ đánh bọc hậu Đại Việt cũng chỉ vì ngài thấy rõ chuyện đó! Ta cứ để Đại Việt làm cái hàng rào ngăn cách giữa nước ta và nước Trung Hoa các khanh thấy có phải hay hơn không? Ngoài ra còn khỏi gặp rắc rối với vấn đề tâm linh nữa. Chắc các khanh đều biết đối với dân Chiêm ta, muốn đưa muốn đưa họ đến cư ngụ ở một vùng đất mới rất khó. Hầu hết người Chiêm ta vẫn quan niệm đất đai của tổ tiên là vật thể thiêng liêng không được sang nhượng hay chối bỏ. Người ta tin rằng đất đai ấy đã được thần linh trấn giữ, che chở. Ai tự ý rời bỏ quê cha đất tổ mà đi định cư nơi khác là từ bỏ dòng tộc, từ bỏ thần linh, là kẻ phản bội. Vì thế, dù chiếm được đất giặc ta vẫn khó mà di dân ta đến trám vào những chỗ ấy. Phải có thời gian để cải hóa cái quan niệm cổ hủ đó ta mới tính chuyện mở mang lãnh thổ được!
Nhiều người bấy giờ mới vỡ lẽ, nhưng cũng có một vị hỏi:
-Thần chẳng hiểu tại sao bệ hạ lại kỵ nước Trung Hoa như thế?
Vua Chế Bồng Nga giải thích:
-Người Đại Việt tuy cũng hung tợn nhưng không thâm độc đểu giả bằng người Trung Hoa! Này nhé, Khổng Minh thời Tam Quốc mà nay cả nước Trung Hoa đều ca ngợi là nhà chính trị, quân sự đại tài và có đức lớn, các khanh biết không? Khi chọc giận Chu Du nước Đông Ngô hộc máu mà chết xong, y giả vờ sang Ngô điếu tang khóc lóc thảm thiết đến nỗi nhiều người tưởng y thương tiếc Chu Du thiệt tình. Khi đi đánh phương Nam, Khổng Minh lại tiêu diệt sạch dân tộc Ô Qua, sau đó y giả vờ tổ chức một cuộc lễ tế các vong linh trên sông Lô thủy, đốt trầm hương khóc lóc một hồi là xong nợ! Khi tướng Bạch Khởi nước Tần đánh quân Triệu ở trận Trường Bình, quân Triệu bị vây ngặt phải đầu hàng. Chỉ một đêm Bạch Khởi cho lừa chôn sống hết 30 vạn quân Triệu làm cho nước này suy kiệt hơn mười năm sau chưa phục hồi được! Trong trận đánh tiêu diệt dân tộc Dao ở Vân Nam, người Trung Hoa đã đốt sạch nhà cửa, giết sạch người Dao kể cả trẻ con, bỏ thuốc độc vào tất cả đầu nguồn các dòng suối, báo hại bao nhiêu thú rừng chim chóc phải mang họa lây! Người Trung Hoa đểu giả độc ác như vậy ta làm sao tin họ được?
Vị quan kia lại nói:
-Ấy là họ đối xử với những kẻ thù của họ, còn ta không thù oán gì với họ thì đâu đến nỗi?
Vua Chế Bồng Nga cười mà giải thích:
-Với người Trung Hoa ai là ân ai là thù làm sao phân biệt được? Hôm nay nhân vui miệng, ta kể các khanh nghe vụ này. Vào thời Xuân Thu, Trịnh Vũ Công muốn mở rộng lãnh thổ. Nhìn quanh các nước nhỏ kế cận thấy vua nước Hồ là kẻ ham nữ sắc, ông đem con gái gả cho. Ông còn cho đem nhiều vàng bạc tặng vua Hồ nữa. Vua nước Hồ tin tình cha vợ thương yêu chàng rể nên mất cảnh giác quốc phòng. Một hôm Trịnh Vũ Công lại hỏi quần thần: “Bây giờ ta muốn nới rộng lãnh thổ, nên đánh nước nào?”. Quan Tư Kỳ thành thực tâu: “Nên đánh nước Hồ! Vua nước Hồ bất tài dễ đánh nhất”. Trịnh Vũ Công giận dữ quát: “Ngươi xúi ta làm việc bất nghĩa ư? Vua Hồ là con rể của ta ngươi không biết sao?”. Thế rồi ông sai người đem Quan Tư Kỳ ra chém. Vua nước Hồ nghe được tin này càng ỷ lại vào Trịnh Vũ Công. Thế rồi bất ngờ Trịnh Vũ Công ra tay chiếm nước Hồ không tốn một giọt máu! Đó, nghĩa với tình của người Trung Hoa là thế đấy! Khi ta ở cạnh họ rồi, nay họ yêu sách ta việc này, mai họ yêu sách ta điều khác, nếu ta làm theo ý họ, họ sẽ yêu sách mãi ta làm sao chịu thấu? Còn nếu từ chối yêu sách của họ một hai lần ta sẽ trở thành kẻ thù của họ ngay! Lúc nào họ cũng đề cao lễ giáo nhưng các khanh có biết lúc nào họ cũng sẵn sàng ăn thịt đồng đồng loại không? Như chuyện anh chàng Lưu Bị vua nước Thục, nổi tiếng là một vị vua đạo đức thời Tam Quốc chẳng hạn. Khi chưa thành sự nghiệp, một hôm Lưu Bị bị Lã Bố đánh thua, phải chạy trốn vào nhà một người dân tên Lưu An. Lưu An biết Lưu Bị sẽ làm nên, muốn cầu công, bèn giết người vợ mình để lấy thịt đãi Lưu Bị ăn. Khi Lưu Bị biết được việc đó cứ nức nở khen Lưu An là trung nghĩa. Một chuyện nữa thời Đông Chu, một hôm vua Tề Hoàn Công nói với thuộc hạ: “Trên đời này bất cứ món ngon vật lạ nào ta cũng từng nếm, chỉ có thịt người ta chưa biết mùi vị ra sao?”. Mấy hôm sau có tên Dịch Nha đem dâng Tề Hoàn Công một món thịt hầm rất ngon. Hoàn Công ăn xong khen đáo để, hỏi Dịch Nha “Thịt gì mà ngon thế?”. Dịch Nha thưa: “Nghe chúa công nói trên đời này bất cứ món ngon vật lạ nào chúa công cũng đã từng nếm, chỉ có thịt người là chúa công chưa biết ra sao nên thần mạo muội giết đứa con ba tuổi của thần làm thịt dâng cho chúa công ăn thử!”. Tề Hoàn Công cũng khen nức nở: “Chỉ vì thương vua mà hi sinh cả đứa con nhỏ của mình!”. Với cái giống nham hiểm và dã man khó lường đối với cả người thân họ như vậy, ta xích lại gần họ sớm muộn cũng mang họa thôi!
Các quan đã hoàn toàn vỡ lẽ, họ đồng loạt nói:
-Bệ hạ thông suốt việc cổ kim, cư xử cẩn trọng như vậy thật là phước đức cho dân tộc Chiêm Thành!
Tể tướng Nhã Đam lại nói tiếp:
-Bệ hạ muốn dùng Đại Việt làm cái mộc đỡ đòn cho Chiêm Thành! Thật thánh ý cao vợi khó có người biết được! Nhưng hiện nay ta vẫn chưa thu hồi những phần đất Đại Việt đã cướp, xin bệ hạ sớm tính việc đó cho quân dân thỏa lòng.
Vua Chế Bồng Nga lại cười:
-Chuyện đó đâu cần phải vội! Với quân đội thiện chiến của ta hiện nay, ta cứ đánh thêm vài trận như trận vừa rồi ắt Đại Việt phải tự động dâng trả những phần đất ấy lại thôi! Ta nghĩ chúng còn phải bỏ ngõ luôn cả đồng bằng sông Hồng nữa chứ đừng nói chỉ những vùng đất ấy!
Tướng La Ngai bưng một chung rượu đến quì dâng lên Chiêm vương:
-Bệ hạ tính liệu như thần không ai lường được! Xin dâng chung rượu này chúc mừng bệ hạ trường thọ để đưa dân tộc Chiêm Thành tiến lên mãi mãi!
Liền đó cả hội trường như muốn bung vỡ bởi tiếng chúc mừng của cử tọa:
-Chiêm vương Chế Bồng Nga vạn tuế!
-Chiêm vương Chế Bồng Nga vạn tuế!
-Chiêm vương Chế Bồng Nga vạn vạn tuế!

Khi quân Chiêm đã rút khỏi Thăng Long, vua Nghệ Tôn mới cùng triều thần hồi kinh. Nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát của kinh thành, nhà vua rơi nước mắt than thở với quần thần:
-Ta làm thiên tử mà để giang sơn bị giặc tàn phá như vậy, không những đắc tội với tiên tổ mà còn có lỗi lớn với muôn dân nữa. Đền miếu bị phá phách, cung thất bị đốt rụi, kho tàng bị hốt sạch, lấy gì để kiến thiết lại? Mấy năm qua sưu cao thuế nặng, giặc giã liên miên, dân chúng cùng khổ lắm rồi! Cung thất giờ đây chỉ nên xây dựng lại đơn sơ mộc mạc ở được thì thôi. Phải lấy các tản quan,* tôn thất phục dịch chứ đừng phiền nhiễu đến dân chúng tội nghiệp!
Các quan nghe vua nói đều ngậm ngùi. Từ đó vua Nghệ Tôn đã tự ép mình vào cuộc sống kiệm ước. Chỗ ở không chưng diện vàng ngọc châu báu, xe cộ không trang trí lộng lẫy, ăn uống không đòi cao lương mỹ vị. Ngài cũng tự giới hạn hết thảy các cuộc vui chơi giải trí như các vị vua khác. Mặc dù già yếu, chỉ trừ khi bệnh nằm liệt giường, ngài không bỏ qua một phiên chầu nào. Ngài luôn nhắc nhở các quan tại triều phải chăm lo công việc, ở nhà phải lo giáo dục con cái hoặc đọc sách để mở rộng kiến thức, để học theo đức độ của thánh hiền.
Thấy các con mình không đủ khả năng trị vì thiên hạ trong hoàn cảnh đất nước nhiễu nhương này, vua Nghệ Tôn phong người em cùng cha khác mẹ là Cung Tuyên vương Trần Kính làm hoàng thái tử. Trần Kính chính là người đã dày công giúp ngài truất phế Dương Nhật Lễ giành lại thiên hạ cho nhà Trần và cũng là người sát cánh bảo vệ vua Nghệ Tôn trong những ngày nguy biến vừa qua.
Sau đó, vua Nghệ Tôn lấy người em cô cậu là Lê Quý Ly làm Khu mật viện đại sứ rồi gả cô em gái mới góa chồng là công chúa Huy Ninh cho. Sang tháng 8 vua sai Quí Ly đi Nghệ An để chiêu tập dân chúng, vỗ yên nơi biên giới.
Tháng 11 năm Nhâm Tý*, vua Nghệ Tôn nhường ngôi cho hoàng thái tử Trần Kính để lên làm Thái thượng hoàng. Hoàng thái tử Trần Kính lên ngôi tự xưng là Khâm hoàng, đổi niên hiệu là Long Khánh. (Khi mất Khâm hoàng được tôn miếu hiệu là Duệ Tôn, vậy từ đây xin gọi là vua Duệ Tôn cho tiện).
Vua Duệ Tôn tánh khí cương quyết, dũng cảm và rất tự tin. Vừa lên cầm quyền, ngài liền cử Hành khiển tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình ra trấn giữ Hóa Châu là nơi người Chiêm hay quấy phá. Đỗ Tử Bình cũng được giao thêm nhiệm vụ tổ chức một đội do thám len lỏi vào đất Chiêm để theo dõi tình hình. Khi nước Chiêm xảy ra vấn đề gì quan trọng, Tử Bình phải cấp tốc báo về cho triều đình biết.
Vua Duệ Tôn là một vị vua năng động ít ai sánh kịp. Ngài lo cải cách việc nội trị, chấn chỉnh lại xã hội, mở khoa thi cử để chọn nhân tài ra giúp nước. Việc được ngài quan tâm cải tổ nhiều nhất chính là vấn đề quân sự. Ngài cho tuyển mộ trai tráng để bổ sung vào quân đội, tu sửa và đóng thêm chiến thuyền, hạ chiếu cho dân quyên thóc cho nhà nước để nuôi quân, ban thưởng tước phẩm cho những người đã quyên tặng theo thứ bậc khác nhau tùy theo số lượng thóc quyên tặng. Ngài cũng cho chọn các quan viên có tài năng, biết luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược, bất luận ở giai cấp nào cũng được bổ làm tướng chỉ huy. Nhờ thế, quân đội nhà Trần đã dần phục hồi sức mạnh. Bên ngoài, ngài cho sứ sang thông hiếu với nước Chân Lạp và nước Xiêm để tạo thế liên kết khi cần.
Khi thấy quân đội đã đủ mạnh, vua Duệ Tôn có ý định thân hành đem quân chinh phạt Chiêm Thành để rửa cái hận đốt phá Thăng Long năm Tân Hợi. Thấy vua chuẩn bị đánh Chiêm Thành, Ngự sử đại phu Trương Đỗ dâng sớ can: “Chiêm Thành chống lệnh, tội tuy đáng phải giết, song nó ở tận cõi tây xa xôi, núi sông hiểm trở. Nay bệ hạ vừa mới lên ngôi, đức chính giáo hóa chưa thấm nhuần được tới phương xa, nên sửa sang văn đức khiến nó sẽ tự đến thần phục. Nếu nó không theo, sẽ sai tướng đánh cũng chưa muộn”.
Vua Duệ Tôn bác bỏ không nghe. Trương Đỗ lại dâng sớ can thêm hai lần nữa nhưng vua vẫn tiếp tục bác bỏ. Trương Đỗ bèn treo mũ bỏ quan về ở ẩn.
Tiếp đó Ngự sử trung tán Lê Tích cũng dâng sớ can rằng: “Binh đao là đồ hung khí, không nên tự mình gây ra. Huống chi ngày nay vừa mới dẹp được giặc trong nước, thế như cái nhọt lâu năm chưa khỏi, chúa không nên vì mối tức giận riêng mà dấy quân, tướng không thể cầu công mà đánh liều. Dù Chiêm Thành không có lòng thần phục cũng chỉ nên sai tướng đi đánh để chờ trời diệt chúng. Còn xa giá thân chinh thì thần trộm nghĩ không nên”.
Thế nhưng vua Duệ Tôn vẫn không nghe. Hành khiển Phạm Huyền Linh tâu:
-Từ thời Đại Trị (Dụ Tôn) qua thời Đại Định (Nhật Lễ), dân ta đã phải gánh chịu bao nhiêu thứ thuế không chính thức, đói rách tả tơi. Vừa qua lại bị giặc Chiêm cướp phá điêu tàn, kho tàng quốc gia trống rỗng. Nay đất nước mới bắt đầu hồi sinh, quân đội tuy đã được chỉnh đốn vững mạnh, thiết tưởng chưa nên đi đánh phương xa, lấy gì để đắp vào chỗ tiêu phí nếu không trông cậy vào sức dân? Việc này sợ không hợp với ý muốn của Thượng hoàng! Thần xin thảo một tờ chiếu gởi cho Chiêm vương, phân tích lẽ lợi hại và kêu gọi Chiêm vương thần phục trở lại. Nếu Chiêm vương không chịu nghe, bấy giờ ta hãy ra quân!
Vua Duệ Tôn nghe lời, sai Phạm Huyền Linh thảo một chiếu thư gởi Chiêm vương Chế Bồng Nga như sau:
“Vâng mệnh trời hoàng đế chiếu rằng: Từ các năm Đại Trị, việc chính trị suy đồi. Tiếp đến ngụy Nhật Lễ lại tiếm vị, càng làm thiên hạ đổ nát. Tới khi Thượng hoàng chấp chính, ngươi chỉ là một phiên vương đã thừa lúc quốc gia thiếu ổn định, dám đem quân xâm phạm kinh đô. Đó là một tội lớn đáng chết! Nay trẫm đã nối đại thống, đang chỉnh đốn lại trật tự quốc gia. Trẫm hiện có hàng vạn binh hùng tướng mạnh trong tay, nhưng trẫm nghĩ việc trị dân phải lấy đức làm căn bản. Trẫm không muốn thấy người dân vô tội phải đổ máu. Vì thế, trẫm sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm cũ của các phiên thần khi họ biết hối cải. Trường hợp ngươi cũng vậy! Nếu biết tội mình đã gây ra mà hối cải hãy cho sứ giả sang cống thiên triều như lệ cũ, mọi việc sẽ êm thấm. Đó là phước lớn cho binh dân cả hai nước. Nếu ngươi cứ chấp nê, tiếp tục giữ thói ngông cuồng không chịu khuất phục, trẫm buộc lòng phải cử binh chinh phạt! Trẫm đã liên kết với nước Chân Lạp và nước Xiêm, họ cũng sẵn sàng hội binh với thiên triều để diệt lũ nghịch tặc! Ngươi liệu sức mình có chống lại nổi thiên triều hay không? Ngươi đang cầm vận mạng toàn dân nước Chiêm, cứ tùy ý tính toán hơn thiệt mà hành động!”.
Chiếu thư thảo xong, vua Duệ Tôn chưa tìm ra người đi sứ thì có người của Hành khiển tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình từ Hóa Châu về báo tin biên giới! Vua Duệ Tôn liền đòi người đưa tin vào để hỏi tình hình. Khi biết được tướng Chiêm là Bố Đông đang tập trung quân cách biên giới Đại Việt chừng một trăm dặm vua Duệ Tôn nói với các quan:
-Đấy, quân Chiêm lại có ý đồ sang cướp nữa không sai! Thế mà chư khanh cứ khuyên ta đừng đi đánh là sao? Giờ ta đã nhất định đánh Chiêm, chẳng cần mang chiếu thư đi nữa!
Hành khiển Phạm Huyền Linh nghe vua nói thế mới thưa:
-Người có tài ăn nói và biết rõ tình hình Chiêm Thành hơn ai hết chính là quan Hành khiển tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình, nay nhân có người của ông ấy về báo việc biên giới, bệ hạ thử giao việc này cho ông Đỗ tính liệu xem sao! Nếu ông Đỗ có cách thuyết phục được Chế Bồng Nga chịu qui phục thì cũng tốt! Nếu ông Đỗ không làm được ta sẽ ra quân cũng không muộn!
Vua Duệ Tôn nghe lời, giao chiếu thư cho người báo việc biên giới mang về cho Đỗ Tử Bình thi hành.
Đỗ Tử Bình từ ngày được vua Duệ Tôn cử đem binh trấn giữ thành Hóa Châu, ông lo lắng lắm. Ngoài việc giữ gìn an ninh cho vùng đất này, ông còn có nhiệm vụ theo dõi tình hình hoạt động của người Chiêm bên kia biên giới. Trên thực tế, biết được quân Chiêm quá thiện chiến, ông chỉ tập trung mọi nỗ lực vào việc phòng thủ. Số người ông bung ra hoạt động do thám bên kia biên giới chẳng bao lăm làm sao nắm vững được tình hình địch? Lâu nay không có gì để báo về triều, Tử Bình rất sợ bị vua khiển trách. Nay thấy quân của tướng Bố Đông tuần tiễu biên giới chăm hơn, ông liền cho người báo ngay về triều. Vua Duệ Tôn mới nhân dịp ấy trao chiếu thư để ông đưa sang Chiêm.
Thấy nội dung tờ chiếu thư lời lẽ cứng rắn quá, Tử Bình đâm ra sợ hãi. Chế Bồng Nga có thể nổi giận giết sứ giả lắm chứ! Nghĩ thế nên ông phải vất vả liên lạc với tướng Bố Đông để trao chiếu thư qua tay ông này dâng lại vua Chiêm.
Nói về vua Chiêm Chế Bồng Nga sau khi ăn mừng thắng trận, ban thưởng cho ba quân xong, ông cho chia số quân chủ lực làm hai đạo. Một đạo ứng trực phục vụ việc công đồng thời tập dượt ôn luyện hằng ngày, một đạo cho về nhà lo công việc riêng. Hai đạo tuần tự thay nhau như thế, đợi gặp lúc thuận lợi lại tập trung đi đánh Đại Việt.
Để đề phòng phía Đại Việt tố cáo vụ quân Chiêm đánh phá Thăng Long có thể gây ra phiền phức, Chế Bồng Nga sai Qua Bốc Nông sang Kim Lăng – kinh đô Trung Hoa – dâng biểu tố cáo Đại Việt xâm lấn đất Chiêm trước. Biểu viết trên tấm vàng lá dài hơn một thước* 5 tấc, nội dung như sau: “Hoàng đế Đại Minh lên ngôi cao quí, chức vị coi sóc bốn biển như trời đất che chở, mặt trời mặt trăng soi sáng. Chế Bồng Nga chỉ đáng là một cây cỏ thôi, được ơn Hoàng đế ban cho ấn vàng, phong làm Quốc vương, lòng trung thành hân hoan đội ơn vạn bội. Duy việc An Nam dùng binh xâm nhiễu bờ cõi, giết bắt quan lại, nhân dân, nguyện được bệ hạ nghĩ đến ban cho binh khí, nhạc khí, chuyên viên về âm nhạc, khiến An Nam biết Chiêm Thành được trang bị thanh giáo, là nước triều cống Trung Hoa thì An Nam không dám khinh thường”.
Nhưng vua Minh không chịu đáp ứng những yêu cầu ấy mà sai Trung thư tỉnh chuyển cho Qua Bốc Nông một văn thư như sau:
“Lân quốc giao thiệp, đạo lý là phương sách hay để giữ đức, thờ nước lớn tận lòng thành để làm trọn lễ của bề tôi. Vả lại Chiêm Thành và An Nam đã là bề tôi của triều đình, cùng phụng thừa lịch Chính Sóc, lại gây việc binh khiến độc hại sinh linh, đã trái lẽ phụng sự bề trên, lại sai đường giao hảo giữa lân bang. Đã báo cho Quốc vương An Nam bãi binh ngay, bản quốc cũng nên để hai bên tôn trọng giữ gìn cương thổ. Việc xin thiên tử binh khí thì nào có tiếc gì, nhưng Chiêm Thành và An Nam đang tranh chấp mà triều đình lại cho riêng Chiêm Thành, là giúp ngươi đánh nhau, rất trái với đạo chiêu an. Việc xin nhạc khí và chuyên viên âm nhạc, thì về thanh luật, Trung Hoa và nước ngoài không khác, nhưng về ngữ âm thì có sự sai biệt giữa Hoa và Di, như vậy khó có thể điều khiển. Nếu ngươi có kẻ tập nói được tiếng Hoa, có thể dạy cho âm luật, hãy tuyển chọn một số người đến kinh đô học tập”.
Lần này vua Minh chỉ ban cho Chiêm Thành một đặc ân là thuyền bè của nước này ghé tỉnh Phúc Kiến đều được miễn thuế.
Cách xử sự dè dặt của vua Minh đã làm Chế Bồng Nga không yên lòng. Ông muốn được vua Minh tin tưởng để dễ bề đối phó với Đại Việt. Sau nhiều lần suy nghĩ, ông đã nghĩ đến một việc làm táo bạo để vừa đem lại lợi ích cho nước Chiêm vừa làm hài lòng vua Minh.
Số là người Chiêm rất giỏi về các nghề trên biển: đánh cá, buôn bán, chuyên chở hàng mướn, ngoài ra còn có một số sống bằng nghề cướp biển nữa! Dân Chiêm quen với nghề biển như thế nên nước Chiêm luôn có những đội quân thủy rất hùng mạnh.
Lúc bấy giờ Minh triều đang bối rối vì cái nạn cướp biển. Chúng cứ đột hiện đột biến bất ngờ cướp bóc dân chúng sống dọc theo duyên hải Trung Hoa. Những thuyền hàng hải của nhiều nước khác đi lại trên biển cũng bị chúng cướp. Quân Minh không thể nào theo dõi để diệt trừ tận gốc được. Hầu hết những tên giặc này là người Nhật. Dân Trung Hoa vẫn quen gọi chúng là giặc Nụy (giặc lùn). Sau khi thực hiện những vụ cướp, bọn giặc thường trở về các sào huyệt kín đáo, hiểm nghèo trên vùng duyên hải, hải đảo nhiều nước. Nhờ những thần dân của mình rành rõi nghề biển, Chế Bồng Nga cũng dần biết được một số sào huyệt của của bọn cướp này. Thế rồi ông mở những cuộc tập kích vào bọn chúng. Kết quả ông đã giết được hai tên tướng cướp đầu sỏ là Trương Nhữ Hậu và Lâm Phúc. Bắt được 20 chiếc thuyền biển, 7 vạn cân tô mộc* cùng tên giặc Ngô Đệ Tứ. Chế Bồng Nga sai Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán đem những chiến lợi phẩm này dâng vua Minh. Vua Minh mừng lắm, hai lần ban thưởng cho vua Chiêm. Từ đó vua Minh đặc biệt o bế Chiêm Thành. Hai nước Trung Hoa – Chiêm Thành đã hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc tiểu trừ bọn cướp biển…
Thấy đã đến lúc thuận lợi, tướng La Ngai nói với vua Chiêm:
-Lúc này ta không còn lo ngại về nhà Minh, binh lính nghỉ dưỡng sức như vậy cũng đã đủ. Hiện tại tinh thần quân dân đang lên, ai cũng mong bệ hạ tái chiếm những vùng đất vua Chế Củ và vua Chế Mân đã nhường cho Đại Việt! Bệ hạ định khi nào xuất quân?
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta cũng đang tính tới việc đó. Binh lương coi như đã sẵn sàng. Ta cũng đã cho người đi thám thính xem Đại Việt động tĩnh thế nào rồi. Đợi có tin tức đích xác sẽ liệu cách để hành động.
Khi triều đình Chiêm Thành biết được tin ở Đại Việt Cung Tuyên vương Trần Kính đã lên ngôi thay vua Nghệ Tôn, Tể tướng Nhã Đam lo ngại nói:
-Bây giờ Đại Việt đã có vua mới, bệ hạ có ý định thay đổi kế hoạch hành động không?
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Tùy cơ ứng biến! Nhưng đằng nào cũng phải đánh Đại Việt! Ông cứ việc chuẩn bị sẵn mọi thứ giúp ta!
Truyền lệnh cho Tể tướng Nhã Đam xong, vua Chiêm liền cho triệu cựu hoàng thái phi Đại Việt là Đào thị vào hầu. Khi Đào thị đến, vua Chiêm hỏi:
-Mụ có biết Cung Tuyên vương Trần Kính là người thế nào không?
Như vớ được của báu, Đào thị trả lời không ngập ngừng:
-Tâu bệ hạ, nó chính là tên đại gian đại ác đã chủ động trong việc giúp Trần Phủ cướp ngôi của con trai thiếp! Muốn đánh Đại Việt chóng thắng, bệ hạ phải diệt trừ tên đó trước!
-Như vậy tên Trần Kính này nguy hiểm lắm sao?
-Tâu bệ hạ, chính vậy! Nếu không có nó Trần Phủ đâu làm nên trò trống gì?
Vua Chế Bồng Nga nghe Đào thị nói chưa hẳn tin. Tới khi cho phối kiểm các nguồn tin từ những người lính do thám, biết được vua Duệ Tôn đang chăm lo sửa sang việc nội trị và ráo riết luyện tập quân đội, ông mới cảm thấy lo ngại.
Lúc bấy giờ trên đất Chân Lạp gần biên giới phía tây Chiêm Thành không hiểu đã xảy ra việc gì, cũng có dấu hiệu động binh. Các quan thấy thế khuyên vua Chiêm phải đề phòng. Vua Chiêm nghe lời, bèn tạm ngưng kế hoạch đánh Đại Việt để lo việc phòng thủ. Tướng La Ngai được giao nhiệm vụ chuyên lo tuần thám, kiểm soát việc phòng thủ biên giới phía tây và phía nam. Tướng Bố Đông chuyên lo tuần thám, kiểm soát việc phòng thủ biên giới phía bắc.
Khi nhận được chiếu thư của vua Duệ Tôn, Chế Bồng Nga không hề nổi giận như nhiều người vẫn nghĩ. Ông cho người đọc lại để các quan cùng nghe rồi nói:
-Thật đáng tiếc, chỉ vì ta cẩn thận quá nên đã bỏ lỡ dịp may. Thời Trần Hạo, Nhật Lễ rồi Trần Phủ cầm quyền, Đại Việt đang suy yếu hỗn loạn, ta lại dè dặt không ra quân sớm để diệt trừ chúng. Nay Đại Việt đã có vua mới là Trần Kính, nghe đâu y cũng là tay anh kiệt, hơi khó đấy. Lão ta gởi chiếu thư này đòi nước Chiêm ta phải triều cống trở lại. Chư khanh nghĩ sao về việc này nói thử xem?
Tướng La Ngai tâu:
-Hiện nay quân Chiêm ta rất hùng mạnh, ta lại chuẩn bị đánh Đại Việt sẵn. Cho dù Đại Việt đã có vua mới, Trần Kính có giỏi mấy đi nữa cũng chưa thể nào kiện toàn kịp một quân đội suy yếu hỗn tạp vừa mới bại trận. Thần tin chắc đạo quân thiện chiến của ta với tinh thần đang hăng, sẽ đánh gục bất cứ đối thủ nào! Xin bệ hạ cứ xuất quân đập tan ý đồ của Trần Kính!
Tể tướng Nhã Đam nói:
– Tôi nghe Trần Kính trí dũng kiêm toàn, ngày đêm chỉnh đốn triều đình, luyện tập quân sĩ, dồn lương chứa cỏ, tình thế Đại Việt nay đã khác trước nhiều lắm, ta không nên khinh địch.
Tướng La Ngai cãi lại:
-Tể tướng nói sai rồi! Quân ta đã được huấn luyện thuần thục từ lâu, trận đánh vào Thăng Long năm kia đã làm tinh thần quân sĩ lên rất cao. Đại Việt mới bại trận, tinh thần quan quân chúng tới nay chưa hết kinh hoàng. Trong nước lại xảy ra giặc giã liên miên, quân sĩ phải luôn mệt mỏi vì những cuộc đánh dẹp. Tôi nghĩ đạo quân của Trần Kính hiện tại bất quá là một đạo quân ô hợp thôi! Nếu không đánh ngay lúc này để mai đây nó lớn mạnh thật sự ta làm sao chế ngự được?
Quan Bình chương Hùng Vân nói:
-Trong chiếu thư, Trần Kính nói Đại Việt đã liên minh với Chân Lạp và Xiêm, tuy hư thực chưa rõ nhưng ta không thể không đề phòng! Ngày xưa vua nước Ngô là Phù Sai có một quân đội hùng mạnh vô địch đương thời, khi các nước chư hầu của nhà Chu hội nhau ở Hoàng Trì để bầu ngôi bá chủ, nước Ngô cũng kéo quân đi dự tranh. Nước Tấn là đương kim bá chủ sợ sức mạnh của nước Ngô phải chịu nhượng bộ. Nước Ngô đã được bầu làm bá chủ mới. Nhưng oái oăm thay, trong lúc quân Ngô đi quá xa, vua Câu Tiễn nước Việt là một nước nhỏ ở cạnh nước Ngô đã bất ngờ kéo quân tập kích vào nước Ngô. Thế tử Hữu, người lo việc phòng thủ nước Ngô bị tử trận. Đạo quân hùng mạnh vô địch của Phù Sai trên đường về nước đang mệt mỏi, nghe tin chính quốc bị tấn công, mất hết tinh thần nên tan rã dần. Kết cục nước Ngô đã bị nước Việt đánh bại toàn bộ, Ngô Phù Sai phải tự tử. Trong tình thế hiện nay, tôi nghĩ chưa nên đem quân vào sâu trong đất giặc. Tôi nghe Chân Lạp cũng đang động binh ở biên giới, biết đâu Chân Lạp cũng đang rình nước ta như nước Việt rình nước Ngô? Ta phải đề phòng cái họa của Ngô Phù Sai mới được!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Các khanh ai nói cũng có lý cả. Ta cũng có cái suy nghĩ riêng của ta. Thôi thì ta dung hòa các ý kiến để đi đến một quyết định chung vậy. Đối với Chiêm quốc thì Chân Lạp hay Đại Việt cũng đều là kẻ thù và đều nguy hiểm cả. Họ có thể hại ta bất cứ lúc nào. Nhưng về thế lực thì Đại Việt mạnh hơn Chân Lạp, khó đánh hơn. Vả lại, nếu ta diệt được Đại Việt để sát nhập vào Chiêm quốc, nước ta thành giáp giới với nước Trung Hoa là một nước quá mạnh, lại tham lam vô độ, cực kỳ gian hiểm, ta thật lòng chẳng ham! Trường hợp với Chân Lạp thì có phần dễ đánh hơn Đại Việt. Đánh chiếm Chân Lạp tốt hơn vì ít gặp trở ngại từ bên ngoài. Ý ta muốn tạm thời hòa hoãn với Đại Việt để rảnh tay chinh phạt Chân Lạp trước. Thắng được Chân Lạp rồi sức mạnh của ta sẽ gia tăng gấp bội. Bấy giờ ta sẽ tính chuyện khác. Ý chư khanh thế nào?
Quan Bình chương Hùng Vân nói:
-Bệ hạ tính như vậy thật hợp lý. Thần chỉ ngại ta vẫn chưa thu hồi được những vùng đất mà Đại Việt đã chiếm của ta làm quân dân ta chưa thỏa mãn thôi!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Muốn mưu việc lớn phải coi nhẹ việc nhỏ mới được! Đánh được Chân Lạp ta muốn thêm bao nhiêu đất cát mà chẳng được? Đáng gì mấy miếng đất khô cằn sỏi đá ấy? Cứ gởi cho chúng tạm giữ, khi ta mạnh hẳn lên sẽ lấy lui mấy hồi!
Tể tướng Nhã Đam nói:
-Như vậy là bệ hạ chấp thuận triều cống Đại Việt trở lại như yêu sách của Trần Kính?
Vua Chế Bồng Nga cười nói:
-Đúng vậy! Khi đột kích vào Thăng Long ta đã lấy được của họ quá nhiều vàng ngọc lụa là, bây giờ trả lại cho họ một ít cũng không sao! Ông hãy sửa soạn sẵn cho ta 10 mâm vàng để dùng vào việc đó.
Thế rồi vua Chế Bồng Nga cho thảo tờ thư tạ tội với vua Duệ Tôn, chịu tiếp tục triều cống hàng năm như trước. Ông cho triệu tướng Bố Đông làm sứ giả mang quốc thư và 10 mâm vàng sang cống Đại Việt.

Khi tướng Bố Đông được cử sang Đại Việt triều cống lại nhằm mùa gió chướng nên sứ đoàn phải đi bằng đường bộ qua ngả Hóa Châu. Quan Hành khiển Đỗ Tử Bình đang trấn thủ Hoá Châu nhận được thư báo trước ông vui mừng hết sức. Từ nay ông có thể ăn ngon ngủ yên rồi!
Tới đây thiết tưởng cũng nên lược sơ về nhân vật Đỗ Tử Bình này một chút: xuất thân với chức ngự tiền học sinh. Ông là người có học nhưng không có thực tài. Được trời ban cho cái khiếu ăn nói hay, biện bác giỏi, ông chuyên dùng sở trường này để tiến thân. Tuy ít thành công trong việc làm nhưng đường danh lợi cứ lên như diều gặp gió. Năm Mậu Tý* ông được thăng làm Thị giảng. Tháng 7 năm Kỷ Hợi* ông được thăng Tri Khu mật viện sự. Năm Nhâm Dần*, biên giới phía nam bắt đầu căng thẳng, ông được lệnh của vua Dụ Tôn đi bổ duyệt quân ở Lâm Bình, Thuận Hóa và đắp thành Hóa Châu. Năm Đinh Mùi, ông được cử làm phó Thống quân cho Minh tự Trần Thế Hưng đem quân đi đánh Chiêm Thành. Tháng 4 năm Mậu Thân* quân Việt tiến vào tới Chiêm Động thì bị quân Chiêm phục kích đánh một trận tan tác. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát được. Từ khi ra làm quan, Đỗ Tử Bình không bỏ lỡ một cơ hội nào có thể vơ vét để làm giàu. Chẳng bao lâu ông đã thu gom được một số vốn liếng đáng kể. Mới ngoài bốn mươi ông đã xây dựng được cơ sở ăn ở vững vàng. Không ngờ trong trận đánh Thăng Long năm Tân Hợi, số của cải ông gom nhặt được lại bị quân Chiêm vét sạch. Mấy nàng hầu trẻ của ông cũng bị chúng bắt mất. Cái dinh thự ông tạo lập ở chưa được bao lâu cũng biến thành đống tro. Những việc đó đã khiến ông đau khổ vô cùng…
Khi sứ đoàn Chiêm Thành tới Hóa Châu, Hành khiển Đỗ Tử Bình đã thân ra đón tiếp, mời vào trú ngụ trong thành. Ông đã cùng tướng Bố Đông gặp nhau đàm đạo rất thân mật. Sau đó, ông lại ân cần mời tướng Bố Đông sáng mai đến tư dinh ông uống trà trước khi lên đường. Tướng Bố Đông nhận lời, Đỗ Tử Bình lại hỏi:
-Sứ đoàn có cần bản chức giúp đỡ gì không?
Tướng Bố Đông nói:
-Cám ơn quan Hành khiển đã có nhã ý giúp đỡ chúng tôi. Thú thật đường sá ở thượng quốc chúng tôi không được rành mấy. Chúng tôi lại còn mang theo một số cống phẩm để dâng triều đình. Nếu quan Hành khiển giúp cho một đội lính vừa làm hướng dẫn viên vừa tăng cường bảo vệ thì tiện cho sứ đoàn chúng tôi lắm!
-Cống phẩm kỳ này có gì đặc biệt không?
-Thưa, cũng khá quan trọng! Ngoài những cống phẩm thông thường còn có 10 mâm vàng!
-Mười mâm vàng? Nhiều đấy! Phải bảo vệ cẩn thận mới được! Để tôi tính giúp ông!
Thế rồi Đỗ Tử Bình trở về công đường cho đòi viên thuộc tướng Nguyễn Long đến dặn:
-Ngươi hãy chọn chừng năm mươi tên lính khỏe mạnh chuẩn bị sẵn để sáng mai theo hộ tống sứ đoàn Chiêm Thành về kinh.
Nguyễn Long vâng dạ. Tử Bình dặn thêm:
-Dẫn đường và bảo vệ sứ đoàn Chiêm Thành, là việc rất quan trọng. Mười mâm vàng cống phẩm mà thất thoát là ngươi hết đường về đấy! Phải cẩn thận lắm mới được!
-Dạ, thuộc hạ biết. Xin thượng quan yên tâm.
Viên thuộc tướng đi rồi, Tử Bình ngồi một mình suy nghĩ mung lung. Mười mâm vàng? Một tài sản mà ông hằng mơ ước! Bao năm làm quan ông đã vất vả thực hiện được một phần mơ ước đó nhưng bây giờ đã tan thành mây khói hết! Ông chợt nhớ lại nỗi đau khổ của mình khi quân Chiêm đánh phá Thăng Long năm xưa. Nào những người ngọc, nào châu báu, nào dinh cơ, tất cả vì một tay Chế Bồng Nga mà ông mất sạch. Nghĩ tới mười mâm vàng mà sứ đoàn mang sang cống Đại Việt ông càng đau lòng. Có thể trong đó có một số vàng do chính ông gom nhặt chắt chiu trước đây…
Tối hôm đó Tử Bình có vẻ trầm ngâm, nghĩ ngợi, chốc chốc lại thở dài. Đỗ phu nhân thấy thái độ lạ lùng của chồng bèn hỏi:
-Hôm nay sứ Chiêm đã chịu sang cống triều đình là một việc hết sức tốt lành cho quốc gia và cho cả gia đình ta nữa, thế mà tướng công chẳng có vẻ phấn chấn gì cả nghĩa là sao?
Đỗ Tử Bình cười nửa miệng đáp:
-Ta làm quan gần hai chục năm, gắng lắm mới gom nhặt được một số vàng bạc trù để lại cho con cháu đỡ vất vả. Không ngờ chỉ một ngày quân Chiêm vào cướp sạch! Lại đốt phá hết nhà cửa của ta nữa! Lúc này khó khăn, biết bao giờ ta kiếm lại được số của cải như trước? Nghĩ đến điều đó nên ta không được vui thôi!
Đỗ phu nhân hơi tức cười:
-Tướng công là kẻ ra trấn cõi ngoài, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ giặc tới bất ngờ, nay giặc đã chịu khuất phục, tướng công đã trút bớt được gánh lo, phải vui mừng mới được chứ! Còn chuyện tạo lại của cải, tướng công còn làm quan, còn chán gì cơ hội?
Đỗ Tử Bình cau mặt nói:
-Phu nhân tưởng cứ làm quan là lúc nào cũng có thể kiếm ra tiền của sao? Chán chi kẻ làm quan mà suốt đời vẫn thiếu thốn, khi chết vẫn không có chút của để lo lễ tang cho chính mình? Từ vua Dụ Tôn đến ngụy Nhật Lễ chẳng ai quan tâm đến chính sự nên các quan cứ mạnh ai nấy thao túng, kiếm tiền không khó. Đến thời vua Nghệ Tôn tuy ngài có chăm lo việc nước, nhưng tánh ngài nhân hậu, dễ thông cảm, ta vẫn có thể xoay xở được. Nay đức Duệ Tôn đã chấp chánh, ngài quá nghiêm minh, cương trực, lại siêng lo công việc, ta còn đâu cơ hội để khá lên như xưa?
Đỗ phu nhân càng tức cười hơn:
-Nhưng đó là chuyện riêng của nhà mình, mà chuyện của cải mất cũng đã mất rồi! Bộ hết lúc lo rồi sao mà tướng công lại nhằm lúc sứ giả Chiêm Thành ghé qua nhà mình mà lo? Thấy gương mặt đăm chiêu nghĩ ngợi của tướng công người ta sẽ e dè mất vui, điều đó đâu hợp với phép giao tế!
Bị vợ chỉ trích, Đỗ Tử Bình tâm sự:
-Lần này cống phẩm sứ Chiêm mang theo có đến 10 mâm vàng. Ta nghĩ lại số tài sản của ta bị giặc Chiêm cướp mà đau lòng. Nếu không, ít nhất ta cũng có gần một nửa số vàng như thế. Bây giờ thì không còn hi vọng gì nữa! Càng nghĩ càng thấy hận bọn giặc Chiêm!
Đỗ phu nhân nghe chồng nói lên sự việc như vậy cũng thấy động lòng, bà thở dài:
-À, hóa ra là vậy! Nếu nhà mình có được một số vàng như thế cũng đỡ lo cho đám con cháu! Nhưng đây là vàng của vua, tướng công suy nghĩ làm gì cho mệt? Trời khuya rồi, mời tướng công đi nghỉ!
Đỗ Tử Bình lặng thinh. Sáng hôm sau, khi phu nhân thức dậy, bà thấy đám gia nhân đang lăng xăng lo công việc bếp núc. Quá ngạc nhiên, phu nhân hỏi:
-Ai bảo các ngươi làm gì sớm thế?
Bà quản gia thưa:
-Thưa phu nhân, tướng công sai chuẩn bị tiệc để thết đãi sứ giả Chiêm Thành!
“Hôm nay tướng công ta định mời sứ giả uống trà rồi tiễn đưa lên đường, sao lại còn bày tiệc tùng gì khác nữa?” – Đỗ phu nhân ngạc nhiên đi vào phòng của chồng định hỏi lý do thì thấy ông đang ngồi viết thư từ gì đó. Nghe tiếng động, ông ngước mặt lên nhìn vợ tươi cười nói:
-Ta đã nghĩ ra một mưu kế thần diệu! Hôm nay ta tạm giữ sứ giả ở lại. Phen này ta sẽ làm cho Chế Bồng Nga dở sống dở chết! Phu nhân cứ yên chí đợi xem!
Đỗ phu nhân ái ngại nhìn chồng nói:
-Tướng công muốn làm gì xin phải suy tính cẩn thận! Để phạm vào phép vua luật nước là khổ đó!
Đỗ Tử Bình cười có vẻ đắc chí:
-Phu nhân chớ lo! Chỉ cần bà im lặng giùm ta!
Đỗ phu nhân nghe chồng nói thế bèn im lặng đi ra. Một lát sau gia nhân dọn trà ra. Đỗ Tử Bình cho người mời tướng Bố Đông vào cùng uống. Trong cuộc trà này, Đỗ Tử Bình đã sử dụng rặt tiếng Chiêm khiến tướng Bố Đông vô cùng ngạc nhiên. Ông lại ăn nói khéo léo nên tướng Bố Đông thích lắm. Uống trà nửa chừng Đỗ Tử Bình nói với Bố Đông:
-Tuyệt diệu thật, ai ngờ chúng ta mới đối đầu nhau đó mà bây giờ lại được ngồi uống trà với nhau trong tình thân ái! Từ nay chúng ta là bạn của nhau. Thỉnh thoảng tướng quân sang đây hoặc bản chức sang dinh tướng quân đối ẩm thế này thì vui biết mấy!
Bố Đông cũng vui vẻ nói:
-Cám ơn quan Hành khiển, được như thế này mãi thì còn gì hơn?
Đỗ Tử Bình lại nói:
-Hôm nay coi như ngày hòa bình, ngày hội ngộ của chúng ta, bản chức đã cho làm tiệc rượu, chúng ta sẽ có một ngày rất vui vẻ mừng hai dân tộc Việt Chiêm từ nay hết nạn binh đao!
Bố Đông ngạc nhiên:
-Ngài nói làm tiệc rượu đãi chúng tôi ư? Xin ngài miễn cho, tôi còn có sứ mạng đi Thăng Long dâng cống phẩm, không thể trễ nãi được. Hẹn ngày trở về sẽ xin uống rượu với ngài vậy!
Đỗ Tử Bình nói:
-Lo gì việc đó! Bản chức là người đại diện cho thiên tử ở đây, vì vấn đề an ninh, bản chức có thể nhận quốc thư và cống phẩm rồi chuyển về triều cũng xong! Tướng quân cứ giao hết cho bản chức, bản chức sẽ viết biên lai đàng hoàng để tướng quân mang về dâng Chiêm vương.
Ngưng giây lát, Đỗ Tử Bình lại giở giọng đùa:
-Tướng quân không tin bản chức ư? Nếu bản chức ăn bớt cống phẩm ắt hẳn sẽ bị thiên tử trừng phạt! Khi đó bản chức chỉ còn nước chạy sang nhờ tướng quân che chở thôi!
Lúc ấy gia nhân bắt đầu bày tiệc rượu ra. Bố Đông lúng túng chốc lát rồi đành nhập cuộc. Đỗ Tử Bình và Bố Đông như hai người bạn tri kỷ lâu ngày xa cách nhau nay được tái hợp, cùng nhau uống đến say mèm. Sứ đoàn Chiêm ở lại Hóa Châu thêm một đêm nữa!
Hôm sau Đỗ Tử Bình lấy tư cách đại diện cho hoàng đế Đại Việt, nhận quốc thư cùng 10 mâm vàng và các cống phẩm khác của sứ đoàn Chiêm Thành. Ông tự tay viết tờ phúc đáp rõ ràng trao cho tướng Bố Đông về trình với Chiêm vương. Xong việc Đỗ Tử Bình lại đãi Bố Đông thêm một tiệc nữa rồi tiễn đưa ông ta trở về Chiêm Thành.
Khi tướng Chiêm Bố Đông về nước xong, việc đầu tiên của Đỗ Tử Bình là cho người thân tín đem cất giấu hết 10 mâm vàng nước Chiêm dâng. Tiếp đó, ông cho đòi viên thuộc tướng Nguyễn Long đến sai chạy thư khẩn cấp về Thăng Long. Nguyễn Long ngạc nhiên hỏi:
-Bẩm, thượng quan có dặn thuộc hạ chọn năm mươi tên lính để hộ tống sứ đoàn Chiêm Thành về kinh. Chúng đợi mấy hôm nay rồi, bây giờ tính sao?
Lúc đó Tử Bình mới sực nhớ mình đã truyền cái lệnh đó, liền bảo:
-Bây giờ sứ đoàn Chiêm Thành không chịu đi nữa, hãy cho chúng trở về với công việc cũ. Ngươi đi một mình đủ rồi! Nhớ phải cẩn thận cái miệng đấy. Việc của ngươi bây giờ chỉ là mang thư khẩn của ta về triều. Những việc khác ngươi không biết rõ ai hỏi chớ có nói ẩu có khi mang họa đó!
Nguyễn Long vâng dạ. Sau khi truyền lệnh cho đám lính của mình trở về công việc cũ, Nguyễn Long vội vã lên đường ngay.
Bức thư khẩn của Tử Bình viết đại lược như sau: “Thần đã trao quốc thư cho viên tướng Chiêm trấn giữ biên giới là Bố Đông nhờ y chuyển cho Chiêm vương Chế Bồng Nga. Chế Bồng Nga xem quốc thư của ta xong đùng đùng nổi giận. Y đã dùng những lời lẽ rất xấc xược để thóa mạ vua quan Đại Việt. Hiện giờ y đã cho động binh khắp nơi, quân Chiêm có thể vượt biên giới Đại Việt bất cứ lúc nào. Vậy, thần kính khẩn báo để bệ hạ đề phòng”.
Vua Duệ Tôn đọc thư xong ngài nổi giận nói lớn:
-Tên Man vương ngang ngược này coi trời đất không ra gì nữa! Ta phải cho nó biết tay!
Ngài lại nói với các quan:
-Thế mà lâu nay các khanh cứ khuyên trẫm dùng văn đức để cải hóa Chiêm Thành! Các khanh đã thấy nó vẫn giữ thái độ ngang ngược, hỗn láo như cũ chưa? Phen này trẫm nhất quyết phải cầm quân đi đánh nó.
Thế rồi ngài ra lệnh cho Lê Quí Ly đốc sức dân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Châu và Hóa Châu vận tải lương thực để cung cấp cho quân sĩ. Ra lệnh cho các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa phải điều động quân các nơi tập trung theo những địa điểm ấn định để sẵn sàng xuất chinh.
Mùa đông năm Bính Thìn, vua Duệ Tôn đã huy động được một lực lượng 12 vạn quân. Ngài sai các đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa chỉ huy tiền quân. Chính ngài và Ngự Câu vương Trần Húc là con trưởng của Thượng hoàng chỉ huy trung quân. Sai Đỗ Tử Bình chỉ huy hậu quân, Lê Quí Ly làm vận lương sứ có nhiệm vụ tải lương thực đi sau.

Trước khi ra trận, vua Duệ Tôn vào bái yết Thượng hoàng và nói:
-Xin hoàng huynh coi việc nước thay trẫm một thời gian. Trẫm đi chuyến này nhất định sẽ làm người Chiêm khiếp phục không bao giờ còn dám hung hăng xâm phạm Đại Việt nữa. Hoàng huynh cứ yên lòng chờ tin thắng trận!
Thượng hoàng nói:
-Quan-gia đi lần này ta cũng yên lòng và tin tưởng tất thắng. Nhưng ta cũng ngại một điều là quan-gia hay nóng nảy và cương quyết quá có khi làm cho quân dân hai nước chết oan nhiều cũng tội. Hành khiển Phạm Huyền Linh vừa cho ta biết Chế Bồng Nga đã chịu khuất phục nạp cống rồi sao nay sự thể lại đổi thay như thế nhỉ?
Vua Duệ Tôn bực mình nói:
-Cái lão ấy đặt chuyện vu vơ đó! Xin hoàng huynh chớ nghe!
-Phạm Huyền Linh nói có chứng cớ hẳn hoi chứ không nói càn đâu! Nội thị đâu? Đi mời quanh Hành khiển Phạm Huyền Linh tới quan-gia gặp ngay!
Vua Duệ Tôn không kịp cản lại. Ngài nói:
-Mấy cái anh hủ nho nhát như cáy mà cứ lắm chuyện!
Lát sau thì quan Hành khiển Phạm Huyền Linh đến. Vua Duệ Tôn hỏi:
-Ngươi nghe ai nói Chế Bồng Nga đã chịu khuất phục ta?
Phạm Huyền Linh bất đắc dĩ phải đem việc Nguyễn Long nhận lệnh chuyển bức thư khẩn của Đỗ Tử Bình về triều ra sao thuật lại hết đầu đuôi. Thì ra Nguyễn Long là cháu gọi Huyền Linh bằng cậu. Vì trước đó Đỗ Tử Bình có ra lệnh cho Nguyễn Long đi hộ tống sứ đoàn Chiêm Thành về Thăng Long dâng quốc thư và cống phẩm. Tử Bình cũng có cho Nguyễn Long biết là số cống phẩm có 10 mâm vàng. Sau đó Tử Bình lại thuyết phục được sứ Chiêm trao cống phẩm và quốc thư để ông dâng về triều. Nhưng thay vì chuyển quốc thư và cống phẩm của nước Chiêm về triều, Tử Bình lại gởi về triều bức thư báo khẩn Chiêm Thành hỗn xược và đang chuẩn bị tấn công Đại Việt. Sự thay đổi về chuyến đi cũng như sự trái nghịch giữa việc dâng cống phẩm với bức thư báo khẩn đã làm Nguyễn Long ngạc nhiên. Nhưng Nguyễn Long không dám nói với ai mà chỉ tiết lộ việc ấy với ông cậu mình. Phạm Huyền Linh thẳng ruột lại đem việc đó báo với Thượng hoàng xin bí mật điều tra. Nghe chuyện xong, vua Duệ Tôn nói:
-Chuyện có thể xảy ra lắm. Nhưng khui ra bây giờ là gây trở ngại công việc ngay! Ta đã chuẩn bị ra quân không lẽ đình lại nữa? Mọi việc đâu vẫn còn đó, cứ đợi trẫm bình Chiêm xong rồi tính! Bây giờ ta muốn quan Hành khiển theo ta ra mặt trận một chuyến chịu đi không?
Hành khiển Phạm Huyền Linh bất đắc dĩ phải xin đi.
Mấy hôm sau vua Duệ Tôn chia quân hai mặt thủy bộ cùng tiến về đất Chiêm. Đến cửa sông Nhật Lệ, vua Duệ Tôn cho tạm dừng để quân sĩ tổng tập dượt lại và cũng để biểu dương khí thế hơn một tháng. Sau đó đại quân tiến về cửa Thị Nại. Quân Đại Việt tiến đến đâu quân Chiêm Thành né tránh đến đó. Thừa thế quân Đại Việt tiến lên Thạch Kiều, đóng đại bản doanh ở động Ỷ Mang.
Trước đó Chế Bồng Nga đã cho dựng lũy bằng tre gỗ ở ngoài thành Đồ Bàn để chống cự. Thấy đoạn đường từ động Ỷ Mang đến thành Đồ Bàn lối đi chật hẹp khúc khuỷu, hai bên cây cối rậm rạp rất tiện cho việc phục binh, Chế Bồng Nga đã nghĩ ra được một diệu kế. Ông bí mật cho quân ra phục sẵn hai bên rừng rồi sai tướng Mục Bà Ma đi trá hàng. Mục Bà Ma đến doanh trại Đại Việt, xin vào ra mắt vua Duệ Tôn. Vua Duệ Tôn hỏi:
-Ngươi đến đây làm gì?
Mục Bà Ma nói:
-Muôn tâu bệ hạ, hạ thần vốn là thuộc tướng của Chế Bồng Nga đến đây xin hàng. Mong được bệ hạ thương tình nạp dụng!
-Vì lý do gì ngươi đầu hàng?
-Vì hạ thần thấy Chế Bồng Nga không biết tự lượng sức, ngang ngạnh chống lại thiên triều, hạ thần biết trước sau ông ta cũng bị bệ hạ bắt nên đến xin hàng trước để tội khỏi nặng thêm.
-Ngươi biết Chế Bồng Nga bố trí phòng thủ thế nào hãy nói ta nghe thử?
-Muôn tâu bệ hạ, trước đây Chế Bồng Nga định dựa vào thành lũy dựng bằng tre gỗ ấy để chống cự nhưng sau thấy quân Đại Việt mạnh quá, ông ta khiếp sợ nên đã kéo quân chạy trốn cả. Nay bên trong chỉ còn một cái thành không. Bệ hạ nên tiến quân gấp thì có thể bắt được Chế Bồng Nga, không nên bỏ lỡ cơ hội!
Vua Duệ Tôn tin lời Mục Bà Ma, ra lệnh tiến quân gấp. Đại tướng Đỗ Lễ liền can:
-Theo binh pháp, đánh lấy thành là sự bất đắc dĩ. Kẻ kia đã nói xin hàng thì ta nên lấy việc cho nước nó được an toàn là hay hơn cả. Vậy, ta hãy cho một tay thuyết khách cầm thư đi hỏi tội để dò hư thực, theo như mưu chước Hàn Tín đánh nước Yên ngày trước, chẳng phải khó nhọc lắm mà được nên công. Vả lại, tình ý của kẻ địch khó suy lường được. Xin bệ hạ hãy xét kỹ.
Vua Duệ Tôn nói:
-Ta mặc áo giáp bền, cầm vũ khí sắc, gội gió, tắm mưa, trèo non, lội suối, len lỏi đi sâu vào đất giặc, không ai dám đương đầu với ta. Thế là cái cơ trời giúp ta đó. Huống chi bây giờ, vua nước nó đã sợ bóng sợ gió, chạy trốn xa, không có tinh thần chiến đấu. Việc binh quí hồ nhanh chóng. Nếu để chậm trễ không tiến quân coi như trời cho mà mình không nhận. Sau này nó lại trở mặt, dù ăn năn thì sự đã rồi! Nhà ngươi thực là kiến thức đàn bà!
Vua Duệ Tôn nói xong liền sai lấy áo đàn bà mặc cho Đỗ Lễ. Thế rồi ngài ra lệnh quan quân nối đuôi nhau như xâu cá mà tiến. Vua đi đoạn giữa đoàn quân. Đường quá chật, khúc khuỷu khó đi nên đoàn quân phải trải dài hàng mấy dặm. Thình lình quân Chiêm Thành đã bố trí sẵn đổ ra đánh cắt quân Trần làm nhiều đoạn không cho ứng cứu nhau. Quân Đại Việt tan rã cả, bị giết và bị bắt rất nhiều. Vua Duệ Tôn bị hãm giữa trận rồi mất tích luôn. Các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa và quan hành khiển Phạm Huyền Linh đều tử trận. Riêng Ngự Câu vương Trần Húc bị quân Chiêm bắt sống.
Hành kiển tham mưu quân sự Đỗ Tử Bình chỉ huy đạo hậu quân thấy hai đạo tiền quân và trung quân bị phục kích liền hoảng sợ vội vã rút lui. Vận lương sứ Lê Quí Ly nghe tin quân Việt bại trận cũng vội bỏ trốn về triều.
Thượng hoàng nghe tin giận quá sai đem một chiếc xe tù đi bắt Đỗ Tử Bình. Khi Đỗ Tử Bình về qua phủ Thiên Trường, dân chúng đua nhau đón đường chửi mắng, lấy gạch ngói ném vào xe tù chở y. Quân về tới Thăng Long, Thượng hoàng liền sai đem Đỗ Tử Bình ra xử tội. Nhưng ai nấy đều ngạc nhiên y không bị tội chết mà chỉ bị đày đi làm lính. Riêng Lê Quí Ly dù bỏ lương mà chạy làm thiệt hại của quốc gia rất nhiều nhưng Thượng hoàng nể tình hai bà mẹ và em gái của ngài nên làm lơ không hỏi tội.

Sau khi đại phá mười hai vạn quân Đại Việt, giết được vua Duệ Tôn cùng nhiều tướng lãnh, vua Chiêm Chế Bồng Nga ban lệnh cho dân Chiêm được tổ chức ăn mừng trên cả nước. Ở Đồ Bàn, ông cũng cho tổ chức một buổi đại yến để vui vẻ cùng quan quân. Các tướng lãnh, chiến sĩ có công đều được tuyên dương, ban thưởng xứng đáng với công trạng trong dịp này. Tướng Mục Bà Ma, người đã dụ vua Đại Việt lọt vào tuyến phục kích để tiêu diệt được tuyên dương công đầu. Trong lúc uống rượu, vua Chế Bồng Nga cao hứng hỏi các quan:
-Ta vẫn nghe nói các danh tướng đời xưa như Tôn Tẩn, Bạch Khởi, Hàn Tín, Triệu Tử Long từng đánh những trận đánh ác liệt khiến sau đó quân địch cứ nghe danh là chạy dài. Nay chỉ trong vài ngày ta cũng phá được mười hai vạn quân Đại Việt, các ngươi thấy ta so sánh với các danh tướng ấy được không?
Mọi người đồng thanh nói:
-Bệ hạ giỏi hơn các danh tướng đời xưa nhiều lắm!
Vua Chế Bồng Nga hân hoan nói tiếp:
-Chắc hẳn từ nay quân Đại Việt sẽ không bao giờ dám mon men đến đất Chiêm ta nữa! Sắp tới ta sẽ thu hồi lại những phần đất mà Đại Việt đã chiếm của ta trước đây! Nhưng điều ta mừng nhất là trong trận đánh vừa qua, ngoài việc đánh tan hơn mười vạn quân giặc, ta còn đoạt được một bửu bối vô giá. Các khanh thử đoán xem ta đoạt được bửu bối gì nào?
Không có ai trả lời được. Cuối cùng Chế Bồng Nga nói:
-Bửu bối vô giá đó chính là Ngự Câu vương Trần Húc, con trưởng của Trần Phủ (tức Thái thượng hoàng Đại Việt)!
Tể tướng Nhã Đam hỏi:
-Trần Húc tuy là một văn nhân quí tộc của Đại Việt, nhưng đối với nước Chiêm ta, hắn cũng chỉ là một kẻ bại trận, một tên tù, xin bệ hạ cho chúng thần biết hắn quí báu ở chỗ nào?
Vua Chế Bồng Nga giải thích:
-Như ta đã nói với các khanh lần trước, ta vốn rất kỵ người Trung Hoa vì họ là một dân tộc gian trá, tham lam vô độ. Lịch sử của họ đã cho ta thấy rõ điều đó. Bây giờ Minh triều mới thống nhất thiên hạ nên họ còn o bế, hòa dịu với các nước nhỏ chung quanh để rảnh tay củng cố nội bộ. Nhưng khi Minh triều vững mạnh rồi thì sẽ biết! Trung Hoa sẽ tìm cách gây mâu thuẫn giữa các nước nhược tiểu để các nước này làm suy yếu lẫn nhau, cuối cùng tất cả đều trở thành miếng mồi ngon cho họ. Bài học nước Tấn đã nuốt gọn nước Ngu và nước Quắc như thế nào ta đã thuộc lòng! Nay ta còn xa cách Trung Hoa mà họ đã nay yêu sách này mai đòi hỏi nọ, khi Đại Việt không còn, nước Chiêm ta sẽ tiếp giáp với Trung Hoa, liệu ta chịu nổi những sách nhiễu của họ không? Bởi thế, ta không chủ trương tiêu diệt nước Đại Việt đâu! Ta cũng không chủ trương trực tiếp cai trị nước Đại Việt! Tinh thần dân Đại Việt quật cường, dũng mãnh lắm, thật khó mà cai trị họ! Trung Hoa lớn mạnh thế kia, từng cai trị Đại Việt cả ngàn năm mà cuối cùng cũng phải buông ra! Ôm tham vọng cai trị Đại Việt là tự rước lấy sự khốn đốn cho mình mà thôi! Nhưng ta sẽ dùng Đại Việt như một tấm bình phong ngăn cách giữa ta với Trung Hoa. Sau khi đánh gục Đại Việt, trước tiên ta sẽ lấy lại những phần đất cát mà Đại Việt đã chiếm của tổ tiên ta. Sau đó ta sẽ đưa Trần Húc trở về làm vua phần đất cũ của Đại Việt. Như thế là vừa được việc cho nước Chiêm vừa thuận lòng dân Đại Việt. Trần Húc là người do nước Chiêm gây dựng lại tất nhiên y không dám đi ngược lại quyền lợi của nước Chiêm. Đó là kế sách ta đã vạch ra để tìm một con đường sống hòa bình, an lạc cho dân Chiêm! Như vậy Trần Húc không phải là bửu bối vô giá hay sao?
Tể tướng Nhã Đam tâu:
-Bệ hạ nhìn xa thấy rộng, chủ trương hướng đi cho nước Chiêm ta như vậy thì thật tuyệt diệu! Nhưng có một điều thần chưa hiểu là vì sao bệ hạ lại chịu hợp tác với Trung Hoa trong việc tiễu trừ bọn cướp biển?
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta đã nói với các khanh, nay nước Chiêm còn xa cách Trung Hoa mà họ đã yêu sách ta điều này điều nọ nhớ không? Vụ hợp tác với nhà Minh để tiễu trừ giặc biển cũng là một trong những yêu sách của họ đấy! Việc tiễu trừ bọn giặc biển tuy khó khăn, nguy hiểm nhưng nó không đi quá xa khả năng của ta! Được cái lợi là ta có thể mượn danh Trung Hoa để diệt bọn cướp Java, Mã Lai mà không sợ mất lòng ai hết. Nếu từ chối không làm việc này, nước ta sẽ phải cống cho Trung Hoa những nhà sư, những đạo sĩ, những chiêm tinh gia, những đàn ông thiến, thợ giỏi… như các nước Đại Việt, Java, Chân Lạp… đã bị buộc phải làm!
Tể tướng Nhã Đam thốt lên:
-Bệ hạ quả là một đấng thánh sống che chở dân Chiêm! Thật là đại phúc cho nước Chiêm!
Quan quân nghe Tể tướng Nhã Đam nói xong đồng loạt quì xuống hô lớn:
-Quốc vương Chế Bồng Nga anh minh vạn tuế!
-Quốc vương Chế Bồng Nga anh minh vạn tuế!
Sau hôm ăn mừng chiến thắng, Chiêm vương cho dẫn Trần Húc đến gặp mình. Ông hỏi:
-Tại sao ngươi dám đem quân xâm lấn nước Chiêm ta?
Trần Húc ngang nhiên hỏi lại:
-Mấy năm trước Đại vương đem quân cướp phá Thăng Long giờ Đại vương đã quên sao?
Chiêm vương cười:
-Thôi, được rồi, bỏ qua chuyện đó! Giờ ta hỏi điều này: Trong trận vừa qua nếu ngươi bắt được ta ngươi sẽ đối xử với ta như thế nào?
Trần Húc cau mặt nói:
-Ta chẳng phải là kẻ sợ chết đâu! Đại vương đã bắt được ta muốn giết cứ giết chứ hỏi khó nhau làm gì?
Chiêm vương lại cười:
-Tới lúc này ngươi vẫn chưa tỉnh ngộ sao? Vua tôi nhà ngươi đem mười hai vạn quân xâm lăng nước ta, chỉ một trận ta đã đánh tan tành không còn manh giáp chưa tởn ư? Ta đã cho Trần Kính của ngươi đi chầu Diêm chúa, người Đại Việt còn dám chống ta nữa sao? Nếu ta thừa dịp này kéo quân sang Đại Việt với cái thế chẻ tre, đố ai chống nổi? Nhưng ta không muốn thấy cảnh đổ máu xảy ra nữa! Bây giờ ngươi chịu hàng hay muốn ta tiến quân đánh Đại Việt?
Trần Húc không trả lời. Chiêm vương lại dỗ dành:
-Đừng tuyệt vọng! Nếu chịu đầu hàng, một thời gian nữa ta sẽ đưa ngươi về làm vua Đại Việt. Ngươi bằng lòng chứ?
Trần Húc lắc đầu nói:
-Đại vương lầm rồi, ta không còn ham muốn chuyện đó! Ai sẽ làm vua Đại Việt là do Thượng hoàng ta quyết định! Đại vương đâu có quyền cho ta làm vua?
Chiêm vương nghiêm mặt:
-Sao lại không? Ngươi không thấy mấy trận đánh nhau với quân Đại Việt ta đều thắng dễ dàng như quét lá khô sao? Ta sẽ tiếp tục tiến quân đánh Đại Việt. Sớm muộn ta cũng sẽ bắt sống thân phụ của ngươi cho coi! Nếu chịu hàng, ngươi sẽ được làm vua và sẽ là người cứu mạng thân phụ ngươi! Bằng không chịu, ngươi sẽ thành một kẻ bất hiếu! Vừa giữ được nước, vừa cứu được mạng cha già há không hơn làm một kẻ vong quốc bất hiếu sao?
Trần Húc nghe giọng ngạo mạn của vua Chiêm thì bĩu môi làm thinh. Vua Chiêm nổi giận quát:
-Tên tù này dám vô lễ với ta đến vậy sao? Hãy tống cổ nó vào nhà ông Hoàng cho nó biết thân!
Thế rồi Trần Húc bị dẫn vào một ngôi nhà đặc biệt. Đó là một ngôi nhà cũ kỹ tọa lạc giữa một khu vườn được xây bao bọc trong bốn bức tường thành cao quá đầu người, chỉ có một cửa ra vào. Trong khu vườn này có rất nhiều cây hoa sứ. Vì thế, vừa bước vào đây chàng đã nghe phảng phất mùi hương. Trong nhà có đủ cả phản nằm, kệ cất đồ đạc, kệ để chén bát, một cái lu đựng nước. Hình như ngôi nhà vừa mới được dọn dẹp lại, các dấu vết vẫn còn.
Bên cạnh ngôi nhà có một cái giếng. Ở góc vườn xa ngôi nhà nhất có một cái hố xí. Bọn lính dẫn Trần Húc đến đây rồi dặn chàng:
-Lát nữa sẽ có người mang thức ăn lại cho ông. Ngôi nhà này là chỗ ở của ông. Từ nay ông chỉ được đi lại trong phạm vi khu vườn này. Nếu tìm cách trốn thoát, ông sẽ bị trừng phạt!
Nói xong bọn lính bỏ mặc chàng ở lại đó, khóa cửa vườn rồi ra về. Trần Húc cảm thấy hơi buồn nhưng cũng thầm hi vọng ở đây chàng sẽ ít bị ai quấy rầy.
Mà đúng vậy, những ngày sau đó không có ai ra vào ngoại trừ một người lính hai lần sáng chiều mở cửa mang cơm nước vào cho Trần Húc rồi lạnh lùng khóa cửa ra về.
Mấy ngày sau vua Chế Bồng Nga lại cho dẫn Trần Húc đến gặp một lần nữa. Ông lại hỏi:
-Ngươi đã suy nghĩ lại chưa? Hợp tác với ta để rồi trở về làm vua Đại Việt hay chịu làm một tên vong quốc, một kẻ bất hiếu?
Trần Húc trả lời:
-Xin đừng hỏi lôi thôi nữa! Đại vương muốn giết ta cứ việc giết đi!
Vua Chế Bồng Nga lại cho đem Trần Húc giam giữ riêng như cũ. Ông nói với quan Bình chương Hùng Vân:
-Thằng bé này khí huyết còn hăng chưa dễ cải hóa được! Khanh cứ tiếp tục tiến hành kế hoạch đã bàn định. Ta mới giết được Duệ Tôn, quân dân Đại Việt nay vẫn chưa hoàn hồn. Phải nhân cơ hội này đánh tiếp chúng một trận nữa! Đợi ta đi đánh Đại Việt về hãy tính tiếp.
Sau khi bị đưa trở lại ngôi nhà cũ, ngày nào Trần Húc cũng nằm co hoặc ngồi ủ rũ âu sầu. Tuyệt nhiên không một bóng người nào khác lui tới đây ngoài người lính mang cơm nước cho chàng. Người lính này lại gần như câm, y thường lặng lẽ để cơm nước đó rồi vội vã bỏ đi. Phần cơm cũng có thịt cá đàng hoàng nhưng chàng nào có ăn uống được gì đâu! Mỗi bữa chàng chỉ nhai qua loa vài miếng cầm xác rồi cũng để đó mặc cho người lính Chiêm dọn dẹp.
Nhưng rồi một hôm, người lính Chiêm ấy bỗng mở miệng nói Trần Húc:
-Hôm nay Quốc vương đưa đại quân đi đánh nước ông rồi đấy!
Trần Húc nghe y nói mà kinh hoảng. Chàng liền hỏi người lính cho biết rõ sự việc nhưng y không trả lời. Cả đêm đó chàng không thể nào chợp mắt được. Trận phục kích của quân Chiêm tới bây giờ nhớ lại chàng vẫn còn sởn gáy. Hôm sau, khi người lính Chiêm đến, chàng đã cố sức năn nỉ để biết thêm tin tức nhưng y vẫn một mực lặng thinh. Biết không thể cậy răng hắn ta được Trần Húc đành bỏ cuộc. Tinh thần chàng lại càng xuống dốc thậm tệ. Không bi quan sao được khi vua Duệ Tôn – người chú anh hùng của chàng – cũng phải chết dưới tay Chế Bồng Nga thì còn mong ai trong nước chống nổi ông ta? Chàng không sợ chết, không lo sợ cho bản thân chàng nhưng lại rất lo sợ cho vua cha. Thượng hoàng cũng sẽ phải gánh chịu số phận như chàng ư? Đã nhiều lần trong đầu óc chàng dậy lên ý nghĩ phải tự vẫn đi cho xong nợ, nhưng nghĩ đến vua cha chàng lại thôi! Chưa biết số phận của vua cha ra sao chàng không thể nào yên tâm để chết được!
Trong lúc chàng đang đau khổ, hoang mang đến cực độ thì bất ngờ xảy ra một sự thay đổi: Hôm ấy người mang cơm vào cho chàng không phải là người lính Chiêm như thường lệ mà là một thị nữ người Việt. Cô ta lễ phép nói với Trần Húc:
-Bẩm vương gia, con tên là Ấu Hương, đang giúp việc trong phủ quan Bình chương Hùng Vân. Con mới được giao công việc hàng ngày mang cơm nước lại cho vương gia.
Trần Húc lộ vẻ vui mừng, ngạc nhiên hỏi:
-Cô là người Đại Việt? Vì sao cô lại sang Chiêm và hầu hạ trong phủ quan Bình chương?
Thị nữ Ấu Hương rưng rưng lệ thưa:
-Dạ đúng, con là người Việt. Vào tháng giêng năm Ất Tỵ*, con cùng bạn bè đang chơi hội xuân ở Hóa Châu thì bị người Chiêm bắt. Vua Chiêm đã cho phân phối con làm nô lệ trong phủ quan Bình chương. Cũng may quan Bình chương là người tốt nên con cũng không đến nỗi bị đọa đày. Nay con được giao công việc hàng ngày mang cơm nước đến đây cho vương gia. Quan Bình chương có dặn nếu vương gia cần gì cứ giúp đỡ vương gia. Thấy vương gia xơ xác tiều tụy thế này con đau lòng lắm. Xin vương gia gắng ăn uống cho lại sức chứ tự hành hạ bản thân cũng không được việc gì, chỉ thêm khổ thôi!
-Cám ơn cô đã có ý tốt với ta. Nhưng đời ta coi như bỏ rồi, ta đâu còn thiết tha chi nữa mà gắng với không gắng! Giờ ta chỉ còn biết chờ ngày về với tiên tổ thôi!
Ấu Hương lại thưa:
-Xin vương gia chớ tuyệt vọng! Nếu vương gia cần gì cứ bảo, con sẽ cố gắng giúp đỡ vương gia trong khả năng của mình. Bây giờ con xin tạm lui.
-Khoan đã, cô có biết tin tức gì về vụ Quốc vương Chế Bồng Nga đem quân đánh nước ta vừa qua không?
-Thưa vương gia, con không được biết!
Hôm sau thị nữ Ấu Hương lại mang đồ ăn tới. Thấy đồ ăn hôm trước còn nhiều quá Ấu Hương than:
-Vương gia không chịu ăn uống gì hết vậy làm sao mà giữ được sức khỏe? Hay ngôi nhà này có điều gì làm vương gia sợ? Những đồ dơ của vương gia đâu đưa con giặt giúp cho! Con nói hơi đường đột xin vương gia chớ giận. Con hiểu vương gia không quen làm công việc này. Xin vương gia đừng ngại gì cả!
Lời nói đầy chân tình của nàng thị nữ đồng hương đã khiến vị hoàng tử sa cơ thất thế vừa cảm động vừa ngượng ngùng. Thật tình từ ngày bị bắt đến giờ chàng chưa giặt áo quần lần nào cả. Đúng ra chàng cũng chẳng hề biết giặt áo quần là làm thế nào. Khi bị bắt chàng đang mặc sẵn trong người hai bộ quần áo và một chiếc áo giáp. Suốt thời gian vừa qua chàng chỉ dùng hai bộ quần áo đó để thay đổi nhau. Nay nghe Ấu Hương đề nghị giặt giúp, tuy ngượng nhưng chàng rất mừng. Chàng lấy bộ áo quần đang rảnh trao cho Ấu Hương và nói:
-Thú thật ta chưa biết làm công việc này! Xin cô vui lòng giặt giúp bộ này trước. Mai mốt sẽ đổi bộ khác! Ta sẽ học cô để tự làm lấy chứ không làm phiền cô lâu đâu!
Ấu Hương vui vẻ nói:
-Đây chỉ là việc nhỏ mọn, xin vương gia đừng áy náy! Được giúp đỡ vương gia là con vui mừng rồi!
Thế rồi nàng ra giếng lấy nước lên giặt trên một phiến đá nằm gần giếng. Trần Húc cũng theo Ấu Hương ra giếng xem cô ta làm thế nào để bắt chước.
Những ngày kế tiếp Ấu Hương càng quan tâm đến việc ăn uống của Trần Húc hơn. Nhưng Trần Húc gần như chẳng để ý chi đến vụ đó. Lần nào đồ ăn thừa bỏ lại cũng tám chín phần mười. Hình hài Trần Húc vẫn tiếp tục teo tóp, khô héo…
Hôm kia, khi Ấu Hương mang cơm đến, Trần Húc ngạc nhiên thấy có một thiếu nữ người Chiêm cùng đi theo. Trông thiếu nữ Chiêm có dáng dấp quí phái, xinh xắn khác thường. Nàng tươi cười nói với Trần Húc:
-Kính chào vương gia! Vương gia an lành chứ!
Ấu Hương không giới thiệu thiếu nữ Chiêm ấy là ai. Thấy thái độ và ánh mắt của thiếu nữ đầy vẻ thiện cảm với mình, Trần Húc hơi ngạc nhiên:
-Chào cô! Xin cho biết cô là ai và đến đây có việc gì?
-Tôi là ai từ từ vương gia sẽ biết. Hôm nay tôi đến đây để thăm viếng vương gia chứ không có mục đích gì khác. Nghe nói vương gia buồn rầu bỏ ăn bỏ uống, tự hành hạ thân xác một cách quá đáng, tôi thật không đành lòng! Tại sao vương gia không gắng vui vẻ mà sống? Biết đâu nay mai hai nước lại thông hòa với nhau, vương gia sẽ được trở về Đại Việt?
Trần Húc vẫn tỏ vẻ dửng dưng:
-Tôi là tướng bại trận, đã bị bắt, dẫu có được về nước cũng chẳng vinh quang gì. Tôi không đòi hỏi hay mong ước gì nữa. Xin cô để cho tôi yên!
Thiếu nữ vẫn tiếp tục nhỏ nhẹ khuyên nhủ, an ủi Trần Húc. Nhưng hình như thái độ lạnh nhạt, hờ hững của Trần Húc đã dần làm nàng mất hết kiên nhẫn. Cuối cùng nàng nói:
-Tôi đến thăm vương gia chỉ mong giúp vương gia khuây bớt nỗi sầu trong nghịch cảnh này. Vương gia vốn dòng dõi tôn quí, lại đang lúc đầu xanh tuổi trẻ, sao lại dễ đầu hàng số phận đến thế? Sao không gắng vượt qua hoàn cảnh này để xây dựng lại cuộc đời? Thái độ quá bi quan của vương gia đã khiến tôi thật thất vọng. Vương gia không chịu gắng ăn uống thì trước sau cũng suy kiệt thôi! Tôi có làm bạn với vương gia cũng chẳng giúp ích gì cho vương gia được. Coi như chúng ta không có duyên vậy. Thôi, xin từ giã vương gia!
Nói xong thiếu nữ Chiêm bỏ ra về. Trần Húc ngồi đờ đẫn một hồi rồi lắc đầu lẩm bẩm:
“Ta thật vụng về hết sức! Nàng Chiêm nữ này ở đâu mà lại đến thăm ta và có vẻ thiện cảm với ta đến thế? Những lời nàng có lý lắm chứ! Sao ta lại có thể dửng dưng với một người có lòng tốt với mình? Nàng chỉ an ủi chứ đâu có hạch sách thóa mạ gì ta mà phải tự ái? Thái độ ương ngạnh vô lối của ta thật đáng trách!”
Từ giờ phút ấy hình bóng nàng Chiêm nữ xinh đẹp cứ lảng vảng trong đầu óc chàng. Trần Húc đâm ra tiếc rẻ và cầu mong sẽ có lúc nàng sẽ trở lại. Hơn mười ngày sau vẫn không thấy bóng dáng Chiêm nữ đâu, Trần Húc càng cảm thấy xốn xang trong lòng. Một hôm chàng đánh liều hỏi thị nữ Ấu Hương:
-Nàng thiếu nữ cùng đến đây với cô hôm trước là ai vậy? Sao nay không thấy thấp thoáng?
Thị nữ Ấu Hương đáp:
-Đó là công chúa Hoa Lài, ái nữ của Quốc vương đấy!
Trần Húc giật mình:
-Đó là công chúa Hoa Lài ái nữ của Quốc vương ư? Ta đâu ngờ công chúa lại đến thăm ta! Mấy bữa rày công chúa có nhắc nhở gì đến ta không?
-Thưa có! Mấy lần công chúa hỏi con về việc ăn uống của vương gia, con cứ thật tình trả lời mỗi bữa vương gia vẫn chỉ ăn vài miếng cầm xác. Công chúa nghe con nói vậy có vẻ không vui. Công chúa nói vương gia không chịu ăn uống coi như sắp chết, có làm bạn cũng chỉ thêm sầu khổ khi biệt ly nên không muốn đến thăm vương gia nữa.
Trần Húc nghe Ấu Hương nói thế đâm ra hốt hoảng. Không ngờ công chúa nước Chiêm lại quan tâm tới chàng như thế! Chàng liền tìm lời cải chính:
-Tại cô không để ý đó chứ! Trước đây ta đau buồn quá nên cơm cháo nuốt không vô. Nay lòng hơi nguôi ngoai nên ta đã gắng ăn uống trở lại rồi.
Thị nữ Ấu Hương nói:
-Vương gia đã gắng ăn uống trở lại thật là điều đáng mừng! Thế mà con vô ý quá. Ngày mai con sẽ thưa lại với công chúa việc này cho công chúa vui!
Trần Húc nghe thị nữ Ấu Hương nói thế mừng lắm. Chàng nói:
-Phải, cô nên nói lại cho công chúa biết điều đó. Nhớ cho ta gởi lời kính thăm công chúa!
Thế rồi mấy hôm sau công chúa Hoa Lài lại đến thăm Trần Húc. Vừa thấy mặt Trần Húc công chúa Hoa Lài liền vui vẻ nói:
-Nghe nói vương gia đã ăn uống trở lại tôi rất mừng! Vương gia phải giữ gìn sức khỏe như vậy mới phải chứ!
Trần Húc cũng cười vui vẻ:
-Cám ơn công chúa đã chiếu cố đến thân phận kẻ tù tội này! Nhờ những lời khuyên bảo của công chúa, tôi đã gắng ăn uống trở lại và bây giờ thì đã khá nhiều.
Công chúa Hoa Lài nói:
-Bây giờ trông vương gia tuy tươi tỉnh hơn lúc trước nhưng thân thể vẫn còn gầy ốm lắm! Phải gắng ăn uống thêm nữa mới được! Những khi rảnh rỗi tôi sẽ lui tới đây để thăm vương gia, vương gia có bằng lòng không?
Trần Húc nói:
-Thế thì còn gì hơn nữa! Chỉ sợ phiền công chúa thôi!
Từ đó cách vài ba ngày công chúa Hoa Lài lại tới thăm Trần Húc một lần. Càng ngày hai người càng trở nên thân thiết với nhau. Hai người hay kể cho nhau nghe về phong tục, về chuyện cổ tích, chuyện lịch sử của nước mình. Có một điều mà thời gian gần đây Trần Húc cứ canh cánh lo ngại trong lòng là tình trạng của thân phụ chàng (Thượng hoàng Nghệ Tôn). Khi thấy tình thân đã đủ để tin cậy nhau, Trần Húc hỏi công chúa Hoa Lài:
-Cho tôi hỏi một câu, công chúa đừng chấp nhé: Cách đây không lâu, tôi nghe Quốc vương đem quân đánh Đại Việt, việc đó có thật không và kết quả như thế nào?
Công chúa sốt sắng trả lời:
-Vương gia hỏi như vậy có gì đáng trách đâu! Quả thật phụ vương có đem quân đánh Đại Việt đấy. Kết quả tuy thắng lợi vẻ vang nhưng cũng như thất bại. Phụ vương tôi cho biết trên đường rút quân về nước, đội binh thuyền của phụ vương đã không may gặp cơn bão lớn lật chìm nhiều thuyền làm quân sĩ chết đuối rất nhiều.
-Phía Đại Việt có quan văn tướng võ nào quan trọng bị bắt hay bị giết không?
-Phụ vương tôi nói họ tránh né cả nên chẳng bắt được ai đáng kể!
Trần Húc nghe công chúa nói vậy mừng lắm. Thế là vua cha đã không hề hấn gì sau cuộc chinh phạt của Chế Bồng Nga! Tới lúc này chàng mới thật sự được an tâm. Chàng thầm biết ơn công chúa Hoa Lài đã thành thật cho chàng biết cái tin quan trọng ấy. Nhưng rồi nghĩ lại Trần Húc lại đâm ra lo ngại vẩn vơ. Nếu Chiêm vương biết được công chúa đã đến thăm viếng chàng và cho chàng biết tin tức như thế ông ta sẽ nghĩ thế nào? Có thể ông ta sẽ cấm không cho nàng đến đây nữa lắm! Chàng ngập ngừng nói với công chúa:
-Xin đừng cho ai hay tôi đã hỏi thăm tin tức chiến trận nhé! Tôi sợ Quốc vương sẽ không bằng lòng việc đó. Công chúa hay đến thăm viếng tôi thế này nếu Quốc vương biết được ngài có bắt tội không?
Công chúa Hoa Lài tươi cười nói:
-Vương gia khỏi lo chuyện đó! Việc thăm viếng vương gia là tự ý tôi chứ có phải vương gia tìm đến quấy nhiễu gì tôi đâu mà ngại!
Qua thời gian giao tiếp với công chúa Hoa Lài, Trần Húc đã dần phục hồi phong độ. Cách đối xử thân mật, vui tươi của công chúa Hoa Lài đã giúp chàng giảm bớt mặc cảm thân phận tù tội. Trần Húc cảm thấy tinh thần cởi mở hơn trước nhiều, chàng tự nhủ: “Còn vui được ngày nào ta cứ vui cái đã”!
Rồi chẳng bao lâu sau chuyện sẽ đến phải đến: hai người đã phải lòng nhau!
Từ đó công chúa Hoa Lài lui tới với Trần Húc đều đặn hơn. Một hôm đến thăm Trần Húc, công chúa thấy chàng có vẻ xanh xao, mệt mỏi khác hơn mọi ngày. Đến nỗi khi đang nói chuyện chàng đã phải cáo lỗi xin đi nhà xí mấy lần. Công chúa hỏi vấn đề sức khỏe của chàng, Trần Húc bất đắc dĩ thú thật chàng đang bị kiết lỵ. Công chúa lo sợ hỏi thị nữ Ấu Hương. Ấu Hương nói:
-Tưởng bệnh gì chứ bệnh kiết lỵ thì dễ chữa lắm! Thuốc chữa cần ba món mà ở đây đã có tới hai rồi, món thứ ba cũng dễ tìm. Vương gia chỉ cần uống đúng ba ngày là lành đứt!
Ấu Hương vừa nói vừa chỉ vào cây lựu rồi chỉ vào mấy cây hoa sứ đang nở đầy bông trắng ở gần cái giếng nước. Công chúa nghe Ấu Hương nói thì lộ vẻ mừng:
-Còn thiếu món gì nữa? Em nói dễ kiếm thì hãy kiếm để chữa cho vương gia đi!
Ấu Hương nói:
-Thưa công chúa, thang thuốc chữa bệnh kiết lỵ gồm ba món là vỏ trái lựu, hoa sứ và lá vối phơi khô. Ở đây mình còn thiếu lá vối khô nhưng đó là thức uống thường ngày của dân gian nên kiếm không khó. Lấy đúng cân lượng như thầy thuốc dạy, sắc chung ba thứ ấy, uống mỗi ngày ba lần trong ba ngày liền…
-Vậy thì em đi kiếm ngay để sắc cho vương gia uống!
Ấu Hương đi rồi Trần Húc ái ngại nói với công chúa:
-Công chúa sai Ấu Hương làm như vậy tôi thấy bất tiện lắm! Ấu Hương là người nhà của quan Bình chương Hùng Vân, cô ấy còn có công việc của cô ấy nữa. Tôi sợ quan Bình chương không hiểu cớ sự lại khiến cô ấy bị quở trách oan!
Công chúa Hoa Lài nói:
-Vương gia yên tâm, Ấu Hương không còn là thị nữ của quan Bình chương nữa mà là người nhà của thiếp rồi! Chính phụ vương đã cho Ấu Hương về ở với thiếp. Chính phụ vương đã sai Ấu Hương mang cơm nước hàng ngày cho vương gia.
Câu nói của công chúa đã khiến Trần Húc hiểu rõ cuộc gặp gỡ giữa chàng và công chúa Hoa Lài là hoàn toàn do vua Chiêm xếp đặt. Chàng muốn hỏi công chúa vài điều nhưng vì người chàng đang mệt nên phải xin lỗi đi nghỉ.
Quả đúng như lời Ấu Hương đã nói, Trần Húc uống thuốc được ba ngày thì lành bệnh. Mấy ngày sau công chúa lại đến thăm. Nàng sai Ấu Hương bày một bữa tiệc nhẹ để mừng sức khỏe chàng hồi phục. Ấu Hương bày tiệc dưới tàn mấy cây hoa sứ cạnh cái giếng. Công chúa cùng Trần Húc ngồi đối ẩm. Không khí mát dịu, mùi hương hoa sứ thoang thoảng làm cho Trần Húc cảm thấy khoan khoái trong người, chàng buột miệng khen:
-Cái giống hoa sứ này thật tuyệt diệu! Không những sắc hương cao khiết mà còn là một vị thuốc quí của con người! Bệnh tôi sớm lành cũng là nhờ nó! Ngôi nhà này trước đây ai ở mà trồng lắm hoa sứ thế này nhỉ?
Công chúa Hoa Lài cười:
-Hoa này người Chiêm thiếp gọi là hoa champa. Người Chiêm thiếp vẫn coi hoa champa là biểu tượng cho dân tộc mình. Lâu nay thiếp cũng quên chưa kể chuyện này cho vương gia biết. Trước kia có một vị hoàng tử bị mắc bệnh phong cùi. Vì cần cách ly với mọi người để tránh tình trạng lây nhiễm, vua cha phải cho dựng ngôi nhà này để cho vị hoàng tử ấy ở. Vị hoàng tử ấy rất thích hoa champa. Vì ở một mình thấy buồn, ngài chỉ biết giải khuây bằng cách làm bầu bạn với loại hoa này. Ngài tự trồng cây champa khắp vườn. Vì thế, người đương thời vẫn gọi ngôi nhà này là “nhà ông Hoàng” hay là “nhà hoa champa”. Sau khi vị hoàng tử qua đời, ngôi nhà này được đóng cửa không ai dùng đến. Mãi tới gần đây phụ hoàng mới cho dọn dẹp lại để làm nơi giữ vương gia đấy!
Trần Húc nói đùa:
-Như vậy lâu nay tôi ăn ngủ ở chỗ cũ của vị hoàng tử phong cùi biết đâu tôi cũng bị lây bệnh của ông ta mất rồi?
Công chúa Hoa Lài cũng nói đùa:
-Đúng, chắc vương gia mắc bệnh phong cùi rồi đấy!
Trần Húc chợt thở dài:
-Cái bệnh này quái ác thật! Ai mắc phải nó là hết phước! Từ người thân cho đến xã hội ai cũng xa lánh hết! Nếu tôi chẳng may mắc phải chứng bệnh quái ác ấy chắc công chúa cũng chẳng bao giờ còn dám đến thăm tôi!
Công chúa Hoa Lài cãi lại:
-Cũng tùy người thôi vương gia! Thiếp biết ở đây đã có nhiều mắc bệnh phong cùi nhưng gia đình họ vẫn không ruồng bỏ họ!
Trần Húc cười hỏi:
-Nếu chúng ta thành vợ chồng rồi, rủi tôi mắc phải căn bệnh quái ác ấy, công chúa có bỏ tôi không?
Công chúa Hoa Lài không ngần ngại đáp:
-Không, nhất định là không!
Trần Húc lắc đầu mà cười:
-Bây giờ công chúa nói vậy thì hay vậy nhưng nếu sự việc xảy ra thật e nó lại khác. Tôi không có ý nghi ngờ ai nhưng thực tế cả luật pháp Đại Việt cũng cho phép người chồng có quyền bỏ vợ, trả vợ về gia đình cũ nếu người vợ mắc phải bệnh phong cùi. Nước Chiêm theo chế độ mẫu hệ chắc người vợ cũng có quyền trả chồng về gia đình cũ như thế chứ!
Công chúa chỉ vào cái giếng mà nói:
-Thiếp xin thề có thần giếng làm chứng, dù gặp phải hoàn cảnh nào, thiếp cũng không bao giờ bỏ vương gia! Nếu vương gia vì một lý do nào đó mà xa rời thiếp, thiếp nhất định sẽ nhờ cậy thần giếng giúp đỡ tìm kiếm vương gia cho được mới nghe!
Trần Húc nghe nói biết đây chính là lúc tình cảm của nàng Chiêm nữ đối với chàng đang dâng cao tột độ, chàng sung sướng ấp úng nói:
-Đa tạ công chúa, có lẽ trên đời này tôi là người tù hạnh phúc nhất! Công chúa không phải là người thường mà là một nàng tiên đã cứu vớt đời tôi!
Sau đó mấy hôm vua Chế Bồng Nga lại đòi Trần Húc đến gặp. Ông hỏi:
-Ta nghe nói ngươi và công chúa Hoa Lài đã thương mến nhau, điều đó có đúng không?
Trần Húc hơi bối rối, ngập ngừng… Vua Chế Bồng Nga nói tiếp:
-Nếu ngươi chịu đầu hàng, ta sẽ gả công chúa cho ngươi! Đây là cơ hội chót ta giúp ngươi một dịp may để trở về làm vua Đại Việt. Hãy liệu mà quyết định lấy!
Đây là một dịp may để ta có thể trở về làm vua Đại Việt ư? Thật tình chuyện này không phải là sở nguyện của ta! Nó là việc lâu dài, dễ gì một sớm một chiều mà xảy đến! Giờ trước mắt, nếu ta gật đầu, ta sẽ khỏi bị xa cách công chúa Hoa Lài, người ta đã thật sự thương mến! Ít nhất nàng cũng là một vị công chúa, lại có đức độ và tài sắc! Trần Húc suy nghĩ như vậy rồi nói:
-Tâu bệ hạ, người đời ai chẳng muốn được vinh sang phú quí! Nhất là gặp được một người bạn đời như công chúa Hoa Lài thì còn ân phước nào lớn hơn? Chỉ sợ tôi không đủ tài sức để làm tròn trách nhiệm khiến phụ lòng tin cậy của bệ hạ thôi. Hơn nữa, có một điều tôi không thể dối trá: tôi đã có vợ ở Đại Việt rồi. Vợ tôi chính là công chúa Tuyên Huy con của vua Duệ Tôn.
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Chuyện đó không quan trọng. Ta chỉ muốn kết hiếu với Đại Việt để hai dân tộc chúng ta được sống hòa bình bên nhau. Điều kiện cần thiết chính là thiện chí của ngươi! Ta muốn ngươi trở thành nhịp cầu kết nối lâu dài giữa hai dân tộc Việt Chiêm, ngươi hiểu ý ta chứ!
Trần Húc vui mừng nói:
-Đa tạ bệ hạ! Bệ hạ đã có ý tốt với tôi như vậy lẽ nào tôi dám phụ ơn!
Chế Bồng Nga cũng vui mừng nói:
-Thế thì tốt lắm! Ngươi sẽ trở thành con rể của ta! Ta tin ngươi sẽ đủ năng lực ngăn chận những cảnh chém giết nhau giữa hai dân tộc Việt Chiêm. Trong tương lai, dân chúng hai nước Việt Chiêm được sống yên ổn, hòa bình bên nhau hay không là do sự khéo hay vụng của ngươi đấy! Phải cố gắng, chớ làm ta thất vọng!
Thế rồi Chế Bồng Nga cho tổ chức lễ hợp hôn cho công chúa Hoa Lài với Trần Húc!

Trong trận đánh vào Đồ Bàn năm Đinh Tị*, vua Duệ Tôn đã bị mất tích trên chiến trường, không tìm xác về được. Thượng hoàng Nghệ Tôn phải cho đẽo cốt dâu để tượng trưng cho thể xác ngài, rồi làm lễ chiêu hồn nhập xác, đem an táng ở Hy Lăng. Thượng hoàng thương Duệ Tôn đã vì nước hi sinh nên lập con trưởng của vua là Kiến Đức vương Trần Hiện nối ngôi. Tháng 5 năm ấy, Kiến Đức vương Trần Hiện đăng quang tự xưng là Giản hoàng, đổi niên hiệu là Xương Phù. Giản hoàng tiếng là làm vua nhưng hầu hết mọi việc quan trọng trong triều vẫn do Thượng hoàng Nghệ Tôn chủ trương cả.
Thấy quân nhà Trần bị thảm bại dưới tay Chế Bồng Nga nhiều lần, vua nhà Minh nẩy sinh ý đồ thôn tính Đại Việt. Tuy bên ngoài nhà Minh vẫn đóng vai kẻ cả, dùng những lời đạo đức suông để hòa giải, can ngăn đôi bên nhưng bên trong lại ngầm khích lệ Chiêm Thành gây hấn với Đại Việt. Với lý do hợp tác bắt giặc biển, nhà Minh cử sứ đi lại với Chiêm Thành nhiều hơn và ban cho vua Chiêm nhiều ân sủng đặc biệt. Năm Kỷ Mùi*, vua Minh ban cho vua Chiêm một bộ y phục dát vàng với thư dụ như sau:
“Đạo của Đế Vương đối xử cùng chung một lòng nhân, nên cũng muốn nơi hải ngoại được yên ổn vô sự. Chiêm Thành vị trí tại phía tây nam, cách biển, cách núi, nhưng biết lấy lẽ bầy tôi phụng sự Trung Hoa, mấy lần cống phương vật. Mới đây sai sứ cống voi, lòng thành đáng khen. Trong tờ biểu tâu rằng vẫn còn giao tranh với An Nam, đến nay vẫn chưa chấm dứt. Tuy nhiên Chiêm Thành và An Nam cương giới đã định từ xưa, mỗi nước nên giữ đất an dân, chớ nên tranh giành, đạo trời vốn ghét, không thể không lấy làm răn. Nay ban cho khanh y phục thêu rồng vàng, ngựa tốt. Khi vật đưa đến, hãy nhận lấy.”
Trong khi đối với nhà Trần, vua Minh đã cố tình làm khó, gây sự. Như khi nhà Trần cho Lê Đình Thám sang cáo phó, nói vua Duệ Tôn đi tuần biên giới bị chết đuối và báo việc lập vua nối ngôi thì người Minh không chấp nhận. Sứ thần Lê Đình Thám phải ra sức biện bạch vua Minh mới sai người sang điếu tang. Khi vua Minh đem ý định thôn tính Đại Việt bàn với triều đình, Thái sư Lý Thiện Trường can:
-Em chết vì nạn nước mà anh lập con em lên, xem việc người như vậy thì có thể biết được mệnh trời. An Nam chưa thể tính được đâu!
Vua Minh nghe lời, bèn tạm dẹp ý định ấy.
Ở Đại Việt, Giản hoàng mới lên ngôi một tháng quân Chiêm Thành lại sang. Được tin giặc sắp đến, Thượng hoàng sai Cung Chính vương Trần Sư Hiền đem quân trấn giữ cửa biển Đại An. Chế Bồng Nga biết được cửa Đại An có binh chống giữ thì tránh đi mà tiến thẳng tới cửa biển Thần Phù rồi tiến ngược lên Thăng Long. Quân Đại Việt đã mất tinh thần không chống nổi, lại tan tác bỏ chạy. Thượng hoàng cùng Giản hoàng lại phải rời khỏi Thăng Long để lánh nạn. Quân Chiêm Thành lại một phen tha hồ cướp phá kinh thành. Hôm sau quân Chiêm ngang nhiên xuôi thuyền chở chiến lợi phẩm trở về Chiêm bằng chính cửa Đại An. Đạo quân của Cung Chính vương Trần Sư Hiền đóng giữ ở đây né tránh không dám truy cản. Nhưng lần này quân Chiêm đã gặp rủi ro. Đội quân chiến thắng mới về được nửa đường trời bỗng nổi bão tố rất lớn. Gần nửa phần số binh thuyền đi trận về bị lật chìm trên biển làm quân Chiêm chết đuối cả vạn người. Những chiến lợi phẩm mang từ Đại Việt về hầu hết phải vứt xuống biển cả. Thành ra quân Chiêm tuy đại thắng nhưng khi trở về lại tả tơi chẳng khác một đám bại binh. Rốt cuộc, thay vì tổ chức tiệc liên hoan khải hoàn, Chiêm vương lại phải cho tổ chức lễ chiêu hồn truy điệu tử sĩ.
Nhưng lần này quân Chiêm cũng để lại cho Đại Việt một kinh thành đổ nát hoang tàn như lần trước. Thượng hoàng cùng Giản hoàng đã hồi cung với bao nỗi nghẹn ngào, cay đắng trong lòng. Quốc khố đã rỗng tuếch, lấy gì để xây dựng lại? Dù có khả năng xây dựng lại đi nữa, liệu có giữ gìn được không? Nay mai quân Chiêm lại sang nữa biết làm sao? Muốn xây dựng lại phải làm sao nuôi quân, dưỡng tướng, luyện tập cho tinh thục, đủ khả năng chống giặc trước đã! Nghĩ vậy cho nên Thượng hoàng chỉ cho dựng những căn nhà dã chiến để trú ngụ tạm thời, vua quan đều phải sống như thế. Ngài cũng cho tuyển thêm quân và bổ nhiệm thay thế nhiều cấp chỉ huy trong quân đội.
Vì thiếu nhân lực để bổ sung cho quân đội, Thượng hoàng hạ lệnh cho thiền sư Đại Than lựa lấy những người tu hành đang trẻ khỏe và không có độ điệp* ở trong nước ra làm lính. Thật sự từ khi vua Duệ Tôn mất, không còn ai đủ sức ghìm được cái đà suy yếu của nhà Trần nữa. Bên ngoài Chiêm Thành cứ chực chờ xâm nhập quấy phá, bên trong loạn lạc cứ xảy ra liên miên. Trước tình trạng nhiễu nhương đó, rất nhiều trai tráng đã tìm vào các am, các chùa, mượn tiếng tu hành để cầu chước an thân. Biết được tệ nạn ấy nên Thượng hoàng phải ban lệnh này.
Ngoài ra, vì sợ người Chiêm cướp phá xúc phạm đến tổ tiên mình, Thượng hoàng cũng cho rước thần tượng các lăng ở Quắc Hương, ở Thái Đường, ở Long Hưng và ở Kiến Xương đưa về An Sinh cho dễ bảo vệ hơn.
Vấn đề lương thực, tiền bạc cũng trở thành một nỗi ưu tư to lớn của Thượng hoàng. Hiểu được tâm trạng ấy, Đỗ Tử Bình lúc bấy giờ đang bị đày làm lính xa xứ viết một bức thư nhờ một thuộc cấp cũ là Nguyễn Kim Ngao đang giữ chức quản lĩnh đội quân Thần Vũ dâng lên Thượng hoàng. Trong thư Tử Bình khiếu oan về việc cũ và hứa nếu Thượng hoàng xá tội và cho phục chức, y sẽ dâng một kế hoạch mới có thể tạo thêm một nguồn thu nhập tài chánh cho nhà nước. Thượng hoàng bèn cho đòi Tử Bình về yết kiến. Vụ 10 mâm vàng có lẽ không còn ai làm nhân chứng nênThượng hoàng không nhắc đến mà chỉ hỏi y về tội tự ý lui quân:
-Trước kia, khi vua Duệ Tôn bị hãm vào trận của giặc trăm phần nguy cấp, ngươi chỉ huy hậu quân lẽ ra phải tiến lên giải cứu cho người, tại sao ngươi lại rút lui?
-Bẩm Thượng hoàng, chỉ có những người trong cuộc, phải thấy được cái thực tế của trận địa mới biết việc làm của hạ thần lúc ấy gay go đến mức nào. Đức Duệ Tôn bị dụ vào một vùng đất hiểm nghèo, đường sá chật hẹp, khúc khuỷu, đá két gập ghềnh. Người ngựa đều phải len lỏi tiến hàng một rất khó khăn. Không những thế, hai bên đường đầy dẫy những hang hố thiên nhiên, giặc đã phục sẵn để bắn giết mà ta không thể nào đề phòng chống trả được! Địa thế vùng này có thể xếp vào loại đất hiểm “một người cố thủ có thể chống nổi trăm người”. Lực lượng Chiêm Thành lại hùng hậu và rành rõi địa thế. Cái thế phải thua của quân ta đã thấy rõ! Liều mạng tiến lên cứu đức vua chỉ là một hành động thiêu thân. Không những hạ thần phải chết mà tất cả đội quân do hạ thần chỉ huy cũng sẽ phải chết hết. Nhưng nếu không chịu tiến quân để cứu đức vua, thần cũng cầm chắc bị Thượng hoàng trị tội. Theo đúng quân pháp là xử tử. Đằng nào hạ thần cũng phải chết cả. Hạ thần đã đắn đo suy nghĩ vấn đề: Thà rút lui để chịu tội chết một mình còn lợi hơn tiến lên một cách liều lĩnh, vô vọng, để chết uổng cả một đạo quân! Phải để dành số nhân lực ấy cho triều đình sử dụng trong việc phục thù cho đức Duệ Tôn!
-Ngươi đã biết cái thế đất hiểm “một người giữ có thể chống nổi một trăm người” ấy sao không can ngăn đức vua để người phải lâm vào thảm họa đó?
-Bẩm, Đại tướng Đỗ Lễ đã can ngài, Hành khiển Phạm Huyền Linh cũng đã can ngài mà ngài đều chẳng nghe, hạ thần đâu dám can nữa!
-Ngươi biện bác cũng khéo đấy! Thế bây giờ hãy nói rõ kế hoạch mới tạo thêm nguồn tài chánh cho nhà nước của ngươi như thế nào ta nghe thử. Nếu nghe được, ta sẽ xá tội cho ngươi!
-Bẩm, theo phép cũ, lâu nay nước ta chỉ đánh thuế vào những người có ruộng lúa, bãi dâu, đầm cá còn những người làm thuê làm mướn thì không. Xin bệ hạ đặt ra ngạch “thuế đinh” để đánh vào những hạng người đã trưởng thành nhưng không ruộng đất mà cũng không ra lính ấy. Loại thuế này trước kia nhà Đường cũng đã áp dụng gọi là thuế “dung”. Cứ mỗi năm mỗi đinh nam phải thu ba quan, như vậy nhà nước sẽ thu thêm được một số tài chánh.
Thượng hoàng nghe xong nói:
-Đặt ra thứ thuế này kể ra cũng thiệt thòi cho dân đinh đấy. Nhưng ngộ biến đành phải tùng quyền thôi. Ta cứ tạm ban hành luật thu thuế đinh một thời gian. Sau này khi đất nước khá hơn ta sẽ cho bãi bỏ.
Thế rồi Thượng hoàng hạ chiếu xá tội Đỗ Tử Bình và cho y được phục chức.
Ngạch “thuế đinh” của nước Đại Việt bắt đầu được áp dụng từ đấy!
Nói về Trần Húc từ khi được Chế Bồng Nga gả công chúa Hoa Lài cho, vợ chồng chàng sống với nhau rất mực đầm ấm. Công chúa Hoa Lài ăn ở rất khéo léo, chẳng bao lâu nàng đã giúp chồng quên đi thân phận của một kẻ bại trận để thích hợp với hoàn cảnh mới: con rể của Quốc vương. Tuy chàng không được tham dự vào chính sự của triều đình, không có một chức quyền chính thức nhưng được hưởng cái thú nhàn hạ, vô ưu. Vợ chồng chàng có đủ vàng bạc, dư thì giờ để ngao du đây đó, để tham dự bao nhiêu cuộc vui không một chút lo nghĩ. Những buổi tiệc tùng lạ lẫm vui nhộn, những đêm ca vũ huyền ảo dị thường đã làm Trần Húc say mê. Quá hài lòng với hạnh phúc đang có, chàng không còn mong muốn xảy ra một sự đổi thay nào nữa…
Ngày kia công chúa Hoa Lài bỗng nhắc chồng:
-Trước khi tổ chức hợp hôn cho đôi ta, phụ vương có nói chàng sẽ có cơ may trở về làm vua nước Đại Việt chàng nhớ không?
Trần Húc thành thật nói:
-Được sống hạnh phúc bên nàng như hiện nay ta thật thỏa mãn lắm rồi. Ta chẳng mong ước gì hơn nữa. Ngôi cao quyền lớn chỉ làm khổ chứ có mấy khi thật sự mang lại hạnh phúc cho con người! Nàng hãy quên chuyện đó đi!
Công chúa Hoa Lài nói:
-Không phải thiếp có ý xúi giục chàng tìm công danh phú quí cao xa hơn nữa đâu! Thật sự phụ vương vừa cho thiếp biết ý định của người. Chắc hẳn nay mai chàng sẽ được cất nhắc vào ngôi vị ấy! Như vậy là phụ vương đã quyết. Chàng không nên cưỡng lại ý muốn của người! Giờ đây, ngày nào còn vui chơi được chàng cứ vui chơi cho thỏa, biết đâu rồi chẳng còn cơ hội nữa!
Trần Húc nghe vợ nói có vẻ lo lắng. Thế là chàng sắp phải giã từ cuộc sống vui vẻ hồn nhiên hiện tại. Ta sẽ về làm vua Đại Việt ư? Chàng liên tưởng ngay tới những bước đường chông gai mà mình sẽ phải dẫm lên! Chàng mơ hồ nhớ lại lời Chiêm vương đã nói với chàng trước kia: “Chiêm vương sẽ đánh bại và bắt giữ Thượng hoàng. Chính chàng sẽ đứng ra cứu mạng cha già! Và chàng sẽ trở thành vua nước Đại Việt!”. Nếu sự việc diễn ra như thế thì thật bẽ bàng! Chàng hỏi lại công chúa Hoa Lài:
-Tại sao phụ vương không trực tiếp cho ta hay kìa? Người nói bao giờ bắt đầu công việc?
Thấy Trần Húc đón nhận cái tin này với thái độ không mấy thoải mái, công chúa Hoa Lài cười chế giễu:
-Bộ chàng không mong cái ngày tươi sáng ấy sớm đến sao?
-Nhưng ta về Đại Việt bằng cách nào đây? Vả lại, Đại Việt đã lập vua mới, ta làm sao có thể làm vua Đại Việt được?
-Việc đó thiếp không hiểu, nhưng phụ vương đã nói chắc như vậy!
Vợ chàng cũng chẳng biết gì hơn nữa sao? Đành phải chờ đợi xem Chiêm vương tính liệu thế nào. Trần Húc tự nhủ: “Cũng không sao! Làm tù còn được huống là làm vua! Cứ mặc cho số phận đưa đẩy vậy. Giờ cứ vui chơi được ngày nào hay ngày ấy!”
Mùa hạ năm Mậu Ngọ*, vua Chế Bồng Nga cho gọi chàng đến gặp ông ta để bàn việc. Chế Bồng Nga nói:
-Ngươi sắp trở về làm vua Đại Việt đấy nhé! Hãy chuẩn bị đi là vừa! Còn thắc mắc điều gì nữa không?
Nhớ lời vợ đã dặn, Trần Húc từ tốn trả lời:
-Tâu bệ hạ, công danh phú quí dĩ nhiên ai cũng ham. Nhưng tiểu tử chỉ là một kẻ bất tài, may được bệ hạ rộng lượng đùm bọc mới còn được tấm thân. Việc này ngoài tầm tay tiểu tử không dám tự quyết định. Nay bệ hạ dạy bảo thế nào tiểu tử xin nghe theo thế ấy thôi!
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ngươi biết điều như vậy là tốt lắm. Khách quan mà nói, lẽ ra cái ngai vàng của Đại Việt hiện nay phải thuộc về ngươi. Ngươi là con trưởng của Thượng hoàng Đại Việt cơ mà! Nhưng bây giờ cái ngai vàng ấy đã thuộc về Trần Hiện (Giản hoàng)! Chính ta đã làm ngươi lỡ mất cơ hội. Bởi vậy, ta tự thấy có bổn phận phải giúp ngươi giành lại cái ngai vàng ấy. Nhưng giành lại ngai vàng bằng cách nào đây? Ta nghĩ, chỉ có cách dùng vũ lực để loại trừ Trần Hiện mà thôi! Vẫn biết rằng quân Chiêm ta hiện nay rất mạnh và quân Việt lại suy yếu thật đấy, nhưng ngươi còn thiếu một yếu tố cần thiết, đó là lòng dân! Nếu chỉ dùng quân Chiêm để đánh đổ Trần Hiện rồi đưa ngươi lên, ngươi sẽ bị coi như bù nhìn của ngoại bang, mất hết chính nghĩa! Muốn hóa giải nan đề đó, chính ngươi phải trực tiếp bắt tay vào công việc mới xong!
Trần Húc nghe Chiêm vương nói đâm ra lo lắng:
-Tâu bệ hạ, tiểu tử có thể làm được gì trong việc này?
Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta biết Đại Việt vẫn có tên cũ là An Nam, ngày nay người Trung Hoa vẫn gọi Đại Việt là An Nam! Vậy, ngươi phải lấy danh nghĩa là An Nam vương để tranh thủ lòng dân với Trần Hiện! Chuyến này ngươi hãy theo ta sang đánh Đại Việt. Quân ta chiếm được khu vực nào ngươi sẽ chiêu dụ dân bản xứ ở khu vực đó. Ta cho phép ngươi được tùy tiện đặt để các quan chức để trị dân theo nhu cầu. Nếu làm được như thế chắc không bao lâu cái ngai vàng của Đại Việt sẽ trở về tay ngươi!
-Tâu bệ hạ, dù Trần Hiện trên danh nghĩa là vua Đại Việt, nhưng trên thực tế Thượng hoàng vẫn nắm mọi quyền hành. Tiểu tử là con của Thượng hoàng mà lại hiệu triệu quân dân nổi lên đánh nhau với Thượng hoàng thì thật lỗi đạo! Không những tiểu tử phải xấu hổ mà thiên hạ chắc hẳn cũng không nghe theo đâu!
-Ngươi cứ làm theo lời ta! Mười người cũng có một hai người nghe. Con người mấy ai chẳng ham danh lợi? Dần dần chức tước, quyền lợi sẽ lôi kéo chúng sau. Nếu không chịu làm như thế bao giờ ngươi mới chiếm lại được ngôi báu?
Trần Húc bất đắc dĩ phải vâng lệnh. Vua Chế Bồng Nga nói:
-Ta sẽ giao hết những người Đại Việt đã đầu hàng ta cho ngươi quản lãnh!
Đầu tháng sáu cùng năm, Chế Bồng Nga cùng Trần Húc kéo quân đánh Nghệ An. Quân Chiêm kéo đến đâu quân của Trần Húc theo đến đó. Đám thuộc hạ của Trần Húc đã huênh hoang lấy danh nghĩa An Nam vương để kêu gọi quan quân và dân chúng Đại Việt ra hợp tác với “tân vương”. Ban đầu có rất nhiều người hưởng ứng, phần đông là đám dân nghèo đói, bất mãn. Trong số đó có tên Hồ Thuật người Nghệ An là có vẻ sừng sỏ nhất. Trần Húc thấy Hồ Thuật mạnh mẽ, can đảm, ưa xông xáo bèn phong cho y chức Đô tướng.
Nhưng giữa bối cảnh xã hội loạn lạc ấy, đám quân tân tuyển thiếu huấn luyện đã dễ dàng trở thành bọn bất trị, thậm chí chúng còn ngang nhiên hùa theo quân Chiêm cướp bóc đồng bào ruột thịt của mình.
Trần Húc chỉ là một văn nhân hiền lành, không thể nào tiết chế nổi đội quân ô hợp ấy. Vì vậy, dần dần cái danh nghĩa An Nam vương trở nên dị ứng với dân chúng Đại Việt. Về sau, quân An Nam vương đến đâu dân chúng Đại Việt lẩn tránh đến đó. Vua Chế Bồng Nga thấy được tình trạng này đâm ra thất vọng. Ông nói với tướng La Ngai:
-Xem ra ta đã lầm khi nghĩ Trần Húc như là bửu bối kỳ diệu để chinh phục Đại Việt! Với tình hình như hiện tại Trần Húc thật khó mà làm nên trò trống gì. Hãy tính đường khác thôi. Vùng này bây giờ quân giặc đã co cụm lại trong các thành trì cả rồi, chẳng dám phản công đâu! Chỉ cần để Bố Đông cầm một ít quân ở lại đây hỗ trợ Trần Húc tiếp tục công việc cũng đủ. Ta với khanh đem đại binh tiến ra vùng châu thổ sông Hồng đánh bọn Trần Phủ một trận nữa!
La Ngai vâng lệnh, chia quân tràn ra vùng châu thổ sông Hồng.
Thượng hoàng ở Thăng Long nghe được tin dữ lập tức sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân chống giữ. Nhưng Đỗ Tử Bình như con gà chọi đã bị bể, không sao chống nổi quân Chiêm, quân Đại Việt lại tan chạy. Thừa thắng, quân Chiêm tiến thẳng lên Thăng Long. Vua quan Đại Việt lại phải di tản sang Đông Ngàn lánh nạn. Chỉ có An phủ sứ Thăng Long là Lê Giốc đã anh dũng ở lại quyết chống cự tới cùng. Vì thế cô sức yếu, cuối cùng Lê Giốc bị quân Chiêm bắt. Tướng La Ngai bắt Lê Giốc phải quì lạy, Lê Giốc mắng:
-Ta là quan của nước lớn, sao phải lạy chúng mày?
La Ngai nổi giận sai lính đem chém. Lê Giốc tiếp tục mắng chửi cho đến khi rơi đầu. Sau khi thả quân cướp phá Thăng Long thỏa mãn, vua Chế Bồng Nga ra lệnh rút về.
Quân Chiêm rút khỏi Thăng Long thì triều đình Đại Việt lại hồi kinh. Khi được nghe việc Trần Húc đã theo quân Chiêm đánh Nghệ An, lại lấy danh nghĩa An Nam vương để chiêu dụ quốc dân, Thượng hoàng lặng người đi một hồi. Lát sau ngài ứa nước mắt than:
-Nhà ta hết phước rồi chăng? Sao lại sinh thằng con bất trung bất hiếu đến vậy?
Ngài lại quay sang dặn Giản hoàng và các quan:
-Sau này các khanh ai gặp tên nghịch tử ấy cứ việc xử trảm nó! Từ nay ta coi như không sinh ra nó vậy!
Mọi người đều đáp: xin tuân mệnh.
Tới khi nghe tâu việc Lê Giốc mắng giặc đến chết, Thượng hoàng cảm kích nói:
-Trung thần phải như An phủ sứ Lê Giốc vậy mới được! Nếu thằng nghịch tử Húc mà làm được như Lê Giốc, dẫu nó có chết ta cũng đỡ đau khổ nhục nhã như bây giờ!
Thế rồi ngài hạ chiếu truy phong cho Lê Giốc tước Mạ tặc trung vũ hầu.
Biết rõ trong triều không còn ai đủ sức chống cự Chế Bồng Nga, Thượng hoàng chỉ còn gượng trông cậy vào Lê Quí Ly và Đỗ Tử Bình. Ngài tìm cách mua chuộc cảm tình của hai nhân vật này để họ gắng sức hơn, can đảm hơn trong công cuộc giữ nước. Đầu năm Kỷ Mùi Lê Quí Ly được thăng chức Tư không kiêm Xu mật đại sứ. Tới tháng chín, sợ quân Chiêm sang cướp, Thượng hoàng sai gom những tiền đồng của nhà nước đem giấu vào hành cung ở núi Thiên Kiện*. Tới tháng mười Thượng hoàng lại cho chở một số khác giấu ở tầng dưới tháp chùa Khả Lãng tại Lạng Sơn.
Thấy Thượng hoàng bất lực quá, trong đầu óc Quí Ly bắt đầu chớm dậy tư tưởng bất chính: dòm ngó ngai vàng. Ông kết giao với viên Chủ thư thị ngự sử Phạm Cự Luận để làm vây cánh. Sau đó Quí Ly lại tiến cử Cự Luận làm Quyền đô sự. Cự Luận là người khôn ngoan, mưu lược, có tài ứng biến nên Quí Ly yêu lắm. Quí Ly cũng tiến cử Nguyễn Đa Phương lên vua để bổ làm tướng quân. Nguyễn Đa Phương là con của vị võ sư nổi tiếng Nguyễn Sư Tề, người đã dạy võ cho Quí Ly hồi còn nhỏ. Bản thân Đa Phương có sức khỏe khác người, lại nhiều mưu trí và rất gan dạ. Cả Cự Luận lẫn Đa Phương đều luôn bày cho Quí Ly nhiều mưu kế hay nên người đời vẫn bảo Quí Ly có “phương viên tá lự” tức là giúp mưu kế cho được vuông tròn. Phương (chỉ Nguyễn Đa Phương) là vuông, viên là tròn (chỉ Cự Luận) vì chữ luận đọc âm gần với chữ luân có nghĩa là tròn. Phương viên tá lự còn có nghĩa là Đa Phương và Cự Luận bày mưu giúp kế. Nhờ sự phụ trợ của hai người này, Quí Ly đã đạt được nhiều thành tựu trong công việc. Do vậy, Thượng hoàng lại càng tin yêu Quí Ly hơn.
Sau khi rút quân về Đồ Bàn, vua Chế Bồng Nga lại cho mở tiệc khải hoàn để khích lệ quan quân. Mấy hôm sau ông cho mời một số đại thần nòng cốt trong triều vào cung họp bàn quốc sự. Ông nói:
-Trước đây ta nghĩ có thể dùng Trần Húc để lôi kéo quan binh và dân chúng Đại Việt hầu tạo sự chia rẽ, làm suy yếu thế lực của giặc, tăng trưởng thế lực của ta. Nhưng trong chuyến ra quân vừa qua, ta thấy rõ Trần Húc rất yếu kém trong việc thu phục nhân tâm. Đội quân ô hợp của y chắc phải dày công huấn luyện mới có thể sử dụng được. Chư khanh có kế hoạch nào giúp Trần Húc không?
Quan Bình chương Hùng Vân thưa:
-Trần Húc chỉ là một hoàng tử, từ nhỏ y đã đắm mình vào bể văn chương thơ phú mà chưa hề tiếp xúc với thực tế. Thân phụ y dù làm vua cũng chỉ là một ông vua bất tài thiếu kinh nghiệm làm sao dạy dỗ con được! Vì vậy y không biết gì thuật thu phục nhân tâm là phải. Muốn cho thành việc, bệ hạ nên cho người huấn luyện, hướng dẫn y một thời gian mới xong! Nếu bệ hạ không chê, thần tuy bất tài cũng tình nguyện cáng đáng việc ấy!
Chế Bồng Nga nói:
-Ý kiến hay đấy! Đã vậy ta giao việc đó cho khanh! Việc làm này rất quan trọng. Sử dụng được Trần Húc coi như mặt bắc Chiêm Thành không cần lo lắng gì nữa!
Theo lệnh của vua Chế Bồng Nga, một mặt Hùng Vân thân hành hướng dẫn Trần Húc về kế sách chiêu dụ dân chúng, một mặt ông cho người luyện tập quân sự cho đội quân dưới quyền của Trần Húc do Đô tướng Hồ Thuật chỉ huy.
Đầu năm Canh Thân, vua Chế Bồng Nga lại chuẩn bị sang đánh Đại Việt. Ông cho gọi Trần Húc đến hỏi:
-Nay mai ta sẽ ra quân đánh Đại Việt. Đội quân của ngươi đã được huấn luyện khá thuần thục rồi phải không? Chính ngươi cũng đã được huấn luyện cách thu phục lòng người. Vậy, ta để cho ngươi tự lo việc chiêu dụ dân Đại Việt trọn các xứ Tân Bình, Thuận Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, ngươi liệu làm nổi không?
Trần Húc lúng túng nói:
-Tâu bệ hạ, đại quân đến đâu thần sẽ đưa người theo làm nhiệm vụ chiêu dụ quân dân Đại Việt đến đó!
Chế Bồng Nga lắc đầu:
-Ngươi chưa hiểu ý ta sao? Ta muốn chính ngươi phải hành động độc lập cho quen! Ngươi chỉ cần hoạt động từ lãnh thổ Nghệ An trở vào thôi! Còn đại quân của ta sẽ đánh vào những nơi khác như Thanh Hóa, Thăng Long…
Trần Húc càng bối rối, thưa:
-Tâu bệ hạ, đội quân của thần vừa ô hợp, vừa ít oi, nếu đơn độc đến các khu vực ấy sẽ bị quân Đại Việt tiêu diệt ngay! Việc đó thần sợ không gánh vác nổi!
Chế Bồng Nga dịu giọng dỗ dành:
-Ta đã tính kỹ rồi, ngươi khỏi sợ! Mỗi lần sang Đại Việt, hễ quân ta đến đâu quân trấn giữ địa phương đó lại lo co cụm vào các hang ổ của chúng để giữ mình. Bên ngoài hang ổ của chúng, ngươi làm gì chẳng được? Chỉ có quan quân ở Thăng Long mới thỉnh thoảng dám chường mặt đương cự với ta thôi. Nhưng đương cự mười trận chúng đã thất bại tới chín. Vì thế, quân ta đến đâu cũng như vào chốn không người. Nay đại quân ta đã ra đánh mặt ngoài, quan quân Đại Việt nghe tin đã khiếp vía co vòi lại hết ngươi còn sợ nỗi gì?
Trần Húc vẫn chưa hết lo ngại, thưa:
-Nếu lỡ Đại Việt biết được đại quân của bệ hạ dồn cả ra mặt ngoài thì e thần khó mà sống! Xin bệ hạ xét kỹ cho!
Chế Bồng Nga nhíu mày giọng hơi gắt:
-Sao ngươi nhát gan đến thế? Trước nay ta vẫn cố giúp ngươi thật sự trở thành An Nam vương. Ta đã không ngần ngại gả con gái ta cho ngươi chắc ngươi đã rõ lòng ta! Nếu để quân ta đi cùng thì ngươi đâu còn cái chiêu bài chính nghĩa để dẫn dụ quân dân Đại Việt? Ta để ngươi đi một mình vì lẽ đó. Chuyến này nếu ngươi không thành công được ta cũng hết phương giúp đỡ!
Sợ phật lòng Chiêm vương, Trần Húc đành phải liều vâng lệnh.
Đầu tháng 3, trong lúc đại quân Chiêm tiến ra Thanh Hóa thì Trần Húc kéo quân ra Nghệ An. Quả đúng như lời Chế Bồng Nga đã nói, quan quân Đại Việt ở Nghệ An vừa nghe tin quân Chiêm đến liền co cụm vào các thành trì để cố thủ. Trần Húc được thế liền chia quân bủa ra các nơi để chiêu dụ dân chúng…
Khi tin chẳng lành bay đến Thăng Long, Thượng hoàng cũng triệu tập quần thần bàn việc đối phó. Sau khi nghe các quan tâu bày về tình hình, ngài quyết định:
-Thủy quân của Chế Bồng Nga thiện chiến lắm. Phải có người chỉ huy uy tín mới chống lại được. Việc này phải nhờ quan Thái sư Lê Quí Ly mới xong! Nguyễn Đa Phương phụ tá cho Thái sư. Lực lượng trên bộ, trẫm giao cho Hành khiển Đỗ Tử Bình chỉ huy. Các tì tướng do các khanh bàn bạc với nhau để lựa chọn, sắp xếp.
Giản hoàng nói:
-Trẫm có một viên cận vệ tên Đỗ Hoành xem ra rất vũ dũng, quan Hành khiển nên cho Đỗ Hoành theo ra trận để y lập công một phen xem sao!
Đỗ Tử Bình vâng lệnh, bổ sung Đỗ Hoành vào vệ quân Thiết Giáp do tướng Nguyễn Vân Nhi quản lãnh.
Hai đạo quân thủy, bộ hẹn nhau cùng tiến. Lần này bên cạnh Lê Quí Ly có tướng Nguyễn Đa Phương nên ông có vẻ vững tâm hơn những lần trước. Quân đến sông Ngu là một nhánh của sông Mã, Quí Ly cho đóng cọc giữa dòng để cầm cự với quân Chiêm. Không lâu sau đó thì đạo quân bộ cũng đã đến kịp. Khi thấy đạo quân thủy của Chế Bồng Nga xuất hiện, Quí Ly sai viên tướng chỉ huy vệ quân Thần Vũ là Đỗ Kim Ngao và tướng chỉ huy vệ quân Thị Vệ là Đỗ Dã Kha ra đánh. Đỗ Kim Ngao thấy quân giặc đánh hăng quá hoảng sợ vội quay thuyền trở lại để tránh. Quí Ly nổi giận thét:
-Đánh giặc mà nhát như vậy làm sao thắng được?
Quí Ly chưa nói dứt câu thì Nguyễn Đa Phương đã chém Kim Ngao rụng đầu. Nguyễn Đa Phương xách đầu Kim Ngao đưa lên cao cho mọi người thấy và hô lớn:
-Quân sĩ ai nghe lệnh mà không chịu tiến lên thì phải chịu như thế này!
Rồi chính Nguyễn Đa Phương vung gươm đi đầu thúc thuyền tiến lên. Quân sĩ thấy vậy cũng hăng máu theo, nổi trống reo hò liều chết xông tới. Quân Chiêm Thành lúc đó đang thắng thế sinh chủ quan khinh địch nên phản ứng không kịp, hàng ngũ đâm ra rối loạn. Tướng Đỗ Dã Kha cũng không bỏ lỡ cơ hội, thúc quân đánh mạnh. Cánh quân bộ thấy thế cũng reo hò để cổ võ. Không mấy chốc thế trận quân Chiêm Thành bị vỡ. Vua Chế Bồng Nga thấy tình thế bất lợi phải ra lệnh rút quân.
Thấy Lê Quí Ly đại thắng, tướng Hoàng Phụng Thế nói với Đỗ Tử Bình:
-Thế là đại công về tay ông Lê cả rồi! Quan Hành khiển cùng đi với ông Lê mà về tay không e khó ăn nói với thiên hạ lắm?
Đỗ Tử Bình hỏi lại các tướng:
-Thế bây giờ các ông muốn tính sao?
Các tướng Hoàng Phụng Thế, Nguyễn Vân Nhi đều nói:
-Trần Húc đang hoành hành ở Nghệ An, quan Hành khiển cho quân tiến thẳng vào đó biết đâu chẳng lập được công lớn?
Đỗ Tử Bình mừng rỡ khen:
-Phải lắm! Các ông hãy đem quân bản bộ đi trước. Ta sẽ theo sau tiếp ứng!
Hoàng Phụng Thế nói với Nguyễn Vân Nhi:
-Phen này không chịu truy sát giặc để lập công còn đợi khi nào nữa? Phải đi gấp mới được!
Thế là hai tướng tức tốc kéo quân bản bộ đi ngay. Giữa đường họ chẳng gặp một tên quân Chiêm nào. Vừa tiến vào địa phận Nghĩa Đường vài dặm thì trời tối, hai tướng cho quân dừng lại tạm nghỉ. Trong lúc quân sĩ đang nấu cơm, tướng Nguyễn Vân Nhi tình cờ thấy được hai kỵ sĩ lạ mặt vừa mới tới đó. Nguyễn Vân Nhi sinh nghi, lập tức hô lính vây bắt cả lại. Không ngờ đó chính là hai người đưa tin một Chiêm một Việt do Chế Bồng Nga sai đến truyền lệnh cho Trần Húc rút quân. Nguyễn Vân Nhi mừng lắm, bèn đích thân tra hỏi chúng. Chúng sợ hãi khai cho biết An Nam vương Trần Húc đang đóng bản doanh gần thị trấn Yên Thành. Nguyễn Vân Nhi liền báo cho Hoàng Phụng Thế biết tin ấy. Hoàng Phụng Thế nói:
-Theo tôi, ta phải thúc quân đi suốt đêm nay mới mong được việc!
Nguyễn Vân Nhi nói:
-Tướng quân nói đúng. Chỉ sợ quân sĩ đã đi suốt ngày quá mệt mỏi, tính thế nào cho tiện?
Hoàng Phụng Thế nói giọng cương quyết:
-Nếu đợi đến sáng mai thì mất tiêu yếu tố bất ngờ! Hiện thời Trần Húc chắc vẫn chưa biết tin Chế Bồng Nga đã rút quân. Chuyến này nếu nhanh tay ta có thể bắt Trần Húc được đấy! Trần Húc bị bắt là Chế Bồng Nga hết đường lợi dụng! Nhất định phải tiến quân ngay!
Thế là hai tướng thúc quân sĩ lo việc ăn uống gấp rồi suốt đêm tiến thẳng hướng về Yên Thành. Trời chưa rạng đông quân triều đình đã vây gọn đạo quân của An Nam vương. Hai tướng liền cho bắc loa kêu gọi quân của Trần Húc đầu hàng. Đô tướng Hồ Thuật nghe báo động liền xách đao lên ngựa xông ra kháng cự. Nhưng đánh nhau chưa bao lâu Hồ Thuật đã bị Hoàng Phụng Thế chém rơi đầu. Quân của Trần Húc quá khiếp hãi, hầu hết quăng khí giới đầu hàng. Trần Húc lúng túng chưa biết hành động như thế nào thì một tướng của quân triều đình đã hùng hổ tiến tới trước mặt. Trần Húc sợ tướng kia không biết mình là ai sẽ làm ẩu liền kêu lên:
-Ta là Ngự câu vương Trần Húc đây!
Viên tướng đó chính là Đỗ Hoành thét lớn:
-Lệnh của Thượng hoàng, bất cứ ai cũng có quyền xử tử tên phản quốc bất trung bất hiếu này!
Trần Húc khiếp hãi chưa biết phản ứng thế nào thì may sao Hoàng Phụng Thế vừa đến kịp ngăn Đỗ Hoành lại. Hoàng Phụng Thế nói với Trần Húc:
-Phép nước không ngoại trừ một ai. Đức ông là người có tội chúng tôi không thể làm gì khác được. Xin đức ông cảm phiền ngồi vào xe tù đợi về kinh đô Thượng hoàng sẽ định đoạt!
Trần Húc không một cử chỉ kháng cự, răm rắp bước vào ngồi trong xe tù. Đỗ Hoành hỏi Hoàng Phụng Thế:
-Thưa, Thượng hoàng đã từng ra lệnh cho các quan ai gặp được Trần Húc đều có quyền xử tử y sao nay tướng quân lại không thi hành lệnh ấy?
Hoàng Phụng Thế nói:
-Khi đang giận ngài nói vậy chứ tình nghĩa cha con làm sao ngài bỏ được! Nếu chúng ta thi hành lệnh đó không chừng sẽ chuốc oán về sau đấy!
Nguyễn Vân Nhi nói:
-Thôi, chúng ta bắt được Trần Húc là tốt rồi!
Vừa nhận được tin hai vị tướng quân Hoàng và Nguyễn thắng trận, Hành khiển Đỗ Tử Bình vui mừng lắm. Thế nhưng khi thấy cái cũi nhốt Trần Húc, Đỗ Tử Bình lộ rõ vẻ hoang mang, kinh sợ. Ông rất lo ngại Trần Húc có thể gieo tai họa cho ông. Trần Húc ở đất Chiêm đã gần ba năm nay và đã làm rể vua Chiêm, có thể chàng đã biết rõ về vụ 10 mâm vàng mà Chế Bồng Nga đã dâng cho Trần triều lắm! Nghĩ đến điều đó, Đỗ Tử Bình không còn bụng dạ nào để tranh giành công trạng với ai nữa. Ông đổi ra thái độ khiêm tốn nói với hai tướng Hoàng và Nguyễn:
-Chúc mừng hai ông! Ra trận lần này bởi ta không được khỏe thành ra chẳng làm nên trò trống gì cả. Nhờ sức hai ông triều đình mới trừ được Ngự câu vương. Công lớn ấy là hoàn toàn của hai ông, ta không muốn dự vào. Về triều ta sẽ trình rõ chiến công này để Thánh thượng xét định việc ban thưởng!
Nguyễn Vân Nhi biết ý nói với Hoàng Phụng Thế:
-Xưa nay Đỗ hành khiển vẫn nổi tiếng là người tham công, nay bỗng nhiên tự nói không lạm dự vào chiến công đánh bắt Ngự câu vương, ông thấy thế nào?
Hoàng Phụng Thế cười:
-Có thể ông ta sợ liên can đến việc Đỗ Hoành toan sát hại Ngự câu vương!
Nguyễn Vân Nhi cười khinh bạc:
-Nếu Đỗ Hoành giết Ngự câu vương đi nữa, anh ta cũng chỉ làm đúng lệnh trên, việc gì mà phải sợ? Không ngờ lão ấy lại nhát gan đến thế!
Hoàng Phụng Thế lắc đầu:
-Đầu óc lão ấy tinh ma lắm, mình khó mà biết được! Nay lão không làm gì thiệt hại đến mình thì thôi, tìm hiểu làm gì cho mất công!
Đuổi được Chế Bồng Nga xong, Lê Quí Ly và Đỗ Tử Bình đem quân đắc thắng trở về. Dọc đường quân Đại Việt đã được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Thượng hoàng ban thưởng rất hậu cho các tướng có công, đặc biệt nhất là tướng Nguyễn Đa Phương.
Sau đó, ngài đòi Trần Húc đến mắng nhiếc một trận rồi cho đưa về an trí ở An Sinh. Hành khiển Đỗ Tử Bình thì dâng sớ cáo bệnh xin thôi giữ binh quyền. Thế là chỉ còn một mình Lê Quí Ly chuyên lãnh chức nguyên nhung, làm Hải Tây đô thống chế.Từ khi Chế Bồng Nga lên cầm quyền nước Chiêm, quân đội Chiêm Thành đã bao phen làm cho quân Việt khiếp đảm. Từ vua quan đến dân chúng Đại Việt lúc bấy giờ cứ nghe nói đến quân Chiêm Thành là giật mình. Nhà Trần không còn kiểm soát được những vùng đất mà Đại Việt đã chiếm của Chiêm Thành trước đây dù người Chiêm chưa thực sự chiếm lại. Ở những lộ có tính cách xôi đậu người Chiêm sống lẫn lộn với người Việt từ Nghệ An trở vào phía nam rất khó mà biết được ai trung ai phản. Quan quân triều đình mà đi lẻ tẻ trong các vùng ấy có thể mất mạng không chừng. Vì thế, có nhiều quan chức được triều đình đặt ra cho có vị nhưng chẳng bao giờ dám bước tới nhiệm sở. Điển hình như viên quan Lê Khả Chú được cử làm An phủ sứ hai lộ Tân Bình, Thuận Hóa mà chỉ ở Thăng Long để điều khiển công việc hai lộ ấy…
Uy thế quân Chiêm lừng lẫy như vậy, nhưng vừa rồi một tướng trẻ của Đại Việt là Nguyễn Đa Phương lại đánh thắng quân Chiêm một trận thủy chiến oanh liệt đã khiến vua Chế Bồng Nga phải suy nghĩ, lo lắng. Khi nghe tin Trần Húc đã bị quân Đại Việt bắt, ông thản nhiên nói:
-Thế cũng hay, ta đỡ mất công suy nghĩ! Chẳng qua như lá rụng về cội! Điều đáng nghĩ là cái viên tướng trẻ Nguyễn Đa Phương mới xuất hiện thôi!
Các quan nghe Chiêm vương nói đều ngạc nhiên. Một viên quan hỏi:
-Hạ thần không hiểu vì lẽ nào bệ hạ lại cho việc Trần Húc bị bắt là cũng hay, đỡ phải mất công suy nghĩ?
Vua Chế Bồng Nga cười:
-Có gì đâu! Trước đây ta vẫn tưởng hắn là một viên ngọc vô giá, có thể sử dụng hắn trong việc an định Đại Việt. Nhưng bây giờ xét lại, ta nhận ra hắn chỉ là một viên sỏi. Dùng hắn khó mà làm nên cơm cháo gì được! Mất hắn đi ta cũng chẳng thiệt chi! Thôi hãy đợi kiếm một tên khác vậy!
Tể tướng Nhã Đam nói:
-Về phương diện lợi ích quốc gia, bệ hạ nói vậy là đúng. Nhưng bệ hạ cũng phải nghĩ đến công chúa nữa chứ! Thấy mối tình giữa Trần Húc và công chúa có vẻ mặn nồng lắm! Sợ công chúa sẽ phải đau khổ đấy!
-Ta biết tánh tình công chúa rất cương cường, không ủy mị. Bất quá công chúa sẽ buồn rầu một thời gian rồi cũng quên đi thôi!
Tể tướng Nhã Đam lại nói:
-Bệ hạ nói vậy nhưng cũng nên cho người săn sóc, an ủi công chúa cẩn thận mới chắc. Theo thần biết, ở lớp tuổi mới lớn tình cảm yêu thương đôi lứa khi gặp trắc trở nó diễn biến phức tạp không lường được đâu!

-Khanh nói phải lắm! Ta đã cho người lo việc ấy rồi!
Quả thật hậu quả của việc Trần Húc bị bắt đối với công chúa Hoa Lài không đơn giản như Chiêm vương đã nghĩ. Vừa nghe tin chồng bị bắt đem về lại Đại Việt, công chúa Hoa Lài đã ngất xỉu. Những ngày kế tiếp nàng khóc hôm khóc sớm đến nỗi khản tắt cả tiếng, chảy cả máu mắt. Nàng bảo nếu Trần Húc lỡ có bề nào nàng sẽ không sống được. Hoàng hậu Mỵ Thâm vô cùng lo sợ. Những người chung quanh đã thay nhau cố khuyên giải, an ủi để giúp nàng khuây khoa.
Khoảng mươi hôm sau thì công chúa lâm bệnh nằm liệt giường. Chiêm vương phải cho mời nhiều danh y vào cung hốt thuốc, săn sóc cho nàng. Nhưng trải qua hơn một tháng bệnh công chúa vẫn không thấy mòi thuyên giảm. Thấy con gái mình mỗi ngày mỗi tiều tụy khô héo, Chiêm vương rất đau lòng. Lúc ấy ông mới thấy hối hận vô về sự suy nghĩ sai lầm của mình! Chính ông đã đưa con gái mình ra làm mồi nhử Trần Húc để lợi dụng. Cũng chính ông đã bỏ rơi Trần Húc sau khi thấy chàng quá bất lực trong việc thi hành kế hoạch chiêu dụ quân dân Đại Việt. Ông không ngờ đứa con gái của ông lại chung tình đến thế! Nếu Hoa Lài có mệnh hệ nào ông sẽ phải ôm hận suốt đời!
Hầu hết các thầy thuốc đều bảo công chúa mắc phải “tâm bệnh” nên khó mà chữa! Họ khuyên Chiêm vương dùng tâm lý để chữa may ra có tác dụng. Tể tướng Nhã Đam dâng kế:
-Bệ hạ nên cho sứ mang lễ vật sang Đại Việt để cầu hòa. Tiếp đó đề nghị Đại Việt cùng Chiêm Thành chính thức tác hợp hoàng tử Trần Húc với công chúa Hoa Lài. Hai nước sẽ kết tình hòa hiếu, không còn xâm lấn nhau nữa! Thần hi vọng lúc này Đại Việt đang suy yếu, chắc hẳn họ sẽ vui vẻ nghe theo đề nghị của ta! Như vậy bệnh công chúa chắc chắn sẽ khỏi mà dân hai nước Chiêm Việt cũng có thể được sống yên lành bên nhau!
Tướng La Ngai bác bỏ ý kiến đó:
-Theo tôi, Đại Việt lúc này rất suy yếu! Cứ mỗi lần thấy quân ta ra Trần Phủ lại bỏ Thăng Long mà chạy! Thực lực giặc như thế ta cần gì phải mang lễ vật sang cầu hòa với chúng chứ? Tôi xin dẫn đại binh sang đánh một trận cho chúng vỡ mật kinh hồn rồi sau đó buộc chúng đưa Trần Húc ra nói chuyện, nhân đó ta sẽ bắt Trần Húc đem trả lại cho công chúa đâu có khó gì?
Nhiều tướng sĩ hăng hái ủng hộ ý kiến của La Ngai. Chiêm vương thấy các tướng hăng hái như vậy thì rất mừng. Ông bèn cử La Ngai làm Đại tướng quân chỉ huy đại quân đi đánh Đại Việt. La Ngai sai hai tướng Khả Long và Lôi Đồ chia quân hai cánh thủy bộ cùng tiến ra Thanh Hóa trước. Chính La Ngai chỉ huy đội chiến thuyền thứ hai đi sau tiếp ứng.
Phía Đại Việt, Lê Quí Ly cũng kíp đem quân bộ đóng đến ở núi Long Đại (núi Hàm Rồng) để chống giữ. Mặt khác, ông sai tướng coi vệ quân Thần Khôi là Nguyễn Đa Phương đem thủy quân đóng hàng cọc đóng ở cửa biển Thần Đầu để ngăn giặc.
Đầu tiên, cánh quân bộ của Lôi Đồ đã nhanh chóng tiến chiếm bờ núi sát cửa biển Thần Đầu. Lợi dụng trên núi có nhiều đá vừa tay, quân Chiêm đã lượm ném tới tấp vào đội binh thuyền của Nguyễn Đa Phương gây khá nhiều thiệt hại. Trong khi đó, cánh thủy quân Chiêm Thành do Khả Long chỉ huy từ mặt biển tiến vào đã gần. Trước tình trạng mười phần nguy cấp ấy, Nguyễn Đa Phương nói với quân sĩ:
-Chúng ta đã lâm đường cùng rồi! Nếu không tự cứu còn ai cứu chúng ta? Không lẽ bó tay chịu chết ở đây sao? Lúc này không liều chết mà đánh còn đợi lúc nào nữa?
Rồi không đợi mệnh lệnh của Lê Quí Ly, ông truyền mở hàng cọc, tự làm tiên phong hô quân xông thẳng thuyền vào đội thủy quân Chiêm Thành. Quân Chiêm không lường được sự liều lĩnh của quân Việt, bị đánh dữ dội quá không sao chống cự nổi. Quân Việt dùng đồ hỏa khí ném vào thuyền quân Chiêm làm nhiều chiếc bốc cháy ngùn ngụt, trong số thuyền bị cháy này có cả thuyền chỉ huy của tướng Khả Long. Viên tướng này phải nhảy xuống nước rồi mất tích luôn. Quân Chiêm khiếp sợ tháo chạy, quân Việt thừa thắng đuổi theo đánh chìm thêm nhiều chiếc nữa. Thế là đội thủy quân của Chiêm Thành bị loại khỏi vòng chiến.
Khi ấy trên bộ Lê Quí Ly cũng điều quân xuất trận. Cánh quân bộ của Chiêm Thành ở trên núi tận mắt chứng kiến cánh quân thủy đã tan rã cũng mất hết tinh thần chiến đấu, hốt hoảng rút lui. Lê Quí Ly thừa thế xua quân truy đuổi rất gấp. Một số quân Chiêm chạy lạc vào rừng, bị quân Việt bủa vây không tìm được lối ra phải chịu chết đói hết.
Hai cánh quân tiên phong cả thủy lẫn bộ của Chiêm Thành đã tan rã quá sớm đến không ngờ! Khi đội chiến thuyền hậu ứng do Đại tướng quân La Ngai chỉ huy tới nơi thì đã quá trễ, không cứu vãn nổi tình thế! La Ngai chỉ cứu vớt, thu gom được một số tàn binh đang tản mác chạy trốn rồi rút lui.
Sau trận đại thắng này, danh tiếng Nguyễn Đa Phương nổi như cồn. Ông được Thượng hoàng phong làm Kim ngô vệ đại tướng quân.
Ban thưởng cho các tướng xong, Thượng hoàng nói với Lê Quí Ly:
-Ta vừa đại thắng Chiêm Thành, quân thế đang hăng, binh trượng cục lại mới chế tạo được ba chiến thuyền cỡ lớn là Diễm Trị, Ngọc Đột và Nha Tiệp, khanh hãy nhân dịp này tiến đánh Chiêm Thành một phen! Ta nghĩ thế nào khanh cũng lập được công lớn!
Lê Quí Ly vâng lệnh, sai Nguyễn Đa Phương làm tiên phong, đem quân theo đường thủy đi đánh Chiêm Thành. Nhưng quân Việt vừa đến vũng biển Lại Bộ Nương* và eo biển Ô Tôn* thì gặp sóng bão lớn gây trở ngại. Lê Quí Ly cho đó là một dấu hiệu bất lợi, ra lệnh rút quân trở về.
Cũng trong thời gian đó, tại Thăng Long đã xảy ra một sự việc không hay. Nguyên khi Trần Húc bị bắt đưa về Đại Việt, Thượng hoàng đã giận dữ tưởng chừng muốn điên lên. Ngài mắng nhiếc Trần Húc một một trận tơi bời rồi sai người đưa Húc an trí ở An Sinh. Ba tháng sau ngài cho đòi Húc về để hỏi chuyện. Lần này Thượng hoàng đã đổi thái độ, ngài dịu ngọt hỏi han an ủi Húc. Sau đó ngài cho Húc trở về lại phủ cũ tại Thăng Long, tái hợp với công chúa Tuyên Huy. Tình cha con giữa Thượng hoàng và Húc dần mặn nồng trở lại như trước. Ít lâu sau ngài cải phong cho Húc tước Quan Phục đại vương.
Thấy Thượng hoàng cải phong và thương yêu Trần Húc trở lại, các quan đâm ra ái ngại cho Giản hoàng, một ông vua có đức, hiếu hạnh nhưng không có thực quyền. Các quan cũng lo ngại cho các tướng đã tham gia trong việc bắt Quan Phục đại vương về nước, nhất là những người đã lỡ tỏ thái độ khinh thị hoặc sỉ nhục đối với vương. Nói trắng ra, các quan hầu hết rất có cảm tình với Giản hoàng và chẳng mấy ai trông chờ gì ở Quan Phục đại vương. Họ cũng rất chán nản vì sự bất lực, khiếp nhược của Thượng hoàng trước người Chiêm và sốt ruột mong ngày Giản hoàng được chính thức cầm quyền…
Một hôm Nguyễn Vân Nhi nói với Đỗ Hoành:
-Tôi thấy địa vị Giản hoàng sao bấp bênh quá! Sau này lỡ ngài có bề nào ắt Quan Phục đại vương sẽ lên thay, lúc ấy bọn ta chắc khó sống nổi!
Đỗ Hoành nói:
-Tướng quân nói có lý lắm! Chính tôi suýt giết ông ta, chắc hẳn ông ta khó quên việc đó được! Tướng quân nghĩ chúng ta nên làm sao?
Nguyễn Vân Nhi ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
-Tôi nghĩ, nếu cái họa này xảy ra thật, nó phải đến với Giản hoàng trước khi đến với chúng ta. Ông là người gần gũi Giản hoàng nên thẳng thắn trình bày với ngài điều ấy. Ngài lên ngôi đã lâu mà Thượng hoàng vẫn chẳng trao cho ngài chút thực quyền nào, nay Thượng hoàng trở lại o bế Quan Phục đại vương, mối nguy của ngài đã hiện rõ trước mắt! Nếu Giản hoàng ý thức được mối nguy hiểm đó, tôi nghĩ việc tránh họa Quan Phục đại vương không khó!
Đỗ Hoành nghe lời, trình bày thẳng sự việc đã bàn với với Giản hoàng. Giản hoàng nói:
-Các ông nhận xét đúng! Thượng hoàng đưa ta lên làm vua nhưng ngài lại chẳng muốn giao cho ta một chút thực quyền nào hết. Ta nghĩ chắc ngài đã có chủ định rồi. Nhưng cứ mặc ngài, ta tin con người có số. Ngài là anh cha ta, ta thờ ngài cũng như thờ cha ta vậy. Thật lòng ta không muốn làm điều gì trái ý ngài!
Đỗ Hoành thuật lại lời vua nói với Nguyễn Vân Nhi, Nhi nói:
-Vua đã nói như thế ta cũng hết đường trông cậy. Đành phải cẩn thận để đề phòng vậy!
Đỗ Hoành nói:
-Đáng tiếc nhà vua hiền lành đến độ nhu nhược, ngài thật đáng thương! Dù khó khăn nguy hiểm đến mức nào tôi cũng quyết bảo vệ ngài đến cùng!
Nguyễn Vân Nhi lộ vẻ cảm kích nói:
-Trời sẽ không phụ lòng trung nghĩa của ông!
Ngày kia, Giản hoàng cùng Quan Phục đại vương Trần Húc tổ chức một cuộc săn bắn để tiêu khiển. Quân sĩ được lệnh bao vây một khu rừng, dùng chó săn, phèng la và mõ đánh động để gom thú hoang lại một góc. Nhiều giống thú rừng và cả một đàn nai hàng chục con cũng bị gom gọn vào đó. Trong bước đường cùng, nhiều con thú đã phải liều mạng phóng chạy thoát thân. Quân sĩ sợ mất mồi cũng tranh nhau bắn. Trong lúc lộn xộn, Quan Phục đại vương đã bị một mũi tên lạc của ai đó trúng nhằm chỗ nghiệt, ngã ngựa chết tại chỗ. Giản hoàng kinh hoảng cho đình ngay cuộc săn bắn để đưa Quan Phục đại vương về.
Thượng hoàng giận lắm, ngài khiển trách Giản hoàng rất nặng nề. Giản hoàng chỉ biết lặng thinh chịu lỗi chứ không biện bạch gì hết.
Lúc bấy giờ trên đất Chiêm, vua Chế Bồng Nga cũng vô cùng bối rối vì căn bệnh của công chúa Hoa Lài. Khi cử La Ngai đi đánh Đại Việt, ông vào thăm công chúa và nói:
-Cha đã cho Đại tướng quân La Ngai đi đón Trần Húc về cho con rồi đấy! Con phải lo ăn uống thuốc thang cho sớm lành bệnh đi! Trần Húc trở về mà con thế này coi sao được?
Công chúa lộ vẻ vui mừng qua đôi mắt ướt:
-Thật vậy sao phụ vương? Liệu bao giờ chàng về tới?
-Đường sá xa xôi làm sao về sớm được nhưng chắc chắn là sẽ về!
-Con đã thề sống chết với chàng trước thần giếng ở nhà ông Hoàng. Nếu chàng có mệnh hệ nào con chắc con không sống nổi. Con mong chàng sẽ về sớm.
Vua Chế Bồng Nga dỗ dành:
-Con cứ lo tĩnh dưỡng đi! Trước sau Trần Húc cũng về với con!
Thế là công chúa lại gắng gượng ăn uống và hết lòng trông đợi!
Nhưng không may là La Ngai lại thất trận nên phải trở về quá sớm! Chiêm vương bất đắc dĩ bắt mọi người giấu biệt tin này không cho công chúa biết! Ông dặn mọi người khi công chúa hỏi La Ngai đã trở về chưa thì cứ lựa lời mà khất lần… Riêng công chúa Hoa Lài đợi chờ quá lâu mà vẫn chưa thấy chồng về nàng cũng dần hiểu ra. Nàng lại khóc đêm khóc ngày như hồi Trần Húc mới bị bắt. Cuối cùng công chúa lại bị biến chứng đau mắt rồi bị mù luôn. Vua Chế Bồng Nga đau đớn kêu lên:
-Không ngờ chính ta đã hại con ta!
Mùa hạ năm Quí Hợi, vua Chế Bồng Nga lại đem quân đánh Đại Việt. Lần này ông cùng tướng La Ngai dẫn quân đi bộ men theo chân núi, đến đóng đồn ở sách Khổng Mục thuộc phủ Quảng Oai. Cả kinh thành Thăng Long nghe tin đều rúng động. Thượng hoàng liền sai tướng chỉ huy vệ Hoa Ngạch là Lê Mật Ôn đem quân đi chống giữ. Lê Mật Ôn kéo quân đến bãi Tam Kỳ chưa kịp bày trận đã bị quân Chiêm mai phục sẵn, bộ binh lẫn tượng binh nổi dậy một loạt tấn công. Quân Việt hoảng kinh bỏ chạy tán loạn, số bị bắt bị giết rất nhiều. Chính tướng Lê Mật Ôn cũng bị quân Chiêm bắt sống.
Nhận được tin xấu này, Thượng hoàng lập tức hạ lệnh cho tướng Nguyễn Đa Phương tìm mọi cách để bảo vệ Thăng Long. Nguyễn Đa Phương vâng lệnh, đôn đốc quân lính dựng rào trại ở các vị trí trọng yếu quanh kinh thành, ngày đêm canh giữ rất cẩn thận.
Giữa lúc đó Chiêm vương lại cho tạm ngưng chiến rồi sai chính tướng La Ngai đến Thăng Long xin yết kiến Thượng hoàng để thương thuyết. Thượng hoàng hỏi:
-Ông đến đây có mục đích gì?
-Bẩm, tôi vâng lệnh Chiêm vương đến đây để đề nghị với quí quốc cùng thực hiện một giải pháp mang lại hòa bình cho hai nước Việt và Chiêm!
-Đề nghị của Chiêm vương như thế nào?
-Bẩm, Chiêm vương đề nghị đem tướng Lê Mật Ôn trả lại cho Đại Việt với điều kiện Đại Việt cùng Chiêm Thành sẽ chính thức tác hợp cho hoàng tử Trần Húc với công chúa Hoa Lài con Chiêm vương. Nếu Thượng hoàng đồng ý, quân Chiêm sẽ lập tức rút khỏi lãnh thổ Đại Việt. Từ nay hai nước sẽ thành thông gia trở lại, dân chúng hai nước sẽ được sống yên bình bên nhau!
Thượng hoàng Nghệ Tôn thở dài:
-Ta đâu có muốn đánh nhau với quí quốc! Nhưng tiếc rằng hoàng tử Trần Húc đã gặp tai nạn mà mất rồi! Chiêm vương đã có lòng muốn dân chúng hai nước sống yên bình bên nhau có thể đề nghị những điều kiện khác được không?
La Ngai vừa nghe nói hoàng tử Trần Húc đã mất thì biến sắc mặt mà nói:
-Nếu Đại Việt đã giết Trần Húc rồi thì không còn gì để nói nữa! Tôi xin trở về bẩm báo với Chiêm vương để người quyết định!
Nói xong La Ngai đứng dậy xá Thượng hoàng mà lui ra. Thượng hoàng thấy thế lo sợ lắm. Ngài giận dữ nói với quần thần:
-Nếu Quan Phục đại vương còn sống thì chuyến này người Chiêm đã chịu hòa rồi! Cũng chỉ tại cái bọn gian ác muốn phản ta đã gây nên trở ngại này! Sớm muộn ta cũng phải điều tra cho ra bọn mưu hại Quan Phục đại vương! Chúng sẽ phải đền tội xứng đáng!
Thượng hoàng nói không ra hơi nhưng vẫn ráng nói. Càng nói vẻ giận dữ trên nét mặt ngài càng tăng. Cuối cùng ngài vỗ án thét lên:
-Tại sao các ngươi lại ở ác với ta đến thế?
Thế rồi Thượng hoàng ngất xỉu tại chỗ. Giản hoàng vội thúc quan ngự y và bọn nội thị đưa Thượng hoàng vào cung để săn sóc. Tinh thần các quan đều chấn động, căng thẳng, họ bảo nhau: Không biết chuyện gì sẽ xảy ra nữa đây?
Chiều hôm ấy Lê Quí Ly vào cung để vấn an Thượng hoàng. Lúc đó sắc mặt ngài vẫn còn đầy vẻ mệt mỏi, ưu phiền. Sau khi bày tỏ lòng lo lắng cho sức khỏe của ngài, Quí Ly thở dài:
-Vừa rồi cái điều kiện mà La Ngai đưa ra để tiến tới giải pháp ngừng chiến giữa hai nước Việt Chiêm quả thật khó hiểu. Làm như vậy thì Đại Việt ta hoàn toàn có lợi chứ đâu có thiệt thòi gì? Tại sao vừa nghe nói Quan Phục đại vương đã chết La Ngai liền đổi thái độ ngay như thế? Rõ ràng là sau vụ Quan Phục đại vương lâm nạn còn có một điều gì bí ẩn! Suy nghĩ về vấn đề này thần không khỏi nhức đầu. Chắc cái chết của Quan Phục đại vương xảy ra do một âm mưu sắp đặt chứ không thể là một sự tình cờ!
Như được gãi trúng chỗ ngứa, Thượng hoàng nói:
-Khanh nghĩ như vậy hợp ý ta lắm! Ta rất ân hận vì trong một lúc nóng giận trước đây ta đã lỡ thốt một lời làm cho kẻ xấu lợi dụng để làm nhục, làm hại con ta!
Lê Quí Ly được đà nói tiếp:
-Thần nhớ lại hồi đi đánh Chiêm Thành, Đỗ Hoành chỉ là một tên đày tớ nhỏ nhoi làm sao dám sỉ nhục Quan Phục đại vương nếu không có ai xui khiến! Và nếu mũi tên ác nghiệt trong cuộc đi săn kia là vô tình thì tại sao không trúng một người nào khác mà lại trúng vào Quan Phục đại vương?
Thượng hoàng nói:
-Ta cũng có những thắc mắc giống khanh. Khanh có phỏng đoán ra ai là kẻ đứng đằng sau vụ giết người mờ ám này không?
Quí Ly bỗng đổi ra thái độ run sợ, quì xuống xá Thượng hoàng mà nói:
-Thần chỉ suy nghĩ trong trí óc thô thiển của thần thôi chứ chưa dám khẳng định. Những suy nghĩ này thần chưa bao giờ dám tiết lộ với ai. Không hiểu sao hôm nay thần lại buột miệng lỡ lời trước mặt Thượng hoàng như thế, tội của thần thật đáng chết…
Thượng hoàng ngắt lời Quí Ly:
-Khanh suy nghĩ thế nào cứ nói ta nghe thử! Đúng hay sai ta chẳng chấp đâu mà ngại!
Quí Ly vẫn tỏ vẻ dè dặt:
-Lượng thánh quang minh lỗi lạc thần đâu ngại gì! Thần ngại đây là ngại bọn tiểu nhân hầu hạ bên cạnh quan-gia thôi! Chúng ưa đặt điều lập công trong khi quan-gia còn quá non trẻ sợ ngài không thấu được gian ý của chúng làm thần có thể mắc nạn oan!
Thượng hoàng trấn an Quí Ly:
-Khanh chớ ngại gì cả. Ở đây chỉ có ta với khanh, khanh cứ việc trình bày những suy nghĩ của khanh cho ta nghe đi!
-Dạ, thần nghĩ có thể bọn hầu hạ quan-gia lo ngại Quan Phục đại vương sẽ trở thành nguy cơ cho quan-gia trong tương lai nên ra tự động ra tay. Cũng có thể chính quan-gia nghe chúng xúi giục mà gây nên lầm lỗi!
Thượng hoàng sa sầm nét mặt nói:
-Phải rồi! Sự suy nghĩ của khanh có lý lắm!
Không lâu sau đó dư luận trong triều đã biến vụ tai nạn của Quan Phục đại vương trở thành một vụ mưu sát. Cái hố ngăn cách giữa Thượng hoàng và quan-gia càng ngày càng được khơi rộng…
Hôm sau Thượng hoàng Nghệ Tôn ra lệnh chuẩn bị xa giá để ngự sang sông Đông Ngàn tránh giặc. Một người học trò là Nguyễn Mộng Hoa thấy thế liền mặc áo mũ chính tề tới bến sông níu thuyền ngự lại mà tâu:
-Tình hình hiện nay chưa đến nỗi nghiêm trọng lắm đâu! Thượng hoàng còn ở lại quan quân sẽ còn liều chết đánh giặc, nếu Thượng hoàng bỏ đi hạ thần e mọi người sẽ mất tinh thần, làm sao chiến đấu?
Thượng hoàng nổi giận nạt:
-Ngươi chỉ là một tên học trò mặt trắng biết gì mà nói! Nếu ta ở lại rủi bị quân Chiêm bắt thì ô nhục biết chừng nào?
Thế rồi Thượng hoàng sai người xô Nguyễn Mộng Hoa ra mà chèo thuyền đi!
Nhưng lần đó giặc không xâm phạm nổi kinh thành Thăng Long. Tướng Nguyễn Đa Phương đã bố trí phòng thủ quá chặt chẽ khiến quân Chiêm không làm gì được.
Vua Chế Bồng Nga phần nóng ruột về bệnh tình của con gái, phần biết ở lại dẫu có thắng Đại Việt cũng chẳng tìm ra được Trần Húc nữa, lại thấy mùa đông đã đến, khí tiết trở nên lạnh lẽo bất lợi cho quân mình, đành phải hạ lệnh ban sư.
Khi vừa về đến Đồ Bàn, vua Chiêm nhận được ngay một cái tin đau đớn: Công chúa Hoa Lài không còn nữa! Vừa thương con vừa hối hận, vị anh hùng Chiêm quốc không thể nào cầm được nước mắt. Ông kêu lên:
-Trời phạt ta rồi!
Ông đã khóc rống lên thảm thiết khiến mọi người chung quanh cũng xúc động khóc theo. Khi ông hỏi sự việc đã xảy ra như thế nào, hoàng hậu Mỵ Thâm nói:
-Thảm thiết lắm bệ hạ ơi! Công chúa đã bỏ mình tại cái giếng nhà ông Hoàng! Ba ngày sau mới tìm thấy được xác!
Chiêm vương kinh hãi tột cùng, ông hỏi:
-Làm sao công chúa lại có thể bỏ mình tại giếng nhà ông Hoàng được? Ai đã đem công chúa đến đó?
Hoàng hậu Mỵ Thâm nói:
-Thiếp nào có biết gì đâu! Khi bọn thị nữ báo công chúa tự nhiên mất tích, thiếp vội cho người bủa ra tìm kiếm mấy ngày liền nhưng vẫn không thấy đâu. Khi đó một thị nữ mới cho biết trong thời gian gần đây nó nghe công chúa hay khấn nguyện gì đó có nhắc đến “thần giếng”. Thiếp liền cho người dò tìm ở các giếng. Cuối cùng mới tìm ra thi thể công chúa ở giếng nhà ông Hoàng!
Vua Chế Bồng Nga lại kêu lên:
-Trời ơi, ta hiểu ra cả rồi!
Sau khi quân Chiêm đã rút, Thượng hoàng Nghệ Tôn về ở cung Bảo Hòa (núi Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên Sơn), sai Thiêm tri nội mật viện Nguyễn Mậu Tiên, Lễ bộ lang trung Phan Nghĩa và gia thần Vũ Hiến hầu thay phiên nhau chầu chực hàng ngày. Ngài ban cho ăn uống và hỏi các việc cũ, ghi chép từng ngày, biên soạn thành 8 quyển lấy nhan đề là “Bảo Hòa dư bút”, sai Đào Sư Tích đề tựa ở đầu sách để dạy bảo quan-gia.
Tháng hai năm Giáp Tí*, Thượng hoàng cho mở khoa thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc núi Tiên Du lấy đỗ bọn Đoàn Xuân Lôi, Hoàng Hối Khanh… cả thảy 30 người.
Trong thời gian này nhà Minh đang đánh Vân Nam nên họ hay nhân tiện yêu sách Đại Việt nhiều điều. Khi họ đòi cung cấp lương thực cho quân lính nhà Minh đóng ở Lâm An, khi họ đòi đưa 20 vị sư giỏi sang Kim Lăng, khi họ đòi đưa các thứ cây ăn quả giống vùng nhiệt đới như vải, nhãn, mít sang để trồng ở đất Trung Hoa v.v… Trước những yêu sách đó, lúc nào Thượng hoàng cũng chỉ biết hỏi ý kiến Lê Quí Ly và cuối cùng bao giờ cũng tuân hành răm rắp cho yên chuyện. Rất nhiều lính tráng Đại Việt đã phải chết vì nhiễm sơn lam chướng khí trong những chuyến tải lương thực sang biên giới Trung Hoa.
Càng về già, Thượng hoàng càng tin cậy, càng dựa dẫm vào Lê Quí Ly, hầu hết những hành động của ngài đều thể theo ý kiến của Quí Ly cả. Vì thế, nhiều vị đại thần, một số tướng sĩ, các nhân sĩ, các tôn thân nhà Trần hết sức lo ngại. Lê Quí Ly cũng biết như thế nên ông ngầm tìm cách mua chuộc lôi kéo họ về cùng cánh với mình. Nếu kẻ nào cứng rắn liệu không mua chuộc được thì ông tìm cách trừ khử. Thế lực của Quí Ly ngày càng trùm khắp trong triều.
Thấy tình trạng tuột dốc của nhà Trần không còn cứu vãn được nữa, tháng bảy năm Ất Sửu, một vị tôn thất uy tín bậc nhất của nhà Trần là Chương Túc Quốc Thượng hầu Trần Nguyên Đán xin về trí sĩ ở Côn Sơn. Con trai thứ của Thượng hoàng là Trần Ngạc đang giữ chức Thái úy cũng hết sức bất an trước thế cuộc! Một hôm Giản hoàng bàn với Thái úy Ngạc:
-Thượng hoàng tin yêu ngoại thích Quí Ly quá! Người cứ để hắn mặc sức làm chi thì làm, nếu không lo trước đi sau này sẽ rất khó chế ngự!
Không ngờ tên Vương Nhữ Mai hầu vua học lại tiết lộ việc ấy ra ngoài làm Quí Ly biết được. Ông ta đem tin đã nghe bàn với các thuộc hạ thân tín. Nguyễn Đa Phương khuyên Quí Ly:
-Đại nhân nên nại lý do có việc riêng, tạm tránh ra núi Đại Lại để chờ nghe tình thế biến chuyển thế nào rồi hãy định liệu.
Phạm Cự Luận bác đi:
-Không được đâu! Một khi đã ra ngoài thì khó lo chuyện sống còn!
Lê Quí Ly nói:
-Nếu không còn phương sách gì thì ta đành tự tử chứ nhất định không để tay kẻ khác giết mình!
Phạm Cự Luận nói:
-Đại nhân biết Thượng hoàng trong lòng vẫn còn căm tức quan-gia về việc giết Quan Phục đại vương chứ? Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà quan-gia lại mưu hại đại nhân thì Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo. Như vậy là chuyển họa thành phúc dễ như trở bàn tay! Thượng hoàng có nhiều con đích, đại nhân cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói “Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con”, may ra Thượng hoàng sẽ tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định vương lên ngôi thay Giản hoàng. Nếu Thượng hoàng không chịu nghe khi ấy chết cũng chưa muộn.
Quí Ly nghe theo, bí mật tâu với Thượng hoàng như lời Cự Luận. Thượng hoàng khen là phải, quyết định truất phế Giản hoàng:
-Khi bỏ Giản hoàng rồi ta nên lập ai lên ngôi?
Lê Quí Ly thưa:
-Theo thần nhận xét Chiêu Định vương Ngung tuy còn nhỏ nhưng đã lộ rõ là người đức lớn, được các quan nể phục, có thể nối đại thống.
Tháng 12 năm Mậu Thìn*, Thượng hoàng giả vờ ngự về Yên Sinh, sai điện hậu hộ vệ, rồi sai chi hậu nội nhân đi mời vua tới bàn việc nước. Giản hoàng chưa kịp ăn sáng, vội đi ngay, chỉ đem theo hai người hầu. Đến nơi, Thượng hoàng bảo vua: “Đại vương đã đến!”, rồi lập tức sai người đem vua ra giam ở chùa Tư Phúc. Thượng hoàng cho tuyên đọc nội chiếu rằng:
“Trước đây, Duệ Tôn đi tuần phương Nam không trở về, lấy con đích để nối ngôi, đó là đạo từ xưa. Nhưng từ khi quan-gia lên ngôi đến nay, lòng dạ trẻ con, giữ đức không thường, gần gũi bọn tiểu nhân, nghe lời Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị, gièm pha vu hãm công thần, làm lung lay xã tắc, phải giáng xuống làm Linh Đức Đại vương. Song quốc gia không thể không có chủ, ngôi báu không thể bỏ trống lâu, nên hãy đón Chiêu Định vương Trần Ngung vào nối ngôi đại thống. Bá cáo trong ngoài để mọi người đều biết”.
Các tướng chỉ huy các phủ quân cũ như tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách đều định đem quân vào cứu vua ra. Nhưng vua viết hai chữ “giải giáp” đưa cho các tướng và răn bảo họ không được trái ý Thượng hoàng. Các tướng tuân lệnh không bạo động nữa.
Một lát sau Thượng hoàng sai người dìu vua xuống phủ Thái Dương thắt cổ cho chết. Sau đó các tướng muốn cứu vua nói trên đều bị đem giết cả. Tri thẩm hình viện Lê Á Phu vì trước đây có hành động nghịch ý với Quí Ly cũng bị đem giết. Riêng Lê Dữ Nghị vì chưa có bằng chứng buộc tội nên chỉ bị đày ra Trại Đầu, nhưng rồi sau đó cũng bị giết vì một cớ khác.
Giết Giản hoàng xong, Thượng hoàng lập Chiêu Định vương Trần Ngung là con út của ngài mới 11 tuổi lên ngôi, đổi niên hiệu là Quang Thái. Vua tự xưng là Nguyên hoàng (về sau khi mất Nguyên hoàng được đặt miếu hiệu là Thuận Tôn nên từ đây xin gọi là vua Thuận Tôn cho tiện).

Trong quá trình hợp tác với quân Minh để diệt trừ giặc biển, quân Chiêm Thành đã tỏ ra xuất sắc làm cho vua Minh hết sức ngạc nhiên. Phần lớn đội quân thủy ấy là những người đã được tuyển từ những gia đình quen sống với các nghề trên biển từ nhỏ nên họ vẫn coi cõi sóng nước như chốn đất bằng. Cấp chỉ huy thì có tài nhận xét bén nhạy, chỉ cần nhìn qua hình thế núi biển là có thể đoán được nơi nào bọn thủy khấu ẩn núp, nơi nào không. Lính tráng thảy đều có thể bơi lặn, len lách tài tình như những con rái cá. Khi chiến đấu trên mặt nước, họ vẫn thường trội hơn các địch thủ. Nhờ sức của đội quân này nên chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều vùng duyên hải của Trung Hoa đã vắng bóng giặc Nụy. Phần lớn bọn cướp biển phải tản về ẩn núp quanh các miền ven biển và các đảo thuộc các nước nhỏ vùng Đông Nam Á.
Muốn triệt trừ hậu hoạn, vào năm Đinh Mão*, vua Minh đã ra lệnh cho hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông tập trung trên 300 chiến thuyền với đầy đủ khí giới, lương thực tại Chiết Giang để sang Chiêm Thành mở cuộc hành quân phố hợp tiễu trừ bọn giặc này.
Những cuộc hành quân phối hợp Hoa – Chiêm đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp khiến vua Minh rất hài lòng. Vua Minh càng ngày càng tỏ ra ưu đãi Chiêm Thành như với đứa con cưng. Vì thế, vua Chế Bồng Nga càng sinh lòng kiêu căng, ỷ công. Những chiến lợi phẩm đoạt được trong những cuộc hành quân phối hợp đã nhiều lần bị quân Chiêm giấu bớt. Người Minh biết được nhưng vẫn làm ngơ. Tiến xa hơn nữa, một lần nghe được tin Chân Lạp đang đưa 52 con voi sang triều cống nhà Minh, Chế Bồng Nga đã bàn với tướng La Ngai ngầm ra lệnh cho một viên quan võ đem quân giả làm một đám giặc biển để bắt chặn bớt. La Ngai hơi lấy làm lo hỏi:
-Làm thế nếu vua Minh biết được thì rắc rối lắm!
Chế Bồng Nga nói:
-Không sao đâu! Cứ làm cho gọn, đừng để lại tang chứng thì vua Minh làm gì được? Nó bóc lột các nước nhỏ hàng năm không biết tới bao nhiêu mà kể, ta có công bắt giặc biển giúp nó, nay chia bớt của nó một phần cũng hợp lẽ lắm chứ!
Thế rồi La Ngai đã cướp được 15 con voi cùng nhiều tên quản tượng. Việc tuy có người cáo giác, nhưng vì không nắm được tang chứng, vua Minh chỉ gởi một sắc dụ để răn đe Chế Bồng Nga như sau:
“Ta biết rằng ngươi là Di phương Nam, nhưng không nghĩ rằng ngươi vừa tôn kính Trung Hoa, lại lấy việc cướp bóc làm nghề nghiệp. Dù rằng hàng ngày ngươi cướp bóc làm điều bất nghĩa thì cũng phải biết kẻ lớn người nhỏ, kẻ trên người dưới! Há là người đứng đầu một nước lại dám buông tuồng khinh lờn thiên tử. Như năm ngoái ngươi dâng voi và 2 người quản tượng, từ khi cho con ngươi trở về thì trốn tránh không dâng tiếp! Việc làm của ngươi cứ tiếp tục như vậy thì một đàng không có lòng thờ nước lớn, một đàng thì mất sự chính nghĩa để giao tiếp với lân quốc. Ngươi phải suy nghĩ, sửa đổi, chớ để hối về sau.”
Dĩ nhiên là vua Chế Bồng Nga thừa khôn ngoan để “suy nghĩ, sửa đổi”. Chiêm Thành vẫn tiếp tục hợp tác với Trung Hoa trong việc diệt trừ giặc biển…
Cuộc vận động để loại trừ Giản hoàng của Lê Quí Ly đã thành công mỹ mãn. Đó là một thắng lợi cực kỳ to lớn của ông ta, một cú đẩy cực mạnh vào cái đà đang tuột dốc của nhà Trần. Thượng hoàng Nghệ Tôn lúc bấy giờ đã ngoài 70, già nua lẩm cẩm, vị vua mới Trần Thuận Tôn còn quá nhỏ, chưa có mấy kinh nghiệm việc đời và cũng chẳng có quyền hành gì. Những quan văn tướng võ sáng giá liên can hoặc có thiện cảm với Giản hoàng hầu hết đã bị diệt trừ. Những trung thần, những tôn thất nhà Trần còn may mắn không dính líu đến cuộc thanh trừng nói trên đều phải lo tìm cách để giữ mình. Một số xin về vui thú điền viên, những người còn ở lại đều phải nhẫn nhục câm nín để chờ thời. Người em ruột của Giản hoàng là Trần Nguyên Diệu, lúc bấy giờ đang làm An phủ sứ và cũng có đất phong ở Thanh Hóa, trước vốn có hiềm khích với Quí Ly, nay lại thấy vua anh bị giết oan ức, vừa căm giận vừa sợ hãi bèn lấy cớ bệnh hoạn, cáo quan xin về ở ẩn.
Vua Thuận Tôn lên ngôi chưa bao lâu, Lê Quí Ly tâu với Thượng hoàng:
-Theo luật âm dương, có mặt trời phải có mặt trăng vũ trụ mới điều hòa. Nay đã lập vua mới, tưởng cũng nên lập hoàng hậu cho thuận lẽ, xin Thượng hoàng sớm định liệu.
Thượng hoàng nói:
-Khanh hãy dò tìm các quan trong triều từ tam phẩm trở lên, nhà nào có con gái nhan sắc coi được và đủ tài đức hãy lên danh sách cho ta xem để quyết định chọn lập.
Lê Quí Ly tâu:
-Ở gia đình các quan trong triều thì thần chưa rõ, riêng thần cũng có đứa con gái lớn là Thánh Ngâu, thông minh, có sắc, có tài văn chương, công dung ngôn hạnh gồm đủ. Nếu Thượng hoàng không chê, xin đưa về hầu hạ cho quan-gia thì thật là vinh hạnh cho gia đình thần!
Lập con gái Thái sư làm hoàng hậu cũng là một cách gắn bó thêm tình thân giữa Thái sư với vị ấu quân con ngài – Thượng hoàng nghĩ – đó cũng là điều tốt! Ngài nói:
-Ý, ta suýt quên mất! Ta từng nghe Thái sư có một ái nữ là Thánh Ngâu tài sắc vẹn toàn mà! Thế là được rồi! Thôi, chẳng cần dò tìm lựa chọn gì nữa! Giờ chỉ cần chọn ngày lành tháng tốt để lập ngôi hoàng hậu là đủ!
Đầu năm Kỷ Tị*, con gái Thái sư Lê Quí Ly là Thánh Ngâu được lập làm hoàng hậu, cho ở điện Hoàng Nguyên.
Đến tháng tư, Quí Ly lại tâu với Thượng hoàng thăng Phạm Cự Luận chức Thiêm thư khu mật viện sự. Phạm Cự Luận lại tiến cử một số nhân tài cùng cánh là Phạm Phiếm, Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân và Đỗ Tử Mãn ra nắm giữ các chức vụ khá quan trọng trong triều.
Lúc bấy giờ giặc giã trong nước càng ngày càng gia tăng. Tháng tám năm đó, có tên Nguyễn Thanh người Thanh Hóa tự xưng là Linh Đức đại vương lánh nạn, tụ tập khởi nghĩa ở sông Lương, dân chúng hưởng ứng khá mạnh. Tháng chín lại có Nguyễn Kỵ người Nông Cống tự xưng là Lỗ vương Điền Kỵ cũng tụ họp binh lính đi cướp bóc nhiều nơi. Quan quân nhà Trần phải luôn đánh dẹp rất vất vả.
Nhận được tin này, Chế Bồng Nga liền cử đại binh chia làm hai cánh thủy, bộ tiến ra Thanh Hóa. Đầu tháng mười, cánh quân bộ của Chiêm Thành chiếm lấy làng Cổ Vô làm nơi đóng đại bản doanh. Cánh quân thủy cũng cho thuyền chiến đậu một dãy dọc trên sông Lương gần đại bản doanh để phòng hờ cứu ứng nhau.
Về phía Đại Việt, được tin quân Chiêm sang, Thái sư Lê Quí Ly nhận lệnh Thượng hoàng, cũng chia đại quân làm hai cánh thủy, bộ cùng tiến vào Thanh Hóa để chống cự. Về mặt bộ, dưới quyền Quí Ly có hơn 70 vị tướng sĩ lớn nhỏ đã lập phòng tuyến đối đầu với đại bản doanh của quân Chiêm. Cánh quân thủy thì Quí Ly giao cho tướng Nguyễn Đa Phương chiếm phía hạ lưu sông Lương làm căn cứ. Nguyễn Đa Phương cho quân đóng cọc dày đặc giữa lòng sông để ngăn giặc. Ông có nhiệm vụ vừa đối đầu với cánh quân thủy của Chiêm Thành vừa chận đường tiếp tế lương thực của quân Chiêm từ đường biển lọt vào. Nguyễn Đa Phương từng đánh thắng quân Chiêm mấy trận lớn nên quan quân nước Chiêm đều cảnh giác cánh quân này.
Quân hai bên tuy có tấn công lẫn nhau nhưng những cuộc tấn công này đều chỉ có tính cách lẻ tẻ, thăm dò. Trải hơn nửa tháng vẫn chưa có một trận đụng độ nào đáng kể. Nhìn chung tình hình, Lê Quí Ly đã tỏ ra rất lạc quan, ông nói với các tướng:
-Lần này chắc chắn quân Chiêm sẽ thất bại nặng!
Các tướng hỏi:
-Dựa vào đâu mà Thái sư tin chắc như vậy?
Lê Quí Ly khinh khỉnh đáp:
-Người Chiêm vốn ở phương Nam đâu có quen chịu rét mướt như quân ta? Thế mà Chế Bồng Nga lại xuất quân vào mùa này, đó là điều bất lợi thứ nhất! Quân Chiêm ở xa đến, chủ yếu là phải đánh nhanh, nay Chế Bồng Nga lại lừng khừng không dám đánh! Ở lâu tất phải gặp khó khăn về lương thực, nếu ta chận mất đường tiếp viện lương thực, quân giặc làm sao khỏi sinh loạn? Đó là điều bất lợi thứ hai! Còn ta ở đất nhà, việc chuyển lương không khó mấy. Nay cứ việc thủ cho kỹ để câu thời gian. Khi cạn lương quân Chiêm sẽ phải rút về thôi! Lúc ấy ta cho quân truy kích lẽ nào không thắng?
Các tướng nghe Thái sư luận đều có vẻ tin tưởng.
Trong khi đó về phía Chiêm Thành, Chế Bồng Nga cũng triệu tập các tướng để bàn kế hoạch tấn công Đại Việt. Mở đầu, Chế Bồng Nga hỏi:
-Quân ta ra đây đã gần cả tháng rồi mà vẫn chưa có một cuộc hành quân lớn nào, các khanh nóng ruột không?
Tướng Bố Đông nói:
-Quả tình thần thấy nóng ruột lắm. Quân ta ở xa đến lợi ở chỗ đánh gấp. Trước đây mỗi lần sang Đại Việt là ta tìm mục tiêu tấn công ngay. Nay quân hai bên đã đối mặt nhau hơn nửa tháng mà chỉ có những trận đánh cầm chừng, thần chưa hiểu được chủ định của bệ hạ!
Chế Bồng Nga gật đầu cười:
-Các khanh nóng ruột là phải. Ta ở xa đến, vấn đề chuyển vận lương thực bao giờ cũng khó khăn. Chỉ có dùng đường thủy mới tiện, nhưng nay quân Trần lại cho Nguyễn Đa Phương án ngữ đường thủy mất rồi! Y lại là một tướng giỏi! Nếu cứ đánh cầm chân nhau ở đây thế này trước sau quân ta cũng sẽ cạn lương mà rút. Khi ấy giặc sẽ thừa cơ truy kích, ta làm sao được vẹn toàn? Nhưng các khanh chớ lo. Ta đã có sẵn một kỳ mưu sẽ làm cho quân Đại Việt tan tác hết trong vài ngày tới!
Thế rồi Chế Bồng Nga gọi Ma Đà Nô, viên phó tướng chỉ huy cánh quân thủy đến dặn:
-Ta biết tướng giặc Nguyễn Đa Phương là một tay kiệt hiệt, nếu khanh trực diện đánh nhau với y chưa biết ai ăn ai. Nhưng khỏi cần đánh nhau! Ta giao cho khanh nhiệm vụ vô hiệu hóa cánh quân của Đa Phương thôi! Chỉ cần thi hành đúng mệnh lệnh của ta thế nào cũng thắng!
Ma Đà Nô thưa:
-Làm thế nào xin bệ hạ chỉ dạy!
-Khanh hãy lặng lẽ cho người lên phía thượng nguồn, chọn nơi nào thuận tiện nhất cho đốn gỗ làm một con đập ngăn nước càng cao càng tốt. Sau đó chia lập mấy trạm canh chừng từ đập ngăn nước tới trạm gần nhất có thể thấy được động thái của đội chiến thuyền Đại Việt.

Các trạm phải liên tục liên lạc nhau bằng cờ hiệu. Bình thường cứ mỗi đầu giờ đồng hồ, trạm gần đội chiến thuyền Đại Việt nhất lại phất cờ trắng lên rồi các trạm kế tiếp sẽ lần lượt phất theo. Khi nào thấy chiến thuyền Đại Việt ồ ạt tiến lên hãy phất cờ đỏ để báo hiệu. Cứ thấy hiệu báo cờ đỏ này, khanh lập tức hạ lệnh phá đập cho nước chảy mạnh để ngăn chận thuyền chúng tiến lên! Đắp đập xong hãy báo cho ta biết để thực hiện mưu kế!
Tướng Ma Đà Nô vâng lệnh, bí mật cho quân đi đắp đập. Thực hiện xong công tác, Ma Đà Nô liền thân hành về báo cáo cho Chế Bồng Nga biết. Chế Bồng Nga vui mừng gọi tướng Bố Đông đến dặn:
-Sau khi ta đã bí mật đưa quân ra rừng phục kích quân Việt, khanh hãy đem quân bản bộ chạy vòng tới vòng lui giả vờ như rút quân khỏi doanh trại, mục đích để quân do thám Đại Việt lầm tưởng quân ta rút đi thật. Như vậy nhất định chúng sẽ cho tinh binh đuổi theo. Khi đó khanh cứ cho quân chạy thẳng vào rừng để dụ chúng theo càng xa càng tốt. Trong lúc giặc tưởng ta đã rút chạy và tinh binh của giặc đã xa rời trại chính, quân phục kích của ta sẽ bất ngờ nổi dậy đánh úp doanh trại của chúng. Nếu cánh quân Việt đuổi theo khanh phát giác được ta dùng kế điệu hổ ly sơn mà quay lui thì khanh cũng phải quay trở lại cố đánh để giữ chân không cho chúng rút lui ứng cứu nhau.
Truyền lệnh cho Bố Đông xong, Chế Bồng Nga lại sai tướng La Ngai bí mật chuyển quân và voi ra rừng phục kích sẵn đợi lệnh.
Thái sư Lê Quí Ly vẫn cho người theo dõi tình hình địch hằng ngày, thấy được dấu hiệu quân Chiêm sắp rút ông rất mừng. Ông nói với các tướng:
-Ta đã đoán biết mà! Từ đất Chiêm sang ta rừng núi chập chùng, việc vận chuyển lương thực không dùng đường thủy là gặp rắc rối ngay! Nay cửa sông Lương đã bị quân ta chặn mất, làm sao quân Chiêm không nguy khốn được! Các ông hãy chuẩn bị sẵn sàng, hễ thấy chúng rút là ta tung quân truy kích ngay!
Quí Ly lại dặn tướng Phạm Khả Vĩnh:
-Đây là cơ hội để cho ông lập công lớn! Ông hãy tuyển lựa sẵn một đội quân tinh nhuệ, dũng cảm làm mũi nhọn! Hễ thấy quân Chiêm rút lui ông khỏi cần đợi lệnh ta, cứ việc tùy tiện xuất quân truy kích không cho chúng kịp trở tay! Ta và các tướng khác sẽ điều động số quân còn lại tiếp ứng sau!
Phạm Khả Vĩnh vâng lệnh, tuyển hầu hết những lính trẻ thiện chiến vào đội quân của mình đồng thời cho người liên tục theo dõi sự động tĩnh ở đại bản doanh quân Chiêm.
Ngày kia, lúc vừa tờ mờ sáng, Phạm Khả Vĩnh nhận được báo cáo thấy nhiều toán quân Chiêm từ đại bản doanh Cổ Vô đang rút chạy. Sau khi kiểm chứng cẩn thận, thấy doanh trại quân Chiêm gần như bỏ trống, Khả Vĩnh lập tức nổi hiệu báo động rồi kéo hết đội quân tinh nhuệ của mình đuổi theo.
Lê Quí Ly nghe hiệu báo động liền hỏa tốc hạ lệnh cho toàn quân gắng sức đuổi diệt quân Chiêm Thành. Nhưng quân của Quí Ly tiến ra chưa được bao xa thì bất ngờ bị phục binh Chiêm nổi dậy vây đánh dữ dội. Đội quân tinh nhuệ của Phạm Khả Vĩnh đã đi quá xa không sao quay trở lại giải cứu quân nhà kịp. Tiếng quân reo, tiếng voi gầm khủng khiếp đã làm quân Việt mất hết tinh thần, không chống cự nổi, tan rã hết. Quân Việt bị giết vô số. Hơn 70 tướng lãnh Đại Việt bị tử trận, tướng Nguyễn Chí chỉ huy đội quân Hữu Thánh Dực bị quân Chiêm bắt sống. Lê Quí Ly nhờ một toán thuộc hạ trung thành liều chết cứu thoát được, ông liền bỏ quân mà trốn về Thăng Long…
Tướng Nguyễn Đa Phương chỉ huy cánh quân thủy Đại Việt đang đóng ở hạ lưu sông Lương khi nghe lệnh đuổi đánh quân Chiêm cũng lập tức thúc toàn bộ chiến thuyền của mình tiến lên. Nhưng đoàn chiến thuyền này chỉ mới tiến được một đoạn sông liền bị một dòng nước rất mạnh cùng với những cây gỗ trôi hỗn loạn đẩy ngược lui làm cho quân sĩ chới với không tiến được nữa. Có mấy chiếc đã bị gỗ đụng phải vỡ lật trôi luôn. Một số quân sĩ đã phải chết đuối. Khi dòng cuồng lưu đã giảm sức mạnh, Nguyễn Đa Phương mới chỉnh đốn lại được hàng ngũ. Lúc ấy đại quân của Lê Quí Ly đã tan rã hoàn toàn.
Tướng Phạm Khả Vĩnh đang chỉ huy đội quân tinh nhuệ đuổi theo đội quân Chiêm bỗng nghe voi rống quân reo ở phía sau biết ngay mình đã mắc kế “điệu hổ ly sơn”, ông vội ra lệnh ngừng đuổi để trở lại cứu trại nhà. Nhưng đội quân Chiêm vừa bị truy đuổi liền quay ngược trở lại đánh liều để cầm chân Phạm Khả Vĩnh. Hai bên còn đang dùng dằng thì cánh phục binh của Chế Bồng Nga đã loại trừ xong cánh quân của Lê Quí Ly. Quân Chiêm chia làm đôi, một phần tiếp tục truy đuổi tàn quân Đại Việt, phần còn lại tập trung tiếp tay tướng Bố Đông vây đánh Phạm Khả Vĩnh. Đội quân của Khả Vĩnh dần lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”. Tuy thiện chiến nhưng đội quân này quân số kém hẳn quân Chiêm, lại đã quá mệt mỏi nên càng lúc càng bị dồn đến đường cùng. Giữa lúc mười phần nguy khốn ấy bất ngờ có một đội quân Việt khác từ phía sông Lương đánh vào vòng vây khiến quân Chiêm đâm ra rối loạn. Quân của Phạm Khả Vĩnh cũng thừa cơ hội phản công dữ dội phá trùng vây. Không mấy chốc hai đội quân Việt đã bắt tay được với nhau. Khi ấy Phạm Khả Vĩnh mới biết được đội quân cứu nguy mình chính là đội quân của tướng Nguyễn Đa Phương!
Vua Chế Bồng Nga thấy quân Chiêm cũng đã mệt mỏi nên ra lệnh rút về đại bản doanh để tạm nghỉ.
Nguyễn Đa Phương cùng Phạm Khả Vĩnh nhập quân làm một rồi rút về nơi đóng binh thuyền cố thủ. Khi ấy Phạm Khả Vĩnh mới hỏi Nguyễn Đa Phương:
-Tại sao hồi sáng ông không tiếp cứu Lê Thái sư để đến nỗi quân ta thua tan tác như vậy? Bây giờ Lê Thái sư ra sao ông có biết không?
Nguyễn Đa Phương nói:
-Tôi cũng chưa biết tin tức gì về Lê Thái sư cả. Chỉ nghe là các tướng lãnh của ta bị phục binh Chiêm giết gần hết. Khi ông đã xuất quân đuổi quân Chiêm, tôi vâng lệnh Thái sư mở hàng cọc cho các chiến thuyền tiến lên để tiếp sức cho ông và Thái sư. Nhưng không ngờ quân Chiêm đã ngầm đắp đập trên thượng nguồn ngăn nước lại, chờ lúc ấy chúng phá đập ra khiến nước chảy mạnh quá tạo một dòng cuồng lưu với những thớt gỗ trôi hỗn loạn, đẩy những chiến thuyền của tôi bị dội ngược hết, dồn cục xuống hạ lưu. Có mấy chiến thuyền bị gỗ đánh vỡ chìm trôi luôn! Quân sĩ cũng chết mất một số! Tới khi dòng cuồng lưu đã yếu, thuyền có thể tiến lên được thì cánh quân của Lê Thái sư đã tan rã rồi. Tôi chỉ còn biết chỉnh đốn lại hàng ngũ, phòng thủ ở đây để theo dõi tình hình diễn biến ra sao. May cũng cứu được một số tàn quân của ta chạy lạc. Vừa rồi đám quân do thám của tôi lại thấy được ông đang lâm nguy nên tôi kíp đến hỗ trợ cho ông đấy!
-Thật cũng may cho tôi. Nếu ông rút chạy rồi thì tôi cũng khó sống!
-Rút chạy làm sao được? Giặc sẽ đuổi theo ngay! Và như thế thì cánh quân thủy của tôi cũng tan rã mất!
Phạm Khả Vĩnh lo lắng hỏi:
-Thế bây giờ ông tính sao? Liệu chúng ta có cầm cự được với giặc để đợi viện binh của triều đình không?
Nguyễn Đa Phương tỏ vẻ chán nản:
-Lê Thái sư cầm quân dở quá nên đánh đâu bại đó! Giặc vừa đại thắng xong, thế quân quá mạnh, quân ta ít oi thế này làm sao cầm cự lâu dài được! Nhưng nếu quân ta rút giặc lại thừa cơ đuổi đánh càng thêm khốn! Tôi nghĩ bây giờ chỉ còn cách hư trương thanh thế, phóng cờ quạt ra thật nhiều, buộc các thuyền lớn vào cọc gỗ ở sông, canh phòng thật nghiêm mật, rồi nửa đêm dùng thuyền nhỏ lẻn trốn về là bảo toàn được lực lượng.
Phạm Khả Vĩnh khen:
-Ông tính kế ấy hay lắm! Cứ thế mà làm thôi!
Thế là trong đêm đó Nguyễn Đa Phương và Phạm Khả Vĩnh đã rút quân về không hao một người. Hai tướng cùng vào bái yết Thượng hoàng để xin chịu tội. Thượng hoàng an ủi:
-Hai khanh đem quân cô để chống với đại địch mà rút về được an toàn như vậy là giỏi lắm! Các tướng giỏi ngày xưa cũng không hơn được đâu! Ta lẽ nào lại bắt tội hai khanh!
Thấy vua khen hai tướng, các vị quan vốn ghét Lê Quí Ly cũng khen dồi thêm với mục đích làm cho Lê Quí Ly nhột nhạt. Lê Quí Ly xấu hổ bèn xin thôi nắm giữ binh quyền.
Nguyễn Đa Phương được nhiều người ca tụng quá đâm ra kiêu căng. Trước kia Đa Phương từng ủng hộ Quí Ly, từng bày mưu lập kế cho Quí Ly, nay thấy Quí Ly tỏ ra quá bất tài về mặt quân sự thì đâm ra khinh lờn. Nhân một lần say rượu Phương nói:
-Thái sư xin thôi nắm giữ binh quyền là phải. Ông ấy còn cầm quân ngày nào thì quân ta còn khó chống Chiêm Thành ngày ấy!
Quí Ly nghe được lời Nguyễn Đa Phương nói giận lắm. Dù sao thì Đa Phương cũng nhờ ông ta cất nhắc mà nên. Đối với Quí Ly, đây là một hành vi trở mặt cần phải trừng trị để răn kẻ khác. Một lần nhân bàn việc nước với Thượng hoàng, Quí Ly nói:
-Nguyễn Đa Phương giỏi thì thiệt giỏi, chỉ tiếc là hắn kiêu căng, cẩu thả quá nên dễ làm hư việc. Trong trận sông Lương vừa rồi hắn báo với thần là hắn dò biết quân Chiêm đã bỏ trại chạy trốn hết, thần tin lời hắn nên sai Phạm Khả Vĩnh đem hết quân tinh nhuệ đuổi theo. Không ngờ lại mắc mưu giặc nên quân ta mới đến nỗi thảm bại như thế!
Thượng hoàng nghe Quí Ly nói thì nổi giận:
-Thế mà ta lại tưởng nó có công khen nó chứ!
Quí Ly trình với Thượng hoàng nên tạm cắt quyền chỉ huy của Nguyễn Đa Phương một thời gian để răn đe. Thượng hoàng nghe theo. Mấy ngày sau Quí Ly lại tâu:
-Theo thần dò biết, sau khi bị cắt quyền chỉ huy, Đa Phương tỏ vẻ bất mãn oán hận lắm! Thần ngại hắn có thể làm phản!
Thượng hoàng lo lắng hỏi:
-Theo khanh nghĩ bây giờ ta nên làm sao?
Quí Ly tâu:
-Đa Phương rất gan góc, tráng kiện. Thần sợ hắn sẽ trốn sang nước Minh phương Bắc hay Chiêm Thành phương Nam, thả cọp để lại mối họa về sau, chi bằng giết đi là hơn!
Thượng hoàng lại nghe theo. Lê Quí Ly liền bắt ép Nguyễn Đa Phương phải tự tử. Nguyễn Đa Phương than:
-Ta vì có tài mà được giàu sang, rồi cũng vì tài mà đến nỗi chết! Chỉ hận là không được chết ở chiến trường!

Quân Chiêm đã toàn thắng trong trận đánh ở sông Lương đầu mùa đông năm Kỷ Tị*. Hơn một nửa cánh quân bộ, cánh quân chủ lực của Trần triều do Lê Quí Ly chỉ huy tham chiến đã bị tiêu diệt. Tất cả những thuyền chiến cỡ lớn do tướng Nguyễn Đa Phương chỉ huy đã phải bỏ lại cho quân Chiêm sử dụng. Thiệt hại phía quân Chiêm không có gì đáng kể. Chiến thắng này đã làm khí thế quân Chiêm lên cao chưa từng thấy. Chiêm vương muốn nhân cơ hội này kéo đại quân tiến đánh Thăng Long.
Khi Chế Bồng Nga đang hội với các tướng để bàn kế hoạch tiến quân bỗng quân hầu vào dâng một bức thư của một người lạ vừa mang tới. Người lạ vẫn còn ở lại để chờ thư phúc đáp. Chế Bồng Nga mở thư đọc ra đọc. Đọc xong, ông vui vẻ nói với các tướng:
-Phen này thì kế hoạch lớn của ta chắc chắn sẽ thành!
Các tướng đều ngạc nhiên hướng mắt về phía Chiêm vương. Ông nói tiếp:
-Trần Nguyên Diệu đã xin về hàng ta!
Một viên tướng nêu ý kiến:
-Nguyên Diệu là con của vua Đại Việt Trần Kính trước đây đã bị quân ta giết, xin bệ hạ phải đề phòng trường hợp y trá hàng để tìm cách trả thù!
Chiêm vuơng khẳng định:
-Không có chuyện đó đâu! Nguyên Diệu là em ruột của Trần Hiện, y rất căm thù Lê Quí Ly vì chính Quí Ly đã xúi giục Trần Phủ giết hại Trần Hiện. Khi Trần Hiện bị giết, Nguyên Diệu đã từ bỏ quan chức để về ở ẩn. Nay Lê Quí Ly càng chuyên quyền quá, thấy nhà Trần sắp mất về tay Quí Ly nên Nguyên Diệu mới đầu hàng để mượn tay ta diệt trừ Quí Ly! Vụ bàn kế hoạch tiến quân của ta hãy tạm hoãn. Ta cần bàn bạc với Nguyên Diệu để vạch một kế hoạch thích hợp hơn! Ai có thể thay mặt ta đi theo người nhà của Nguyên Diệu mời ông ta đến đây được?
Tướng Bố Đông thưa:
-Thần tình nguyện đi mời Nguyên Diệu!
Chế Bồng Nga vui vẻ nói:
-Tốt lắm! Khanh hãy gắng đi sớm về sớm!
Khi Bố Đông đi rồi, tướng La Ngai nói với Chế Bồng Nga:
-Chuyến này quân ta tuy có nhiều yếu tố tất thắng nhưng vấn đề lương thực cho quân sĩ vẫn chưa hoàn hảo. Thần ngại mùa đông rét mướt, quân ta lại không quen chịu lạnh, dễ sinh ốm đau. Xin bệ hạ phải lo tính kỹ vấn đề ấy!
Chế Bồng Nga cười:
-Khanh nói đúng lắm! Thật tình ta đã lo việc ấy rồi! Ta đã cho người mang lệnh hỏa tốc về đòi cung cấp áo chống lạnh và lương thực. Tể tướng Nhã Đam hứa sẽ cho Ba Lậu Kê tải đến chậm nhất là nửa tháng nữa. Bây giờ cho phép chư khanh ai về trại nấy nghỉ ngơi và đợi lệnh mới.
Hôm sau thì tướng Bố Đông dẫn Trần Nguyên Diệu về ra mắt. Chế Bồng Nga đón tiếp Nguyên Diệu rất nồng hậu. Ông hớn hở nói:
-Ông đã chịu về hợp tác với ta ư? Phải chăng đây là ý trời? Hi vọng việc lớn của ta sẽ sớm thành. Nếu gian đảng của Lê Quí Ly bị tiêu diệt ông sẽ chính thức trở thành vua Đại Việt. Nhà Trần sẽ vững như bàn thạch. Hai nước Chiêm Việt sẽ mãi mãi sống hòa bình bên nhau! Ông nghĩ thế nào về cái tương lai ấy?
Trần Nguyên Diệu lộ vẻ mừng thưa:
-Nếu Đại vương đã dự tính như vậy tôi chẳng còn mong gì hơn!
Chế Bồng Nga khẳng định:
-Nói thật với ông, ta chẳng có tham vọng chiếm đoạt đất đai của Đại Việt đâu! Ta chỉ muốn bảo toàn lãnh thổ Chiêm quốc. Đánh Đại Việt xong, ta chỉ thu hồi những phần đất vốn là của Chiêm Thành đã bị Đại Việt chiếm đoạt trước đây thôi! Những phần đất còn lại ta sẽ giao hoàn hết cho ông. Nhưng muốn được như vậy, trước hết ông phải giúp ta! Ta biết gian đảng của Quí Ly bây giờ đã được bố trí đầy dẫy trong triều đình Đại Việt. Ông phải tìm cách để lũng đoạn nội bộ của chúng, làm cho chúng chia rẽ, nghi kỵ lẫn nhau. Ông phải lôi kéo những viên quan trong triều còn trung thành với nhà Trần đứng về phía ta. Được như vậy thì việc lớn mới dễ thành. Ông thấy thế nào?
-Thưa Đại vương, trong những tên phe cánh của Quí Ly đáng sợ nhất là Phạm Cự Luận và Nguyễn Đa Phương. Cự Luận là người nhiều mưu trí, rất giỏi về việc vạch ra những kế hoạch hành động. Đa Phương là một tướng lãnh rất dũng cảm, có tài đánh trận. Đại vương nên quan tâm đến hai tên đó. Về phần tôi, tôi biết rõ trong triều còn có Thái úy Trần Ngạc, Tư đồ Trần Nguyên Đĩnh, Thiếu bảo Trần Tôn đều là những người có ít nhiều thế lực và cũng rất thù ghét Quí Ly, tôi sẽ viết thư riêng cho họ kêu gọi họ làm nội ứng khi quân ta đến…
-Ông nói đúng lắm! Tên Nguyễn Đa Phương quả là một tướng có tài. Nếu sau này hắn đắc chí thì nước Chiêm ta sẽ gặp rắc rối không ít đâu! Phải có cách nào nhổ cái gai đó đi mới được! Nay ta sắp tiến quân, ông cứ viết thư kêu gọi các quan trong triều làm nội ứng đi! Sớm được chừng nào hay chừng ấy!
-Vâng, thưa Đại vương, tôi sẽ lo việc ấy ngay!
Giữa tháng 11 thủy quân Chiêm tiến ra châu thổ sông Hồng. Quân Chiêm đi đến đâu Nguyên Diệu lại cho người thân tín rêu rao “Diệt Quí Ly phò Trần” đến đấy! Thấy quân Trần quá yếu thế, một số quan lại Đại Việt đã tìm cách liên lạc với Trần Nguyên Diệu để mưu tính chuyện an toàn cho bản thân và gia đình. Tiếp đó Trần Nguyên Diệu cũng báo cho Chế Bồng Nga được một số tin vui. Trong đó có một tin làm Chế Bồng Nga hài lòng nhất là vụ tướng Nguyễn Đa Phương vì quá ngạo mạn nên đã bị Lê Quí Ly khử mất! Chế Bồng Nga vui vẻ nói:
-Có thế chứ! Lê Quí Ly đã giúp ta được một việc đáng kể! Chuyến này ta ra Đại Việt như đi vào chốn không người rồi!
Thượng hoàng Đại Việt nghe quân Chiêm đã ra đến sông Hồng, lúng túng không biết cử tướng nào đi ngăn chống. Trong triều lúc bấy giờ không còn tướng nào đủ khả năng đối địch với Chế Bồng Nga nữa. Lê Quí Ly bất đắc dĩ phải tiến cử Đô tướng Trần Khát Chân, hâu duệ của Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng là một viên tướng trẻ chưa nổi danh làm chủ soái. Đây là việc bất đắc dĩ, chính Thượng hoàng cũng chưa tin tưởng gì viên tướng trẻ này. Khi trao gươm lệnh cho Trần Khát Chân, Thượng hoàng vừa dặn dò vừa khóc. Trần Khát Chân cũng xúc động rơi nước mắt theo.
Trần Khát Chân đem quân đến Hoàng Giang thì đã gặp giặc. Khi quan sát quan sát địa điểm thấy không thể bày trận được ở đây, Khát Chân mới lui bày trận ở sông Hải Triều.
Trong lúc quân Trần đang phải đối phó với đại quân của Chế Bồng Nga thì ở lộ Quốc Oai Thượng, nhà sư Phạm Sư Ôn cũng hô hào dân chúng nổi loạn. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, Phạm Sư Ôn đã qui tụ được trên ba vạn người. Phạm Sư Ôn lấy Nguyễn Tông Mại người Cổ Sở, Nguyễn Khả Hành người La Xã làm hành khiển, chiêu tập những bọn không quê quán, lập các quân hiệu Thần Kỳ, Dũng Đấu, Vô Hạn, chuẩn bị đánh kinh sư. Giữa tháng chạp, Phạm Sư Ôn cho quân rầm rộ tiến vào Thăng Long. Thượng hoàng cùng vua Thuận Tôn phải bỏ thành chạy sang Bắc Giang lánh nạn.
Nhưng Phạm Sư Ôn ở Thăng Long không lâu. Ba ngày sau ông kéo quân về đóng ở Nộn Châu. Thượng hoàng bèn sai tướng Hoàng Phụng Thế đem quân đánh dẹp. Phụng Thế lúc đó đang cầm cự với tướng La Ngai của Chiêm Thành ở Hoàng Giang. Ông lấy làm khó xử, bàn với tướng Phạm Nhữ Lặc:
-Nay Thượng hoàng sai chúng ta đi đánh Phạm Sư Ôn ở Nộn Châu, thật khó nghĩ hết sức. Nếu chúng ta đi tất quân Chiêm sẽ thừa cơ đuổi đánh tập hậu. Rút quân trong trường hợp này là điều tối kỵ trong phép dụng binh. Vậy, chúng ta phải rút bí mật mới được. Tôi sẽ chọn một nửa quân tinh nhuệ đêm nay lén đi đánh Phạm Sư Ôn, ông chỉ huy số quân còn lại gắng giữ nhà. Ban ngày ông phải cố hư trương thanh thế làm ra vẻ ta đang sửa soạn ra quân, như vậy quân Chiêm sẽ không dám tấn công ta trước. Tôi đi trong ba ngày sẽ trở về.
Phạm Nhữ Lặc lo lắng hỏi:
-Phạm Sư Ôn có cả ba vạn quân trong tay, tướng quân ít quân hơn y nhiều, đánh cách sao mà hẹn nội trong ba ngày trở về được?
Hoàng Phụng Thế cười:
-Ông cứ yên chí! Cái anh chàng “nhà sư” ấy đâu có biết gì phép dụng binh! Lão thấy quân ta hiện đang đổ hết ra chống giữ quân Chiêm nên đâu có cần đề phòng! Có lẽ bây giờ chúng đang nằm chỏng cẳng mà ngủ cả đấy! Đường đi nước bước ở Nộn Châu tôi lại rất thông thạo. Chính Thượng hoàng biết điều ấy nên mới sai tôi đánh Sư Ôn đấy chứ! Chuyến này tôi sẽ lập kỳ công cho ông xem!
Phạm Nhữ Lặc nói:
-Tôi hi vọng tướng quân sẽ giữ được đúng lời!
Đêm ấy Hoàng Phụng Thế bí mật dùng một số thuyền nhỏ đi theo đường sông Miệt Giang rồi đổ bộ lên Nộn Châu. Quả thật quân của Phạm Sư Ôn vì quá chủ quan, không đề phòng gì cả. Hoàng Phụng Thế dẫn quân vào tới tận bộ chỉ huy mà chúng vẫn không hay biết. Ông đã đánh một trận thật ngoạn mục, nhanh chóng bắt gọn bọn Phạm Sư Ôn, Nguyễn Tông Mại, Nguyễn Khả Hành và nhiều thuộc hạ thân tín. Loạn quân như rắn mất đầu, tan rã bỏ chạy. Hôm sau Phạm Sư Ôn cùng đồng bọn bị dẫn giải về Thăng Long xử trảm hết.
Chiến thắng này xảy ra quá nhanh quá bất ngờ đối với cả triều đình lẫn dân chúng Đại Việt. Chính tướng La Ngai cũng không hay biết khi đang bận cầm cự với mình mà Hoàng Phụng Thế lại có thể đột xuất rút quân lui để lập một chiến công vẻ vang với một đối thủ khác như thế.
Nhận được tin này, La Ngai chưng hửng thốt lên:
-Tức thật! Ta vẫn hi vọng Phạm Sư Ôn sẽ chạm trán với quân Trần ít nhất là vài trận nẩy lửa trước khi quân Chiêm ta ra tay! Ai ngờ quân Việt lại triệt hạ Phạm Sư Ôn dễ dàng đến thế! Bây giờ quân Việt đã tỉnh hồn, chắc ta khó đè bẹp chúng như trước!
Chế Bồng Nga chậm rãi trấn an:
-Chư khanh chớ ngại! Từ trước tới nay chưa lần nào nội bộ nhà Trần bị chia rẽ trầm trọng như lần này đâu! Lê Quí Ly càng lộng quyền các đại thần càng hướng ngoại, càng chống lại hắn! Bên ta lại còn có Trần Nguyên Diệu em Trần Hiện rất có uy tín đối với dân Đại Việt! Lần này ta phải bắt Trần Phủ quì gối xin hàng mới nghe!
La Ngai nói:
-Đành rằng nội bộ nhà Trần đang bị chia rẽ trầm trọng nhưng xin bệ hạ chớ chủ quan! Có nhiều chuyện xảy ra không ngờ được đâu! Như kết quả trận đánh diệt đám giặc Phạm Sư Ôn của Hoàng Phụng Thế thì đủ biết! Theo thư ước hẹn của Tể tướng thì đội thuyền lương do Ba Lậu Kê chỉ huy đã gần đến. Sao bệ hạ không cho một đội thuyền chiến ra đón và bảo vệ chúng về đây cho chắc? Biết đâu bọn Đại Việt chẳng dò biết và lại thực hiện một vụ tập kích bất ngờ!
Chế Bồng Nga như sực nhớ ra:
-Khanh nói phải lắm. Theo ước hẹn thì ngày mai đội thuyền lương có thể đến rồi! Hãy truyền cho tướng Lợi Châu dẫn một đội binh thuyền ra biển ngay. Cứ canh chừng thấy đội thuyền lương đến lập tức bảo vệ hướng dẫn chúng về đây cho an toàn!
Tướng Lợi Châu đã đi ba ngày nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng đội thuyền lương của Ba Lậu Kê đâu cả. Ông bèn sai người về báo cho Chế Bồng Nga biết. Chế Bồng Nga nghe báo không sao khỏi nóng ruột. Mới mấy ngày trước ông đã nhận được sớ báo cáo công việc trong triều của Tể tướng Nhã Đam, trong đó cũng có lời xác nhận đội thuyền lương của Ba Lậu Kê đã lên đường từ lâu và sẽ đến nơi đúng hẹn. Lý do nào khiến đội thuyền lương phải đến trễ? Có chuyện gì xảy ra không? Tướng Lợi Châu phải cho thuyền chiến men theo bờ biển chờ tin!
Chế Bồng Nga nóng ruột hỏi quan giữ kho thì y cho biết lương thực chỉ còn dùng đủ khoảng mười ngày. Ông lập tức triệu các tướng lại để bàn cách đối phó nếu gặp tình trạng không ổn. Qua ý kiến của các tướng, Chế Bồng Nga dự định trong trường hợp thuyền lương đến trễ, nếu chưa tìm được kế hoạch cướp lương của Đại Việt thì phải tìm cách rút quân lui an toàn.
Mãi ba hôm sau tướng Lợi Châu mới hộ tống đội thuyền lương của Ba Lậu Kê đến đại bản doanh. Tính ra đã trễ hẹn mất đến mười ngày. Chế Bồng Nga nổi giận đòi Ba Lậu Kê hỏi:
-Chuyện lương thực là huyết mạch của toàn quân! Quân thiếu lương ăn rất dễ sinh loạn, điều đó chắc ngươi biết! Tại sao ngươi làm nhiệm vụ tải lương lại để trễ nãi lâu đến thế?
Ba Lậu Kê thưa:
-Bẩm, vì thuyền chở lương quá nặng, lại gặp mùa gió ngược nên phải đến chậm!
Chế Bồng Nga quát:
-Ngươi chớ lấy miệng lưỡi mà biện bác! Theo quân luật nước Chiêm, người trách nhiệm việc tải lương chỉ cần trễ hạn ba ngày đủ chém đầu rồi! Huống chi ngươi lại trễ đến mười ngày! Nếu trước đây không chiếm được một số lương thực của Đại Việt thì quân ta đã lâm khốn rồi!
Thế rồi ông thét bảo quân đao phủ kéo Ba Lậu Kê ra chém. Các tướng thấy vậy đều can:
-Đây y lại mới vi phạm lần đầu, xin bệ hạ giảm bớt hình phạt cho y!
Chế Bồng Nga giận dữ nói:
-Tha cho y vì y mới vi phạm lần đầu ư? Nếu để y vi phạm đến lần thứ hai chắc cái đầu ta không còn! Không thể tha được! Cứ kéo ra chém!
Các tướng lại năn nỉ:
-Trước khi ra quân mà chém người nhà là điềm bất lợi! Xin bệ hạ nghĩ lại!
Chế Bồng Nga chỉ mặt Ba Lậu Kê mà nói:
-Nể tình các tướng, ta tạm tha tội chết cho ngươi! Nhưng phải đánh 100 roi để ngươi nhớ mãi cái lỗi lầm đáng chết này! Nếu tái phạm, ta nhất quyết không bỏ qua!
Thế là Ba Lậu Kê bị lôi ra đánh 100 roi. Trận đòn đau này đã khiến Ba Lậu Kê căm giận Chế Bồng Nga lắm. Y quyết tìm cách để rửa thù. Lợi dụng một đêm trời tối, Ba Lậu Kê đã lẻn lấy một chiếc thuyền con trốn sang đầu hàng quân Đại Việt.
Lúc bấy giờ đội thuyền chiến của tướng Trần Khát Chân bố trí dọc một dãy trên sông Hải Triều liên lạc hỗ trợ nhau với cánh quân bộ đóng dựa bờ sông. Trần Khát Chân chủ trương trước hết phải gắng giữ thế thủ để bảo toàn chủ lực, đợi khi quân Chiêm mệt mỏi, biếng trễ mới phát động phản công. Ông cho quân sĩ đóng nhiều hàng cọc trên sông quanh đội chiến thuyền của mình để làm hàng rào cản giặc. Ông cũng hạ lệnh sẽ nghiêm trị bất cứ ai tự động gây chiến với giặc. Phải tuyệt đối nhẫn nhịn, né tránh mọi sự khiêu khích của quân Chiêm.
Sự nhẫn nhịn tối đa này đã làm quân Chiêm ngày càng khinh thị quân Việt. Chúng vẫn hay gọi quân Việt là bọn “rùa rụt cổ”. Nhiều toán lính Chiêm đi tuần thám đã ngang nhiên cho thuyền lướt qua lướt lại nhiều lần sát hàng cọc phòng thủ của quân Việt, bất chấp nó nằm trong tầm tên bắn của địch. Quân Việt giận sôi gan mà vẫn phải cố nhịn. Có vài tướng đem việc ấy trình lại với Trần Khát Chân, Khát Chân giải thích:
-Phải cố gắng nhẫn nhịn! Nếu ta bắn chúng, bất quá giết được vài tên thôi nhưng chắc chắn chúng sẽ trả đũa, lại sinh lôi thôi! Chúng cố tình khiêu khích để cho ta nổi giận mà xua quân truy đuổi chúng đấy! Ta nổi giận là mắc mưu chúng, là tự làm hỏng kế hoạch ta đã vạch ra! Quân Chiêm vốn không quen chịu lạnh, bây giờ đã sang mùa đông, ở đây lâu ngày chúng làm sao chịu nổi? Hơn nữa, vấn đề tiếp tế lương thực của chúng cũng rất khó khăn! Nay ta chỉ cần thủ cho kỹ, tự nhiên quân Chiêm sẽ phải mệt mỏi, chán nản mà rút lui thôi. Khi ấy các ông sẽ tha hồ đánh! Nhưng bây giờ thì chưa phải lúc! Chỉ khi nào quân Chiêm thật sự xâm phạm vào hàng cọc phòng thủ mới được phản ứng! Ai vi phạm lệnh ta nhất quyết không tha! Các ông có trách nhiệm phải nhắc lại lệnh này cho toàn quân biết!
Hôm Ba Lậu Kê đầu hàng quân Việt, Trần Khát Chân đã tự mình thẩm vấn y. Sau một hồi hỏi han chung chung về tình hình, Trần Khát Chân đi vào điểm chính:
-Ngươi biết tại sao Chế Bồng Nga ra đây đã lâu mà chưa chịu tấn công quân Đại Việt không?
Ba Lậu Kê thưa:
-Bẩm thượng quan, Chế Bồng Nga đã tính lầm. Lão ta nghĩ thế nào đám quân nổi loạn của Phạm Sư Ôn cũng sẽ giáng cho quân Trần một vố choáng váng! Tất nhiên quân hai bên đều sẽ bị sứt mẻ lớn! Lão ta muốn đợi tới lúc ấy sẽ thủ vai “ngư ông đắc lợi”! Chỉ cần đứng giữa dàn hòa, ép nhà Trần phải nhường ngôi cho Trần Nguyên Diệu là xong! Nhưng không ngờ đội quân của Phạm Sư Ôn tan rã quá sớm! Sự việc ấy đã làm cho lão hụt hẫng! Bây giờ thì lão sắp tấn công Đại Việt đấy!
Trần Khát Chân hỏi:
-Sao ngươi biết ông ta sắp tấn công?
-Bẩm biết, vì mấy ngày trước đây lão đã ra lệnh cho đội quân do thám chia người đi quan sát các mục tiêu cần tấn công! Đó là dấu hiệu lão sắp ra tay! Với những mục tiêu quan trọng, thế nào lão cũng sẽ đích thân tới quan sát. Nhờ sự quan sát, nghiên cứu trận địa kỹ càng như vậy nên lão ra trận rất ít khi thất bại!
Một ý nghĩ thoáng lên trong đầu óc Khát Chân:
-Ngươi nói Chế Bồng Nga vẫn luôn đích thân đi quan sát cẩn thận những mục tiêu quan trọng trước khi tấn công phải không?
-Bẩm thượng quan, đúng như vậy! Dù những mục tiêu ấy đã được quân do thám quan sát và báo cáo, lão vẫn đi quan sát lại để kiểm chứng cho chắc ăn!
-Như vậy là chắc chắn trước sau ông ta sẽ thân hành đến quan sát nơi đây?
-Bẩm, chắc chắn như vậy!
-Ông ta sử dụng phương tiện để đi quan sát trận địa như thế nào? Chẳng lẽ dùng thuyền soái với nghi trượng hộ tống rườm rà mà đi thì phiền phức và lộ liễu quá?
-Không có đâu! Khi đi quan sát trận địa, lão cũng dùng một chiếc thuyền trông chẳng khác những chiếc thuyền bình thường.
-Như vậy nếu thuyền của Chế Bồng Nga đến đây ta chẳng thể nhận ra được sao?
-Bẩm, nhận ra được chứ! Khó là khó với người ngoài thôi. Riêng những từng người gần gũi với lão ta như tiểu nhân sẽ nhận biết dễ dàng! Thật ra mui chiếc thuyền riêng của Chế Bồng Nga có một khoảnh sơn xanh chỉ có những người chú ý nhìn mới thấy!
-Nếu thuyền Chiêm vương đi lẫn lộn trong nhiều chiếc thuyền khác ngươi vẫn nhận ra được?
-Bẩm vâng! Chắc chắn như thế!
Trần Khát Chân mừng rỡ nói:
-Vậy, ngươi ở lại đây giúp ta. Nếu trận này bắt được Chế Bồng Nga, ta sẽ tâu với thiên tử phong cho ngươi tước hầu!
Ba Lậu Kê mừng rỡ xin vâng lệnh.
Quân Chiêm và quân Trần đã án binh bất động giữ miếng với nhau trên sông Hoàng Giang và sông Hải Triều trải ngót một tháng. Quân Việt đã được lệnh của chủ soái Trần Khát Chân phải nhịn nhục cố thủ, tuyệt đối không được gây chiến.
Cuối tháng giêng năm Canh Ngọ*, Chế Bồng Nga cùng Trần Nguyên Diệu đem hơn 100 chiến thuyền đi xem xét tuyến phòng thủ của Đại Việt trên sông Hải Triều. Đó là một việc làm quen thuộc của ông. Nhờ thói quen xông xáo quan sát trận địa, với bộ óc tinh diệu phân tích được thế lợi hại của địa hình, địa vực, ông đã tạo được nhiều chiến thắng vang dội. Để đề phòng sự chú ý theo dõi của địch quân, khi ra trận địa, Chế Bồng Nga không bao giờ dùng chiếc thuyền soái chính thức của mình. Ông chỉ dùng một chiếc thuyền không khác mấy với những chiếc thuyền khác. Khác nhau chăng chỉ có những người gần gũi ông mới phân biệt được.
Qua nhiều lần theo dõi những báo cáo của đội quân tuần thám, Chế Bồng Nga biết rất nhiều lần quân Chiêm cố khiêu khích đi vào trong tầm bắn của quân Việt mà quân Việt vẫn cố nhịn. Ông rất hài lòng khi thấy quân Việt tỏ ra lép vế đến thế. Ông muốn tận dụng ưu điểm này để đạt được một trận thắng thật hoàn hảo. Ông muốn chính mắt mình quan sát trận địa một lần chót trước khi ra quân. Thế là Chế Bồng Nga cho năm chiến thuyền, trong đó có cả chiếc chở ông và Trần Nguyên Diệu, tiến lại gần hàng cọc phòng thủ của quân Việt để quan sát được kỹ hơn. Ông nào biết việc viên tướng Ba Lậu Kê đã đầu hàng Đại Việt đang có mặt trong đội quân thủy nhà Trần? Những tay bắn giỏi của quân Trần cũng đã được tập trung: một cái bẫy lớn giương sẵn đang chờ con mồi đến! Thấy Chế Bồng Nga cho thuyền đi sát hàng cọc phòng thủ của quân Việt quá, Trần Nguyên Diệu chột dạ hỏi:
-Thuyền ta đi sát thuyền giặc thế này lỡ quân giặc bắn tên ra thì sao?
Chế Bồng Nga cười:
-Ông chớ sợ! Suốt cả tháng nay quân tuần thám của ta đã bao lần đi sát thuyền giặc thế này mà bọn “rùa rụt cổ” ấy nào có dám bắn…
Nhưng Chiêm vương chưa dứt lời tiếng pháo lệnh từ phía quân Việt đã nổ vang. Những chiến thuyền của Đại Việt nhất loạt hướng vào chiếc thuyền của Chiêm vương bắn tên như châu chấu! Vị anh hùng Chiêm quốc đã ngã xuống ngay trong loạt tên bắn đầu tiên. Mấy tay chèo cũng như lính hộ giá trên thuyền đều bị giết hoặc bị thương. Người duy nhất trên thuyền thoát nạn là Trần Nguyên Diệu! Bốn chiếc thuyền cùng đi xáp lại cố cứu Chiêm vương nhưng đã muộn! Quân Đại Việt đã tháo hàng cọc reo hò chèo thuyền xông ra vây trọn chúng lại!
Trần Nguyên Diệu biết tình thế không xong liền cắt lấy đầu Chế Bồng Nga xách trên tay, hướng về phía quân Đại Việt hô lớn:
-Ta đã giết được Chế Bồng Nga rồi đây!
Hai tướng Đại Việt là Dương Ngang và Phạm Nhữ Lặc liền cho thuyền tiến sát thuyền Trần Nguyên Diệu hỏi:
-Mày là ai?
Nguyên Diệu đáp:
-Ta là Trần Nguyên Diệu, con vua Duệ Tôn!
Phạm Nhữ Lặc thét:
-Đức Duệ Tôn là vị vua anh hùng không thể có đứa con hèn mạt như mày! Mày là tên phản quốc đáng tội chết!
Nhữ Lặc vừa nói vừa lia một nhát gươm. Cái đầu Trần Nguyên Diệu lập tức rụng xuống sàn thuyền. Khi ấy gần trăm chiến thuyền đi theo Chế Bồng Nga nghe tiếng la hò của quân Việt biết đã có chuyện cũng reo hò xông đến giáp chiến. Phạm Nhữ Lặc liền giơ cao cái đầu của Chế Bồng Nga cho chúng xem và nói lớn:
-Lũ giặc Chiêm hãy đầu hàng đi! Cái đầu của Chế Bồng Nga đây chúng mày chưa thấy sao?
Quân Chiêm thấy chiếc đầu của Quốc vương mình thì hoảng hồn, không còn lòng dạ nào để chiến đấu nữa, tháo chạy tán loạn! Quân Đại Việt đuổi theo chém giết rất nhiều.
Ngay đêm đó, Trần Khát Chân cho người hỏa tốc đem đầu Chế Bồng Nga về hành tại* ở Bình Than để báo tin thắng trận. Lúc ấy trống vừa điểm canh ba, thị vệ đánh thức Thượng hoàng dậy, Thượng hoàng hoảng hốt hỏi:
-Quân Chiêm Thành đã đến đây rồi sao?
Tới khi nghe báo cáo rõ, Thượng hoàng mừng rỡ cho triệu các quan đến xem mặt Chiêm vương. Các quan ai nấy hớn hở chúc mừng. Thượng hoàng hân hoan nói:
-Ta với Chế Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới thấy mặt nhau, không khác gì Hán Cao tổ thấy đầu Hạng Vũ. Từ nay trong nước sẽ bình định.
Sau khi quân Chiêm đại bại, tướng La Ngai đã cố gắng thu thập tàn quân và tìm lại được xác của Chế Bồng Nga. Ông dẫn quân về nước bằng đường bộ. Khi đến bờ sông Lô, ông dừng quân lại để thiêu xác Chế Bồng Nga rồi lại tiếp tục đi. Trên đường về, La Ngai đã gặp nhiều cuộc mai phục đón đánh của các thổ hào như Phan Mãnh, Phạm Thế Căng… Nhưng cứ mỗi lần gặp đối phương, quân Chiêm lại tung của cải ra làm mồi. Quân Việt ham nhặt của, nên không còn quyết tâm đuổi đánh tiêu diệt quân địch nữa. Do đó, cuộc rút quân của La Ngai không bị thiệt hại đáng kể.
Khi về đến đất Chiêm, tướng La Ngai bèn tự lập làm vua.
Hai người con của Chế Bồng Nga là Ma Nô Đà Nan và Sơn Nô sợ bị La Ngai giết nên phải chạy sang Đại Việt xin hàng. Thượng hoàng Nghệ Tôn bèn phong cho Ma Nô Đà Nan làm Hiệu chính hầu và Sơn Nô làm Á hầu. Hai anh em rơi nước mắt mà nói với nhau:
-Không ngờ con trai một vị vua anh hùng được toàn dân kính yêu như chúng ta cuối cùng lại trở thành những kẻ vong quốc!
Tới khi biết được cái chết của vua Chế Bồng Nga là do tên phản thần Ba Lậu Kê gây nên, Ma Nô Đà Nan lại rơi nước mắt than với Sơn Nô:
-Thật khó tưởng tượng nổi, một quân đội uy dũng vang danh một thời lại sụp đổ trong nháy mắt chỉ vì một tên tiểu nhân phản chủ!
Không bao lâu sau đó, những phần đất mà Chế Bồng Nga chiếm được đều bị Đại Việt bình định thu hồi lại hết.

Thanh trà st

theo champatra.blogspot.com

Ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1954 qua 50 bức ảnh của tạp chí Life

Ngày 10/10/1954, Hà Nội như bừng tỉnh trong niềm vui của mọi tầng lớp nhân dân cùng sắc màu tươi thắm của lá cờ độc lập.
Bầu không khí rộn ràng, phấn khởi ở Hà Nội khi Việt Minh tiếp quản ngày 10/10/1954 đã được phóng viên ảnh của tạp chí Life ghi lại đầy chân thực.

Toàn cảnh khu vực diễn ra lễ hạ cờ của quân Pháp ở thành Hà Nội trước khi lực lượng Việt Minh tiếp quản Thủ đô, tháng 10/1954. Góc bên phải bức ảnh là cột cờ Hà Nội.

Nghi lễ này là một biểu tượng đánh dấu sự chấm hết cho ách thống trị của thực dân Pháp ở Hà Nội.

Các binh sĩ giơ tay chào khi lá cờ của Pháp được hạ xuống.

Lá cờ bắt đầu được gỡ…

…Và cuốn lại trong sự câm lặng của những người lính Pháp đang có mặt tại nơi đây.

Lính Pháp chuẩn bị rút khỏi Hà Nội trước khi quân đội Việt Minh tiến vào.

Lính Pháp rút khói Hà Nội qua đường cầu Long Biên.

Một nhóm lính di chuyển trên cầu Long Biên.

Phụ nữ Hà Nội cầm cờ đỏ sao vàng đứng trên đường tàu điện Ngã Tư Sở chào đón bộ đội Việt Minh về tiếp quản Thủ đô.

Dân chúng tụ họp bên bờ hồ Gươm chờ đợi đoàn quân tiếp quản Thủ đô.

Các chiến sĩ Việt Minh tiến vào thành phố dưới cơn mưa mùa thu lất phất.

Đoàn quân chiến thắng đi qua rạp Đại Nam ở phố Huế .

Khuôn mặt mỗi người đều toát lên vẻ phấn chấn.

Sự hào hứng của trẻ em Hà Nội trong ngày Thủ đô được giải phóng.

Trẻ em trên phố Hàng Bạc cầm cờ vẫy chào bộ đội Việt Minh.

Trẻ em ở Ngã Tư Sở.

Cở đỏ sao vàng được cắm trên Phủ Thống sứ Bắc Kỳ ở Hà Nội – cơ quan đầu não của thực dân Pháp trên toàn miền Bắc.

Các chiến sĩ Việt Minh biểu lộ niềm vui sau khi tiếp quản Phủ Thống sứ.

Đội quân tiếp quản Thủ đô tập trung tại khu vực bờ hồ Hoàn Kiếm.

Chiếc xe của báo Dân Mới, cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh liên tỉnh Thanh – Nghệ Tĩnh tham gia vào ngày vui ở Hà Nội.

Vẻ hân hoan của người dân Hà Nội vào ngày được giải phóng khỏi ách thực dân Pháp.

Một hiệu may ở Hà Nội khẩn trương may những lá cờ đỏ sao vàng để chào đón chính quyền mới.

Đoàn quân Giải phóng bước qua bờ hồ Hoàn Kiếm trước sự chứng kiến của hàng nghìn người dân.

Trút gánh nặng trên vai sau một cuộc hành quân dài, các chiến sĩ thể hiện niềm vui chiến thắng.

Hàng trăm người tập trung ở Ngã Tư Sở để hát vang những khúc ca yêu nước.

Trẻ em cũng rất hào hứng ca hát.

Người dân đứng bên đường nhìn quân Pháp rút khỏi Hà Nội.

Một đoàn xe đi qua dãy phố chật kín người.

Trẻ em trên phố Huế tò mò ngắm nhìn các chú bộ đội.

Người dân tụ họp bên một ngôi nhà treo biểu ngữ “Hòa bình vạn tuế”.

Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở mọi nơi.

Một xe tải chợ bộ đội Việt Minh tiến vào Hà Nội.

Lính Pháp trên một xe quân sự quay đầu lại nhìn đoàn quân Việt Minh đang tiến vào thành phố.

Trái với khung cảnh náo nhiệt nơi Việt Minh tiến vào, người Pháp rời khỏi Hà Nội trong yên lặng.

Tốp lính Pháp di chuyển qua một góc phố tuyệt đẹp của Hà Nội.

Quân Pháp ở Gia Lâm.
* *
*
Ngày 10/10/1954, bên cạnh hình ảnh hùng tráng của những đoàn quân giải phóng Thủ đô, phóng viên Life đã ghi lại nhiều khoảnh khắc bình dị của Hà Nội.

Khung cảnh vắng lặng của phố Cầu Gỗ sáng sớm ngày 10/10/1954.

Khung cảnh bên bờ hồ Trúc Bạch.

Người Hà Nội ngồi uống nước bên hồ Trúc Bạch.

Những người Pháp ngồi uống cà phê trên tầng 2 của một hiệu vải ở phố Hàng Đào, Hà Nội ngày 10/10/1954.

Quầy giải khát trên đường Cổ Ngư (nay là đường Thanh Niên) với hồ Trúc Bạch và tháp chuông nhà thờ Cửa Bắc ở hậu cảnh.

Một bà sơ người Pháp chơi đùa với trẻ em tại nhà thờ Lớn Hà Nội.

Một phụ nữ Pháp di dạo bên bờ hồ Hoàn Kiếm, người hầu nữ Việt Nam dắt chó đi theo.

Bà đầm người Pháp chụp hình kỷ niệm ở phố Tràng Tiền trước khi phải rời khỏi Hà Nội.

Nhà thờ Lớn Hà Nội sáng 10/10/1954 vẫn diễn ra thánh lễ.

Những người đạp xích lô chờ khách bước ra từ nhà thờ.

Khoảng sân trước nhà thờ lớn nhìn tầng gác của một tháp chuông.

Một cậu bé Hà Nội câu cá ở giếng Thiên Quang trong khu du tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Khuê Văn Các trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Trẻ em học vẽ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Theo KIẾN THỨC
Posted by Việt Anh

Việt Nam – Quốc hiệu và Cương vực qua các thời đại

Nguyễn Đình Đầu

Phần I: Thời Kỳ dựng nước

1. HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC GỌI LÀ VĂN LANG, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG CHÂU, CHIA NƯỚC THÀNH 15 BỘ:

“Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu la XÍCH QUỶ”’1‘. Nước Xích Quỷ bắc giáp hồ Động Đình, đông giáp biển Nam Hải, nam giáp nuớc Hồ Tôn, tây giáp Ba Thục.

“Vua đầu của họ Hồng Bàng là Kinh Dương Vương, tương truyền là vị vua trước tiên của nước ta, sinh ra Lạc Long Quân… Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra được một trăm người con trai: đó là tổ tiên của Bách Việt, tôn con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi dựng nước gọi là VĂN LANG, đóng đô ở Phong Châu, truyền nhau được mười tám đbi, đều gọi là Hùng Vương”[1].  (Bản đồ 1)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-01
Hầu hết sử thần nhà Nguyễn và vua Tự Đức đều cho các truyền thuyết “tiên rồng’, “trăm trứng” hay “trăm con trai” là “đồng một loại hoang đường”, và chỉ nhận đó là “một lời chúc” cho dân tộc mau phát triển và sống trong tình nghĩa đồng bào ruột thịt[2].

“Khởi đầu chia nước ra mười lăm bộ là[3]:

  1. Giao Chỉ (sau là Hà Nội, Hà Đông, Nam Định, Hưng Yên)
  2. Chu Diên (sau là Sơn Tây).
  3. Phúc Lộc (sau cũng là Sơn Tây).
  4. Vũ Ninh (sau là Bắc Ninh).
  5. Việt Thường (sau là Thuận Hóa, Quảng Nam).
  6. Ninh Hải (sau là Quảng Yên).
  7. Dương Tuyền (sau là Hải Duơng).
  8. Lục Hải (sau là Lạng Sơn).
  9. Vũ Định (sau là Thái Nguyên, Cao Bằng).
  10. Hoài Hoan (sau là Nghệ An).
  11. Cửu Chân (sau là Thanh Hóa).
  12. Bình Văn (chưa biết ở đâu).
  13. Tân Hưng (sau là Hưng Hóa, Tuyên Quang).
  14. Cửu Đức (sau là Hà Tĩnh).
  15. Văn Lang (là nơi vua đóng đô, tức Phong Châu, sau thuộc hai tỉnh Vĩnh Tưòng và Lâm Thao của tỉnh Sơn Tây).

Nước VĂN LANG gồm mười lăm bộ, ‘ đông giáp Nam Hải, tây liền Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam tiếp nước Hồ Tôn”[4].

Nam Hải tức biển Đông, Hồ Tôn sau là Chiêm Thành. Nước Văn Lang “đông giáp Nam Hải”, “nam tiếp nước Hồ Tôn” là đúng, nhưng “bắc đến hồ Động Đình” và “tây liền Ba Thục” thì sai. Địa bàn đó là quá rộng lớn, bao gồm khắp vùng Hoa Nam, là nơi cư trú của tất cả các dân tộc Bách Việt chứ không phải của riêng người Lạc Việt. Người Lạc Việt cũng chưa bao giờ thống lãnh toàn thể các dân tộc Bách Việt, vả lại, vị trí của 15 bộ đều tập trung ở bắc phần Việt Nam nay.

Sử thần Nguyễn triều đã cẩn án: “Sử cũ chép nước Văn Lang phía tây tiếp Ba Thục, phía bắc đến Động Đình, chẳng là quá sự thật lắm ru?”[5]. Chính Tự Đức cũng đã phê: “Quảng Tây cùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Vân Nam và Tứ Xuyên gần nhau, tức là đất Sở và Thục xưa. Làm sao biết đuợc tới đó? (an tri kỳ sở giới hà như?)a). Ngay như tên 15 bộ cũng có ba danh sách khác nhau và bị Lê Quý Đôn đặt nghi vấn hết: “Tôi ngờ rằng, những tên đó là do các hậu Nho góp nhặt vay mượn chép ra”[6].

Dân số” cuối thời Văn Lang, ở niên đại 3000 trước Công nguyên, có khoảng 500.000 người.

Từ vài chục năm nay, ngành khảo cổ học đã phát hiện ra quá trình liên tục của nền văn minh sông Hồng (hay còn gọi là văn minh Văn Lang, văn minh Đông Sơn)[7]. Quá trình này đuợc giải thích khá rõ: “Văn hóa Đông Sơn không còn là một hiện tượng đột ngột, gián đoạn, mà là kết quả tất nhiên của một quá trình phát triển liên tục từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại sắt. Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gồ Mun là ba giai đoạn phát triển tiền Đông Sơn tiêu biểu cho dòng chủ lưu của vùng trung du và vùng cao châu thổ sông Hồng vốn được coi là “Đất tổ” của các vua Hùng, là trung tâm của nước Văn Lang”(4). Đó là “một quá trình hình thành tại chỗ nền văn minh sông Hồng mà đỉnh cao là Đông Sơn”. “Quá trình hình thành và phát triển của nền văn minh sông Hồng gắn liền với quá trình liên kết các địa phương thành lãnh thổ Văn Lang, quá trình đấu tranh và dung hợp các bộ lạc, các nhóm dân cư lại thành cộng đồng cư dân Văn Lang, chủ nhân của nền văn minh ấy”[8]. (Bản đồ 2)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0002

Cho nên, tuy vẫn cần tìm hiểu thêm về thời điểm xuất hiện và danh xưng họ Hồng Bàng, về Hùng Vương hay Lạc Vương, về tên gọi các bộ lạc, v.v…, ta đã có thể khẳng định là “nền văn minh sông Hồng mà đỉnh cao là Đông Sơn” đã ghi dấu giai đoạn hình thành “quốc gia” của 15 bộ tộc Lạc Việt liên kết với nhau dưới quyền một “trưởng thượng” chung. Hình thức quốc gia đó còn sơ sài và lỏng lẻo, nhưng “đồng bào” đã biết khai thác thủy triều lên xuống mà làm ruộng lạc và sống theo những “phong tục thuần hậu, chất phác”.

Những người chép sử xưa thường lẫn nước Văn Lang với nước Xích Quỷ. Theo tục truyền thì “Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nuớc Xích Quỷ bấy giờ phía bắc giáp hồ Động Đình, phía nam giáp nuớc Hồ Tôn, phía tây giáp Ba Thục, phía đông giáp bể Nam Hải… về sau, nuớc Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt… Đấy cũng là một điều nói phỏng, chứ không có lấy gì làm đích xác được”[9]. “Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất” (2879 trước CN), mà sử ta cũng lấy năm Nhâm Tuất là đầu đời Hồng Bàng và nuớc

Văn Lang, nên cũng không cần nghiên cứu thêm về địa bàn nước Xích Quỷ nữa. vả lại chưa chắc đã có tên nước Xích Quỷ!

2. THỤC VƯƠNG CHIẾM LẤY VĂN LANG, ĐỔI TÊN NƯỚC LÀ ÂU LẠC, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG KHÊ

Họ Hồng Bàng làm vua “cả thảy hai ngàn sáu trăm hai mươi hai năm (2879-258 trước CN), không biết lấy bằng cứ ở đâu”[10]. Vào năm Quý Mão (258 tr.CN), Thục Phán đem quân chiếm lấy Văn Lang, đổi tên nước là Âu LẠC, đóng đô ở Phong Khê. “Theo sử cũ, vương họ Thục, tên Phán, người nước Ba Thục”[11]. sử thần nhà Nguyễn không tin Phán là người Ba Thục vì nước này cách Văn Lang tới hai ba ngàn dặm, khó mang quân đến lắm, vả lại khi ấy Ba Thục đã bị tiêu diệt rồi, đâu còn vua nữa, nên phỏng đoán: “Hoặc giả ngoài cõi tây bắc, gần nước Văn Lang, còn có một họ Thục khác bèn được nhận là Thục Vương cũng chưa biết được. Nếu nói Thục Vương là người Ba Thục thì không đúng”(3). Mùa xuân, tháng Ba, “vua xây thành ở Phong Khê, rộng một ngàn trượng, xoay quanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa thành” (ở Cổ Loa nay), về nguồn gốc Thục Phán và Ba Thục, còn khá nhiều giả thuyết khác nữa[12].

Một truyền thuyết bằng thi ca của người Tày nói về bộ lạc Nam Cương xưa, có lẽ giúp ta hiểu rõ hơn về Thục Phán và tại sao đặt quốc hiệu là Âu Lạc. “Ớ phía Nam Trung Quốc, đầu sông Tả Giang, về gần nước Văn Lang, có bộ Nam Cương, hùng cứ một phương. Bộ này do Thục Chế tức An Tri Vương đứng đầu, đóng đô ở Nam Bình do chín xứ hợp thành. Các xứ cứ ba năm triều cống một lần. Chín xứ ấy là: Thạch Lâm, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thạch An, Phúc Hoa, Thượng Lang, Quảng Nguyên, Thái Ninh, Quy Sơn… Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục Phán lên thay”[13]. Người của bộ lạc Nam Cương và các xứ lân cận cũng là một dân tộc Việt mà Trung Quốc gọi là Quỳ Việt hay Tây Âu. Sau này có sắc dân nguời Choang và nguời Tày, chính là hậu duệ của Tây Âu. Khi Thục Phán chiếm đuợc Văn Lang thì hợp nhất hai nhóm dân tộc Âu Việt (cũng gọi là Tây Âu) với Lạc Việt thành một Quốc gia và lấy quốc hiệu là Âu LẠC. Nước Âu Lạc chưa chia ra đơn vị hành chính, mà vẫn giữ các bộ lạc tự trị và cha truyền con nối. Đó là các bộ lạc: (Bản đồ 3)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0003

Mê Linh Tây Vu Liên Lâu
Long Biên Chu Diên Bắc Đái
Kê Từ An Định Câu Lậu
Khúc Dương Vô Công Dư Phát
Tư Phố Cư Phong Vô Biên
Đô Lung Hàm Hoan

Bộ lạc Tây Vu là bộ lạc căn bản của Thục Phán, nguyên trước chỉ ở miền thượng lưu sông Lô, bao gồm cả miền thượng lưu sông Gầm và sông Chảy, tức miền Hà Giang và bắc Tuyên Quang ngày nay. Địa bàn này là nơi cư trú chủ yếu của người Tày. Họ cũng ở trên một phần đất của Long Biên nữa[14].

Dân số cuối thời Âu Lạc, ở niên đại 180 trước Công nguyên, có khoảng 600.000 người.

Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc, thì bên Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất thiên hạ. Năm 214 trước CN, Thủy Hoàng sai Đồ Thư đi đánh Bách Việt. An Dương Vương đành chịu phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Âu Lạc thành ba đơn vị gọi là:

–           Quận Nam Hải (Quảng Đông).

–           Quận Quế Lâm (Quảng Tây).

–           Tượng Quận (Bắc Việt).

Với những sử liệu phát hiện gần đây, niên đại của nước Âu Lạc đuợc điều chỉnh lại: Nhà Tần đem quân xâm chiếm địa bàn Tây Âu của Thục Phán và Lạc Việt của Hùng Vương năm 214 trước CN. Năm 208 trước CN, Thục Phán đứng đầu cả 2 bộ lạc Tây Âu và Lạc Việt, đuổi được quân nhà Tần, rồi lập ra nước Âu LẠC và xưng là An Dương Vương (208-179 tr.CN)[15], chỉ tồn tại khoảng gần 30 năm. (Bản đồ 4)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0004

[1]    Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (VNSL). In lần thứ 6 – Tân Việt, Sài Gòn, 1958. tr23.

[2]    KĐVS, sđd, tr.11-13.

[3]    Như trên. tr. 17-23.

[4]    KĐLS, sđd, trang 17. – Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch Sử Việt Nam I (LSVN). NXB Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp. Hà Nội, 1985. Trang 105, cước chú 2: “Hiện nay có ba danh sách khác nhau về 15 bộ của nước Văn Lang được chép trong những thư tịch xưa nhất của ta. Việt Sử Lược chép là: Giao Chỉ, Việt Thường Thị, Vũ Ninh, Xuân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Văn Lang, cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Nam, Cửu Đức. – Lĩnh Nam Chích Quái chép là: Giao Chỉ, cửu Chần, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Minh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chần, Nhật Nam, Chân Định, Quế Lầm, Tượng Quận. – Dư địa chí của Nguyễn Trãi và KĐVS ghi lại như trên”.

[5]    KĐVS, sđd, trang 19-21.

[6]    LSVN, sđd, trang 105.

3.4. Như trên, trang 107-109.

[8]    Như trên, trang 107-109.

[9]    Trần Trọng Kim, VNSL, sđd. tr.23-24.

[10]  KĐVS, sđd, tr.37.

[11]  Như trên, tr.37.

[12]  Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời. NXB Khoa Học Hà Nội, 1964. tr.18-20.

[13]  Như trên, tr.20.

[14]  Như trên, tr.27.

[15]  Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sđd, tr 141-144.

Phần II: Thời kỳ đấu tranh giành độc lập

1. NƯỚC NAM VIỆT (207- 111 TRƯỚC CN)

Nhà Tần đổi nuớc Âu Lạc thành Tượng Quận nhưng không trực trị, họ Thục vẫn làm vua. Chẳng được bao lâu nhà Tần suy, quan úy quận Nam Hải là Triệu Đà nổi lên tự lập, đem quân đánh lấy nước Âu Lạc, lập ra nước NAM VIỆT vào năm 206 tr. CN . Từ đó, nhà Thục chấm dứt và đã làm vua Âu Lạc được 50 năm. Triệu Đà sai hai viên sứ thần coi giữ hai quận Giao Chỉ và cửu Chân (địa bàn Âu Lạc cũ). (Bản đồ 5)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0005

Ở Nam Việt, Triệu Đà xưng đế. Bên Trung Quốc, nhà Hán dứt họ Tần và họ Sở. Nhà Triệu làm vua Nam Việt được 96 năm (207- 111 tr. CN) truyền được 5 đời:

– Triệu Vũ Vương (207- 137 tr.CN).
– Triệu Văn Vương (137-125 tr.CN).
– Triệu Minh Vương (125- 113 tr.CN).
– Triệu Ai Vương (113- 112 tr.CN).
– Triệu Dương Vương (112-111 tr.CN) .

2. THUỘC NHÀ TÂY HÁN (111 TR.CN-39 SAU CN) VÀ THỜI TRƯNG NỮ VƯƠNG (40-43)

Năm 111 tr.CN, nhà Hán sai Lộ Bác Đức sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao Chỉ Bộ và chia ra làm 9 quận:

1. Nam Hải (Quảng Đông)
2. Thương Ngô (Quảng Tây)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phô (Quảng Đông)
5. Giao Chỉ (từ Bắc Việt tới Ninh Bình)
6. Cửu Chân (từ Ninh Bình tới Hoành Sơn)
7. Nhật Nam (từ Hoành Sơn tới Đèo cả)
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam)
9. Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) .

Địa bàn nước ta khi ấy nằm trên ba quận: Giao chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Dân số” cuối thời thuộc Hán, ở niên đại đầu Công nguyên, có 666.013 nguời.

QUẬN GIAO CHỈ chia ra 10 huyện là: Liên Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. Đào Duy Anh phân tích khá rõ theo Thủy Kinh Chú rồi kết luận: “Quận Giao Chỉ ở đời Hán là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền tây-bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán, một góc tây- nam tỉnh Ninh Bình bây giờ là địa đầu của quận cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái Bình đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp; lại phải thêm vào dấy một vùng về phía tây-nam tỉnh Quảng Tây”

QUẬN CỬU CHÂN, theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục và Tiền Hán Thư, gồm 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Sách Hậu Hán Thư chỉ kể 5 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Biên. Bảy huyện trên được phân bố từ phía nam tỉnh Ninh Bình đến Hoành Sơn . (Bản đồ 6)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0006

QUẬN NHẬT NAM gồm 5 huyện: Chu Ngô, Tỷ Anh, Lô Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì năm huyện đó được phân bổ từ phía nam Hoành Sơn tới núi Đại Lãnh (gần đó có núi Đá Bia làm ranh giói giữa Phú Yên với Khánh Hòa nay).

Sách KĐVS đã “chú” khá kỹ địa bàn từng quận huyện một, nhưng đến nay các nhà nghiên cứu địa lý học lịch sử vẫn còn bàn cãi ở một số” nơi chưa nhất trí .

2. TRƯNG VUƠNG TRỊ VÌ BA NĂM, ĐÓNG ĐÔ Ở MÊ LINH, CHƯA ĐẶT QUỐC HIỆU VÀ PHÂN BỐ CUƠNG VỰC

Tháng 2 mùa xuân năm 40, “Trưng Trắc, người con gái quận Giao Chỉ, dấy binh đánh thái thú Tô Định, đuổi hắn, tự lập làm vua”. Vì thù chồng, nợ nước, “Vương bèn cùng em gái Trưng Nhị dấy binh.. Vương đến đâu thì như cỏ rạp theo làn gió… dẹp yên 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh”. Tháng 3 mùa xuân năm 42, “quân Mã Viện đến Lãng Bạc đánh với Trưng Trắc, phá được, Trưng Trắc lui giữ Cẩm Khê… Tháng giêng mùa xuân (năm 43), Trưng Trắc và em gái Trưng Nhị chống cự quân Hán, bị thua mà mất… Mã Viện đuổi đánh tàn quân của Hai Bà… đến huyện Cư Phong (đất ấy nay ở Thanh Hóa)” . Sau đó, Mã Viện kéo quân tới tận Đèo Cả, nơi có núi Đá Bia mới dẹp yên được các cuộc nổi dậy ở khắp địa phương.

Ở phần này, chúng ta chỉ quan tâm đến địa chỉ và địa danh để xác định trên bản đồ, còn phần lịch sử xin lướt qua.

3. NHÀ ĐÔNG HÁN (25-220) ĐỔI GIAO CHỈ THÀNH GIAO CHÂU (203)

Mã Viện đánh được Trưng Vương, đem đất Giao Chỉ về thuộc nhà Hán như cũ, nay gọi là Đông Hán, đem phủ trị về đóng ở Mê Linh (đến cuối đời Đông Hán mới dời về Long Biên). Đến năm Quý Mùi (203), “Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao Chỉ làm Giao Châu. Vua nhà Hán thuận cho” .

4. NHÀ ĐÔNG NGÔ (222-280) TIẾP QUẢN GIAO CHÂU

Nhà Đông Hán mất ngôi (220) thì Trung Hoa chia ra ba nước gọi là Tam Quốc (220-265), tức Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Châu bấv giờ thuộc về Đông Ngô. Năm 226, Ngô Tôn Quyền “lấy từ Hợp Phố về bắc gọi là Quảng Châu, từ Giao Chỉ về nam gọi là Giao Châu” . Được ít lâu, nhà Ngô lại bỏ Quảng Châu cho hợp lại với Giao Châu như cũ. (Bản đồ 7)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0007

NĂM 248, BÀ TRIỆU THỊ TRINH Nổi LÊN CHỐNG NHÀ NGÔ

Bà là nguời huyện Nông Cống, “có sức mạnh, lại có chí khí và lắm mưu lược…; vì quan lại nhà Ngô tàn ác, Triệu Quốc Đạt mới khởi binh đánh quận cửu Chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tưóng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ… bà chống nhau với nhà Ngô đuợc năm sáu tháng. Nhưng vì quân ít thế cô, đánh mãi phải thua, bà đem quân đến xã Bồ Điền (sau là xã Phú Điền huyện Mỹ Hóa tỉnh Thanh Hóa) rồi tử tiết. Bấy giờ mới 23 tuổi”.

NĂM 264, NHÀ NGÔ CHIA LẠI ĐẤT GIAO CHÂU

“Nhà Ngô lấy đất Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung (TP Quảng Châu, Trung Quốc nay), lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao Châu, đặt châu trị ở Long Biên. Đất Nam Việt của Triệu ngày trưóc thành ra Giao Châu và Quảng Châu từ đấy” . (Bản đồ 8)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-008

5. GIAO CHÂU DƯỚI THỜI NHÀ TẤN (265-420) VÀ NAM BẮC TRIỀU (420-588) (Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương nối tiếp nhau)

Tên Giao Châu vẫn giữ nguyên, nhưng tên và địa bàn huyện thì thay đổi qua mỗi “nhà” đến thống trị. Sau đây là tình hình phân bổ Giao Châu từ cuối Ngô đến Tống:
Giao Chỉ: 14 huyện, 12.000 hộ.

Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Liên Lâu, Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, Ngô Hưng, Bắc Đái, Kê Từ, An Định, Vũ An, Quân Bình (theo Tấn Thư và Tống Thư).
Tân Xương: 6 huyện, 3.000 hộ.
Mê Linh, Gia Hưng, Ngô Định, Phong Sơn, Lâm Tây, Tây Đạo. Nhà Tấn đổi tên quận làm Tân Xương, các huyện thì vẫn giữ theo nhà Ngô.
Vũ Bình: 7 huyện, 3.000 hộ.
Vũ Ninh, Vũ Hưng, Tiến Sơn, Căn Ninh, Vũ Định, Phú Yên, Phong Khê. Nhà Tấn cũng vậy.
Cửu Chân: 7 huyện, 3.000 hộ.
Tư Phô, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Thưòng Lạc, Phù Lạc. Nhà Tấn lập thêm huyện Tùng Nguyên.
Cửu Đức: 8 huyện, không rõ số hộ.
Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Thành, Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào, Việt Thường. Nhà Tấn đổi Dương Thành làm Dương Toại, lại tách Dương Toại mà lập Phố Dương, lập thêm Tây An, theo Hà Chí thì còn có huyện Việt Thường, lập từ đời Ngô, sang đời Tấn thì không có.
Nhật Nam: 5 huyện, 600 hộ.
Tượng Lâm, Lô Dung, Chu Ngô, Tây Quyển, Tỷ Ảnh. Nhà Tấn tách Tây Quyển mà đặt Thọ Linh, tách Tỷ Anh mà đặt Vô Lao .(theo Tấn Thư và Tống Thứ).

‘Theo tình hình các quận huyện như trên thì chúng ta thấy rằng ở thời Tam Quốc và thời Lưỡng Tấn, sau khi nhà Ngô chiaGiao Châu làm Quảng Châu và Giao Châu thì đất Giao Châu sau này trở thành lãnh thổ của nuớc ta trong thời tự chủ, không còn gồm dải đất ở miền Quảng Tây nữa. Chúng ta lại biết rằng cuối đời Hán, nước Lâm Ấp đã được thành lập tại miền Quảng Nam và đến đời Vĩnh Hòa nhà Tấn (345-356), nước ấy đã chiếm cứ hết đất Nhật Nam cũ mà vươn ra đến Hoành Sơn.

Như vậy thì đất Giao Châu đời Tấn đại khái là tương đương với miền Bắc Bộ và miền Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh của nước ta ngày nay” .

Nhà Lương chia Giao Châu làm nhiều châu mới:

1. Ái Châu trên đất quận cửu Chân cũ (Thanh Hóa)
2. Đức Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
3. Lợi Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
4. Minh Châu trên đất miền đông-bắc Giao Châu cũ (Quảng Ninh).
5. Giao Châu thu nhỏ trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ. (Bản đồ 9)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-009

6. NĂM 544, LÝ BÔN XƯNG NAM VIỆT ĐẾ, ĐẶT NIÊN HIỆU LÀ THIÊN ĐỨC, ĐẶT QUỐC HIỆU LÀ VẠN XUÂN

Sau khi thắng địch quân, Lý Bôn đã lập điện Vạn Xuân làm triều nghi, đặt trăm quan, nhưng chưa thấy phân bổ lại cương vực. Các sự kiện lịch sử liên quan đến địa phương nào, thì vẫn dùng địa danh đương thời. Như khi nói “Lý Bôn là người hào hữu quê Thái Bình, tài kiêm văn võ”. Thái Bình đây “thuộc về Phong Châu ngày trước, nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng không rõ là chỗ nào, chứ không phải là phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình” . Đối với các địa danh khác cũng vậy: thành Gia Ninh (sau ở huyện Tiên Lãng tỉnh Phúc Yên), động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hóa), hồ Điển Triệt (tên nôm là Đầm Miêng, thuộc xã Tứ Yên huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú), đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hải Hưng) vv… Động Khuất Liêu lại được đọc là động Khuất Lão (là tên một khu đồi hiện nằm giữa hai xã Văn Lang và cổ Tuyết thuộc huyện Tam Nông tỉnh Vĩnh Phú” (Bản đồ 10)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0010

Nước VẠN XUÂN tồn tại được 58 năm, trải qua ba đời vua:

– Lý Nam Đế (Lý Bôn) 544-548.
– Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) 549-571.
– Hậu Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) 571-602.

Dân số nước Vạn Xuân, ở niên đại 544, có khoảng 1.000.000 người.

Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở nước ta, thì vua Văn Đế nhà Tùy thống nhất được Trung Hoa. Năm 602, vua Tùy sai Lưu Phương đem 27 dinh quân sang đánh chiếm Vạn Xuân

7. CƯƠNG VỰC VÀ CÁC CUỘC TRANH ĐẤU DƯỚI CÁC ĐỜI NHÀ TÙY, NHÀ ĐƯÒNG (603-907)

a) NHÀ TÙY (589-617)

sau khi chiếm được Vạn Xuân năm 602, liền chia Giao Châu ra làm 5 quận:

– Quận Giao Chỉ gồm 9 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Long Bình, Bình Đạo, Giao Chỉ, Gia Ninh, Tân Xương, An Nhân.
– Quận Nhật Nam gồm 8 huyện: cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Việt Thường, Kim Ninh, Giao Cốc, An Viễn, Quang An.
– Quận Tỷ Anh gồm 4 huyện: Tỷ Anh, Chu Ngô, Thọ Linh, Tây Quy ển.
– Quận Hải Âm gồm 4 huyện: Tân Dung, Chân Long, Đa Nông, An Lạc.
– Quận Tượng Lâm gồm 4 huyện: Tượng Phố, Kim Sơn, Giao Giang, Nam Cực.

Ngoại trừ một số” địa điểm còn để nghi vấn, nhà địa lý học lịch sử Đào Duy Anh đã nghiên cứu thỏa đáng cả địa bàn lẫn duyên cách của các châu huyện trên trong thiên khảo luận có giá trị của mình . (Bản đồ 11)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0011

b) NHÀ ĐƯỜNG (618-907)

tiếp nối nhà Tùy “cai trị nước ta khắc nghiệt hơn cả”.

“Nhà Đường sửa lại toặn bộ chế độ hành chính và sự phân chia châu quận. 622, nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng quản chủ để lãnh quản 12 châu: Giao, Phong, Ái, Tiên, Diễn, Tống, Từ, Hiểm, Đạo, Long, tức là cả miền Bắc nước ta, từ biên giới Việt – Trung đến Hoành Sơn”.

Năm 679, đổi Giao Châu làm An Nam Đô Hộ Phư, cai quản 12 châu, 59 huyện. Nước ta gọi là An Nam khỏi đầu từ đấy.
Năm 757, đổi làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 766, lại đổi làm An Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 866, Nhà Đường thăng An Nam Đô Hộ Phủ lên làm Tình Hái Quân Tiết Độ.

An Nam Đô Hộ Phủ chia ra 12 châu như sau: (Bản đồ 12)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0012

1. Giao Châu nay ở đất Hà Nội, Nam Định, có 8 huyện: Tống Bình, Nam Đinh, Thái Bình, Giao Chỉ, Chu Diên, Long Biên, Bình Đạo, Vũ Bình.
2. Lục Châu sau là Quảng Yên, Lạng Sơn, gồm 3 huyện: Ô Lôi, Hoa Thanh, Ninh Hải.
3. Phúc Lộc Châu gồm 3 huyện, có lẽ ở “miền Nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp, Ngọc Ma ở phía tây Hoành Sơn”.
4. Phong Châu gồm 3 huyện: Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương. Sau là Bạch Hạc – Việt Trì.
5. Thang Châu gồm 3 huyện: Thanh Tuyền, Lục Thủy, La Thiều. Nay ở Nam Ninh, Trung Quốc.
6. Trường Châu có 4 huyện, nay thuộc địa phận Ninh Bình.
7. Chi Châu gồm 7 huyện: Hàn Thành, Phú Xuyên, Bình Tây, Lạc Quang, Lạc Diệm, Đa Vân, Tụ Long. Nay thuộc đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. (Tụ Long trước 1888 thuộc Tuyên Quang, Việt Nam).
8. Võ Nga Châu gồm 7 huyện: Võ Nga, Như Mã, Võ Nghĩa, Võ Di, Võ Duyên, Võ Lao, Lương Sơn. Nay cũng thuộc đất tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
9. Võ An Châu gồm 2 huyện: Võ An, Lâm Giang. Nay ở khoảng phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
10. Ái Châu gồm 6 huyện cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Truòng Lâm. Nay thuộc địa phận Thanh Hóa.
11. Hoan Châu gồm 4 huyện cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường, Hoài Hoan. Nay thuộc địa phận Nghệ An.
12. Diễn Châu gồm 7 huyện (khuyết danh). Có lẽ tương đương với miền Bắc tỉnh Nghệ An nay, khoảng các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu.

40 châu ky my. “ở những miền biên giới xa xôi, nhà Đường không đặt châu quận để thống trị trực tiếp đuợc, thì đặt những châu ky my, và để cho các tù trưởng cũ vẫn giữ bộ lạc của họ.. Lệ vào An Nam Đô Hộ Phủ thì có 40 châu ky my, đại khái là ở đất thượng du miền Bắc và miền Đông – Bắc nước ta, như châu Quy Hóa, châu Cam Đường, châu Lâm Tây ở các miền Yên Bái, Lao Cai và thượng du sông Đà; châu Bình Nguyên ở miền Hà Giang; châu Vũ Định, châu Độ Kim ở miền Tuyên Quang; châu Tư Lăng, Lộc Châu, Lạng Châu ở miền Lạng Sơn” . (Bản đồ 13)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0013

Lại còn 18 châu ky my nữa lệ vào Phong Châu Đô Hộ Phủ… “ở khoảng từ Bạch Hạc đến Lào Cai ngày nay, thì cư dân cũng là thuộc về ngành Tày chứ không phải là ngành Thái. Nhưng nếu xét lui lên xa thì người Thái và người Tày cùng người Nùng lại đều là từ một nguồn gốc mà ra, tức là chủng tộc mà người ta thường gọi là Thái, từ thời thượng cổ đã chiếm ở miền Tây Nam Trung Quốc” . (Bản đồ 14) và (Bản đồ 15)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0014

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0015

Phủ trị của An Nam Đô Hộ Phủ đặt ở khoảng Hà Nội ngày nay. Địa bàn của nó còn rộng hơn cả Giao Châu ở thời Tam Quốc và thời Nam Bắc Triều. “Nếu không kể các châu ky my ở miền Bắc và miền Đông – Bắc lệ thuộc An Nam Đô Hộ Phủ và các châu ky my ở miền Tây – Bắc lệ thuộc Phong Châu, chỉ kể những châu trực thuộc Đô Hộ Phủ, thì các châu Thang, Chi, Võ Nga, Võ An là thuộc về địa phận tỉnh Quảng Tây ngày nay của Trung Quốc, và các châu Lâm và Ảnh là đặt khống ở miền Nam Hoành Sơn, như vậy là chỉ còn 8 châu: Giao, Lục, Phong, Truông, Ái, Diễn, Hoan và Phúc Lộc là nằm trên đất Giao Châu cũ. Đại khái đó là địa bàn mà đến khi nhà Đường sụp đổ, các triều đại phong kiến đầu tiên của nuớc ta, Ngô, Đinh, Lê, Lý sẽ xây dựng nhà nước tự chủ của ta .

Vậy thì những địa danh như Nam Định, Thái Bình, Long Biên, Diễn Châu… đã tồn tại từ 13 thế kỷ nay. Nếu nghiên cứu kỹ, có lẽ còn nhiều địa danh gốc từ Lạc Việt đã có từ trên 20 thế kỷ rồi, đặc biệt là các địa danh Nôm. Địa danh học cũng là một bộ môn hỗ trợ đắc lực cho khảo cổ học vậy

Phần 3 : Thời Kỳ độc lập tự chủ

1. HỌ KHÚC DẤY NGHIỆP VÀ HỌ NGÔ DỰNG NGHIỆP (907-959)

Lợi dụng trong khi năm họ tranh giành nhau bên Trung Quốc, dân chúng bên ta bèn cử Khúc Thừa Dụ (906-907) làm Tiết độ sứ để cai trị Tĩnh Hải Quân. Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (Ninh Giang – Hải Hưng nay) là nhà hào phú có tính khoan hòa và thương người. Trung Quốc phải chịu nhận. Thừa Dụ chết, Khúc Hạo (907-917) lên thay làm Tiết độ sứ rồi lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại . Sau Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ (917-923). Năm 923, nhà Nam Hán chiếm lại Tĩnh Hải Quân. Năm 931, Dương Diên Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo nổi lên, tự xưng Tiết độ sứ. Được sáu năm, bị nha tướng là Kiều Công Tiễn giết và cướp quyền. Khi ấy có Ngô Quyền (quê ở Đường Lâm, Sơn Tây) là con rể Dương Diên Nghệ đang cai trị Ái Châu, đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Tiễn cầu cứu nhà Nam Hán. Thái tử Hoằng Thao đem quân sang đánh Ngô Quyền, bị đại bại trên sông Bạch Đằng (938).

Tiền Ngô Vương (939-945). Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở cổ Loa, đặt quan chức, chế triều nghi, nhưng chưa định quốc hiệu và phân bố lãnh vực. Được sáu năm thì mất. Em rể là Dương Tam Kha (935- 950) lên tiếm ngôi. Hai con Ngô Quyền là Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập trở lại hạ được Dương Tam Kha rồi cùng cai trị nước, sử gọi là Hậu Ngô Vương (950- 956). về cương vực nhà Ngô: “Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu mà cư dân là con cháu người Lạc Việt, tức miền trung du và miền đồng bằng Bắc Bộ cùng miền trung du và miền đồng bằng Thanh Nghệ, còn miền thuợng du là các châu ky my của nhà Đuờng trước kia thì có lẽ còn do các tù truởng giữ mà độc lập” .

2. CƯƠNG VỰC BỊ CHIA CẮT DƯỚI THỜI THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)

Từ khi Dương Tam Kha tiếm vị, thổ hào các nơi xướng lên độc lập tự xưng sứ quân. Khi có Hậu Ngô rồi, các sứ quân vẫn không về thần phục. Con cháu nhà Ngô yếu thế, trở thành như một sứ quân. Cương vực bị chia cắt, dân tình đói khổ. Sau đây là 12 sứ quân với vùng cát cứ:

1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Khoái Châu, Hưng Yên).
2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai).
3. Trần Lãm giữ Bô” Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây).
7. Lý Khuê giữ Siêu Loại (Thuận Thành).
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lũ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).
10. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).
11. Kiều Thuận giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây).
12. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Hưng Yên) .

3. CƯƠNG VỰC DƯỚI THỜI ĐINH – LÊ, QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT 86 NĂM (968-1054)

Đinh Tiên Hoàng (968-979), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, “chia nước làm 10 đạo, hiện nay không rõ danh hiệu và vị trí các đạo là thế nào. Duy nhất sử cũ vẫn chép tên các châu đời Đường, như Ái Châu, Hoan Châu, Phong Châu, thì biết rằng danh hiệu các châu đời Đường bấy giờ vẫn được dùng” . Nhà Tống chỉ phong cho Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.

Đinh Phế Đế (979-980) tức Đinh Tuệ lên ngôi mới có sáu tuổi.

Lê Đại Hành (980-1005) tức Lê Hoàn, thay ngôi nhà Đinh, “đổi 10 đạo làm lộ, phủ, châu”. Nay vẫn chưa tìm ra danh hiệu và vị trí những đơn vị hành chính đó, mà các tên châu huyện đời Đường còn được nhắc đến trong sử cũ. Năm 982, Lê Hoàn đi đánh Chiêm Thành, phải qua kênh Xước ở Thanh Hóa và kênh Sắt ở Nghệ An (đó là kênh mà sau này Nguyễn Trường Tộ đào nắn lại cho dễ thông thương hơn). Nhà Tống cũng chỉ phong cho Lê Đại Hành là Giao Chỉ quận vương, rồi gia phong là Nam Bình Vương, cố ý coi nước ta là quận Giao Chỉ hay An Nam đô hộ phủ mà thôi.

Tiếp nối Lê Đại Hành Là Lê Trung Tông (1005) rồi Lê Long Đĩnh (1005 – 1009), cương vực vẫn tới Hoành Sơn nhưng Chiêm Thành phải sang triều cống. Quốc hiệu Đại Cồ Việt vẫn tồi tại.

Dân số nước Đại cồ Việt, ở niên đại 968, có khoảng 2.000.000 người.

4. CƯƠNG VỰC VÀ QUỐC HIỆU DƯỚI ĐỜI LÝ, NƯỚC ĐẠI VIỆT, 748 NĂM (1054-1802)

Lý Thái Tổ tức Lý Công uẩn (1010-1028) tiếp ngôi nhà Lê, dời đô về La Thành, lấy tên mới là thành Thăng Long, “chia nước làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại” , mới chắc chắn có tên 12 lộ do KĐVS ghi chép:

Thiên Trường Hoàng Giang Thanh Hóa
Khoái Hồng Kiến Xương
Trường Yên Hải Đông Bắc Giang
Quốc Oai Long Hưng Diễn Châu
Còn 12 lộ nữa thì Đào Duy Anh phỏng tính là:
Phủ Đô Hộ Phủ ứng Thiên Phủ Phú Lương
Phủ Thiên Đúc Phủ Nghệ An Châu cổ Pháp
Châu Phong Châu Lạng Châu Chân Đăng
Châu Bố Chính Châu Địa Lý Châu Ma Linh

Hoàng Xuân Hãn đã định được vị trí các châu lộ ở phía bắc và Đào Duy Anh đã phỏng định vị trí các châu phủ lộ còn lại . Ngoài lộ, châu, phủ nhà Lý còn chia ra các đơn vị hành chính là hương, giáp, trại, động.
Dân số” nước Đại Việt, ở niên đại 1054, có khoảng 2.200.000 người.
(Bản đồ 16)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0016

Lý Thái Tông (1028-1054) đem quân chinh phạt Chiêm Thành (1044) tiến chiếm quốc đô Phật Thệ (làng Nguyệt Bầu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên).

Lý Thánh Tông (1054-1072) khi lên ngôi liền đổi quốc hiệu là Đại Việt. Năm 1069, đem quân đánh Chiêm Thành. Chế Củ xin chuộc tội bằng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (sau là Quảng Bình, Quảng Trị).

Lý Nhân Tông (1072-1127) sai Lý Thuợng Kiệt đi trấn giữ (1076) ở phía bắc và đi kinh lý ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính ở phía nam.

Sau đó là các vua Lý Thần Tông (1128-1138)
Lý Anh Tông (1138-1175)

Năm 1164, nhà Tống đổi Giao Chỉ quận làm An Nam quốc, Lý Anh Tông là vua đầu tiên của nước ta được phong là An Nam quốc vương. Vua cuối cùng nhận phong tước hiệu này là Nguyễn Tây Sơn cảnh Thịnh (1792-1802).

Lý Cao Tông (1176-1210)
Lý Huệ Tông (1211-1225)
Lý Chiêu Hoàng (1225)

Cương vực và quốc hiệu vẫn thế.

5. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI ĐỜI TRẦN VÀ ĐỜI HỒ(1225-1413)

Trần Thái Tông (1225-1258) “chia nước ra làm 12 lộ”, đặt xã quan để cai trị ở địa phương. Nhưng sử cũ lại chép tới 15 lộ:
Thiên Trưòng Hồng Lạng Giang
Tam Giang An Khang Truòng Yên
Khoái Tam Đới Bắc Giang
Long Hưng Diễn Sơn Nam
Quốc Oai An Tiêm Đà Giang

Sách An Nam Chí Lược chép 15 lộ khác, trong đó có 9 lộ mà danh sách trên thiếu. Nếu cộng lại ta sẽ có tên 24 lộ. Sau đây là 9 lộ bổ túc:

Đại La Thành
Quy Hóa Giang
Tuyên Hóa Giang
Lạng Châu
Đại Hoàng
Nam Sách Giang
Như Nguyệt Giang
Nghệ An
Phủ Bố Chính Châu

Năm 1397, Lê Quý Ly làm thái sư, đổi các lộ phủ ra làm trấn: Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô, Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, Đà Giang làm trấn Thiên Hưng, Nghệ An làm trấn Lâm An, Trường Yên làm trấn Thiên Quan, Diễn Châu làm trấn Vọng Giang, Lạng Sơn phủ (truóc là Lạng Sơn) làm trấn Lạng Sơn, Tân Bình phủ (trước là Bố Chính Châu) làm trấn Tân Bình… Quý Ly chiếm thêm được hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đặt làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, gộp lại làm lộ Thăng Hoa, tức là miền Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay
(Bản đồ 17)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0017

0. Lộ Đông Đô
1. Lộ Bắc Giang
2. Lộ Lạng Giang
3. Lộ Lạng Sơn
4. Phủ lộ Thiên Truờng (Sơn Nam)
5. Lộ Long Hưng
6. Lộ Khoái Châu
7. Phủ lộ Kiến Xương
8. Lộ Hoàng Giang,
Phủ Kiến Hưng
9. Trấn Thiên Quan
10. Phủ lộ Tân Hưng
11. Lộ Hải Đông
12. Phủ lộ Kiến Xương
13. Trấn Quảng Oai
14. Trấn Thiên Hưng
15. Trấn Thanh Đô
16. Trấn Vọng Gỉang
17. Trấn Tây Bình
18. Trấn lộ Thanh Hóa
19. Lộ Thăng Hoa

Sau khi Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần liền đặt tên nuớc là Đại Ngu rồi đổi phủ Thanh Hóa (trấn Thanh Đô) làm phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu (trấn Vọng Giang) làm phủ Linh Nguyên, phủ Kiến Xương làm phủ Kiến Ninh . Duyên cách thật phức tạp và các danh xưng lộ – phủ – trấn vẫn còn xen kẽ chưa phân biệt rạch rồi.(Bản đồ 18)

Danh sách các vua triều Trần sau Trần Thái Tông:

Trần Thánh Tông (1258-1278)
Trần Nhân Tông (1279-1293)
Trần Anh Tông (1293-1314)
Trần Minh Tông (1314-1329)
Trần Hiến Tông (1329-1341)
Trần Dụ Tông (1341-1369)
Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Trần Duệ Tông (1374-1377)
Trần Phế Đế (1377-1388)
Trần Thuận Tông (1388-1398)
Trần Thiếu Đế (1398-1400)
Nhà Hồ thoán ngôi với hai đời vua:
Hồ Quí Ly (1400-1401)
Hồ Hán Thương (1401-1407)
Nhà Trần trở lại gọi là Hậu Trần với hai đời vua:
Giản Định Đế (1407-1409)
Trần Quí Khoách (1403-1413)
Dân số Đại Việt ở niên đại 1407 có khoảng 3.129.500 người.

6. CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI THỜI THUỘC MINH (1414-1427)
Vua Nhà Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân sang chiếm nước ta rồi lại gọi nước ta là Quận Giao Chỉ và chia lãnh thổ nước ta ra làm 15 phủ với 5 châu lớn, đó là:
(Bản đồ 19) và (Bản đồ 20)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0019
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0020

1. Phủ Giao Châu 11. Phủ Lạng Sơn
2. Phủ Bắc Giang 12. Phủ Tân Bình
3. Phủ Lạng Giang 13. Phủ Diễn Châu
4. Phủ Tam Giang 14 Phủ Nghệ An
5. Phủ Kiến Bình 15. Phủ Thuận Hóa
6. Phủ Tân Yên 16. Châu Thái Nguyên
7. Phủ Kiến Xương 17. Châu Tuyên Hóa
8. Phủ Phụng Hóa 18. Châu Gia Hưng
9. Phủ Thanh Hóa 19. Châu Qui Hóa
10. Phủ Trấn Man 20. Châu Quảng Oai

Đại khái “họ theo tên các lộ trấn phủ châu của thời Trần – Hồ, duy có thay đổi như sau: đổi phủ Long Hưng làm phủ Trấn Man, phủ Kiến Hưng làm phủ Kiến Bình, phủ Thiên Trường làm phủ Phụng Hóa, phủ Tân Hưng làm phủ Tân Yên, châu Quốc Oai làm châu Tuyên Man (?), châu Tuyên Quang làm châu Tuyên Hóa” .

Ở địa phương thì nhà Minh chia ra phường, tương, lý, giáp, “ở chỗ thành phố thì gọi là phường; ở chung quanh thành phố thì gọi là tương, ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lại chia ra giáp. Cứ 110 hộ làm 1 lý và 10 hộ làm 1 giáp. Lý thì có lý trưởng, thế giáp thì có giáp thủ. Mỗi một lý, một phuòng hay một tương, có một quyển sách để biên tất cả số đinh, số điền vào đấy… ở đầu quyển sách lại có cái địa đồ” . (Bản đồ 21)ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0021

7. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI TRlỀU LÊ (1428-1527)

Lê Thái Tổ (1428-1433) thắng quân Minh rồi đóng đô ở Thăng Long khi ấy gọi là Đông Đô (gồm 2 huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương). Năm 1430, đổi Đông Đô là Đông Kinh (từ đó người Tây phương phiên là Tongkinh hay Tonkin), và đổi Tây Đô (Lam Sơn) thành Tây Kinh. Lại chia cả mước làm 5 đạo gồm 19 trấn hay lộ:

1. Bắc Đạo (Lạng Giang, Bắc Giang, Thái Nguyên).
2. Tây Đạo (Tuyên Quang, Hưng Hóa, Gia Hưng, Tam Giang).
3. Đông Đạo (An Bang, Hồng Sách Thượng, Hồng Sách Hạ).
4. Nam Đạo (Ly Nhân, Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Truờng).
5. Hải Tây Đạo (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa). Đạo này mới đặt năm 1428, bốn đạo trên đặt từ thời chống quân Minh.

Lê Thái Tông (1434- 1442), Lê Nhân Tông (1443- 1459), vẫn giữ cách phân bổ hành chính như trên.

Lê Thánh Tông (1460-1497) là một vị vua anh minh, đã nâng cao phẩm chất văn hóa và đạo lý cho nhân dân, lại mở mang thêm bờ cõi và tổ chúc quản trị lãnh thổ rất chu đáo. Năm 1466, Thánh Tông chia nước ra làm 12 đạo hay thừa tuyên:

1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Thuận Hóa
4. Thiên Trường
5. Nam Sách
6. Quốc Oai
7. Bắc Giang
8. An Bang
9. Hưng Hóa
10. Tuyên Quang
11. Thái Nguyên
12. Lạng Sơn

Năm 1471, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam, đưa biên giới nước ta tới núi Đá Bia trên Đèo Cả.
Năm 1490, lập bản đồ Hồng Đức để tổng kết tình hình phân bố lãnh thổ và vẽ bản đồ toàn quốc cũng như từng thừa tuyên.
Sau đây là danh sách Kinh Đô và các đạo thừa tuyên với số phủ, châu, huyện:
Trung Đô có phủ Phụng Thiên và 2 huyện.

1. Sơn Nam gồm 11 phủ, 42 huyện.
2. Kinh Bắc gồm 4 phủ, 20 huyện.
3. Sơn Tây gồm 4 phủ, 24 huyện.
4. Hải Dương gồm 3 phủ, 14 huyện.
5. Yên Bang (sau là Quảng Yên) gồm 1 phủ, 3 huyện, châu.
6. Lạng Sơn gồm 1 phủ, 6 châu.
7. Ninh Sóc (tức Thái Nguyên) gồm 3 phủ, 8 huyện, 6 châu.
8. Tuyên Quang gồm 1 phủ, 2 huyện, 5 châu.
9. Hưng Hóa gồm 3 phủ, 17 châu.
10. Thanh Hóa gồm 4 phủ, 16 huyện, 4 châu.
11. Nghệ An gồm 4 phủ, 27 huyện, 3 châu.
12. Thuận Hóa gồm 2 phủ, 7 huyện, 3 châu.
13. Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện.
(Bản đồ 22)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0022

Năm 1490, đổi tên thừa tuyên làm xứ. Như vậy cả nước có 13 xứ, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 37 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. Mỗi xã thường không có quá 500 hộ, khi quá số này khoảng 100 hộ, lại chia làm 2 xã .
Dân số Đại Việt ở niên đại 1490 có khoảng 4.000.000 người.
Các đời vua sau Lê Thánh Tông:
Lê Hiến Tông (1497-1504)
Lê Túc Tông (1504)
Lê Uy Mục (1505-1509)
Lê Tương Dực (1510-1516)
Lê Chiêu Tông (1516-1522)
Lê Cung Hoàng (1522-1527)

Các vua này vẫn giữ nền tảng hành chính như cũ. (Bản đồ 23)

8. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI NAM BẮC TRlỀU (1528-1592)

Năm 1527, Mạc Đăng Dung thoán ngôi nhà Lê. Cựu thần nhà Lê không chịu: Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm suy tôn Lê Trang Tôn lên ngôi từ năm 1533 bên đất Lào, rồi đem quân về lấy lại Nghệ An và Thanh Hóa. Trong thời gian trên 60 năm, từ Thanh Hóa vào Nam thuộc về nhà Lê, gọi là Nam Triều. Từ Sơn Nam ra Bắc thuộc về nhà Mạc, gọi là Bắc Triệu.
Nam Triều có các vua:

Lê Trang Tông (1533-1548)
Lê Trung Tông (1548-1556)
Lê Anh Tông (1556-1573)
Lê Thế Tông (1573-1599)
Bắc Triều có các vua:
Mạc Đăng Dung (1527-1529)
Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
Mạc Phúc Hải (1541-1546)
Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
Mạc Mậu Hợp (1562-1592).

9. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH (1600-1771)

Năm 1545, Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm muốn giữ hết quyền bèn cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa (1588) nhưng buộc vẫn thường phải về chầu vua Lê và đem binh ra giúp họ Trịnh để dứt nhà Mạc. Năm 1593, Trịnh Tùng có sự tiếp tay của Nguyễn Hoàng lấy lại Thăng Long nhưng vẫn muốn giữ Nguyễn Hoàng không cho về hẳn Thuận Hóa. Mãi năm 1600, Nguyễn Hoàng mới trốn được vào Nam và mưu tính lập căn cứ lâu dài chống lại họ Trịnh. Từ đó, các chúa Nguyễn tìm cách phát triển lãnh thổ cả về phía nam lẫn phía tây và phía biển Đông trên các quần đảo xa xôi nữa.

Sau đây là các đời chúa Nguyễn:

Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên (1558-1613) tổ chức cai trị thêm từ đèo Cù Mông tới núi Đá Bia, lập phủ Phú Yên hồi năm 1611

Nguyễn Phước Nguyên tức Chúa Sãi (1613-1635) hình như có gả “công nữ” Ngọc Vạn cho Chey Ghetta II, vua Chân Lạp hồi 1619.

Nguyễn Phước Lan tức Chúa Thượng (1635-1648) tổ chức cai trị và khai khẩn từ núi Đá Bia tới sông Phan Rang hồi năm 1635.

Nguyễn Phước Tần tức Chúa Hiền (1648-1687) cho quân sang U Đông và Nam Vang để cản ngăn việc quân Xiêm chiếm đóng hồi 1658-1672, lại cho người Minh Hương đến khẩn hoang ở Mỹ Tho và Biên Hòa hồi 1679. (Bản đồ 24)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0024

Nguyễn Phước Trăn tức Chúa Ngãi (1687-1691) cho quân chinh phạt nguời Minh Hương là Hoàng Tiến hồi năm 1689.

Nguyễn Phước Chu tức Chúa Minh (1691-1725) “đặt phủ Bình Thuận, vẫn để vua Chiêm cai trị người Chiêm như cũ” hồi năm 1697. Năm 1698 phái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, đăt phủ Gia Đinh và hai huyện Tân Bình (Sài Gòn), Phước Long (Biên Hòa).

Năm 1708, chúa cho Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên.

Nguyễn Phước Trú tức Chúa Ninh (1691-1738)đặt chức Điều Khiển để coi việc quân toàn miền Nam.

Nguyễn Phước Khoát tức Chúa Võ (1738-1765) hoàn chỉnh việc chia cắt phủ huyện trên toàn cõi miền Nam. Năm 1744, Đàng Trong chia ra làm 12 dinh và 1 trấn

Chính dinh (Phú Xuân).

  1. Cựu dinh (Ái Tử, Quảng Trị).
  2. Quảng Bình dinh tục gọi dinh Trạm.
  3. Lưu Đồn dinh cũng gọi dinh Mười (Võ Xá, Quảng Bình).
  4. Bố Chính dinh tục gọi dinh Ngói.
  5. Quảng Nam dinh tục gọi dinh Chiêm.
  6. Phú Yên dinh.
  7. Bình Khang dinh (sau là Khánh Hòa).
  8. Bình Thuận dinh.
  9. Trấn Biên dinh (sau là Biên Hòa)
  10. Phiên Trấn dinh (sau là tỉnh Gia Định).
  11. Long Hồ dinh (sau là Vĩnh Long và An Giang).
  12. Hà Tiên trấn.

Dân số Đàng Trong, ở niên đại 1750, có khoảng 1.500.000 người.

Nguyễn Phước Thuần tức Chúa Định (1765-1776) sai Nguyễn Cửu Đàm giải phóng Cao Miên khỏi tay quân Xiêm chiếm đóng (1772). Đầu năm 1776, quân Tây Sơn vào chiếm miền Nam, sau khi làm chủ Qui Nhon[1].

Nguyễn Anh (1776-1802) tái chiếm Gia Định từ tay Tây Sơn, xây thành Bát Quái rồi theo gió mùa lần hồi lấy lại Phú Xuân và cả Đàng Ngoài.

(Bản đồ 25)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0025
10. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TÂY SƠN (1771-1802)

Có lẽ chính quyền nuớc ta chưa bao giờ phân tán như trong thời gian 30 năm này, ngoại trừ thời Thập Nhị Sứ Quân. Năm 1771, anh em Tây Sơn dấy binh rồi chiếm thành Qui Nhơn. Năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc vào chiếm Phú Xuân. Chúa Định cùng Nguyễn Ánh chạy vào Nam. Năm 1776, Tây Sơn vào chiếm Nam Bộ. Từ đó đến năm 1778, Nam Bộ bị giành giật bảy tám lần giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Năm 1786, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ lấy Thuận Hóa, rồi thừa thắng đem quân ra lấy Bắc Hà với danh nghĩa diệt Trịnh phù Lê. Trịnh Khải tự tử, chấm dứt nghiệp chúa của họ Trịnh kéo dài 216 năm (1576-1786) với 10 đời chúa là:

Trịnh Tùng (1570-1670)

Trinh Tráng (1623-1657)

Trịnh Tạc (1657-1682)

Trịnh Căn (1682-1709)

Trịnh Cương (1709-1729)

Trịnh Giang (1729-1740)

Trịnh Doanh (1740-1767)

Trịnh Sâm (1767-1782)

Trịnh Cán (1782)

Trịnh Khải (1783-1786).

Lấy được Bắc Hà rồi, nhà Tây Sơn phân quyền lại: Nguyễn Nhạc làm Trung ương Hoàng Đế đóng đô ở Qui Nhon, Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương ở đất Thuận Hóa, lấy đèo Hải Vân làm giới hạn. Riêng nhà Tây Sơn đã chia làm “ba nuớc”. Nhưng Nguyễn Lữ ở Gia Định thì không bao giờ vững và Nguyễn Ánh vẫn tự coi là chúa chính thống, còn Quy Nhơn và Thuận Hóa thì hiềm khích, có lúc Nguyễn Huệ đã kéo quân vào đánh Nguyễn Nhạc. Trong khi ấy, vua Lê còn thoi thóp ở Thăng Long và dùng Trịnh Bồng làm chúa. Lên được tấm bản đồ phân ranh hành chính của nước ta trong thời kỳ lắm vua nhiều chúa này thật không dễ[2].(Bản đồ 26)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0007 ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0026

Năm 1787, Nguyễn Huệ dứt bỏ nhà Lê nhưng vẫn đặt Giám quốc “để giữ tông miếu tiền triều”. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc xin cầu viện. Nhà Lê làm vua cả thảy được 360 năm (1428-1788). Tiếp theo Lê Thế Tông (đã chép ở một đoạn trên) là các vua:

Lê Kính Tông (1600-1619).

Lê Thần Tông (1619-1643) lần thứ nhất.

Lê Chân Tông (1643-1649).

Lê Thần Tông (1649-1662) lần thứ hai.

Lê Huyền Tông (1663-1671).

Lê Gia Tông (1672-1675).

Lê Hi Tông (1676-1705).

Lê Dụ Tông (1706-1729).

Lê Duy Phương (1729-1732).

Lê Thuần Tông (1732-1735).

Lê Ý Tông (1735-1740).

Lê Hiển Tông (1740-1786).

Lê Mẫn Đế (1787-1788) tức Chiêu Thống.

Đó là những vị vua ngồi làm vì, còn quyền bính đều trong tay họ Trịnh quyết đoán. Họ Trịnh suy thì nhà Lê cũng tàn.

Dân số Đàng Ngoài, ở niên đại 1750, có khoảng 4.000.000 người.

Quang Trung (1788-1792). Khi được tin quân Thanh mượn tiếng cứu Lê để xâm chiếm nước ta, Nguyễn Huệ tức vị xưng đế rồi đem quân ra Bắc để phá quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị bỏ hết ấn tín mà chạy (1789). Thắng mà không kiêu, Nguyễn Huệ biết lượng sức mình đối với Trung Quốc to gấp mấy chục lần nước ta, nên tạm hoãn binh và xin cầu phong. “Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho Quang Trung làm An Nam Quốc Vương[3]. Đó là tuóc hiệu mà “thiên triều” vẫn dùng để phong cho vua nuớc ta. Tuy ta tự xưng nước là Đại Việt nhưng Trung Quốc chỉ gọi ta là An Nam. Trên danh nghĩa, tước hiệu An Nam Quốc Vương là làm vua toàn quốc từ Nam chí Bắc, song thực tế thì lúc đó Nguyễn Ánh đã làm chủ Nam Bộ và Trung ương Hoàng Đế (tức Nguyễn Nhạc) vẫn còn làm chủ ở phía Nam Trung Bộ tới đèo Hải Vân.

Cảnh Thịnh (1792-1802) tức Nguyễn Quang Toản, lên nối ngôi cha, còn nhỏ tuổi không làm được gì, chứng kiến từ thất trận này đến thất trận khác, từ Nam ra Bắc và chỉ tồn tại được 10 năm. (Bản đồ 27) Và (Bản đồ 28)


ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0027

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0028

[1] Phan Khoang, Xứ Đàng Trong 1558-1777. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1970. Tr. 131-130

[2] Lê Thành Khôi, Le VietNam, histoire et civilisation. Les editions de Minuit. Paris, 1955. Bản đồ Le Đạí Việt en 1790, trang 528.

[3] Trần Trọng Kim, sdd, tr. 376.

Phần IV : Thời kỳ thống nhất lãnh thổ với quốc hiệu Việt Nam

1. QUỐC HIỆU VÀ CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI TRlỀU NGUYỄN (1802-1945)

a. Giai đoạn độc lập (1802-1862)

Gia Long (1802-1819) tức Nguyễn Ánh, sau khi dứt được Tây Sơn, liền phái Lê Quang Định sang Trung Quốc cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt. Nhà Thanh chỉ nhận đổi quốc hiệu là Việt Nam và phong cho Nguyễn Anh là Việt Nam Quốc Vương (1804) . (Bản đồ 29)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0029

Toàn quốc khi ấy chia làm 23 trấn và 4 dinh:

Bắc Thành gồm 11 trấn:

5. nội trấn:
1. Sơn Nam Thượng
2. Sơn Nam Hạ
3. Sơn Tây
4. Kinh Bắc
5. Hải Dương

6. ngoại trấn:
1. Tuyên Quang
2. Hưng Hóa
3. Cao Bằng
4. Lạng Sơn
5. Thái Nguyên
6. Quảng Yên

Gia Định Thành gồm 5 trấn:
1. Phiên An (địa hạt Gia Định)
2. Biên Hòa
3. Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang)
4. Định Tưòng
5. Hà Tiên

Miền Trung gồm 7 trấn:
1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Quảng Ngãi
4. Bình Định
5. Phú Yên
6. Bình Hòa (sau là Khánh Hòa)
7. Bình Thuận

Kinh Kỳ thống quản 4 dinh:
1. Quảng Đức dinh (sau là Thừa Thiên)
2. Quảng Trị dinh
3. Quảng Bình dinh
4. Quảng Nam dinh
(Bản đồ 30)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0030

Từ năm 1805, bắt đầu công cuộc lập địa bạ cho mỗi xã thôn trên toàn quốc, làm từ Bắc vào Nam. Đây là một công việc vĩ đại.

Dân số Việt Nam, ở niên đại 1802 đầu đời Gia Long, có khoảng 5.780.000 người.

Minh Mệnh (1820-1840) chủ trương tập quyền, chia cương vực ra làm 30 tinh và 1 phủ Thừa Thiên thuộc Kinh Kỳ.

1. Phủ Thùa Thiên
2. Lạng Sơn
3. Quảng Yên
4. Cao Bằng
5. Tuyên Quang
6. Thái Nguyên
7. Bắc Ninh
8. Hải Dương
9. Hưng Hóa
10. Sơn Tây
11. Hà Nội
12. Nam Định
13. Hưng Yên
14. Ninh Bình
15. Thanh Hóa
16. Nghệ An
17. Hà Tĩnh
18. Quảng Bình
19. Quảng Trị
20. Quảng Nam
21. Quảng Ngãi
22. Bình Định
23. Phú Yên
24. Khánh Hòa
25. Bình Thuận
26. Biên Hòa
27. Gia Định
28. Định Tường
29. Vĩnh Long
30. An Giang
31. Hà Tiên.
Đến năm 1836 thì Minh Mệnh hoàn thành công cuộc lập địa bạ trên toàn quốc (hiện còn lưu giữ được 10.044 tập gồm khoảng 15.000 quyển Địa bạ). Đó là một sưu tập vô giá để mô tả cương vục nuớc ta ở từng ngôi làng, từng mảnh ruộng đất.
Năm 1838, Minh Mệnh đổi tên nuớc là Đại Nam hoặc Đại Việt Nam .
Dân số Việt Nam ở cuối đời Minh Mệnh năm 1840 có khoảng 7.764.128 người.

Thiệu Trị (1841-1847).

Tự Đức (1847-1883). Về đại thể, cho đến năm 1862, vẫn giữ nguyên tổ chức hành chính như trên.

b. Từ khi bị Pháp đô hộ (1862-1945)

Quân Pháp đánh phá Đà Nang năm 1858, chiếm Sài Gòn năm 1859. Huế phải ký nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1862. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Năm 1883, Pháp chiếm Bắc Kỳ, rồi Huế và miền Trung. Các ngôi vua triều Nguyễn sau Tự Đúc đều mất quyền tự chủ, việc chính trị phải theo Pháp xếp đặt:

1. Dục Đức (1883)
2. Hiệp Hòa (1883)
3. Kiến Phước (1884)
4. Hàm Nghi (1884-1885)
5. Đồng Khánh (1885-1888)
6. Thành Thái (1889-1907)
7. Duy Tân (1907-1916)
8. Khải Định (1916-1925)
9. Bảo Đại (1925-1945)

Pháp bỏ quốc hiệu Việt Nam, Đại Nam hay Đại Việt Nam, và chia cương vực nước ta thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Đó là:

Annam hay Trung Kỳ
Tonkin hay Bắc Kỳ
Cochinchine hay Nam Kỳ

Bắc Kỳ gồm 27 tỉnh và 2 thành phố:

1. Thành phố Hà Nội
2. Thành phố Hải Phòng
3. Bắc Giang
4. Bắc Ninh
5. Hà Đông
6. Hải Dương
7. Hà Nam
8. Hưng Yên
9. Kiến An
10. Nam Định
11. Ninh Bình
12. Phúc Yên
13. Phú Thọ
14. Quảng Yên
15. Sơn Tây
16. Thái Bình
17. Thái Nguyên
18. Tuyên Quang
19. Vĩnh Yên
20. Yên Báy
21. Bắc Cạn
22. Cao Bằng
23. Hà Giang
24. Hòa Bình
25. Lạng Sơn
26. Lào Kay
27. Lai Châu
28. Móng Cáy
29. Sơn La
Trung Kỳ gồm 16 tỉnh:
1. Nghệ An
2. Hà Tĩnh
3. Thanh Hóa
4. Quảng Trị
5. Quảng Bình
6. Thừa Thiên
7. Quảng Ngãi
8. Bình Định
9. Phú Yên
10. Nha Trang
11. Phan Rang
12. Quảng Nam
13. Phan Thiết
14. Đồng Nai Thượng
15. Kontum
16. Darlac

Nam Kỳ gồm 20 tỉnh, 3 thành phố và 1 khu đảo:
1. Thành phố Sài Gòn
2. Thành phố Chợ Lớn
3. Thành phố Vũng Tàu
4. Khu đảo Côn Lôn
5. Rạch Giá
6. Hà Tiên
7. Gò Công
8. Châu Đốc
9. Sóc Trăng
10. Gia Định
11. Long Xuyên
12. Vĩnh Long
13. Tây Ninh
14. Sa Đéc
15. Chợ Lớn
16. Thủ Dầu Một
17. Cần Thơ
18. Bạc Liêu
19. Biên Hoa
20. Mỹ Tho
21. Trà Vinh
22. Bà Rịa
23. Tân An
24. Bến Tre.

Tính chung Bắc Kỳ có 37 phủ, 88 huyện, 38 châu. Phủ không còn quản huyện như xưa. Nơi nào to gọi là phủ, nơi nhỏ gọi huyện. Châu cũng như huyện, nhưng ở các vùng có dân tộc thiểu số. Gồm 1.264 tống, 10.105 xã, 29 mường, 2.141 bản. Mường và bản cũng chỉ đặt ở những nơi có đồng bào dân tộc. Trên vùng biên giới lại có 4 đạo quan binh.

Tính chung ở Trung Kỳ có 3 đạo (đạo cao hơn phủ), 33 huyện, 58 huyện, 541 tổng và 9.093 xã. Có 6 thành phố là Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng (nhượng cho Pháp), Qui Nhơn và Đà Lạt.

Tính chung ở Nam Kỳ có 78 quận (không còn chia ra làm hai cấp phủ huyện như ở Bắc và Trung Kỳ), 197 tổng Kinh và 10 tổng Thượng, 1.470 xã (không phân biệt thôn và xã nữa) .

Đó là tình hình nước ta: không còn quốc hiệu, và cương vực thì bị chia cắt thiếu thống nhất, suốt thời gian bị Pháp thống trị.
Dân số nước Việt Nam thời thuộc Pháp:

Năm 1870 có khoảng 10.000.000 người
Năm 1901 – 13.000.000 người
Năm 1943 – 22.600.000 người

2. QUỐC HIỆU VÀ CƯƠNG VỰC NƯỚC TA TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY

Sau Cách mạng mùa thu, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945. Đầu năm 1946, họp Quốc hội và thành lập nuớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hiệu Việt Nam lại xuất hiện rạng rỡ hơn hổi đầu thế kỷ 19. Nhưng từ 23-9-1945, thực dân Pháp xua quân đánh chiếm Sài Gòn và một số địa điểm khác ở miền Nam. Cuối năm 1946, Pháp đánh chiếm Hà Nội và một số địa điểm khác trên toàn quốc. Cuộc kháng chiến bắt đầu trên phạm vi cả nước. Cương vực nước ta phải cắt thành những “khu” và “liên khu” quân sự để đáp ứng nhu cầu kháng chiến. Những tỉnh, phủ, huyện cũ đuợc chia cắt hoặc dồn nhập cho thích ứng với các khu và quân khu. Tình hình diên cách lúc này hết sức phức tạp, muốn nghiên cứu kỹ, thường phải dựa trên những tư liệu hồi ký, vì thiếu các văn bản pháp qui liên tục.

Hiệp định Genève 1954 lấy sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời cho việc chuyển quân và dự tính đến năm 1956 thì Hiệp Thương thống nhất đất nước. Nhưng miền Nam với chiến lược của Hoa Kỳ, không thi hành Hiệp định và tổ chức chính quyền riêng với danh xưng Việt Nam Cộng hòa, tồn tại tới năm 1975. Sau đây là tình hình phân ranh hành chính của hai miền trong thời gian đó:

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Thủ đô: Hà Nội
Khu tự trị Việt Bắc, 6 tỉnh:
1. Hà Giang
2. Bắc Cạn
3. Cao Bằng
4. Thái Nguyên
5. Tuyên Quang
6. Lạng Sơn
Khu tự trị Thái-Mèo, 2 tỉnh:
1. Lai Châu
2. Sơn La
Khu đặc biêt, 1 tỉnh:
1. Hồng Quảng
Thành phố trực thuộc Trung ương:
2. Hải Phòng
Các tỉnh trực thuộc Trung ương, 21 tỉnh:
1. Lào Cai
2. Bắc Ninh
3. Hà Đông
4. Yên Bái
5. Bắc Giang
6. Hòa Bình
7. Phú Thọ
8. Hải Ninh
9. Hà Nam
10. Sơn Tây
11. Hải Dương
12. Thái Bình
13. Vĩnh Phúc Yên
14. Hưng Yên
15. Kiến An
16. Ninh Bình
17. Thanh Hóa
18. Hà Tình
19. Nam Định
20. Nghệ An
21. Quảng Bình
Trên đây là tình hình phân ranh ở miền Bắc hồi 1962. Cũng ở thời điểm đó, miền Nam tình hình phân ranh hành chính như sau:

VIỆT NAM CỘNG HÒA
Đô thành: Sài Gòn
Trung nguyên Trung Phần, 10 tỉnh:
1. Quảng Trị
2. Bình Định
3. Thừa Thiên
4. Phú Yên
5. Quảng Nam
6. Khánh Hòa
7. Quảng Tín
8. Ninh Thuận
9. Quảng Ngãi
10. Bình Thuận

Cao nguyên Trung Phần, 7 tỉnh:
1. Kontum
2. Quảng Đúc
3. Pleiku
4. Tuyên Đúc
5. Phú Bổn
6. Lâm Đồng
7. Darlac
Miền Đông Nam Phần, 11 tỉnh:
1. Bình Tuy
2. LongKhánh
3. Phước Thành
4. Phước Long
5. Bình Long
6. Biên Hòa
7. Phuớc Tuy
8. Gia Định
9. Bình Duong
10. Tây Ninh
11. Côn Sơn
Miền Tây Nam Phần, 13 tỉnh:
1. Long An
2. Kiến Tưòng
3. Định Tường
4. Kiến Phong
5. Kiến Hòa
6. Vĩnh Long
7. An Giang
8. Vĩnh Bình
9. Phong Dinh
10. Chưong Thiện
11. Kiên Giang
12. Ba Xuyên
13. An Xuyên

Ở Trung Phần bắt đầu bỏ các danh xưng phủ huyện mà dùng đơn vị quận như ở Nam Kỳ dưới thời Pháp. Tính chung miền Nam khi ấy chia ra 228 quận, 339 tống, 2.547 xã và 16.243 ấp . Có thể dễ dàng nhận thấy cấp tổng để lơi lỏng, cấp xã và ấp mất dần quyền tự trị.

Ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, từ 1960 đến 1975, tình hình phân bổ hành chính không giữ nguyên như bảng kê trên mà thay đổi khá nhiều, cần có thêm những bảng thống kê và chú thích hơn nữa mới nắm hết được quá trình diên cách.
Năm 1962, dân số Việt Nam có khoảng 31.275.000 người (miền Bắc có 17.000.000 và miền Nam có 14.275.000 người).

3. CƯƠNG VỰC NƯỚC CỘNG HỔA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Ngày 30-4-1975 giải phóng Sài Gòn, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cuối năm, tiến hành Hiệp thương Thống nhất. Đầu năm 1976, quốc hội khóa VI thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó đến nay, nhiều tên và địa phận các đơn vị hành chính đã đuợc thay đổi. Như từ năm 1976, cả nuớc chia ra 40 tỉnh, năm 1992 chia ra 53 tỉnh, năm 1997 chia ra 61 tỉnh và từ năm 2003 chia ra 64 tỉnh (59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương). Dưới đây là thống kê 64 tỉnh thành vừa kể:
(Bản đồ 31)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0031

DIỆN TÍCH, DÂN SỐ, MẬT ĐỘ DÂN CƯ CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ

Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi truòng và Tổng cục Thông kê năm 2003.

Số liệu các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện Biên, Hậu Giang, Lai Châu, Cần Thơ, Lào Cai, theo Nghị quyết 22/2003/QH 11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội

STT

Tên tỉnh

Diện tích (km2)

Dân số (nghìn người)

Mật độ

dân số

CẢ NƯỚC. 329.314,56 80.930,200 246
1. VÙNG TÂY BĂC
1 Lai Châu 9.065,12 313,511 35
2 Điện Biên 9.554,10 440,300 46
3 Sơn La 1.4055,00 955,400 68
4 Hòa Bình 4.662,54 792,300 170
II. VÙNG ĐÔNG BẮC
5 Hà Giang 7.884,37 648,100 82
6 Cao Bắng 6.690,72 503,000 75
7 Lào Cai 6.357,08 ■ 547,106 86
8 Yên Bái 6.882,92 713,000 104
9 Phú Thọ 3.519,65 1.302,700 370
10 Tuyên Quang 5.868,00 709,400 121
11 Băc Cạn 4.857,21 291,700 60
12 Thái Nguyên 3^42,64 1.085,900 307
13 Lạng Sơn 8.305,21 724,300 87
14 Băc Giang 3.822,70 1.547,100 405
1′, Quảng Ninh 5.899,58 1.055,600 179
III. VÙNG ĐỒNG BẮNG SÔNG HỐNG
16 Thành phố Hà Nội 920,98 3.007,000 3.265
17 Thành phố Hải Phòng 1.526,30 1.754,100 1.149

 

18 Vĩnh Phúc 1.371,41 1.142,900 833
19 Há Tây 2.192,08 2.479,400 1.131
20 Bắc Ninh 807,57 976,700 1.209
21 Hưng Yên 923,09 1.112,400 1.205
22 Hải Dương 1.648,37 1.689,200 1.025
23 Hà Nam 852,17 814,900 956
24 Thái Bình 1.545,42 1.831,100 1.185
25 Nam Định 1.641,33 1.935,000 1.179
26 Ninh Bình • 1.383,72 906,000 655
IV. VÙNG BẮC TRUNG BỘ
27 Thanh Hóa 11.116,34 3.620,300 326
28 Nghệ An 16.487,39 2.977,300 181
29 Há Tĩnh 6.055,64 1.283,900 212
30 Quảng Bình 8.051,86 818,300 102
31 Quảng Trị 4.745,74 608,500 128
32 Thừa Thiên-Huế 5.053,99 1.101,700 218
V. VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
33 Thành phố Đà Nắng 1.255,53 747,100 595
34 Quảng Nam 10.407,42 1.438,800 138
35 Quảng Ngãi 5.137,62 1.250,300 243
36 Bình Định 6.025,06 1.530,300 254
37 Phú Yên 5.045,31 836,700 166
38 Khánh Hòa 5.198,21 1.096,600 211
39 Ninh Thuận 3.360,07 546,100 163
40 Bình Thuận 7.828,46 1.120,200 143
VI. VÙNG TÂY NGUYÊN
41 Kon Tum 9.614,50 357,400 37
42 Gia Lai 15.494,88 1.075,200 69

 

43 Đắk Lắk 13.062,01 1.666,854 128
44 Đắk Nông 6.514,38 363,118 56
45 Lâm Đồng 9.764,79 1.120,100 115
VII. VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
46 Thành phố Hồ Chí Minh 2.095,24 5.554,800 2.651
47 Bình Phước 6.857,35 764,600 112
48 Tây Ninh 4.029,60 1.017,100 252
49 Bình Dương 2.695,55 851,100 316
50 Đống Nai 5.894,78 2.142,700 363
51 Bà Rịa-Vũng Tàu 1.982,25 884,900 446
VIII. VÙNG ĐỐNG BĂNG SỐNG cửu LONG
52 Thảnh phô’ cần Thơ 1.389,60 1.112,121 800
53 Long An 4.491,22 1.392,300 310
54 Đổng Tháp 3.246,07 1.626,100 501
55 An Giang 3.406,23 2.146,800 630
56 Tiến Giang 2.366,63 1.660,200 702
57 Bến Tre 2.321,62 1.337,800 576
58 Vĩnh Ị.ong 1.475,20 1.036,100 702
59 Kiên Giang 6.268,17 1.606,600 256
60 Hậu Giang 1.607,73 766,105 477
61 Trà Vinh 2.215,15 1.002,600 453
62 Sóc Trăng 3.223,30 1.234,300 383
63 Bạc Liêu 2.525,74 775,900 307
64 Cà Mau 5.201,53 1.181,200 227<[1]>

Vậy là cả nước có 59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung Ương.

[1]   Bộ Tài nguyên và Môi trường. Hà Nội, 2005.

LỜI TỰA

Khi soạn thảo tập sách nhỏ này với nhan đề Việt Nam Quốc Hiệu và Cương Vực qua các thời đại ngoài các bộ Chính sử, tôi mạn phép sử dụng tư liệu đã công bố của các nhà sử học lớn như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Phan Khoang, Phan Huy Lê, Lê Thành Khôi, Bửu Cầm, v.v…

Đây là dề tài cần nhiều bản đồ hay sơ đồ minh họa, đặc biệt khi nói về cương vực. Tôi chỉ vẽ thêm những sơ đồ thiết yếu mà các sử gia trên chưa vẽ, -hoặc có sửa chữa đôi ba địa danh không thích hợp với tình thế hiện đại. Đường biên giới trong các sơ đồ hầu hết là phỏng định, đôi khi dùng đường biên giới ‘lịch sử” ngày nay cốt để dễ nhận định vị trí. Xin độc giả coi đây là những sơ đồ chỉ mang tính hưóng dẫn đại khái, nhất là đối với những sơ đồ vẽ theo tỷ lệ quá nhỏ.

Cũng xin độc giả thông cảm cho: trong tập này chúng tôi không đề cập đến các mặt lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội hay văn hóa dẫu có liên quan gần xa tới vấn đề Quốc Hiệu và Cương Vực. Tuy nhiên tất cả các họ cầm quyền, các vua chúa trị vì, các chế độ chính trị, từ thời Hồng Bàng đến nay, đều được ghi chép theo diễn biến thời gian.

Dân số là vấn đề cực kỳ nan giải trong quá trình phát triển của dân tộc ta. Chúng tôi đã dựa vào những thống kê được lập chủ yếu từ đầu thế kỷ XX rồi ngược dòng lịch sử để phỏng tính rất đại khái ở mỗi thời điểm về trước.

Nay xin trình bày với quý học giả và độc giả tập sách nhò này. Chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Tôi thành thật cám ơn quý vị sẽ chỉ bảo cho những gì còn sai sót hay cần bổ sung.

TP.HCM, mùa thu năm 1999

NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU  Nguồn bài đăng

CHỮ VIẾT TẮT

Đại Nam thực lục

ĐNTL

Khâm Định Việt sử

KĐVS

Việt Nam Sử lược

VNSL

Lịch sử Việt Nam 1

LSVN

Đào Duy Anh

ĐDA

Bửu Cầm

BC

Lê Thành Khôi

LTK

Trần Trọng Kim

Việt Nam – Quốc hiệu và Cương vực qua các thời đại

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0029

Nguyễn Đình Đầu

Phần I: Thời Kỳ dựng nước


1. HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC GỌI LÀ VĂN LANG, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG CHÂU, CHIA NƯỚC THÀNH 15 BỘ:

“Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu la XÍCH QUỶ”’1‘. Nước Xích Quỷ bắc giáp hồ Động Đình, đông giáp biển Nam Hải, nam giáp nuớc Hồ Tôn, tây giáp Ba Thục.

“Vua đầu của họ Hồng Bàng là Kinh Dương
Vương, tương truyền là vị vua trước tiên của nước ta, sinh ra Lạc Long
Quân… Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh ra được một trăm người con trai:
đó là tổ tiên của Bách Việt, tôn con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi
dựng nước gọi là VĂN LANG, đóng đô ở Phong Châu, truyền nhau được mười
tám đbi, đều gọi là Hùng Vương”[1].  (Bản đồ 1)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-01

Hầu hết sử thần nhà Nguyễn và vua Tự Đức đều cho các truyền thuyết “tiên
rồng’, “trăm trứng” hay “trăm con trai” là “đồng một loại hoang đường”,
và chỉ nhận đó là “một lời chúc” cho dân tộc mau phát triển và sống
trong tình nghĩa đồng bào ruột thịt[2].


“Khởi đầu chia nước ra mười lăm bộ là[3]:

  1. Giao Chỉ (sau là Hà Nội, Hà Đông, Nam Định, Hưng Yên)
  2. Chu Diên (sau là Sơn Tây).
  3. Phúc Lộc (sau cũng là Sơn Tây).
  4. Vũ Ninh (sau là Bắc Ninh).
  5. Việt Thường (sau là Thuận Hóa, Quảng Nam).
  6. Ninh Hải (sau là Quảng Yên).
  7. Dương Tuyền (sau là Hải Duơng).
  8. Lục Hải (sau là Lạng Sơn).
  9. Vũ Định (sau là Thái Nguyên, Cao Bằng).
  10. Hoài Hoan (sau là Nghệ An).
  11. Cửu Chân (sau là Thanh Hóa).
  12. Bình Văn (chưa biết ở đâu).
  13. Tân Hưng (sau là Hưng Hóa, Tuyên Quang).
  14. Cửu Đức (sau là Hà Tĩnh).
  15. Văn Lang (là nơi vua đóng đô, tức Phong Châu, sau thuộc hai tỉnh Vĩnh Tưòng và Lâm Thao của tỉnh Sơn Tây).

Nước VĂN LANG gồm mười lăm bộ, ‘ đông giáp Nam Hải, tây liền Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam tiếp nước Hồ Tôn”[4].

Nam Hải tức biển Đông, Hồ Tôn sau là
Chiêm Thành. Nước Văn Lang “đông giáp Nam Hải”, “nam tiếp nước Hồ Tôn”
là đúng, nhưng “bắc đến hồ Động Đình” và “tây liền Ba Thục” thì sai. Địa
bàn đó là quá rộng lớn, bao gồm khắp vùng Hoa Nam, là nơi cư trú của
tất cả các dân tộc Bách Việt chứ không phải của riêng người Lạc Việt.
Người Lạc Việt cũng chưa bao giờ thống lãnh toàn thể các dân tộc Bách
Việt, vả lại, vị trí của 15 bộ đều tập trung ở bắc phần Việt Nam nay.

Sử thần Nguyễn triều đã cẩn án: “Sử cũ
chép nước Văn Lang phía tây tiếp Ba Thục, phía bắc đến Động Đình, chẳng
là quá sự thật lắm ru?”[5].
Chính Tự Đức cũng đã phê: “Quảng Tây cùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Vân Nam và Tứ
Xuyên gần nhau, tức là đất Sở và Thục xưa. Làm sao biết đuợc tới đó?
(an tri kỳ sở giới hà như?)a). Ngay như tên 15 bộ cũng có ba
danh sách khác nhau và bị Lê Quý Đôn đặt nghi vấn hết: “Tôi ngờ rằng,
những tên đó là do các hậu Nho góp nhặt vay mượn chép ra”[6].

Dân số” cuối thời Văn Lang, ở niên đại 3000 trước Công nguyên, có khoảng 500.000 người.

Từ vài chục năm nay, ngành khảo cổ học
đã phát hiện ra quá trình liên tục của nền văn minh sông Hồng (hay còn
gọi là văn minh Văn Lang, văn minh Đông Sơn)[7].
Quá trình này đuợc giải thích khá rõ: “Văn hóa Đông Sơn không còn là
một hiện tượng đột ngột, gián đoạn, mà là kết quả tất nhiên của một quá
trình phát triển liên tục từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại
sắt. Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gồ Mun là ba giai đoạn phát triển tiền
Đông Sơn tiêu biểu cho dòng chủ lưu của vùng trung du và vùng cao châu
thổ sông Hồng vốn được coi là “Đất tổ” của các vua Hùng, là trung tâm
của nước Văn Lang”(4). Đó là “một quá trình hình thành tại
chỗ nền văn minh sông Hồng mà đỉnh cao là Đông Sơn”. “Quá trình hình
thành và phát triển của nền văn minh sông Hồng gắn liền với quá trình
liên kết các địa phương thành lãnh thổ Văn Lang, quá trình đấu tranh và
dung hợp các bộ lạc, các nhóm dân cư lại thành cộng đồng cư dân Văn
Lang, chủ nhân của nền văn minh ấy”[8]. (Bản đồ 2)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0002

Cho nên, tuy vẫn cần tìm hiểu thêm về
thời điểm xuất hiện và danh xưng họ Hồng Bàng, về Hùng Vương hay Lạc
Vương, về tên gọi các bộ lạc, v.v…, ta đã có thể khẳng định là “nền văn
minh sông Hồng mà đỉnh cao là Đông Sơn” đã ghi dấu giai đoạn hình thành
“quốc gia” của 15 bộ tộc Lạc Việt liên kết với nhau dưới quyền một
“trưởng thượng” chung. Hình thức quốc gia đó còn sơ sài và lỏng lẻo,
nhưng “đồng bào” đã biết khai thác thủy triều lên xuống mà làm ruộng lạc
và sống theo những “phong tục thuần hậu, chất phác”.

Những người chép sử xưa thường lẫn nước
Văn Lang với nước Xích Quỷ. Theo tục truyền thì “Lộc Tục làm vua phương
Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nuớc Xích
Quỷ bấy giờ phía bắc giáp hồ Động Đình, phía nam giáp nuớc Hồ Tôn, phía
tây giáp Ba Thục, phía đông giáp bể Nam Hải… về sau, nuớc Xích Quỷ chia
ra những nước gọi là Bách Việt… Đấy cũng là một điều nói phỏng, chứ
không có lấy gì làm đích xác được”[9].
“Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất” (2879
trước CN), mà sử ta cũng lấy năm Nhâm Tuất là đầu đời Hồng Bàng và nuớc

Văn Lang, nên cũng không cần nghiên cứu thêm về địa bàn nước Xích Quỷ nữa. vả lại chưa chắc đã có tên nước Xích Quỷ!

2. THỤC VƯƠNG CHIẾM LẤY VĂN LANG, ĐỔI TÊN NƯỚC LÀ ÂU LẠC, ĐÓNG ĐÔ Ở PHONG KHÊ

Họ Hồng Bàng làm vua “cả thảy hai ngàn sáu trăm hai mươi hai năm (2879-258 trước CN), không biết lấy bằng cứ ở đâu”[10].
Vào năm Quý Mão (258 tr.CN), Thục Phán đem quân chiếm lấy Văn Lang, đổi
tên nước là Âu LẠC, đóng đô ở Phong Khê. “Theo sử cũ, vương họ Thục,
tên Phán, người nước Ba Thục”[11].
sử thần nhà Nguyễn không tin Phán là người Ba Thục vì nước này cách Văn
Lang tới hai ba ngàn dặm, khó mang quân đến lắm, vả lại khi ấy Ba Thục
đã bị tiêu diệt rồi, đâu còn vua nữa, nên phỏng đoán: “Hoặc giả ngoài
cõi tây bắc, gần nước Văn Lang, còn có một họ Thục khác bèn được nhận là
Thục Vương cũng chưa biết được. Nếu nói Thục Vương là người Ba Thục thì
không đúng”(3). Mùa xuân, tháng Ba, “vua xây thành ở Phong
Khê, rộng một ngàn trượng, xoay quanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa
thành” (ở Cổ Loa nay), về nguồn gốc Thục Phán và Ba Thục, còn khá nhiều
giả thuyết khác nữa[12].

Một truyền thuyết bằng thi ca của người
Tày nói về bộ lạc Nam Cương xưa, có lẽ giúp ta hiểu rõ hơn về Thục Phán
và tại sao đặt quốc hiệu là Âu Lạc. “Ớ phía Nam Trung Quốc, đầu sông Tả
Giang, về gần nước Văn Lang, có bộ Nam Cương, hùng cứ một phương. Bộ này
do Thục Chế tức An Tri Vương đứng đầu, đóng đô ở Nam Bình do chín xứ
hợp thành. Các xứ cứ ba năm triều cống một lần. Chín xứ ấy là: Thạch
Lâm, Hà Quảng, Bảo Lạc, Thạch An, Phúc Hoa, Thượng Lang, Quảng Nguyên,
Thái Ninh, Quy Sơn… Thục Chế làm vua 60 năm, thọ 95 tuổi. Con là Thục
Phán lên thay”[13].
Người của bộ lạc Nam Cương và các xứ lân cận cũng là một dân tộc Việt
mà Trung Quốc gọi là Quỳ Việt hay Tây Âu. Sau này có sắc dân nguời
Choang và nguời Tày, chính là hậu duệ của Tây Âu. Khi Thục Phán chiếm
đuợc Văn Lang thì hợp nhất hai nhóm dân tộc Âu Việt (cũng gọi là Tây Âu)
với Lạc Việt thành một Quốc gia và lấy quốc hiệu là Âu LẠC. Nước Âu Lạc
chưa chia ra đơn vị hành chính, mà vẫn giữ các bộ lạc tự trị và cha
truyền con nối. Đó là các bộ lạc: (Bản đồ 3)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0003

Mê Linh Tây Vu Liên Lâu
Long Biên Chu Diên Bắc Đái
Kê Từ An Định Câu Lậu
Khúc Dương Vô Công Dư Phát
Tư Phố Cư Phong Vô Biên
Đô Lung Hàm Hoan

Bộ lạc Tây Vu là bộ lạc căn bản của Thục
Phán, nguyên trước chỉ ở miền thượng lưu sông Lô, bao gồm cả miền
thượng lưu sông Gầm và sông Chảy, tức miền Hà Giang và bắc Tuyên Quang
ngày nay. Địa bàn này là nơi cư trú chủ yếu của người Tày. Họ cũng ở
trên một phần đất của Long Biên nữa[14].

Dân số cuối thời Âu Lạc, ở niên đại 180 trước Công nguyên, có khoảng 600.000 người.

Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc,
thì bên Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất thiên hạ. Năm 214 trước
CN, Thủy Hoàng sai Đồ Thư đi đánh Bách Việt. An Dương Vương đành chịu
phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Âu Lạc thành ba đơn vị gọi là:

–           Quận Nam Hải (Quảng Đông).

–           Quận Quế Lâm (Quảng Tây).

–           Tượng Quận (Bắc Việt).

Với những sử liệu phát hiện gần đây,
niên đại của nước Âu Lạc đuợc điều chỉnh lại: Nhà Tần đem quân xâm chiếm
địa bàn Tây Âu của Thục Phán và Lạc Việt của Hùng Vương năm 214 trước
CN. Năm 208 trước CN, Thục Phán đứng đầu cả 2 bộ lạc Tây Âu và Lạc Việt,
đuổi được quân nhà Tần, rồi lập ra nước Âu LẠC và xưng là An Dương
Vương (208-179 tr.CN)[15], chỉ tồn tại khoảng gần 30 năm. (Bản đồ 4)

 ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0004
[1]    Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (VNSL). In lần thứ 6 – Tân Việt, Sài Gòn, 1958. tr23.

[2]    KĐVS, sđd, tr.11-13.

[3]    Như trên. tr. 17-23.

[4]
KĐLS, sđd, trang 17. – Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương
Ninh. Lịch Sử Việt Nam I (LSVN). NXB Đại Học và Trung Học chuyên nghiệp.
Hà Nội, 1985. Trang 105, cước chú 2: “Hiện nay có ba danh sách khác
nhau về 15 bộ của nước Văn Lang được chép trong những thư tịch xưa nhất
của ta. Việt Sử Lược chép là: Giao Chỉ, Việt Thường Thị, Vũ Ninh, Xuân
Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Tân Xương, Bình Văn, Văn
Lang, cửu Chân, Nhật Nam, Hoài Nam, Cửu Đức. – Lĩnh Nam Chích Quái chép
là: Giao Chỉ, cửu Chần, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Minh Hải,
Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chần, Nhật Nam, Chân
Định, Quế Lầm, Tượng Quận. – Dư địa chí của Nguyễn Trãi và KĐVS ghi lại
như trên”.

[5]    KĐVS, sđd, trang 19-21.

[6]    LSVN, sđd, trang 105.

3.4. Như trên, trang 107-109.

[8]    Như trên, trang 107-109.

[9]    Trần Trọng Kim, VNSL, sđd. tr.23-24.

[10]  KĐVS, sđd, tr.37.

[11]  Như trên, tr.37.

[12]  Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời. NXB Khoa Học Hà Nội, 1964. tr.18-20.

[13]  Như trên, tr.20.

[14]  Như trên, tr.27.
[15]  Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sđd, tr 141-144.

 


Phần II: Thời kỳ đấu tranh giành độc lập


1. NƯỚC NAM VIỆT (207- 111 TRƯỚC CN)

Nhà Tần đổi nuớc Âu Lạc thành Tượng Quận
nhưng không trực trị, họ Thục vẫn làm vua. Chẳng được bao lâu nhà Tần
suy, quan úy quận Nam Hải là Triệu Đà nổi lên tự lập, đem quân đánh lấy
nước Âu Lạc, lập ra nước NAM VIỆT vào năm 206 tr. CN . Từ đó, nhà Thục
chấm dứt và đã làm vua Âu Lạc được 50 năm. Triệu Đà sai hai viên sứ thần
coi giữ hai quận Giao Chỉ và cửu Chân (địa bàn Âu Lạc cũ). (Bản đồ 5)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0005

Ở Nam Việt, Triệu Đà xưng đế. Bên Trung
Quốc, nhà Hán dứt họ Tần và họ Sở. Nhà Triệu làm vua Nam Việt được 96
năm (207- 111 tr. CN) truyền được 5 đời:

– Triệu Vũ Vương (207- 137 tr.CN).
– Triệu Văn Vương (137-125 tr.CN).
– Triệu Minh Vương (125- 113 tr.CN).
– Triệu Ai Vương (113- 112 tr.CN).
– Triệu Dương Vương (112-111 tr.CN) .

2. THUỘC NHÀ TÂY HÁN (111 TR.CN-39 SAU CN) VÀ THỜI TRƯNG NỮ VƯƠNG (40-43)

Năm 111 tr.CN, nhà Hán sai Lộ Bác Đức sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao Chỉ Bộ và chia ra làm 9 quận:

1. Nam Hải (Quảng Đông)
2. Thương Ngô (Quảng Tây)
3. Uất Lâm (Quảng Tây)
4. Hợp Phô (Quảng Đông)
5. Giao Chỉ (từ Bắc Việt tới Ninh Bình)
6. Cửu Chân (từ Ninh Bình tới Hoành Sơn)
7. Nhật Nam (từ Hoành Sơn tới Đèo cả)
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam)
9. Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam) .

Địa bàn nước ta khi ấy nằm trên ba quận: Giao chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Dân số” cuối thời thuộc Hán, ở niên đại đầu Công nguyên, có 666.013 nguời.

QUẬN GIAO CHỈ chia ra 10 huyện là: Liên
Lâu, An Định, Câu Lậu, Mê Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long
Biên, Chu Diên. Đào Duy Anh phân tích khá rõ theo Thủy Kinh Chú rồi kết
luận: “Quận Giao Chỉ ở đời Hán là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền tây-bắc
còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà Hán, một góc tây- nam tỉnh Ninh
Bình bây giờ là địa đầu của quận cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái
Bình đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp; lại
phải thêm vào dấy một vùng về phía tây-nam tỉnh Quảng Tây”

QUẬN CỬU CHÂN, theo Khâm Định Việt Sử
Thông Giám Cương Mục và Tiền Hán Thư, gồm 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô
Lung, Dư Phát, Hàm Hoan, Vô Thiết, Vô Biên. Sách Hậu Hán Thư chỉ kể 5
huyện: Tư Phố, Cư Phong, Hàm Hoan, Vô Công, Vô Biên. Bảy huyện trên được
phân bố từ phía nam tỉnh Ninh Bình đến Hoành Sơn . (Bản đồ 6)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0006

QUẬN NHẬT NAM gồm 5 huyện: Chu Ngô, Tỷ
Anh, Lô Dung, Tây Quyển, Tượng Lâm. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì
năm huyện đó được phân bổ từ phía nam Hoành Sơn tới núi Đại Lãnh (gần
đó có núi Đá Bia làm ranh giói giữa Phú Yên với Khánh Hòa nay).

Sách KĐVS đã “chú” khá kỹ địa bàn từng
quận huyện một, nhưng đến nay các nhà nghiên cứu địa lý học lịch sử vẫn
còn bàn cãi ở một số” nơi chưa nhất trí .

 2. TRƯNG VUƠNG TRỊ VÌ BA NĂM, ĐÓNG ĐÔ Ở MÊ LINH, CHƯA ĐẶT QUỐC HIỆU VÀ PHÂN BỐ CUƠNG VỰC

Tháng 2 mùa xuân năm 40, “Trưng Trắc,
người con gái quận Giao Chỉ, dấy binh đánh thái thú Tô Định, đuổi hắn,
tự lập làm vua”. Vì thù chồng, nợ nước, “Vương bèn cùng em gái Trưng Nhị
dấy binh.. Vương đến đâu thì như cỏ rạp theo làn gió… dẹp yên 65 thành ở
Lĩnh Nam, tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh”. Tháng 3 mùa xuân năm 42,
“quân Mã Viện đến Lãng Bạc đánh với Trưng Trắc, phá được, Trưng Trắc lui
giữ Cẩm Khê… Tháng giêng mùa xuân (năm 43), Trưng Trắc và em gái Trưng
Nhị chống cự quân Hán, bị thua mà mất… Mã Viện đuổi đánh tàn quân của
Hai Bà… đến huyện Cư Phong (đất ấy nay ở Thanh Hóa)” . Sau đó, Mã Viện
kéo quân tới tận Đèo Cả, nơi có núi Đá Bia mới dẹp yên được các cuộc nổi
dậy ở khắp địa phương.

Ở phần này, chúng ta chỉ quan tâm đến địa chỉ và địa danh để xác định trên bản đồ, còn phần lịch sử xin lướt qua.

3. NHÀ ĐÔNG HÁN (25-220) ĐỔI GIAO CHỈ THÀNH GIAO CHÂU (203)

Mã Viện đánh được Trưng Vương, đem đất
Giao Chỉ về thuộc nhà Hán như cũ, nay gọi là Đông Hán, đem phủ trị về
đóng ở Mê Linh (đến cuối đời Đông Hán mới dời về Long Biên). Đến năm Quý
Mùi (203), “Sĩ Nhiếp dâng sớ xin cải Giao Chỉ làm Giao Châu. Vua nhà
Hán thuận cho” .

4. NHÀ ĐÔNG NGÔ (222-280) TIẾP QUẢN GIAO CHÂU

Nhà Đông Hán mất ngôi (220) thì Trung
Hoa chia ra ba nước gọi là Tam Quốc (220-265), tức Bắc Ngụy, Tây Thục và
Đông Ngô. Đất Giao Châu bấv giờ thuộc về Đông Ngô. Năm 226, Ngô Tôn
Quyền “lấy từ Hợp Phố về bắc gọi là Quảng Châu, từ Giao Chỉ về nam gọi
là Giao Châu” . Được ít lâu, nhà Ngô lại bỏ Quảng Châu cho hợp lại với
Giao Châu như cũ. (Bản đồ 7)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0007

NĂM 248, BÀ TRIỆU THỊ TRINH Nổi LÊN CHỐNG NHÀ NGÔ

Bà là nguời huyện Nông Cống, “có sức
mạnh, lại có chí khí và lắm mưu lược…; vì quan lại nhà Ngô tàn ác, Triệu
Quốc Đạt mới khởi binh đánh quận cửu Chân. Bà đem quân ra đánh giúp
anh, quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà làm tưóng có can đảm, bèn tôn
lên làm chủ… bà chống nhau với nhà Ngô đuợc năm sáu tháng. Nhưng vì quân
ít thế cô, đánh mãi phải thua, bà đem quân đến xã Bồ Điền (sau là xã
Phú Điền huyện Mỹ Hóa tỉnh Thanh Hóa) rồi tử tiết. Bấy giờ mới 23 tuổi”.

NĂM 264, NHÀ NGÔ CHIA LẠI ĐẤT GIAO CHÂU

“Nhà Ngô lấy đất Nam Hải, Thương Ngô và
Uất Lâm làm Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung (TP Quảng Châu, Trung
Quốc nay), lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam làm Giao
Châu, đặt châu trị ở Long Biên. Đất Nam Việt của Triệu ngày trưóc thành
ra Giao Châu và Quảng Châu từ đấy” . (Bản đồ 8)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-008

5. GIAO CHÂU DƯỚI THỜI NHÀ TẤN (265-420) VÀ NAM BẮC TRIỀU (420-588) (Nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương nối tiếp nhau)

Tên Giao Châu vẫn giữ nguyên, nhưng tên
và địa bàn huyện thì thay đổi qua mỗi “nhà” đến thống trị. Sau đây là
tình hình phân bổ Giao Châu từ cuối Ngô đến Tống:

Giao Chỉ: 14 huyện, 12.000 hộ.

Long Biên, Câu Lậu, Vọng Hải, Liên Lâu,
Tây Vu, Vũ Ninh, Chu Diên, Khúc Dương, Ngô Hưng, Bắc Đái, Kê Từ, An
Định, Vũ An, Quân Bình (theo Tấn Thư và Tống Thư).

Tân Xương: 6 huyện, 3.000 hộ.
Mê Linh, Gia Hưng, Ngô Định, Phong Sơn, Lâm
Tây, Tây Đạo. Nhà Tấn đổi tên quận làm Tân Xương, các huyện thì vẫn giữ
theo nhà Ngô.

Vũ Bình: 7 huyện, 3.000 hộ.
Vũ Ninh, Vũ Hưng, Tiến Sơn, Căn Ninh, Vũ Định, Phú Yên, Phong Khê. Nhà Tấn cũng vậy.
Cửu Chân: 7 huyện, 3.000 hộ.
Tư Phô, Di Phong, Trạm Ngô, Kiến Sơ, Thưòng Lạc, Phù Lạc. Nhà Tấn lập thêm huyện Tùng Nguyên.
Cửu Đức: 8 huyện, không rõ số hộ.
Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Thành,
Phù Linh, Khúc Tư, Đô Hào, Việt Thường. Nhà Tấn đổi Dương Thành làm
Dương Toại, lại tách Dương Toại mà lập Phố Dương, lập thêm Tây An, theo
Hà Chí thì còn có huyện Việt Thường, lập từ đời Ngô, sang đời Tấn thì
không có.

Nhật Nam: 5 huyện, 600 hộ.
Tượng Lâm, Lô Dung, Chu Ngô, Tây Quyển, Tỷ
Ảnh. Nhà Tấn tách Tây Quyển mà đặt Thọ Linh, tách Tỷ Anh mà đặt Vô Lao
.(theo Tấn Thư và Tống Thứ).

‘Theo tình hình các quận huyện như trên
thì chúng ta thấy rằng ở thời Tam Quốc và thời Lưỡng Tấn, sau khi nhà
Ngô chiaGiao Châu làm Quảng Châu và Giao Châu thì đất Giao Châu sau này
trở thành lãnh thổ của nuớc ta trong thời tự chủ, không còn gồm dải đất ở
miền Quảng Tây nữa. Chúng ta lại biết rằng cuối đời Hán, nước Lâm Ấp đã
được thành lập tại miền Quảng Nam và đến đời Vĩnh Hòa nhà Tấn
(345-356), nước ấy đã chiếm cứ hết đất Nhật Nam cũ mà vươn ra đến Hoành
Sơn.

Như vậy thì đất Giao Châu đời Tấn đại khái là tương đương với miền Bắc Bộ và miền Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh của nước ta ngày nay” .

Nhà Lương chia Giao Châu làm nhiều châu mới:

1. Ái Châu trên đất quận cửu Chân cũ (Thanh Hóa)
2. Đức Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
3. Lợi Châu trên đất quận cửu Đức cũ (Nghệ Tĩnh)
4. Minh Châu trên đất miền đông-bắc Giao Châu cũ (Quảng Ninh).
5. Giao Châu thu nhỏ trên đồng bằng và trung du Bắc Bộ. (Bản đồ 9)
ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-009

6. NĂM 544, LÝ BÔN XƯNG NAM VIỆT ĐẾ, ĐẶT NIÊN HIỆU LÀ THIÊN ĐỨC, ĐẶT QUỐC HIỆU LÀ VẠN XUÂN

Sau khi thắng địch quân, Lý Bôn đã lập
điện Vạn Xuân làm triều nghi, đặt trăm quan, nhưng chưa thấy phân bổ lại
cương vực. Các sự kiện lịch sử liên quan đến địa phương nào, thì vẫn
dùng địa danh đương thời. Như khi nói “Lý Bôn là người hào hữu quê Thái
Bình, tài kiêm văn võ”. Thái Bình đây “thuộc về Phong Châu ngày trước,
nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây nhưng không rõ là chỗ nào, chứ không phải
là phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình” . Đối với các
địa danh khác cũng vậy: thành Gia Ninh (sau ở huyện Tiên Lãng tỉnh Phúc
Yên), động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hóa), hồ Điển Triệt (tên nôm là
Đầm Miêng, thuộc xã Tứ Yên huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú), đầm Dạ Trạch
(bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hải Hưng) vv… Động Khuất Liêu lại được đọc là
động Khuất Lão (là tên một khu đồi hiện nằm giữa hai xã Văn Lang và cổ
Tuyết thuộc huyện Tam Nông tỉnh Vĩnh Phú” (Bản đồ 10)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0010

Nước VẠN XUÂN tồn tại được 58 năm, trải qua ba đời vua:

– Lý Nam Đế (Lý Bôn) 544-548.
– Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) 549-571.
– Hậu Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) 571-602.

Dân số nước Vạn Xuân, ở niên đại 544, có khoảng 1.000.000 người.

Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở nước ta,
thì vua Văn Đế nhà Tùy thống nhất được Trung Hoa. Năm 602, vua Tùy sai
Lưu Phương đem 27 dinh quân sang đánh chiếm Vạn Xuân 

7. CƯƠNG VỰC VÀ CÁC CUỘC TRANH ĐẤU DƯỚI CÁC ĐỜI NHÀ TÙY, NHÀ ĐƯÒNG (603-907)

a) NHÀ TÙY (589-617)

sau khi chiếm được Vạn Xuân năm 602, liền chia Giao Châu ra làm 5 quận:

– Quận Giao Chỉ gồm 9 huyện: Tống Bình, Long Biên, Chu Diên, Long Bình, Bình Đạo, Giao Chỉ, Gia Ninh, Tân Xương, An Nhân.
– Quận Nhật Nam gồm 8 huyện: cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Việt Thường, Kim Ninh, Giao Cốc, An Viễn, Quang An.
– Quận Tỷ Anh gồm 4 huyện: Tỷ Anh, Chu Ngô, Thọ Linh, Tây Quy ển.
– Quận Hải Âm gồm 4 huyện: Tân Dung, Chân Long, Đa Nông, An Lạc.
– Quận Tượng Lâm gồm 4 huyện: Tượng Phố, Kim Sơn, Giao Giang, Nam Cực.

Ngoại trừ một số” địa điểm còn để nghi
vấn, nhà địa lý học lịch sử Đào Duy Anh đã nghiên cứu thỏa đáng cả địa
bàn lẫn duyên cách của các châu huyện trên trong thiên khảo luận có giá
trị của mình . (Bản đồ 11)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0011

b) NHÀ ĐƯỜNG (618-907)

tiếp nối nhà Tùy “cai trị nước ta khắc nghiệt hơn cả”.

“Nhà Đường sửa lại toặn bộ chế độ hành
chính và sự phân chia châu quận. 622, nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng
quản chủ để lãnh quản 12 châu: Giao, Phong, Ái, Tiên, Diễn, Tống, Từ,
Hiểm, Đạo, Long, tức là cả miền Bắc nước ta, từ biên giới Việt – Trung
đến Hoành Sơn”.

Năm 679, đổi Giao Châu làm An Nam Đô Hộ Phư, cai quản 12 châu, 59 huyện. Nước ta gọi là An Nam khỏi đầu từ đấy.
Năm 757, đổi làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 766, lại đổi làm An Nam Đô Hộ Phủ.
Năm 866, Nhà Đường thăng An Nam Đô Hộ Phủ lên làm Tình Hái Quân Tiết Độ.

An Nam Đô Hộ Phủ chia ra 12 châu như sau: (Bản đồ 12)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0012

1. Giao Châu nay ở đất Hà Nội, Nam Định,
có 8 huyện: Tống Bình, Nam Đinh, Thái Bình, Giao Chỉ, Chu Diên, Long
Biên, Bình Đạo, Vũ Bình.

2. Lục Châu sau là Quảng Yên, Lạng Sơn, gồm 3 huyện: Ô Lôi, Hoa Thanh, Ninh Hải.
3. Phúc Lộc Châu gồm 3 huyện, có lẽ ở “miền Nam Hà Tĩnh và miền Quy Hợp, Ngọc Ma ở phía tây Hoành Sơn”.
4. Phong Châu gồm 3 huyện: Gia Ninh, Thừa Hóa, Tân Xương. Sau là Bạch Hạc – Việt Trì.
5. Thang Châu gồm 3 huyện: Thanh Tuyền, Lục Thủy, La Thiều. Nay ở Nam Ninh, Trung Quốc.
6. Trường Châu có 4 huyện, nay thuộc địa phận Ninh Bình.
7. Chi Châu gồm 7 huyện: Hàn Thành, Phú
Xuyên, Bình Tây, Lạc Quang, Lạc Diệm, Đa Vân, Tụ Long. Nay thuộc đất
tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. (Tụ Long trước 1888 thuộc Tuyên Quang, Việt
Nam).

8. Võ Nga Châu gồm 7 huyện: Võ Nga, Như Mã,
Võ Nghĩa, Võ Di, Võ Duyên, Võ Lao, Lương Sơn. Nay cũng thuộc đất tỉnh
Quảng Tây, Trung Quốc.

9. Võ An Châu gồm 2 huyện: Võ An, Lâm Giang. Nay ở khoảng phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
10. Ái Châu gồm 6 huyện cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Truòng Lâm. Nay thuộc địa phận Thanh Hóa.
11. Hoan Châu gồm 4 huyện cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường, Hoài Hoan. Nay thuộc địa phận Nghệ An.
12. Diễn Châu gồm 7 huyện (khuyết danh). Có
lẽ tương đương với miền Bắc tỉnh Nghệ An nay, khoảng các huyện Diễn
Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu.

40 châu ky my. “ở những miền biên giới
xa xôi, nhà Đường không đặt châu quận để thống trị trực tiếp đuợc, thì
đặt những châu ky my, và để cho các tù trưởng cũ vẫn giữ bộ lạc của họ..
Lệ vào An Nam Đô Hộ Phủ thì có 40 châu ky my, đại khái là ở đất thượng
du miền Bắc và miền Đông – Bắc nước ta, như châu Quy Hóa, châu Cam
Đường, châu Lâm Tây ở các miền Yên Bái, Lao Cai và thượng du sông Đà;
châu Bình Nguyên ở miền Hà Giang; châu Vũ Định, châu Độ Kim ở miền Tuyên
Quang; châu Tư Lăng, Lộc Châu, Lạng Châu ở miền Lạng Sơn” . (Bản đồ 13)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0013

Lại còn 18 châu ky my nữa lệ vào Phong
Châu Đô Hộ Phủ… “ở khoảng từ Bạch Hạc đến Lào Cai ngày nay, thì cư dân
cũng là thuộc về ngành Tày chứ không phải là ngành Thái. Nhưng nếu xét
lui lên xa thì người Thái và người Tày cùng người Nùng lại đều là từ một
nguồn gốc mà ra, tức là chủng tộc mà người ta thường gọi là Thái, từ
thời thượng cổ đã chiếm ở miền Tây Nam Trung Quốc” . (Bản đồ 14) và (Bản
đồ 15)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0014

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0015

Phủ trị của An Nam Đô Hộ Phủ đặt ở
khoảng Hà Nội ngày nay. Địa bàn của nó còn rộng hơn cả Giao Châu ở thời
Tam Quốc và thời Nam Bắc Triều. “Nếu không kể các châu ky my ở miền Bắc
và miền Đông – Bắc lệ thuộc An Nam Đô Hộ Phủ và các châu ky my ở miền
Tây – Bắc lệ thuộc Phong Châu, chỉ kể những châu trực thuộc Đô Hộ Phủ,
thì các châu Thang, Chi, Võ Nga, Võ An là thuộc về địa phận tỉnh Quảng
Tây ngày nay của Trung Quốc, và các châu Lâm và Ảnh là đặt khống ở miền
Nam Hoành Sơn, như vậy là chỉ còn 8 châu: Giao, Lục, Phong, Truông, Ái,
Diễn, Hoan và Phúc Lộc là nằm trên đất Giao Châu cũ. Đại khái đó là địa
bàn mà đến khi nhà Đường sụp đổ, các triều đại phong kiến đầu tiên của
nuớc ta, Ngô, Đinh, Lê, Lý sẽ xây dựng nhà nước tự chủ của ta .

Vậy thì những địa danh như Nam Định,
Thái Bình, Long Biên, Diễn Châu… đã tồn tại từ 13 thế kỷ nay. Nếu nghiên
cứu kỹ, có lẽ còn nhiều địa danh gốc từ Lạc Việt đã có từ trên 20 thế
kỷ rồi, đặc biệt là các địa danh Nôm. Địa danh học cũng là một bộ môn hỗ
trợ đắc lực cho khảo cổ học vậy 

Phần 3 : Thời Kỳ độc lập tự chủ


1. HỌ KHÚC DẤY NGHIỆP VÀ HỌ NGÔ DỰNG NGHIỆP (907-959)

Lợi dụng trong khi năm họ tranh giành
nhau bên Trung Quốc, dân chúng bên ta bèn cử Khúc Thừa Dụ (906-907) làm
Tiết độ sứ để cai trị Tĩnh Hải Quân. Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (Ninh Giang
– Hải Hưng nay) là nhà hào phú có tính khoan hòa và thương người. Trung
Quốc phải chịu nhận. Thừa Dụ chết, Khúc Hạo (907-917) lên thay làm Tiết
độ sứ rồi lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại . Sau Khúc
Hạo là Khúc Thừa Mỹ (917-923). Năm 923, nhà Nam Hán chiếm lại Tĩnh Hải
Quân. Năm 931, Dương Diên Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo nổi lên, tự xưng
Tiết độ sứ. Được sáu năm, bị nha tướng là Kiều Công Tiễn giết và cướp
quyền. Khi ấy có Ngô Quyền (quê ở Đường Lâm, Sơn Tây) là con rể Dương
Diên Nghệ đang cai trị Ái Châu, đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Tiễn
cầu cứu nhà Nam Hán. Thái tử Hoằng Thao đem quân sang đánh Ngô Quyền, bị
đại bại trên sông Bạch Đằng (938).

Tiền Ngô Vương (939-945). Năm 939, Ngô
Quyền xưng vương, đóng đô ở cổ Loa, đặt quan chức, chế triều nghi, nhưng
chưa định quốc hiệu và phân bố lãnh vực. Được sáu năm thì mất. Em rể là
Dương Tam Kha (935- 950) lên tiếm ngôi. Hai con Ngô Quyền là Ngô Xương
Văn và Ngô Xương Ngập trở lại hạ được Dương Tam Kha rồi cùng cai trị
nước, sử gọi là Hậu Ngô Vương (950- 956). về cương vực nhà Ngô: “Ngô
Quyền chỉ có quyền lực ở các châu mà cư dân là con cháu người Lạc Việt,
tức miền trung du và miền đồng bằng Bắc Bộ cùng miền trung du và miền
đồng bằng Thanh Nghệ, còn miền thuợng du là các châu ky my của nhà Đuờng
trước kia thì có lẽ còn do các tù truởng giữ mà độc lập” .

2. CƯƠNG VỰC BỊ CHIA CẮT DƯỚI THỜI THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)

Từ khi Dương Tam Kha tiếm vị, thổ hào
các nơi xướng lên độc lập tự xưng sứ quân. Khi có Hậu Ngô rồi, các sứ
quân vẫn không về thần phục. Con cháu nhà Ngô yếu thế, trở thành như một
sứ quân. Cương vực bị chia cắt, dân tình đói khổ. Sau đây là 12 sứ quân
với vùng cát cứ:

1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Khoái Châu, Hưng Yên).
2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai).
3. Trần Lãm giữ Bô” Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây).
7. Lý Khuê giữ Siêu Loại (Thuận Thành).
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lũ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).
10. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).
11. Kiều Thuận giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây).
12. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Hưng Yên) .

3. CƯƠNG VỰC DƯỚI THỜI ĐINH – LÊ, QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT 86 NĂM (968-1054)

Đinh Tiên Hoàng (968-979), đặt quốc hiệu
là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, “chia nước làm 10 đạo, hiện nay không
rõ danh hiệu và vị trí các đạo là thế nào. Duy nhất sử cũ vẫn chép tên
các châu đời Đường, như Ái Châu, Hoan Châu, Phong Châu, thì biết rằng
danh hiệu các châu đời Đường bấy giờ vẫn được dùng” . Nhà Tống chỉ phong
cho Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.

Đinh Phế Đế (979-980) tức Đinh Tuệ lên ngôi mới có sáu tuổi.

Lê Đại Hành (980-1005) tức Lê Hoàn, thay
ngôi nhà Đinh, “đổi 10 đạo làm lộ, phủ, châu”. Nay vẫn chưa tìm ra danh
hiệu và vị trí những đơn vị hành chính đó, mà các tên châu huyện đời
Đường còn được nhắc đến trong sử cũ. Năm 982, Lê Hoàn đi đánh Chiêm
Thành, phải qua kênh Xước ở Thanh Hóa và kênh Sắt ở Nghệ An (đó là kênh
mà sau này Nguyễn Trường Tộ đào nắn lại cho dễ thông thương hơn). Nhà
Tống cũng chỉ phong cho Lê Đại Hành là Giao Chỉ quận vương, rồi gia
phong là Nam Bình Vương, cố ý coi nước ta là quận Giao Chỉ hay An Nam đô
hộ phủ mà thôi.

Tiếp nối Lê Đại Hành Là Lê Trung Tông
(1005) rồi Lê Long Đĩnh (1005 – 1009), cương vực vẫn tới Hoành Sơn nhưng
Chiêm Thành phải sang triều cống. Quốc hiệu Đại Cồ Việt vẫn tồi tại.

Dân số nước Đại cồ Việt, ở niên đại 968, có khoảng 2.000.000 người.

4. CƯƠNG VỰC VÀ QUỐC HIỆU DƯỚI ĐỜI LÝ, NƯỚC ĐẠI VIỆT, 748 NĂM (1054-1802)

Lý Thái Tổ tức Lý Công uẩn (1010-1028)
tiếp ngôi nhà Lê, dời đô về La Thành, lấy tên mới là thành Thăng Long,
“chia nước làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại” , mới chắc chắn
có tên 12 lộ do KĐVS ghi chép:

Thiên Trường Hoàng Giang Thanh Hóa
Khoái Hồng Kiến Xương
Trường Yên Hải Đông Bắc Giang
Quốc Oai Long Hưng Diễn Châu
Còn 12 lộ nữa thì Đào Duy Anh phỏng tính là:
Phủ Đô Hộ Phủ ứng Thiên Phủ Phú Lương
Phủ Thiên Đúc Phủ Nghệ An Châu cổ Pháp
Châu Phong Châu Lạng Châu Chân Đăng
Châu Bố Chính Châu Địa Lý Châu Ma Linh

Hoàng Xuân Hãn đã định được vị trí các
châu lộ ở phía bắc và Đào Duy Anh đã phỏng định vị trí các châu phủ lộ
còn lại . Ngoài lộ, châu, phủ nhà Lý còn chia ra các đơn vị hành chính
là hương, giáp, trại, động.

Dân số” nước Đại Việt, ở niên đại 1054, có khoảng 2.200.000 người.
(Bản đồ 16)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0016

Lý Thái Tông (1028-1054) đem quân chinh
phạt Chiêm Thành (1044) tiến chiếm quốc đô Phật Thệ (làng Nguyệt Bầu,
huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên).

Lý Thánh Tông (1054-1072) khi lên ngôi
liền đổi quốc hiệu là Đại Việt. Năm 1069, đem quân đánh Chiêm Thành. Chế
Củ xin chuộc tội bằng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (sau là Quảng
Bình, Quảng Trị).

Lý Nhân Tông (1072-1127) sai Lý Thuợng
Kiệt đi trấn giữ (1076) ở phía bắc và đi kinh lý ba châu Địa Lý, Ma
Linh, Bố Chính ở phía nam.

Sau đó là các vua Lý Thần Tông (1128-1138)
Lý Anh Tông (1138-1175)

Năm 1164, nhà Tống đổi Giao Chỉ quận làm
An Nam quốc, Lý Anh Tông là vua đầu tiên của nước ta được phong là An
Nam quốc vương. Vua cuối cùng nhận phong tước hiệu này là Nguyễn Tây Sơn
cảnh Thịnh (1792-1802).

Lý Cao Tông (1176-1210)
Lý Huệ Tông (1211-1225)
Lý Chiêu Hoàng (1225)

Cương vực và quốc hiệu vẫn thế.

5. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI ĐỜI TRẦN VÀ ĐỜI HỒ(1225-1413)

Trần Thái Tông (1225-1258) “chia nước ra làm 12 lộ”, đặt xã quan để cai trị ở địa phương. Nhưng sử cũ lại chép tới 15 lộ:
Thiên Trưòng Hồng Lạng Giang
Tam Giang An Khang Truòng Yên
Khoái Tam Đới Bắc Giang
Long Hưng Diễn Sơn Nam
Quốc Oai An Tiêm Đà Giang

Sách An Nam Chí Lược chép 15 lộ
khác, trong đó có 9 lộ mà danh sách trên thiếu. Nếu cộng lại ta sẽ có
tên 24 lộ. Sau đây là 9 lộ bổ túc:

Đại La Thành
Quy Hóa Giang
Tuyên Hóa Giang
Lạng Châu
Đại Hoàng
Nam Sách Giang
Như Nguyệt Giang
Nghệ An
Phủ Bố Chính Châu

Năm 1397, Lê Quý Ly làm thái sư, đổi các
lộ phủ ra làm trấn: Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô, Quốc Oai làm trấn
Quảng Oai, Đà Giang làm trấn Thiên Hưng, Nghệ An làm trấn Lâm An, Trường
Yên làm trấn Thiên Quan, Diễn Châu làm trấn Vọng Giang, Lạng Sơn phủ
(truóc là Lạng Sơn) làm trấn Lạng Sơn, Tân Bình phủ (trước là Bố Chính
Châu) làm trấn Tân Bình… Quý Ly chiếm thêm được hai châu Đại Chiêm và Cổ
Lũy của Chiêm Thành, đặt làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, gộp lại
làm lộ Thăng Hoa, tức là miền Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay

(Bản đồ 17)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0017

0. Lộ Đông Đô
1. Lộ Bắc Giang
2. Lộ Lạng Giang
3. Lộ Lạng Sơn
4. Phủ lộ Thiên Truờng (Sơn Nam)
5. Lộ Long Hưng
6. Lộ Khoái Châu
7. Phủ lộ Kiến Xương
8. Lộ Hoàng Giang,
Phủ Kiến Hưng
9. Trấn Thiên Quan
10. Phủ lộ Tân Hưng
11. Lộ Hải Đông
12. Phủ lộ Kiến Xương
13. Trấn Quảng Oai
14. Trấn Thiên Hưng
15. Trấn Thanh Đô
16. Trấn Vọng Gỉang
17. Trấn Tây Bình
18. Trấn lộ Thanh Hóa
19. Lộ Thăng Hoa

Sau khi Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần
liền đặt tên nuớc là Đại Ngu rồi đổi phủ Thanh Hóa (trấn Thanh Đô) làm
phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu (trấn Vọng Giang) làm phủ Linh Nguyên,
phủ Kiến Xương làm phủ Kiến Ninh . Duyên cách thật phức tạp và các danh
xưng lộ – phủ – trấn vẫn còn xen kẽ chưa phân biệt rạch rồi.(Bản đồ 18)

 Danh sách các vua triều Trần sau Trần Thái Tông:

Trần Thánh Tông (1258-1278)
Trần Nhân Tông (1279-1293)
Trần Anh Tông (1293-1314)
Trần Minh Tông (1314-1329)
Trần Hiến Tông (1329-1341)
Trần Dụ Tông (1341-1369)
Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Trần Duệ Tông (1374-1377)
Trần Phế Đế (1377-1388)
Trần Thuận Tông (1388-1398)
Trần Thiếu Đế (1398-1400)
Nhà Hồ thoán ngôi với hai đời vua:
Hồ Quí Ly (1400-1401)
Hồ Hán Thương (1401-1407)
Nhà Trần trở lại gọi là Hậu Trần với hai đời vua:
Giản Định Đế (1407-1409)
Trần Quí Khoách (1403-1413)
Dân số Đại Việt ở niên đại 1407 có khoảng 3.129.500 người.

6. CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI THỜI THUỘC MINH (1414-1427)
Vua Nhà Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh
đem quân sang chiếm nước ta rồi lại gọi nước ta là Quận Giao Chỉ và chia
lãnh thổ nước ta ra làm 15 phủ với 5 châu lớn, đó là:

(Bản đồ 19) và (Bản đồ 20)


1. Phủ Giao Châu 11. Phủ Lạng Sơn
2. Phủ Bắc Giang 12. Phủ Tân Bình
3. Phủ Lạng Giang 13. Phủ Diễn Châu
4. Phủ Tam Giang 14 Phủ Nghệ An
5. Phủ Kiến Bình 15. Phủ Thuận Hóa
6. Phủ Tân Yên 16. Châu Thái Nguyên
7. Phủ Kiến Xương 17. Châu Tuyên Hóa
8. Phủ Phụng Hóa 18. Châu Gia Hưng
9. Phủ Thanh Hóa 19. Châu Qui Hóa
10. Phủ Trấn Man 20. Châu Quảng Oai

Đại khái “họ theo tên các lộ trấn phủ
châu của thời Trần – Hồ, duy có thay đổi như sau: đổi phủ Long Hưng làm
phủ Trấn Man, phủ Kiến Hưng làm phủ Kiến Bình, phủ Thiên Trường làm phủ
Phụng Hóa, phủ Tân Hưng làm phủ Tân Yên, châu Quốc Oai làm châu Tuyên
Man (?), châu Tuyên Quang làm châu Tuyên Hóa” .

Ở địa phương thì nhà Minh chia ra
phường, tương, lý, giáp, “ở chỗ thành phố thì gọi là phường; ở chung
quanh thành phố thì gọi là tương, ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lại chia
ra giáp. Cứ 110 hộ làm 1 lý và 10 hộ làm 1 giáp. Lý thì có lý trưởng,
thế giáp thì có giáp thủ. Mỗi một lý, một phuòng hay một tương, có một
quyển sách để biên tất cả số đinh, số điền vào đấy… ở đầu quyển sách lại
có cái địa đồ” . (Bản đồ 21)ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0021

7. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI TRlỀU LÊ (1428-1527)

Lê Thái Tổ (1428-1433) thắng quân Minh
rồi đóng đô ở Thăng Long khi ấy gọi là Đông Đô (gồm 2 huyện Quảng Đức và
Vĩnh Xương). Năm 1430, đổi Đông Đô là Đông Kinh (từ đó người Tây phương
phiên là Tongkinh hay Tonkin), và đổi Tây Đô (Lam Sơn) thành Tây Kinh.
Lại chia cả mước làm 5 đạo gồm 19 trấn hay lộ:

1. Bắc Đạo (Lạng Giang, Bắc Giang, Thái Nguyên).
2. Tây Đạo (Tuyên Quang, Hưng Hóa, Gia Hưng, Tam Giang).
3. Đông Đạo (An Bang, Hồng Sách Thượng, Hồng Sách Hạ).
4. Nam Đạo (Ly Nhân, Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Truờng).
5. Hải Tây Đạo (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa). Đạo này mới đặt năm 1428, bốn đạo trên đặt từ thời chống quân Minh.

Lê Thái Tông (1434- 1442), Lê Nhân Tông (1443- 1459), vẫn giữ cách phân bổ hành chính như trên.

Lê Thánh Tông (1460-1497) là một vị vua
anh minh, đã nâng cao phẩm chất văn hóa và đạo lý cho nhân dân, lại mở
mang thêm bờ cõi và tổ chúc quản trị lãnh thổ rất chu đáo. Năm 1466,
Thánh Tông chia nước ra làm 12 đạo hay thừa tuyên:

1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Thuận Hóa
4. Thiên Trường
5. Nam Sách
6. Quốc Oai
7. Bắc Giang
8. An Bang
9. Hưng Hóa
10. Tuyên Quang
11. Thái Nguyên
12. Lạng Sơn

Năm 1471, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam, đưa biên giới nước ta tới núi Đá Bia trên Đèo Cả.
Năm 1490, lập bản đồ Hồng Đức để tổng kết tình hình phân bố lãnh thổ và vẽ bản đồ toàn quốc cũng như từng thừa tuyên.
Sau đây là danh sách Kinh Đô và các đạo thừa tuyên với số phủ, châu, huyện:
Trung Đô có phủ Phụng Thiên và 2 huyện.

1. Sơn Nam gồm 11 phủ, 42 huyện.
2. Kinh Bắc gồm 4 phủ, 20 huyện.
3. Sơn Tây gồm 4 phủ, 24 huyện.
4. Hải Dương gồm 3 phủ, 14 huyện.
5. Yên Bang (sau là Quảng Yên) gồm 1 phủ, 3 huyện, châu.
6. Lạng Sơn gồm 1 phủ, 6 châu.
7. Ninh Sóc (tức Thái Nguyên) gồm 3 phủ, 8 huyện, 6 châu.
8. Tuyên Quang gồm 1 phủ, 2 huyện, 5 châu.
9. Hưng Hóa gồm 3 phủ, 17 châu.
10. Thanh Hóa gồm 4 phủ, 16 huyện, 4 châu.
11. Nghệ An gồm 4 phủ, 27 huyện, 3 châu.
12. Thuận Hóa gồm 2 phủ, 7 huyện, 3 châu.
13. Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện.
(Bản đồ 22)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0022

Năm 1490, đổi tên thừa tuyên làm xứ. Như
vậy cả nước có 13 xứ, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 37 phường,
6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường.
Mỗi xã thường không có quá 500 hộ, khi quá số này khoảng 100 hộ, lại
chia làm 2 xã .

Dân số Đại Việt ở niên đại 1490 có khoảng 4.000.000 người.
Các đời vua sau Lê Thánh Tông:
Lê Hiến Tông (1497-1504)
Lê Túc Tông (1504)
Lê Uy Mục (1505-1509)
Lê Tương Dực (1510-1516)
Lê Chiêu Tông (1516-1522)
Lê Cung Hoàng (1522-1527)

Các vua này vẫn giữ nền tảng hành chính như cũ. (Bản đồ 23) 

8. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI NAM BẮC TRlỀU (1528-1592)

Năm 1527, Mạc Đăng Dung thoán ngôi nhà
Lê. Cựu thần nhà Lê không chịu: Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm suy tôn Lê
Trang Tôn lên ngôi từ năm 1533 bên đất Lào, rồi đem quân về lấy lại Nghệ
An và Thanh Hóa. Trong thời gian trên 60 năm, từ Thanh Hóa vào Nam
thuộc về nhà Lê, gọi là Nam Triều. Từ Sơn Nam ra Bắc thuộc về nhà Mạc,
gọi là Bắc Triệu.

Nam Triều có các vua:

Lê Trang Tông (1533-1548)
Lê Trung Tông (1548-1556)
Lê Anh Tông (1556-1573)
Lê Thế Tông (1573-1599)
Bắc Triều có các vua:
Mạc Đăng Dung (1527-1529)
Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
Mạc Phúc Hải (1541-1546)
Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
Mạc Mậu Hợp (1562-1592).

9. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH (1600-1771)

Năm 1545, Nguyễn Kim chết, con rể là
Trịnh Kiểm muốn giữ hết quyền bèn cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận
Hóa (1588) nhưng buộc vẫn thường phải về chầu vua Lê và đem binh ra giúp
họ Trịnh để dứt nhà Mạc. Năm 1593, Trịnh Tùng có sự tiếp tay của Nguyễn
Hoàng lấy lại Thăng Long nhưng vẫn muốn giữ Nguyễn Hoàng không cho về
hẳn Thuận Hóa. Mãi năm 1600, Nguyễn Hoàng mới trốn được vào Nam và mưu
tính lập căn cứ lâu dài chống lại họ Trịnh. Từ đó, các chúa Nguyễn tìm
cách phát triển lãnh thổ cả về phía nam lẫn phía tây và phía biển Đông
trên các quần đảo xa xôi nữa.

Sau đây là các đời chúa Nguyễn:

Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên (1558-1613) tổ chức cai trị thêm từ đèo Cù Mông tới núi Đá Bia, lập phủ Phú Yên hồi năm 1611

Nguyễn Phước Nguyên tức Chúa Sãi (1613-1635) hình như có gả “công nữ” Ngọc Vạn cho Chey Ghetta II, vua Chân Lạp hồi 1619.

Nguyễn Phước Lan tức Chúa Thượng (1635-1648) tổ chức cai trị và khai khẩn từ núi Đá Bia tới sông Phan Rang hồi năm 1635.

Nguyễn Phước Tần tức Chúa Hiền
(1648-1687) cho quân sang U Đông và Nam Vang để cản ngăn việc quân Xiêm
chiếm đóng hồi 1658-1672, lại cho người Minh Hương đến khẩn hoang ở Mỹ
Tho và Biên Hòa hồi 1679. (Bản đồ 24)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0024


Nguyễn Phước Trăn tức Chúa Ngãi (1687-1691) cho quân chinh phạt nguời Minh Hương là Hoàng Tiến hồi năm 1689.

Nguyễn Phước Chu tức Chúa Minh
(1691-1725) “đặt phủ Bình Thuận, vẫn để vua Chiêm cai trị người Chiêm
như cũ” hồi năm 1697. Năm 1698 phái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền
Nam, đăt phủ Gia Đinh và hai huyện Tân Bình (Sài Gòn), Phước Long (Biên
Hòa).

Năm 1708, chúa cho Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên.

Nguyễn Phước Trú tức Chúa Ninh (1691-1738)đặt chức Điều Khiển để coi việc quân toàn miền Nam.

Nguyễn Phước Khoát tức Chúa Võ
(1738-1765) hoàn chỉnh việc chia cắt phủ huyện trên toàn cõi miền Nam.
Năm 1744, Đàng Trong chia ra làm 12 dinh và 1 trấn

Chính dinh (Phú Xuân).

  1. Cựu dinh (Ái Tử, Quảng Trị).
  2. Quảng Bình dinh tục gọi dinh Trạm.
  3. Lưu Đồn dinh cũng gọi dinh Mười (Võ Xá, Quảng Bình).
  4. Bố Chính dinh tục gọi dinh Ngói.
  5. Quảng Nam dinh tục gọi dinh Chiêm.
  6. Phú Yên dinh.
  7. Bình Khang dinh (sau là Khánh Hòa).
  8. Bình Thuận dinh.
  9. Trấn Biên dinh (sau là Biên Hòa)
  10. Phiên Trấn dinh (sau là tỉnh Gia Định).
  11. Long Hồ dinh (sau là Vĩnh Long và An Giang).
  12. Hà Tiên trấn.

Dân số Đàng Trong, ở niên đại 1750, có khoảng 1.500.000 người.

Nguyễn Phước Thuần tức Chúa Định
(1765-1776) sai Nguyễn Cửu Đàm giải phóng Cao Miên khỏi tay quân Xiêm
chiếm đóng (1772). Đầu năm 1776, quân Tây Sơn vào chiếm miền Nam, sau
khi làm chủ Qui Nhon[1].

Nguyễn Anh (1776-1802) tái chiếm Gia
Định từ tay Tây Sơn, xây thành Bát Quái rồi theo gió mùa lần hồi lấy lại
Phú Xuân và cả Đàng Ngoài.

(Bản đồ 25)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0025

10. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TÂY SƠN (1771-1802)


Có lẽ chính quyền nuớc ta chưa bao giờ
phân tán như trong thời gian 30 năm này, ngoại trừ thời Thập Nhị Sứ
Quân. Năm 1771, anh em Tây Sơn dấy binh rồi chiếm thành Qui Nhơn. Năm
1774, chúa Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc vào chiếm Phú Xuân. Chúa Định
cùng Nguyễn Ánh chạy vào Nam. Năm 1776, Tây Sơn vào chiếm Nam Bộ. Từ đó
đến năm 1778, Nam Bộ bị giành giật bảy tám lần giữa Tây Sơn và Nguyễn
Ánh. Năm 1786, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ lấy Thuận Hóa, rồi thừa thắng
đem quân ra lấy Bắc Hà với danh nghĩa diệt Trịnh phù Lê. Trịnh Khải tự
tử, chấm dứt nghiệp chúa của họ Trịnh kéo dài 216 năm (1576-1786) với 10
đời chúa là:

Trịnh Tùng (1570-1670)

Trinh Tráng (1623-1657)

Trịnh Tạc (1657-1682)

Trịnh Căn (1682-1709)

Trịnh Cương (1709-1729)

Trịnh Giang (1729-1740)

Trịnh Doanh (1740-1767)

Trịnh Sâm (1767-1782)

Trịnh Cán (1782)

Trịnh Khải (1783-1786).

Lấy được Bắc Hà rồi, nhà Tây Sơn phân
quyền lại: Nguyễn Nhạc làm Trung ương Hoàng Đế đóng đô ở Qui Nhon,
Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, Nguyễn Huệ làm Bắc Bình
Vương ở đất Thuận Hóa, lấy đèo Hải Vân làm giới hạn. Riêng nhà Tây Sơn
đã chia làm “ba nuớc”. Nhưng Nguyễn Lữ ở Gia Định thì không bao giờ vững
và Nguyễn Ánh vẫn tự coi là chúa chính thống, còn Quy Nhơn và Thuận Hóa
thì hiềm khích, có lúc Nguyễn Huệ đã kéo quân vào đánh Nguyễn Nhạc.
Trong khi ấy, vua Lê còn thoi thóp ở Thăng Long và dùng Trịnh Bồng làm
chúa. Lên được tấm bản đồ phân ranh hành chính của nước ta trong thời kỳ
lắm vua nhiều chúa này thật không dễ[2].(Bản đồ 26)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0007 ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0026

Năm 1787, Nguyễn Huệ dứt bỏ nhà Lê nhưng
vẫn đặt Giám quốc “để giữ tông miếu tiền triều”. Lê Chiêu Thống chạy
sang Trung Quốc xin cầu viện. Nhà Lê làm vua cả thảy được 360 năm
(1428-1788). Tiếp theo Lê Thế Tông (đã chép ở một đoạn trên) là các vua:

Lê Kính Tông (1600-1619).

Lê Thần Tông (1619-1643) lần thứ nhất.

Lê Chân Tông (1643-1649).

Lê Thần Tông (1649-1662) lần thứ hai.

Lê Huyền Tông (1663-1671).

Lê Gia Tông (1672-1675).

Lê Hi Tông (1676-1705).

Lê Dụ Tông (1706-1729).

Lê Duy Phương (1729-1732).

Lê Thuần Tông (1732-1735).

Lê Ý Tông (1735-1740).

Lê Hiển Tông (1740-1786).

Lê Mẫn Đế (1787-1788) tức Chiêu Thống.

Đó là những vị vua ngồi làm vì, còn quyền bính đều trong tay họ Trịnh quyết đoán. Họ Trịnh suy thì nhà Lê cũng tàn.

Dân số Đàng Ngoài, ở niên đại 1750, có khoảng 4.000.000 người.

Quang Trung (1788-1792).
Khi được tin quân Thanh mượn tiếng cứu Lê để xâm chiếm nước ta, Nguyễn
Huệ tức vị xưng đế rồi đem quân ra Bắc để phá quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị bỏ
hết ấn tín mà chạy (1789). Thắng mà không kiêu, Nguyễn Huệ biết lượng
sức mình đối với Trung Quốc to gấp mấy chục lần nước ta, nên tạm hoãn
binh và xin cầu phong. “Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho Quang
Trung làm An Nam Quốc Vương[3].
Đó là tuóc hiệu mà “thiên triều” vẫn dùng để phong cho vua nuớc ta. Tuy
ta tự xưng nước là Đại Việt nhưng Trung Quốc chỉ gọi ta là An Nam. Trên
danh nghĩa, tước hiệu An Nam Quốc Vương là làm vua toàn quốc từ Nam chí
Bắc, song thực tế thì lúc đó Nguyễn Ánh đã làm chủ Nam Bộ và Trung ương
Hoàng Đế (tức Nguyễn Nhạc) vẫn còn làm chủ ở phía Nam Trung Bộ tới đèo
Hải Vân.

Cảnh Thịnh (1792-1802) tức Nguyễn Quang
Toản, lên nối ngôi cha, còn nhỏ tuổi không làm được gì, chứng kiến từ
thất trận này đến thất trận khác, từ Nam ra Bắc và chỉ tồn tại được 10
năm. (Bản đồ 27) Và (Bản đồ 28)


ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0028 
[1] Phan Khoang, Xứ Đàng Trong 1558-1777. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1970. Tr. 131-130

[2]
Lê Thành Khôi, Le VietNam, histoire et civilisation. Les editions de
Minuit. Paris, 1955. Bản đồ Le Đạí Việt en 1790, trang 528.
[3] Trần Trọng Kim, sdd, tr. 376.


Phần IV : Thời kỳ thống nhất lãnh thổ với quốc hiệu Việt Nam


1. QUỐC HIỆU VÀ CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI TRlỀU NGUYỄN (1802-1945)

a. Giai đoạn độc lập (1802-1862)

Gia Long (1802-1819) tức Nguyễn Ánh, sau
khi dứt được Tây Sơn, liền phái Lê Quang Định sang Trung Quốc cầu phong
và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt. Nhà Thanh chỉ nhận đổi quốc hiệu là
Việt Nam và phong cho Nguyễn Anh là Việt Nam Quốc Vương (1804) . (Bản đồ
29)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0029

Toàn quốc khi ấy chia làm 23 trấn và 4 dinh:

Bắc Thành gồm 11 trấn:

5. nội trấn:
1. Sơn Nam Thượng
2. Sơn Nam Hạ
3. Sơn Tây
4. Kinh Bắc
5. Hải Dương

6. ngoại trấn:
1. Tuyên Quang
2. Hưng Hóa
3. Cao Bằng
4. Lạng Sơn
5. Thái Nguyên
6. Quảng Yên

Gia Định Thành gồm 5 trấn:
1. Phiên An (địa hạt Gia Định)
2. Biên Hòa
3. Vĩnh Thanh (Vĩnh Long và An Giang)
4. Định Tưòng
5. Hà Tiên

Miền Trung gồm 7 trấn:
1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Quảng Ngãi
4. Bình Định
5. Phú Yên
6. Bình Hòa (sau là Khánh Hòa)
7. Bình Thuận

Kinh Kỳ thống quản 4 dinh:
1. Quảng Đức dinh (sau là Thừa Thiên)
2. Quảng Trị dinh
3. Quảng Bình dinh
4. Quảng Nam dinh
(Bản đồ 30)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0030

Từ năm 1805, bắt đầu công cuộc lập địa bạ cho mỗi xã thôn trên toàn quốc, làm từ Bắc vào Nam. Đây là một công việc vĩ đại.

Dân số Việt Nam, ở niên đại 1802 đầu đời Gia Long, có khoảng 5.780.000 người.

Minh Mệnh (1820-1840) chủ trương tập quyền, chia cương vực ra làm 30 tinh và 1 phủ Thừa Thiên thuộc Kinh Kỳ.

1. Phủ Thùa Thiên
2. Lạng Sơn
3. Quảng Yên
4. Cao Bằng
5. Tuyên Quang
6. Thái Nguyên
7. Bắc Ninh
8. Hải Dương
9. Hưng Hóa
10. Sơn Tây
11. Hà Nội
12. Nam Định
13. Hưng Yên
14. Ninh Bình
15. Thanh Hóa
16. Nghệ An
17. Hà Tĩnh
18. Quảng Bình
19. Quảng Trị
20. Quảng Nam
21. Quảng Ngãi
22. Bình Định
23. Phú Yên
24. Khánh Hòa
25. Bình Thuận
26. Biên Hòa
27. Gia Định
28. Định Tường
29. Vĩnh Long
30. An Giang
31. Hà Tiên.
Đến năm 1836 thì Minh Mệnh hoàn thành công
cuộc lập địa bạ trên toàn quốc (hiện còn lưu giữ được 10.044 tập gồm
khoảng 15.000 quyển Địa bạ). Đó là một sưu tập vô giá để mô tả cương vục
nuớc ta ở từng ngôi làng, từng mảnh ruộng đất.

Năm 1838, Minh Mệnh đổi tên nuớc là Đại Nam hoặc Đại Việt Nam .
Dân số Việt Nam ở cuối đời Minh Mệnh năm 1840 có khoảng 7.764.128 người.

Thiệu Trị (1841-1847).

Tự Đức (1847-1883). Về đại thể, cho đến năm 1862, vẫn giữ nguyên tổ chức hành chính như trên.

b. Từ khi bị Pháp đô hộ (1862-1945)

Quân Pháp đánh phá Đà Nang năm 1858,
chiếm Sài Gòn năm 1859. Huế phải ký nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông
Nam Kỳ năm 1862. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Năm 1883,
Pháp chiếm Bắc Kỳ, rồi Huế và miền Trung. Các ngôi vua triều Nguyễn sau
Tự Đúc đều mất quyền tự chủ, việc chính trị phải theo Pháp xếp đặt:

1. Dục Đức (1883)
2. Hiệp Hòa (1883)
3. Kiến Phước (1884)
4. Hàm Nghi (1884-1885)
5. Đồng Khánh (1885-1888)
6. Thành Thái (1889-1907)
7. Duy Tân (1907-1916)
8. Khải Định (1916-1925)
9. Bảo Đại (1925-1945)

Pháp bỏ quốc hiệu Việt Nam, Đại Nam hay Đại Việt Nam, và chia cương vực nước ta thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Đó là:

Annam hay Trung Kỳ
Tonkin hay Bắc Kỳ
Cochinchine hay Nam Kỳ

Bắc Kỳ gồm 27 tỉnh và 2 thành phố:

1. Thành phố Hà Nội
2. Thành phố Hải Phòng
3. Bắc Giang
4. Bắc Ninh
5. Hà Đông
6. Hải Dương
7. Hà Nam
8. Hưng Yên
9. Kiến An
10. Nam Định
11. Ninh Bình
12. Phúc Yên
13. Phú Thọ
14. Quảng Yên
15. Sơn Tây
16. Thái Bình
17. Thái Nguyên
18. Tuyên Quang
19. Vĩnh Yên
20. Yên Báy
21. Bắc Cạn
22. Cao Bằng
23. Hà Giang
24. Hòa Bình
25. Lạng Sơn
26. Lào Kay
27. Lai Châu
28. Móng Cáy
29. Sơn La
Trung Kỳ gồm 16 tỉnh:
1. Nghệ An
2. Hà Tĩnh
3. Thanh Hóa
4. Quảng Trị
5. Quảng Bình
6. Thừa Thiên
7. Quảng Ngãi
8. Bình Định
9. Phú Yên
10. Nha Trang
11. Phan Rang
12. Quảng Nam
13. Phan Thiết
14. Đồng Nai Thượng
15. Kontum
16. Darlac

Nam Kỳ gồm 20 tỉnh, 3 thành phố và 1 khu đảo:
1. Thành phố Sài Gòn
2. Thành phố Chợ Lớn
3. Thành phố Vũng Tàu
4. Khu đảo Côn Lôn
5. Rạch Giá
6. Hà Tiên
7. Gò Công
8. Châu Đốc
9. Sóc Trăng
10. Gia Định
11. Long Xuyên
12. Vĩnh Long
13. Tây Ninh
14. Sa Đéc
15. Chợ Lớn
16. Thủ Dầu Một
17. Cần Thơ
18. Bạc Liêu
19. Biên Hoa
20. Mỹ Tho
21. Trà Vinh
22. Bà Rịa
23. Tân An
24. Bến Tre.

Tính chung Bắc Kỳ có 37 phủ, 88 huyện,
38 châu. Phủ không còn quản huyện như xưa. Nơi nào to gọi là phủ, nơi
nhỏ gọi huyện. Châu cũng như huyện, nhưng ở các vùng có dân tộc thiểu
số. Gồm 1.264 tống, 10.105 xã, 29 mường, 2.141 bản. Mường và bản cũng
chỉ đặt ở những nơi có đồng bào dân tộc. Trên vùng biên giới lại có 4
đạo quan binh.

Tính chung ở Trung Kỳ có 3 đạo (đạo cao
hơn phủ), 33 huyện, 58 huyện, 541 tổng và 9.093 xã. Có 6 thành phố là
Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng (nhượng cho Pháp), Qui Nhơn và Đà Lạt.

Tính chung ở Nam Kỳ có 78 quận (không
còn chia ra làm hai cấp phủ huyện như ở Bắc và Trung Kỳ), 197 tổng Kinh
và 10 tổng Thượng, 1.470 xã (không phân biệt thôn và xã nữa) .

Đó là tình hình nước ta: không còn quốc hiệu, và cương vực thì bị chia cắt thiếu thống nhất, suốt thời gian bị Pháp thống trị.
Dân số nước Việt Nam thời thuộc Pháp:

Năm 1870 có khoảng 10.000.000 người
Năm 1901 – 13.000.000 người
Năm 1943 – 22.600.000 người

2. QUỐC HIỆU VÀ CƯƠNG VỰC NƯỚC TA TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY

Sau Cách mạng mùa thu, Chủ tịch Hồ Chí
Minh công bố Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945. Đầu năm 1946, họp Quốc
hội và thành lập nuớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hiệu Việt Nam lại
xuất hiện rạng rỡ hơn hổi đầu thế kỷ 19. Nhưng từ 23-9-1945, thực dân
Pháp xua quân đánh chiếm Sài Gòn và một số địa điểm khác ở miền Nam.
Cuối năm 1946, Pháp đánh chiếm Hà Nội và một số địa điểm khác trên toàn
quốc. Cuộc kháng chiến bắt đầu trên phạm vi cả nước. Cương vực nước ta
phải cắt thành những “khu” và “liên khu” quân sự để đáp ứng nhu cầu
kháng chiến. Những tỉnh, phủ, huyện cũ đuợc chia cắt hoặc dồn nhập cho
thích ứng với các khu và quân khu. Tình hình diên cách lúc này hết sức
phức tạp, muốn nghiên cứu kỹ, thường phải dựa trên những tư liệu hồi ký,
vì thiếu các văn bản pháp qui liên tục.

Hiệp định Genève 1954 lấy sông Bến Hải ở
vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời cho việc chuyển quân và dự tính đến
năm 1956 thì Hiệp Thương thống nhất đất nước. Nhưng miền Nam với chiến
lược của Hoa Kỳ, không thi hành Hiệp định và tổ chức chính quyền riêng
với danh xưng Việt Nam Cộng hòa, tồn tại tới năm 1975. Sau đây là tình
hình phân ranh hành chính của hai miền trong thời gian đó:

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Thủ đô: Hà Nội
Khu tự trị Việt Bắc, 6 tỉnh:
1. Hà Giang
2. Bắc Cạn
3. Cao Bằng
4. Thái Nguyên
5. Tuyên Quang
6. Lạng Sơn
Khu tự trị Thái-Mèo, 2 tỉnh:
1. Lai Châu
2. Sơn La
Khu đặc biêt, 1 tỉnh:
1. Hồng Quảng
Thành phố trực thuộc Trung ương:
2. Hải Phòng
Các tỉnh trực thuộc Trung ương, 21 tỉnh:
1. Lào Cai
2. Bắc Ninh
3. Hà Đông
4. Yên Bái
5. Bắc Giang
6. Hòa Bình
7. Phú Thọ
8. Hải Ninh
9. Hà Nam
10. Sơn Tây
11. Hải Dương
12. Thái Bình
13. Vĩnh Phúc Yên
14. Hưng Yên
15. Kiến An
16. Ninh Bình
17. Thanh Hóa
18. Hà Tình
19. Nam Định
20. Nghệ An
21. Quảng Bình
Trên đây là tình hình phân ranh ở miền Bắc hồi 1962. Cũng ở thời điểm đó, miền Nam tình hình phân ranh hành chính như sau:

VIỆT NAM CỘNG HÒA
Đô thành: Sài Gòn
Trung nguyên Trung Phần, 10 tỉnh:
1. Quảng Trị
2. Bình Định
3. Thừa Thiên
4. Phú Yên
5. Quảng Nam
6. Khánh Hòa
7. Quảng Tín
8. Ninh Thuận
9. Quảng Ngãi
10. Bình Thuận

Cao nguyên Trung Phần, 7 tỉnh:
1. Kontum
2. Quảng Đúc
3. Pleiku
4. Tuyên Đúc
5. Phú Bổn
6. Lâm Đồng
7. Darlac
Miền Đông Nam Phần, 11 tỉnh:
1. Bình Tuy
2. LongKhánh
3. Phước Thành
4. Phước Long
5. Bình Long
6. Biên Hòa
7. Phuớc Tuy
8. Gia Định
9. Bình Duong
10. Tây Ninh
11. Côn Sơn
Miền Tây Nam Phần, 13 tỉnh:
1. Long An
2. Kiến Tưòng
3. Định Tường
4. Kiến Phong
5. Kiến Hòa
6. Vĩnh Long
7. An Giang
8. Vĩnh Bình
9. Phong Dinh
10. Chưong Thiện
11. Kiên Giang
12. Ba Xuyên
13. An Xuyên

Ở Trung Phần bắt đầu bỏ các danh xưng
phủ huyện mà dùng đơn vị quận như ở Nam Kỳ dưới thời Pháp. Tính chung
miền Nam khi ấy chia ra 228 quận, 339 tống, 2.547 xã và 16.243 ấp . Có
thể dễ dàng nhận thấy cấp tổng để lơi lỏng, cấp xã và ấp mất dần quyền
tự trị.

Ở cả miền Nam lẫn miền Bắc, từ 1960 đến
1975, tình hình phân bổ hành chính không giữ nguyên như bảng kê trên mà
thay đổi khá nhiều, cần có thêm những bảng thống kê và chú thích hơn nữa
mới nắm hết được quá trình diên cách.

Năm 1962, dân số Việt Nam có khoảng 31.275.000 người (miền Bắc có 17.000.000 và miền Nam có 14.275.000 người).

3. CƯƠNG VỰC NƯỚC CỘNG HỔA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Ngày 30-4-1975 giải phóng Sài Gòn, miền
Nam hoàn toàn giải phóng. Cuối năm, tiến hành Hiệp thương Thống nhất.
Đầu năm 1976, quốc hội khóa VI thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Từ đó đến nay, nhiều tên và địa phận các đơn vị hành chính đã
đuợc thay đổi. Như từ năm 1976, cả nuớc chia ra 40 tỉnh, năm 1992 chia
ra 53 tỉnh, năm 1997 chia ra 61 tỉnh và từ năm 2003 chia ra 64 tỉnh (59
tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương). Dưới đây là thống kê 64 tỉnh
thành vừa kể:

(Bản đồ 31)

ban-do-viet-nam-tu-co-den-kim-0031




DIỆN TÍCH, DÂN SỐ, MẬT ĐỘ DÂN CƯ CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ

Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi truòng và Tổng cục Thông kê năm 2003.

Số liệu các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện
Biên, Hậu Giang, Lai Châu, Cần Thơ, Lào Cai, theo Nghị quyết 22/2003/QH
11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội

STT
Tên tỉnh
Diện tích (km2)
Dân số (nghìn người)
Mật độ
dân số
CẢ NƯỚC. 329.314,56 80.930,200 246
1. VÙNG TÂY BĂC
1 Lai Châu 9.065,12 313,511 35
2 Điện Biên 9.554,10 440,300 46
3 Sơn La 1.4055,00 955,400 68
4 Hòa Bình 4.662,54 792,300 170
II. VÙNG ĐÔNG BẮC
5 Hà Giang 7.884,37 648,100 82
6 Cao Bắng 6.690,72 503,000 75
7 Lào Cai 6.357,08 ■ 547,106 86
8 Yên Bái 6.882,92 713,000 104
9 Phú Thọ 3.519,65 1.302,700 370
10 Tuyên Quang 5.868,00 709,400 121
11 Băc Cạn 4.857,21 291,700 60
12 Thái Nguyên 3^42,64 1.085,900 307
13 Lạng Sơn 8.305,21 724,300 87
14 Băc Giang 3.822,70 1.547,100 405
1′, Quảng Ninh 5.899,58 1.055,600 179
III. VÙNG ĐỒNG BẮNG SÔNG HỐNG
16 Thành phố Hà Nội 920,98 3.007,000 3.265
17 Thành phố Hải Phòng 1.526,30 1.754,100 1.149


18 Vĩnh Phúc 1.371,41 1.142,900 833
19 Há Tây 2.192,08 2.479,400 1.131
20 Bắc Ninh 807,57 976,700 1.209
21 Hưng Yên 923,09 1.112,400 1.205
22 Hải Dương 1.648,37 1.689,200 1.025
23 Hà Nam 852,17 814,900 956
24 Thái Bình 1.545,42 1.831,100 1.185
25 Nam Định 1.641,33 1.935,000 1.179
26 Ninh Bình • 1.383,72 906,000 655
IV. VÙNG BẮC TRUNG BỘ
27 Thanh Hóa 11.116,34 3.620,300 326
28 Nghệ An 16.487,39 2.977,300 181
29 Há Tĩnh 6.055,64 1.283,900 212
30 Quảng Bình 8.051,86 818,300 102
31 Quảng Trị 4.745,74 608,500 128
32 Thừa Thiên-Huế 5.053,99 1.101,700 218
V. VÙNG DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
33 Thành phố Đà Nắng 1.255,53 747,100 595
34 Quảng Nam 10.407,42 1.438,800 138
35 Quảng Ngãi 5.137,62 1.250,300 243
36 Bình Định 6.025,06 1.530,300 254
37 Phú Yên 5.045,31 836,700 166
38 Khánh Hòa 5.198,21 1.096,600 211
39 Ninh Thuận 3.360,07 546,100 163
40 Bình Thuận 7.828,46 1.120,200 143
VI. VÙNG TÂY NGUYÊN
41 Kon Tum 9.614,50 357,400 37
42 Gia Lai 15.494,88 1.075,200 69


43 Đắk Lắk 13.062,01 1.666,854 128
44 Đắk Nông 6.514,38 363,118 56
45 Lâm Đồng 9.764,79 1.120,100 115
VII. VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
46 Thành phố Hồ Chí Minh 2.095,24 5.554,800 2.651
47 Bình Phước 6.857,35 764,600 112
48 Tây Ninh 4.029,60 1.017,100 252
49 Bình Dương 2.695,55 851,100 316
50 Đống Nai 5.894,78 2.142,700 363
51 Bà Rịa-Vũng Tàu 1.982,25 884,900 446
VIII. VÙNG ĐỐNG BĂNG SỐNG cửu LONG
52 Thảnh phô’ cần Thơ 1.389,60 1.112,121 800
53 Long An 4.491,22 1.392,300 310
54 Đổng Tháp 3.246,07 1.626,100 501
55 An Giang 3.406,23 2.146,800 630
56 Tiến Giang 2.366,63 1.660,200 702
57 Bến Tre 2.321,62 1.337,800 576
58 Vĩnh Ị.ong 1.475,20 1.036,100 702
59 Kiên Giang 6.268,17 1.606,600 256
60 Hậu Giang 1.607,73 766,105 477
61 Trà Vinh 2.215,15 1.002,600 453
62 Sóc Trăng 3.223,30 1.234,300 383
63 Bạc Liêu 2.525,74 775,900 307
64 Cà Mau 5.201,53 1.181,200 227<[1]>

 Vậy là cả nước có 59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung Ương. 
[1]   Bộ Tài nguyên và Môi trường. Hà Nội, 2005.


LỜI TỰA

Khi soạn thảo tập sách nhỏ này với nhan
đề Việt Nam Quốc Hiệu và Cương Vực qua các thời đại ngoài các bộ Chính
sử, tôi mạn phép sử dụng tư liệu đã công bố của các nhà sử học lớn như
Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Phan Khoang, Phan Huy Lê, Lê Thành Khôi,
Bửu Cầm, v.v…

Đây là dề tài cần nhiều bản đồ hay sơ đồ
minh họa, đặc biệt khi nói về cương vực. Tôi chỉ vẽ thêm những sơ đồ
thiết yếu mà các sử gia trên chưa vẽ, -hoặc có sửa chữa đôi ba địa danh
không thích hợp với tình thế hiện đại. Đường biên giới trong các sơ đồ
hầu hết là phỏng định, đôi khi dùng đường biên giới ‘lịch sử” ngày nay
cốt để dễ nhận định vị trí. Xin độc giả coi đây là những sơ đồ chỉ mang
tính hưng dẫn đại khái, nhất là đối với những sơ đồ vẽ theo tỷ lệ quá
nhỏ.

Cũng xin độc giả thông cảm cho: trong
tập này chúng tôi không đề cập đến các mặt lịch sử chính trị, kinh tế,
xã hội hay văn hóa dẫu có liên quan gần xa tới vấn đề Quốc Hiệu và Cương
Vực. Tuy nhiên tất cả các họ cầm quyền, các vua chúa trị vì, các chế độ
chính trị, từ thời Hồng Bàng đến nay, đều được ghi chép theo diễn biến
thời gian.

Dân số là vấn đề cực kỳ nan giải trong
quá trình phát triển của dân tộc ta. Chúng tôi đã dựa vào những thống kê
được lập chủ yếu từ đầu thế kỷ XX rồi ngược dòng lịch sử để phỏng tính
rất đại khái ở mỗi thời điểm về trước.

Nay xin trình bày với quý học giả và độc
giả tập sách nhò này. Chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Tôi thành thật
cám ơn quý vị sẽ chỉ bảo cho những gì còn sai sót hay cần bổ sung.

TP.HCM, mùa thu năm 1999

NGUYỄN ĐÌNH ĐẦU


CHỮ VIẾT TẮT
Đại Nam thực lục
ĐNTL
Khâm Định Việt sử
KĐVS
Việt Nam Sử lược
VNSL
Lịch sử Việt Nam 1
LSVN
Đào Duy Anh
ĐDA
Bửu Cầm
BC
Lê Thành Khôi
LTK
Trần Trọng Kim
 TTK

Normal
0

false
false
false

MicrosoftInternetExplorer4

/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:”Table Normal”;
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-parent:””;
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:”Times New Roman”;
mso-ansi-language:#0400;
mso-fareast-language:#0400;
mso-bidi-language:#0400;}

 

Tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam : Thủ đoạn của Minh Thành Tổ trong cuộc chiến tranh xâm lược 1406-1407

Nguyễn Huệ Chi

Nguồn:

http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/thu-doan-tieu-diet-tan-goc-van-hoa-viet-nam-cua-minh-thanh-to-1

Nguyên đây là một phần trong thiên khảo luận dài có tên “Cuộc kháng chiến trường kỳ chống xâm lược Minh và văn học yêu nước thế kỷ XV cùng những bước nối tiếp về sau” viết năm 1980, in trong công trình Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi (NXB Giáo dục, 2013) đã được phê bình, giới thiệu trên nhiều trang mạng và báo chí trong nước thời gian gần đây. Diễn Đàn trân trọng cảm ơn GS Nguyễn Huệ Chi đã cho phép trích đăng bài viết đó để giúp bạn đọc nhìn sâu vào một khía cạnh đặc biệt thâm hiểm của Hoàng đế Minh Thành Tổ – kẻ thiết kế toàn bộ kế hoạch đánh chiếm Việt Nam ở đầu thế kỷ XV: âm mưu đồng hóa người Việt bằng một chủ trương rất bài bản và “cao tay”… là lệnh cho quân lính xóa sạch tại chỗ văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc Việt tại những nơi chúng tràn đến như nước lũ. Hầu hết cứ liệu để cập trong bài được rút từ một cuốn sử Trung Quốc – cuốn Việt kiệu thư 越 嶠 書 của sử thần Lý Văn Phượng 李 文 鳳, soạn năm 1540.

Vào năm cuối cùng của thế kỷ XIV, lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam diễn ra một bước ngoặt: Hồ Quý Ly lật đổ ngai vàng của nhà Trần mà thành lập một triều đại mới – triều đại nhà Hồ. 32 năm trước đó, năm 1368, lịch sử chế độ phong kiến Trung Hoa cũng đã từng diễn ra một bước ngoặt: nền thống trị của đế quốc Nguyên – Mông bị phong trào nông dân Trung Quốc đánh đổ; Chu Nguyên Chương nhảy lên ngai vàng với bộ lễ phục của một triều đại mới – triều đại đế quốc Minh. Trước sau 30 năm, trên hai đất nước láng giềng, các ông chủ mới đã lần lượt thế chân các ông chủ cũ. Nhưng tình hình đó tuyệt không làm thay đổi một chút nào mối quan hệ vốn có. Trái lại, nó chỉ càng làm nặng nề thêm những gì trong quá khứ vốn đã quá nặng nề. Những vị Hoàng đế nhà Minh – mới nắm được “ngôi trời” – cảm thấy mình còn dư sức, con mắt thèm khát nhìn ngay xuống mảnh đất giàu có phương Nam với lòng tự tin rằng, mình có thể làm được cái việc “chinh phục” Đại Việt mà những đế chế trước mình đã phải bó tay. Về phía các vua nhà Hồ, cố nhiên họ hiểu rất rõ dã tâm đó của “thiên triều”. Ngay khi vừa lên ngôi, họ đã tích cực chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó. Thế rồi, vào ngày 19 tháng 11 năm 1406, chiến cuộc đã nổ ra, gay gắt, chớp nhoáng. Nhà Hồ thất sách về chính trị và sai lầm chiến thuật về quân sự nên chưa đầy một năm sau đành lâm vào thất bại. Vua Minh lập tức cho đổi trở lại tên Đại Việt thành quận Giao Chỉ, quàng vội ách đô hộ lên khắp nước ta.

Nhưng nhân dân Đại Việt vốn đã có truyền thống hàng nghìn năm cảnh giác với kẻ thù phương Bắc, đâu dễ dàng cam chịu ngồi yên. Và khi mà Minh Thành Tổ tưởng mọi việc đã xong, ra lệnh cho quân lính sửa soạn rút lui, thì cũng chính là lúc một phong trào kháng chiến cứu nước của nhân dân bắt đầu trỗi dậy. Rồi từ đó, hết phong trào này đến phong trào khác, cuộc chiến đấu vì độc lập của xã tắc đã kéo dài hơn 20 năm cho kỳ đến thắng lợi.

*

* *

Điều cần nói ngay là bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV đã hiện ra với tất cả vẻ khốc liệt và dữ dội. Không phải bản thân chiến cuộc 1406 với tầm mức gay gắt của nó quyết định sự dữ dội này. Mấy thế kỷ trước, đám chúa trùm phong kiến Tống, Nguyên chẳng cũng đã mở những cuộc tấn công quy mô xuống Đại Việt, và về so sánh lực lượng, lần tấn công nào của họ mà lại không có cái thế tưởng như áp đảo kinh hồn? Nhưng vấn đề đặt ra trong cuộc xâm lăng lần này là nó nhằm thực hiện một mưu đồ còn hiểm sâu hơn cái việc cướp nước, giết dân thông thường, của một tên “Đại Hán” mà sự tàn bạo, xảo quyệt và man rợ trong thời đại của y có thể đứng vào loại nhất nhì thế giới. Ở tên Đại Hán đó có sự tích lũy tất cả những kinh nghiệm tàn ác của cha ông y trong quá khứ, kết hợp với những mánh khóe ranh ma mới mẻ nhất mà thời đại mới mang lại cho y. Chính vì vậy, nguy cơ của cuộc xâm lăng lần này đã đặt người dân Đại Việt trước một yêu cầu thức tỉnh toàn diện để có thể đứng vững, hơn thế nữa, để lớn vượt lên. Cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền và xây dựng đất nước của các thế hệ cha ông ta trong vòng hơn 20 năm (1406 – 1427) rõ ràng là một cuộc vật lộn oanh liệt mà kết quả đã tạo ra một bước đổi thay lịch sử phi thuờng. Nắm cho được bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV chính là nắm cho được hai điển hình đối lập tuyệt đối trong bước đổi thay lịch sử phi thường đó: kẻ thù là kẻ thù mới với những thủ đoạn xưa kia chưa từng thấy, nhưng về mặt mưu đồ và bản chất hiểm ác vẫn chính là hiện thân của những tên xâm lược cũ; và dân tộc ta tuy gắn bó với quá khứ sâu nặng nhưng lại là một dân tộc đang thăng hoa khỏi tầm vóc quá khứ, biểu hiện một sức mạnh hồi sinh.

Ngón đòn cổ điển nhất của các vị Hoàng đế phương Bắc trước hết là những âm mưu gây hấn đối với Việt Nam. Về phương diện này, nhà Minh đã tỏ ra không kém cạnh chút nào so với các triều đại cha anh của họ. Vì thế, cũng giống như tình hình của rất nhiều cuộc “Nam chinh” trong quá khứ, chiến cuộc 1406 thật ra đã được “thiên triều” chuẩn bị chu đáo trước đấy lâu lắm rồi. Vấn đề là về hình thức, phải tìm ra một cái cớ thích hợp để mà “sinh sự”, và về thực chất, phải làm sao dò thật trúng thực lực của Đại Việt để lượng sức mình. Hai mặt này thường vẫn gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình chuẩn bị âm thầm của họ. Năm 1377, chỉ mới chín năm sau ngày giành được địa vị “con trời”, ông vua Minh đầu tiên đã nóng nảy muốn vin cớ vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận trong cuộc thân chinh phương Nam (1377) mà cất quân sang hỏi… “tội” (!). Nhung “hỏi tội” một vị vua vì “chống nạn cứu dân” mà không may bị chết? Trước lời lẽ cứng rắn của Trần Đình Thâm, sứ giả nước ta, vua Minh đuối lý, không những phải cử người sang dự lễ viếng, mà còn đành phải gác lại bao nhiêu mưu kế những toan đem thi thố phen này(1). Dĩ nhiên, gác lại không có nghĩa là xếp bỏ hẳn, mà chỉ là buộc lòng nén lại những dự định bên trong ngày một sục sôi. Tháng 9 năm 1384, nhân cho quân lính tiến xuống đánh Vân Nam, vua Minh thảo công văn đòi nước ta cấp lương cho đạo quân “tiễu phạt” của y. Ta nhân nhượng. Rồi các năm 1385, 1386, vua Minh vẫn đưa ra những yêu sách vô lý, phiền hà. Nào bắt nộp hoạn quan, nào muốn tìm giống cây xứ nóng, thậm chí đòi cả voi để “thiên triều” mang đi đánh trận. Năm 1395, Minh còn trắng trợn sai bọn Nhâm Hanh Thái sang xin ta giúp 5 vạn quân, 50 con voi và 50 vạn hộc lương với dụng ý chộp bắt sứ giả của ta để kiếm chuyện. Nhưng Nhâm Hanh Thái lại mật báo cho ta biết trước, vì thế ta đã kịp thời đề phòng, chỉ cho chở một ít lương lên biên giới rồi rút về ngay chứ không cấp lính và voi.

Một vài ví dụ như trên cũng đủ thấy tên lãnh chúa phong kiến phương Bắc mới phất lên này nóng lòng dòm ngó Đại Việt đến đâu. Nhưng mặt khác, một thực tế cũng dễ thấy là mặc dù rất tham lam, các ngài ngự “Đại Minh” vẫn phải kéo dài việc chuẩn bị xâm lược suốt 30 năm, từ đời vua cha đến đời vua cháu(2). Vì sao có cái mâu thuẫn hết sức lạ đời đó? Chắc hẳn trong khi rút kinh nghiệm quá khứ, bài học thảm bại chưa xa xôi gì của những kẻ “đi trước” đã không khỏi làm cho các ngài đâm ra e ngại, trùng trình: “Nước An Nam tuy ở góc biển nhưng xưa kia đã là quận huyện của Trung Quốc. Từ đời Ngũ quý về sau sức ta không còn chế ngự nổi họ. Qua Tống đến Nguyên, tuy muốn mưu đồ nhưng không thành, chỉ để tiếng chê cười cho hậu thế”(3). Đấy là lời thú nhận của Minh Thành Tổ trong sắc chỉ y gửi viên Tổng binh Chu Năng – viên tướng đầu tiên cầm quân sang đánh Đại Việt theo lệnh của y – đề ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Cũng ở sắc chỉ đó còn nêu một lời nhận xét của Minh Thành Tổ về nguyên nhân thất bại của Tống và Nguyên: “Tống cũng như Nguyên đều cho quân sang đánh An Nam, nhưng tướng thì kiêu, binh thì lười, lại còn tham tài hiếu sắc, vì thế mà không thành”(4). Sự thật thì tuy làm ra vẻ cười ngạo tổ tiên mình, ông Hoàng đế khét tiếng về tham vọng và tàn bạo này cũng chẳng can đảm hơn bao nhiêu trên vấn đề xâm lược Việt Nam. Năm 1403, bốn năm sau khi Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, tình hình mâu thuẫn và bế tắc trong tập đoàn phong kiến Trần – Hồ không những không giải quyết được mà còn thêm gay gắt, cái cớ gây hấn đã có thể kiếm ra rất dễ, điều kiện gây hấn cũng đã hết sức thuận lợi; lại cũng là năm Minh Thành Tổ vừa dùng mọi thủ đoạn đoạt được ngôi từ trong tay cháu ruột của mình; ấy thế mà đối với nước ta, ông ta vẫn sợ và gờm, chỉ mới dám cho bọn hoạn quan người Việt trở về làm do thám một lần cuối, và chuẩn bị nội ứng, ước hẹn ngoài đánh vào thì trong cắm cờ vàng làm hiệu. Thế rồi, phải ba năm sau nữa, khi mọi yêu cầu tìm hiểu đã được đáp ứng đầy đủ, cảm thấy không còn một trở ngại nào đáng kể trên con đường tiến xuống kinh đô Đại Việt, Minh Thành Tổ bấy giờ mới thật quyết tâm khởi thế công. Một mặt, ông ta vờ làm to chuyện lên rằng đến lúc này không ai còn chịu đựng nổi những việc Hồ Quý Ly truất ngôi các vị vua Trần và giết hại đám con cháu nhà Trần (vốn là việc đã xảy ra sáu, bảy năm về trước!): “Bề tôi [cũ của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi lòng lang sói, rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc vương, tàn sát người trong dòng họ Trần, cả những bề tôi của họ Trần cũng trong vòng thảm khốc, bị hãm vào chỗ chết. Bọn chúng gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không yên sống, tiếng hờn oán dấy lên đầy đường”(5). Mặt khác, với ngón bịp sở trường từ tổ tiên mình truyền lại, ông ta lại cũng ra điều ta đây bất nhẫn, không định gây việc can qua làm gì, chỉ vì Hồ Quý Ly quá lắm nên phải động binh; song động binh mà vẫn rất nhân từ, muốn thu xếp ổn thoả bằng cách cho cha con họ Hồ “đem trăm vạn lạng vàng và một trăm con voi ra chuộc tội. Nếu không đủ thì cho phép đem châu ngọc bảo bối thế vào cho đủ. Có thế đại quân mới không tiến sang”(6). Kỳ thực, có đúng thế hay không? Trong đạo sắc bí mật gồm 10 điều căn dặn riêng viên Tổng binh Chu Năng – gửi mấy ngày trước ngày ban bố tờ chiếu công khai trên đây – Minh Thành Tổ đã thổ lộ “can tràng” của ông ta: “Nay sai Chu Khuyến, Trương Anh đem công văn của Bộ Lễ sang An Nam đòi nộp voi và vàng. Làm kế ấy để cho chí chiến đấu của chúng buông lỏng chứ không phải là thực bụng. Khi bọn Chu Khuyến ra đi, trẫm từng gặp mặt phủ dụ, bảo chúng đến nuớc họ chỉ ở lại 5 ngày, nếu 5 ngày chưa xong thì cho phép được bao nhiêu hãy cứ nộp truớc, sau sẽ sai người mang tiếp sang nộp cho đủ. Ngươi chờ cho bọn Chu Khuyến đi rồi thì đại quân phải tức khắc xuất phát theo sau. Nếu gặp kẻ đuợc phái sang nộp voi và vàng thì cứ bắt giữ lại để tra hỏi tin tức, nhưng đừng hở cho họ biết kẻ sai đi đã bị bắt… Nay bọn Chu Khuyến vào nước đó, mọi việc ngươi nhất thiết chớ hở ra cho ai biết”(7).

Gớm ghê thay miệng lưỡi từ bi và lòng dạ thực của đấng “thiên tử”! Duy có điều là ngay cả vào lúc đó rồi mà ngài vẫn còn e dè gửi tiếp những sắc chỉ căn dặn: nào là “nước An Nam giàu mạnh đã lâu”(8), nào là “quân lính của họ tất có phòng bị trước”, nào là “cha con họ Lê – tức họ Hồ – lắm mưu mẹo giảo quyệt”, tuyệt nhiên không thể sơ hở hoặc xem thường. Trong nhiều đạo sắc, Minh Thành Tổ đều tỏ ý lo lắng khi quân mình vượt sông Phú Lương là chỗ hiểm yếu bậc nhất, sẽ thua mưu kế của Hồ Quý Ly. Y viết rõ trong một sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407) nói về đạo binh của Trương Phụ: “Cứ đóng quân mãi trên sông giằng co với giặc chính là rơi vào mưu kế của giặc Lê [Quý Ly] nhằm giữ chân quân ta thật lâu, đợi cho dịch lệ phát sinh; vì thế phá được mưu này thì phải thần tốc không được trì hoãn”(9).

Rõ ràng, vừa khát thèm lại vừa e sợ, vừa hung hăng lại vừa lo ngại, vừa ráo riết sửa soạn lại vừa trù trừ cho đến tận phút cuối cùng, cuộc chiến tranh xâm lược của giặc Minh ở thế kỷ XV quả đã không còn là ngón đòn mới mẻ gì đối với nhân dân Việt Nam. Bước ra quân ban đầu của “thiên triều” phải mang tính chất hai mặt: nhanh mà chậm, nóng mà lạnh, đánh thực mà cũng là đánh dứ, cũng chính là vì vậy.

*

* *

Tuy nhiên, đấy chỉ là cái dè dặt của buổi ban đầu. Khi đã dấn sâu vào đất nước ta, thấy rõ chỗ thất thế của nhà Hồ, bọn giặc xâm lược liền lộ hết vuốt nanh và hành vi táo tợn. Một chiến lược tập kích ồ ạt nhằm phá vỡ phòng tuyến chính để tiến thẳng đến Thăng Long, và từ Thăng Long đánh toả xuống phía Nam, được thi hành. Một chế độ thống trị ngoại bang được dựng lên chớp nhoáng ở khắp mọi miền, thành thị cũng như nông thôn mà chúng vừa đặt chân đến. Và một chính sách chém giết thẳng tay cũng được đem ra ban phát lập tức cho dân chúng. “Trương Phụ đi đến đâu là giết hại, hoặc chất thây người thành núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có kẻ mổ bụng người chửa, moi thai, cắt lấy tai của mẹ và con để tính làm hai mạng người”(10).

Có thể nói, nói đến đặc điểm thứ hai trong chân dung của tên xâm lược mới ở thế kỷ XV là nói đến hình ảnh các viên quan cai trị nhà binh với tất cả những thủ đoạn giết người – trị người – dùng người gắn bó với nhau một cách tinh vi và nham hiểm. Sau nhiều lần cố gắng phản công ở Hàm Tử, Lỗi Giang, Điển Canh, Kỳ La,… nhưng đều thất bại, vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ cùng quẫn và bị bắt ở núi Thiên Cầm. Cả nước rơi vào tay giặc, và trở thành một lò sát sinh, một công trường lao dịch khổ sai, một nơi để giặc Minh thoả sức tìm tòi thức ngon của quý. Ngay trong những ngày đang trên đường tiến sang nước ta, bọn tướng tá viễn chinh đã nhận được sắc chỉ của vua Minh căn dặn hễ đến đâu là phải tịch thu hết giấy tờ, sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất đến đấy; phải lập ngay chế độ thuế khóa trên những vùng vừa chiếm đóng; và chú ý khai thác các mỏ bạc, mỏ vàng. Kể cả những mỏ nằm trên biên giới Việt – Chiêm, chưa rõ thuộc phần đất bên nào, cũng được lệnh cứ cướp lấy chứ không cần tra xét hư thực(11). Hai cơ quan Kim trường cục và Châu trường cục được thành lập, nhằm xua dân miền biển và miền núi vào mọi công việc đãi vàng, mò vàng, mò ngọc. Chưa hết. Còn chế độ lao dịch ở đồng quê, ở thành thị… Đâu đâu cũng cái cảnh “bị người Minh sai khiến mà mất cả gia thuộc”(12), “bị bắt hết làm nô tỳ và chuyển bán đi mà tan tác bốn phương” (13).

Đẩy nhân dân Đại Việt đến chân tường, giặc Minh phải đâu đã thoả. Chúng còn tìm cách thâu tóm vào tay mình hoặc nếu không thì triệt cho hết trong đám người còn sống sót những ai thật sự có tài năng. Hễ nghe ở đâu trong các châu quận nước ta có thầy hay, thợ giỏi, bọn quan cai trị đều cho lập danh sách đem “tiến” về Yên Kinh. Các loại người bị tiến nhiều nhất là thầy thuốc, thợ thủ công, ca nữ tuyệt sắc, thầy bói và thầy địa lý;…

Mỗi năm Minh hoàng lại gửi sang một lệnh. Mỗi năm, hàng nghìn người dân Việt lại lìa bỏ gia đình xứ sở, ra đi, để rồi không bao giờ trở về.

Nhưng cho dù có tìm mọi mưu kế bắt và giết người dần mòn để bổ sung cho những cuộc tàn sát hàng loạt thì vẫn không thể nào là kế sách cai trị vẹn toàn. Giặc Minh biết vậy nên cũng lại ra sức thi hành một chính sách “mặt trái” rất khôn khéo: chính sách mỵ dân. Trong một đạo sắc, vua Minh khẩn khoản dặn đám tướng tá: hễ người dân Việt nào chống lại thì diệt kỳ sạch, nhưng ai đã đầu hàng thì phải tha ra, không giết bừa(14). Tưởng chừng đại Hoàng đế ngài nhân từ có một. Có ngờ đâu, tha, theo ý ngài, là bắt đem “cung hình” (thiến) nhất là đối với lớp người Việt trẻ(15), sau đó cung cấp cho cái chế độ quan liêu đồ sộ của Minh hoàng vốn đang rất thiếu nô bộc và thái giám hầu hạ!

Đặc biệt, trong chính sách dùng người, nhà Minh đã tỏ rõ khả năng vượt hơn những kẻ xâm lược xưa kia một bước rất dài. Trừ những chức quan cao cấp ra, chúng đặt người Việt vào mọi địa vị quan chức từ quận, huyện trở xuống. Và một chính sách lục dụng đám trí thức, quan lại cũ của Đại Việt được ban bố trong rất nhiều đạo sắc từ 1406 đến mãi những năm sau khi khởi nghĩa Lam Sơn đã nổi dậy, có thể nói là nhiều nhất trong số sắc chỉ của các vua Minh về vấn đề Việt Nam. Đây quả là một đường lối mà nhà Minh kiên nhẫn theo đuổi đến cùng. Có trường hợp những người có tên tuổi, hoặc có ảnh hưởng trong dân chúng như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất, Phạm Thế Căng, Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao,… chính vua Minh trực tiếp chỉ thị phải dụ dỗ cho bằng được(16). Có trường hợp khác như Bùi Bá Kỳ, bọn quan lại dưới quyền sơ ý để đến nỗi ông ta từ chỗ chạy sang Minh cầu cứu đến chỗ mất hết lòng tin tưởng, vua Minh cũng trực tiếp xuống chỉ rút kinh nghiệm về việc “dùng người” và than thở không thôi(17). Sự chu đáo trong chính sách “chiêu hồi” này còn biểu hiện ở cung cách chiêu hồi: tất cả đều được lập thành danh sách, mời về Yên Kinh khoản đãi và để cho bọn quan lại cao cấp nhà Minh chủ yếu là Hoàng đế “bồi dưỡng về lập trường quan điểm”, rồi sau đấy lại được trả trở về Giao Chỉ, phân bổ đi nhận các chức quan(18).

Nhưng thủ đoạn mỵ dân mà nhà Minh lưu tâm hàng đầu – và từ đây cũng sẽ đẻ ra nhiều nhiệm vụ phức tạp cho cuộc đấu tranh chính trị chống xâm lược – chính là một phương sách hai mặt: vừa triệt để thống nhất về bản chất với những tên xâm lược trong quá khứ, lại vừa làm ra vẻ giữa mình và quá khứ có một bước ly khai. Ngay trong đạo sắc 10 điều của Minh Thành Tổ đề ngày 8 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406) gửi viên tướng viễn chinh Chu Năng trên đường y cất quân sang Đại Việt, đã dẫn một phần ở trên, có một điều thứ tư rất đáng chú ý: “Hỏi xem cột đồng trụ hiện dựng ở đâu, phải đập cho nát và ném ra ngoài đường, để cho nguời trong nước đều trông thấy”(19). Chắc ai cũng phải lấy làm lạ: một bằng chứng “chinh phục” tiếng tăm của Mã Phục Ba thời Hán, cũng là một dấu vết của sự sỉ nhục mà người Việt nhiều đời đã phải ném đá chồng lên cho mất tích, ấy thế mà vua Minh lại bắt phá đi? Ông ta hớ hênh dại dột, hay ngông cuồng, hay thật bụng nhân đức? Đâu có phải vậy! Thực tình Minh Thành Tổ coi đây là một việc hệ trọng, và trong những sắc chỉ ban bố một năm sau đó, ông ta còn nhắc lại điều này(20). Dám hy sinh đến cả “sự nghiệp” vênh vang của “tiền nhân”, phải chăng tên đầu sỏ xâm lược ở thế kỷ XV muốn nhờ đấy đánh đổi lấy một bộ mặt mới, chí ít cũng giúp y che giấu phần nào cái bản chất “một đồng một cốt” giữa y với Mã Viện, để y có thể thừa cơ tung hoành? Có lẽ! Nhưng chắc chắn còn những lý do thâm trầm hơn. Kinh nghiệm xương máu đã cho tên trùm Đại Hán thấy, đụng đầu vào xứ sở Đại Việt quả là điều gay. Một cột đồng trụ những tưởng nhục mạ được dân Nam và trói chặt họ vào một cái mốc “chiến bại”, thì rốt cuộc cũng có nghĩa gì đâu khi mà, vượt lên trên tất cả những thứ cột mốc hình thức kia, một quy luật lịch sử lạnh lùng – mà ngay nhiều tên xâm lược cũng phải đành lòng thừa nhận – cứ tự nó phát huy tác dụng: “… dù có cướp được nước họ thì rồi cũng không thể giữ được”(21). Có nghĩa là chỗ khó khăn nhất, mà quả là khó, là làm sao biến được dân tộc Việt thành người Trung Quốc, để vĩnh viễn họ không còn tìm cách nổi dậy, và đất nước họ vĩnh viễn là quận huyện của “thiên triều”? Thủ đoạn đập phá cột đồng trụ của Minh Thành Tổ chính là một cách lý giải mới đối với bài tính nát óc này. Y quyết tâm phủ nhận những ràng buộc vô hiệu bề ngoài mà tìm kiếm những ràng buộc lợi hại hơn hẳn. Đó là những trói buộc nghiệt ngã trên lĩnh vực tư tưởng, những quy định có tính chất chuyên chế, độc đoán về sinh hoạt tinh thần.

Lần đầu tiên, trong lịch sử xâm lược Đại Việt của bọn chúa tể phong kiến Trung Quốc, tên xâm lược nhà Minh áp đặt một cách gay gắt vấn đề hệ tư tưởng đối với xã hội Việt Nam. Trong bản bố cáo đề ngày 8 tháng Tư năm 1407, sau khi chiếm xong nước ta, Minh Thành Tổ dành hẳn một đoạn khá văn hoa để nhấn mạnh rằng, một trong những tội trạng của Hồ Quý Ly khiến “ngài” không thể không “chinh thảo”, là họ Hồ đã tự coi “đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn Ngũ đế, cho Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công Khổng Tử không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di], Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng [Tải], Chu [Hy] là phường trộm cướp”(22), v.v. Cơn giận của “ngài” kể cũng dễ hiểu, bởi một nước tự xưng là “thần tử” của Hoa hạ làm sao có thể dám coi thường cái đạo mà các Đại Hoàng đế Trung Quốc tôn thờ? Nhưng còn một lẽ sâu xa nữa là có đưa đạo Nho lên làm “đạo thống” thì mới dễ dàng phát huy ảnh hưởng của “thiên triều” tới các cõi xa, nói như họ Khổng là “làm cho xa thư về một mối”. Và khi đã “gắn bó với nhau về ý thức hệ” thì há miệng mắc quai, cúi mọp đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu.

Dù sao, vấn đề không chỉ giản đơn có vậy. Minh Thành Tổ muốn lấy đạo Nho để thống trị nhân dân Đại Việt, nhưng rồi y lại còn muốn đi xa hơn. Cuồng vọng bá chủ sôi sục khiến y cảm thấy như thế vẫn chưa thoả lòng. Tốt nhất là làm sao cho nước “man di” kia không còn có gì gọi là long mạch tư tưởng, tinh thần. Y muốn xóa sạch ở cái dân tộc nhỏ bé phương Nam đầy sức tự cường mà trong lòng nhiều thế hệ những tên giặc Bắc vẫn rất khiếp sợ, toàn bộ ý thức về quá khứ lịch sử của chính họ. Mà xóa sạch được quá khứ của một dân tộc chính là cách cắt đứt nguồn tiếp sức quan trọng của dân tộc đó, đặt họ vào chỗ mù mịt tối tăm, phá tan đi cái nền tảng làm cho họ tồn tại và sinh thành. Muốn vậy phải làm thế nào? Không có cách nào hữu hiệu hơn là tàn phá không thương tiếc tất cả những gì là sản phẩm trí tuệ của dân tộc này, nó là biểu trưng cho văn minh, văn hóa. Trong sắc chỉ 10 điều của Minh Thành Tổ gửi Tổng binh Chu Năng đã nói ở trên, bên cạnh những điều căn dặn tỉ mỉ về cách chế ngự “hoả khí” lợi hại của cha con họ Hồ, về việc tịch thu sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất, hoặc đập phá cột đồng trụ,… còn một điều đặc biệt hơn mọi điều kia: “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn(23).

Thử lần tìm cái động cơ chính ẩn trong đạo sắc văn này. Tên vua Minh nói: tất cả những gì thuộc nền văn hóa chính quốc Trung Hoa, kể cả sách kinh của Phật và Lão, đều được giữ lại đầy đủ. Trái lại, bao nhiêu trước tác thuần túy Việt Nam thì đều phải phá hủy. Vậy ra, sự lựa chọn của y chẳng phải là đạo Nho hay một hệ tư tưởng chính thống nào cả. Đối với người Giao Chỉ cũng như các dân tộc bị y xâm lược, y chỉ cần một sự lựa chọn đơn giản, mà lại thực dụng hơn nhiều: hãy bắt họ từ bỏ tất cả những gì sinh ra trong đầu óc của chính dân tộc họ kể cả trong quá trình tiếp nhận những gì là vốn liếng tinh thần của “nước mẹ Đại Minh”. Ý hẳn Hoàng đế nhà Minh muốn bắt các dân tộc thôi đừng có tự mình tư tưởng nữa. Mà không tư tưởng, thì có nghĩa là… không tồn tại.

Thế rồi, từ trong thâm cung tại Yên Kinh, Hoàng đế nhà Minh ngày đêm lo theo dõi, đôn đốc việc thi hành lệnh chỉ đã ban ra. Đến nỗi khi thấy có một bộ phận quân lính không chịu làm theo đúng lệnh, nghĩa là không đốt ngay sách vở cướp được của nước ta mà còn giữ lại, y lập tức gửi một tờ lệnh thứ hai nhắc lại đúng những điều đã chỉ thị từ trước, lại giải thích rõ vì sao cần đốt ngay tại chỗ chứ không nên giữ lại: “Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An Nam có tất thảy những sách vở văn tự gì, kể cả các câu ca lý dân gian, các sách dạy trẻ, như loại “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết, và tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh một chữ hễ trông thấy là phá hủy lập tức, chớ để sót lại. Nay nghe nói những sách vở do quân lính bắt được, không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Quân lính phần đông không biết chữ, nếu đâu đâu cũng đều làm vậy thì khi đài tải sẽ mất mát nhiều. Từ nay các ngươi phải làm đúng như lời sắc trước, truyền cho quân lính hễ thấy sách vở văn tự ở bất kỳ nơi nào là phải đốt ngay, không được lưu lại(24).

Dĩ nhiên, ngay những tên đã trù mưu định kế ăn cướp nước ta cũng cảm thấy một chủ trương tàn bạo như thế thực muôn phần nguy hiểm. Nó sẽ dẫn đến làm nổ bùng lòng căm phẫn ngút trời của cả một dân tộc, và sức mạnh có tính dây chuyền của sự bùng nổ đó chắc sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Cũng vì thế, đi kèm với những điều lệnh, Minh Thành Tổ còn bắt quân lính phải giữ thật kín chủ trương của mình. Sau gần một năm đốt phá, biết rằng yêu cầu của việc phá hoại về căn bản đã xong, ngày 19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 – 6 – 1407), y lại gửi một sắc chỉ xuống phương Nam ra lệnh cho các tướng lĩnh của y phải cấp tốc thu hồi những đạo dụ y đã ban ra từ trước: “Nay An Nam đã bình định xong; […] trừ các loại chế dụ ra còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành quốc công đã lĩnh, hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi việc, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại, rơi vào tay bọn kia(25) thì rất bất tiện(26).

Tưởng cũng khó có thể chê trách gì về sự cao tay của Minh Thành Tổ trong việc xếp đặt đâu ra đấy từng bước “tiến”, “thoái”, “thắt”, “cởi” cho mọi hành động tàn phá kinh khủng nhất của mình. Nếu nghệ thuật diệt chủng của y thâm thúy đến mức đẩy đối tượng bị tiêu diệt vào một tình trạng trống rỗng, hư vô, không còn quá khứ cũng không còn tương lai, nghĩa là cứ dần dần “tự diệt”, thì nghệ thuật xóa dấu vết của y cũng tinh vi đến mức y vừa ăn cướp lại vừa có thể hùng hổ la làng rằng bị cướp đe dọa. Âu đây chính là những dáng nét hiện đại nhất của tên xâm lược Đại Hán ở thế kỷ XV vốn sẵn có trong mình cái bản chất xâm lược dã man của nhiều thế hệ cha ông đã thấm vào máu thịt; là cái được nhân lên, biến hóa sinh động hơn những thủ đoạn cướp đất giết dân hôm qua hôm kia còn rất quen thuộc mà nay đã bị xem là quá cổ lỗ và thật thà.

N.H.C.

Chú thích:

Những chú thích dưới đây, so với bản in lần đầu của bài này (ngày 14.9.2013), đã được chỉnh sửa theo chỉ dẫn của tác giả, thống nhất theo bản Việt kiệu thư của viện Viễn Đông bác cổ thời Pháp, nay là Thư viện Viện Khoa học xã hội (xem chú thích số 1., bài Sách Việt kiệu thư trong con mắt giới sử học đương đại). Diễn Đàn.

(1) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 189.

(2) Thật ra, khi cháu Minh Thái Tổ lên nối ngôi thì chú y, tức Chu Đệ 朱棣 liền cướp lấy mà lập ra triều đại thứ ba của nhà Minh (1402 – 1424), tức Minh Thành Tổ.

(3) Lý Văn Phượng 李 文 鳳, Việt kiệu thư 越 嶠 書 (1540). Đây là một tài liệu quý, ghi chép khá đủ theo trật tự thời gian những đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi đều đặn (thường là vài ngày một đạo) đến các tướng chỉ huy trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1406-1407. Trước đây chúng tôi chỉ tham khảo duy nhất cuốn sách này của Thư viện Viện Khoa học xã hội vốn là sách của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp cũ, ký hiệu: 1731, (nay thay đổi ký hiệu là: VH. 000276 – HV. 000281), nhưng năm 2001, sang làm việc ở Thư viện Yenching Harvard, tìm thêm được văn bản do Tề Lỗ thư xã xuất bản, Nam Kinh, 1996. Tuy vậy, trong bài này, vẫn xin ghi chú số quyển và trang và theo bản của Thư viện Viện Khoa học xã hội để cho thống nhất. VH. 000276, Q. 2, tờ 19a: 今 安 南 雖 在 海 陬 。自 昔 為 中 國 郡 縣 。五 季 以 來 力 不 能 制 。歷 宋 及 元 雖 欲 圖 之 而 功 無 所 成 。貽 笑 後 世 (Kim An Nam tuy tại hải tưu, tự tích vi Trung Quốc quận huyện. Ngũ quý dĩ lai lực bất năng chế. Lịch Tống cập Nguyên tuy dục đồ chi nhi công vô sở thành, di tiếu hậu thế).

(4) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 20a (Điều ghi chú thứ 9 trong 18 điều khoản kèm theo tờ sắc này): 宋 元 皆 發 兵 征 討 安 南。將 驕 兵 懦。貪 財 好 色。以 此 不 能 成 (Tống Nguyên giai phát binh chinh thảo An Nam, tướng kiêu binh nọa, tham tài hiếu sắc, dĩ thử bất năng thành).

(5) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên văn: 其 臣 季 孷 黎 蒼 久 畜 虎 狼 之 心 。竟 為 吞 噬 之 。舉 弒 其 國 王。 戕 其 本 宗。覃 被 陪 臣 重 罹 慘 酷 。掊 剋 殺 戮 。毒 病 生 民 。雞 犬 弗 寧 。怨 聲 載 路 (Kỳ thần [Lê ] Quý Ly, Lê [Hán] Thương cửu súc hổ lang chi tâm, cánh vi thôn phệ chi, cử thí kỳ quốc vương, thương kỳ bản tông, đàm bị bồi thần trọng duy thảm khốc, bồi khắc sát lục, độc bệnh sinh dân, kê khuyển phất ninh, oán thanh tái lộ).

(6) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 18a. Nguyên văn: 今 廣 西 奏 。安 南 遣 人 來 貢 謝 罪 。原 胡 奄 。 父 子 罪 本 難 容 。 今 既 改 過 自 新 。只 著 他 辨 黃 金 五 萬 。象 一 百 隻 。 以 贖 其 罪 。 金 象 不 足 。許 以 珠 玉 寶 貝 代 之 。以 足 其 數 即 止 。大 軍 不 進 (Kim Quảng Tây tấu: An Nam khiển nhân lai cống tạ tội. Nguyên Hồ yêm, phụ tử tội bản nan dung. Kim ký cải quá tự tân, chỉ trước tha biện hoàng kim ngũ vạn, tượng nhất bách chích, dĩ thục kỳ tội. Kim tượng bất túc, hứa dĩ châu ngọc bảo bối đại chi, dĩ túc kỳ số tức chỉ, đại quân bất tiến).

(7) Điều thứ 10 trong 10 điều căn dặn trong đạo sắc chỉ bí mật, xếp sát ngay sau đạo sắt đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 17b: 今 遣 朱 勸 張 瑛 齎 禮 部 咨 文 往 安 南 索 其 金 象。此 計蓋 欲 弛 其 鬥志。非 真 實 意 也 。 朱 勸 等 臨 行 朕 曾 面 諭 之 。今 到彼 只 住 五 日 。若 五 日 內 措 辨不 足 。 許 隨 多 少 先 將 來 。 後 卻 差 人 納 足 。爾 待 朱 勸 等 人 去 。大 軍隨 後亦 進 。 若 遇 差 出 納 金 象 之 人 就 執 之 。訖 問 聲 息 。 須 勿 令彼 知 差 來 被 執 。今 朱 勸 等 到 處 。爾 事 機 切 不 可 令 人 知 之 (Kim khiển Chu Khuyến, Trương Anh tu Lễ bộ tu văn vãng An Nam sách kỳ kim tượng. Thử kế cái dục thỉ kỳ đấu chí, phi chân thực ý dã. Chu Khuyến đẳng lâm hành, trẫm tằng diện dụ chi, kim đáo bỉ chỉ trú ngũ nhật. Nhược ngũ nhật nội thố biện bất túc, hứa tùy đa thiểu tiên tương lai, hậu khước sai nhân nạp túc. Nhĩ đãi Chu Khuyến đẳng nhân khứ, đại quân tùy hậu diệc tiến. Nhuợc ngộ sai xuất nạp kim tượng chi nhân tựu chấp chi, cật vấn thanh tức. Tu vật linh bỉ tri sai lai bị chấp. Kim Chu Khuyến đẳng đáo xứ, nhĩ sự cơ thiết bất khả linh nhân tri chi).

(8) Sắc chỉ ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd tờ 20a: 安 南 自 我 朝 以 來 [。。 。] 數 十 年 不 曾 用 兵 。其 國 中 富 庶 (An Nam tự ngã triều dĩ lai, […] sổ thập niên bất tằng dụng binh, kỳ quốc trung phú thứ).

(9) Sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407), Việt kiệu thư, Sđd; Q.2, tờ 24a. Nguyên văn: 頓 兵 江 上 與 賊 相 持 。黎 賊 之 計 正 欲 持 久 以 待 瘴 癘 之 發 。破 之 貴 在 神 速 。不 宜 遲 緩 (Đốn binh giang thượng dữ tặc tương trì, Lê tặc chi kế chính dục trì cửu dĩ đãi chướng lệ phát. Phá chi quý tại thần tốc, bất nghi trì hoãn).

(10) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 262.

(11) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 22a đề rõ, ngày 6 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ ban hành một điều khoản như sau: 安 南 金 場 。銀 場 遙 聞 原 是 占 城 之 地 而 界 相 爭 已 久 。亦 未 可 信 。平 定 之 後 。只 以 見 得 地 界 為 準 。縱 然 占 城 有 請 亦 不 可 擬 還 (An Nam kim trường, ngân trường dao văn nguyên thị Chiêm Thành chi địa, nhi giới tương tranh dĩ cửu, diệc vị khả tín. Bình định chi hậu, chỉ dĩ kiến đắc địa giới vi chuẩn. Túng nhiên Chiêm Thành hữu thỉnh, diệc bất khả nghĩ hoàn). Nghĩa là: Từ xa trẫm nghe nói mỏ vàng mỏ bạc nguyên là phần đất Chiêm Thành, địa giới hai bên tranh chấp đã lâu, cũng chưa rõ thế nào. Sau khi bình định xong, cứ lấy địa giới mà mình trông thấy làm chuẩn, nếu Chiêm Thành có cầu xin cũng không trả.

(12), (13) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 250, 262.

(14) Sắc chỉ đề ngày 4 tháng Mười một năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 23b. Nguyên văn: 大 軍 入 安 南 。但 有 助 黎 寇 來 拒 敵 者 殺 之 。 若 有 能 棄 甲卻 戈 降 者 。一 人 不 可 妄 殺 (Đại quân nhập An Nam, đãn hữu trợ Lê khấu lai cự địch giả, sát chi. Nhược hữu năng khí giáp khước qua hàng giả, nhất nhân bất khả võng sát).

(15) Sắc chỉ đề ngày 16 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 22b. Nguyên văn: 其 有 年 少 而 罪 當 死 者 。宜 處 以 宮 刑 。亦 可 以 保 全 其 命 。他 日 又 得 以 克 使 令 (Kỳ hữu niên thiếu nhi tội đáng tử giả, nghi xử dĩ cung hình, diệc khả dĩ bảo toàn kỳ mệnh, tha nhật hựu đắc dĩ khắc sử lệnh).

(16) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 37b.

(17) Sắc chỉ đề ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 29b. Nguyên văn: 敕 傳 奏 言 裴 伯 耆 事 為 將 之 。道 在 於 用 人 。一 裴 伯 耆 不 能 用 何 以 能 成 事 功 俠 。朕 有 南 鄙 又 憂 。古 人 用 人 之 法 具 右 方 冊 。爾 宜 審 觀 故 敕 (Sắc truyền tấu ngôn Bùi Bá Kỳ sự vi tương chi. Đạo tại ư dụng nhân, nhất Bùi Bá Kỳ bất năng dụng, hà dĩ năng thành sự công hiệp? Trẫm hữu Nam bỉ hựu ưu. Cổ nhân dụng nhân chi pháp cụ hữu phương sách, nhĩ nghi thẩm quan cố sắc).

(18) Sắc chỉ đề ngày 22 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 25b – 26a. Nguyên văn: 凡 安 南 官 吏 來 歸 降 者 。即 陸 續 遣 之 來 朝 。聽 朕 面 諭 。給 與 印 信 俾 還 管 事 。如 或 事 世 未 可 又 在 。隨 宜 處 置 。不 可 執 一 (Phàm An Nam quan lại lai quy hàng giả, tức lục tục khiển chi lai triều, thính trẫm diện dụ, cấp dữ ấn tín, tỷ hoàn quản sự. Nhu hoặc sự thế vị khả hựu tại, tùy nghi xử trí, bất khả chấp nhất).

(19) Điều thứ tư trong Sắc chỉ bí mật, đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 17a. Nguyên văn: 訪 問 古 時 銅 柱 所 在 亦 便 碎 之。 委 之 於 道 以 示 國 人 (Phỏng vấn cổ thời đồng trụ sở tại, diệc tiện toái chi, uỷ chi ư đạo dĩ thị quốc nhân).

(20) Điều ghi thêm thứ hai trong Sắc chỉ đề ngày 9 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 25b.

(21) Trích thư bọc sáp của tướng Minh Vương Thông gửi về nước năm 1427. Một viên quan cai trị khác của nhà Minh là Giải Tấn cũng từng tâu lên vua Minh những lời tương tự. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1972; tr. 47.

(22) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên văn: 自 以 為 道 優 於 三 王 。 德 高 於 五 帝 。以 禹 湯 文 武 不 足 法 。周 公 孔 子 為 不 足 師 。毀 孟 子 為 盜 儒 。謗 周 程 張 朱 為 剽 竊 。欺 聖 欺 天 。無 倫 無 理 (… tự dĩ vi đạo ưu ư Tam vương, đức cao ư Ngũ đế, dĩ Vũ Thang Văn Vũ bất túc pháp, Chu Công Khổng Tử vi bất túc sư, hủy Mạnh Tử vi đạo Nho, báng Chu Trình Trương Chu vi phiếu thiết. Khi thánh khi thiên, vô luân vô lý).

(23) Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, xếp thứ tự ngay sau đạo sắc đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 16a – 17b. Nguyên văn: 兵 入 。除 釋 道 經 板 經 文 不 燬 。外 一 切 書 板 文 字 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習 。如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻 字 悉 皆 燬 之 。其 境 內 中 國 所 立 碑 刻 則 存 之 。 但 是 安 南 所 立 者 悉 壞 之 。 一 字 不 存 (Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn).

(24) Điều khoản bổ sung vào sắc chỉ đề ngày 21 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, tờ 33a. Nguyên văn: 屢 嘗 諭 爾 凡 安 南 所 有 一 切 書 板 文 字 。 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習 。 如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻字及 彼 處 自 立 碑 刻 。見 者 即 便 毀 壞勿存 。今 聞 軍 中 所 得 文 字 不 即 令 軍 人 焚 毀 。必 檢 視 然 後 焚 之 。 且 軍 人 多 不 識 字 。 若 一 一 令 其 如 此 。必 致 傳 遞 遺 失 者 多 。爾 今 宜 一 如 前 敕 。號 令 軍 中 但 遇 彼 處 所 有 一 應 文 字 即 便 焚 毀 。 毋 得 存 留 (Lũ thường dụ nhĩ, phàm An Nam sở hữu nhất thiết thư bản văn tự, dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, nhưThượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự cập bỉ xứ tự lập bi khắc, kiến giả tức tiện hủy hoại vật tồn. Kim văn quân trung sở đắc văn tự bất tức lệnh quân nhân phần hủy, tất kiểm thị nhiên hậu phần chi. Thả quân nhân đa bất thức tự, nhược nhất nhất lệnh kỳ như thử, tất trí truyền đệ di thất giả đa. Nhĩ kim nghi nhất như tiền sắc, hiệu lệnh quân trung đãn ngộ bỉ xứ sở hữu nhất ứng văn tự tức tiện phần hủy, vô đắc tồn lưu).

(25) Chỉ người Việt.

(26) Sắc chỉ đề ngày19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25.6.1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 32a. Nguyên văn: 今 安 南 已 平 [。 。 。] 除 制 諭 外 應 發 去手 敕及 記 事 小 帖 成 國 公 領 帶 去 小 冊 子。及 條 畫 事 件 。盡 數 檢 對 。 密 封 繳 來 。 不 許 存 留 一 字 。 漏 落 在 彼 不 便 (Kim An Nam dĩ bình […] Trừ chế dụ ngoại ứng phát khứ thủ sắc, cập ký sự tiểu thiếp Thành Quốc công lĩnh đới khứ tiểu sách tử, cập điều hoạch sự kiện, tận số kiểm đối, mật phong kiểu lai. Bất hứa tồn lưu nhất tự, lậu lạc tại bỉ bất tiện).

Bí ẩn mồ chôn tập thể lớn nhất Sài Gòn

Khu vực vòng xoay Dân Chủ (quận 10 và 3) từng là nơi chôn 1.831 người già, trẻ bị vua Minh Mạng ra lệnh xử tử trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi 180 năm trước.

Ngã sáu Công trường Dân Chủ, đường 3/2, Cách Mạng Tháng 8 là khu vực sầm uất tại TP HCM với nhà cao tầng san sát, xe cộ tấp nập. Nhưng ít người biết trước đây nó từng là nghĩa địa lớn nhất Sài Gòn với tên gọi “đồng mồ mả”. Đây cũng là vị trí được cho là có ngôi mộ tập thể (Mả Ngụy) gần 2.000 người già, trẻ, trai, gái bị xử tử vì tội phản nghịch trong cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi vào năm 1833-1835 dưới thời vua Minh Mạng.

Mả Ngụy hay Mả Biền Tru vốn nằm trong vùng đất khá rộng gọi là Đồng Tập Trận – nơi tập trận và diễu binh của nhà Nguyễn (về sau người Pháp đặt tên là Đồng Mồ Mả) ở Gia Định thành ngày xưa. Nhiều câu chuyện ly kỳ, rùng rợn được người xưa đồn đại qua nhiều thế hệ cũng xuất phát từ Mả Ngụy.

Về sự biến Lê Văn Khôi, sử gia Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam sử lược ghi, khi Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt vừa mất (năm 1832), quan Bố chính có tiếng tham ác là Bạch Xuân Nguyên xưng phụng mật chỉ truy xét và soi mói đời riêng của ông Duyệt (1833), rồi ra lệnh bắt giam con nuôi của ông là Lê Văn Khôi.

bi-n-mo-chon-tap-the-lon-nhat-sai-gon

Bản đồ người Pháp vẽ năm 1878, Sài Gòn tập trung chủ yếu hai bên đường Impériale (nay là Hai Bà Trưng) về phía rạch Thị Nghè và từ đường Chasseloup Laubat (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) về hướng sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé. Phía còn lại của hai con đường này là ranh giới của một khu vực rộng lớn gần như không có người ở, được họ đặt tên là Đồng Mả Mồ (Đồng Tập Trận).

Ông Khôi sau đó vượt ngục, tập hợp lực lượng trả thù. Ngày 18/5/1833, ông cùng thuộc hạ vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên. Gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, nhóm này cũng giết nốt.

Sẵn đà, Lê Văn Khôi chiếm luôn thành Phiên An (Thành Bát Quái), tự xưng là Đại Nguyên Soái rồi phong quan tước cho các thuộc hạ như một triều đình riêng. Khôi cũng đánh chiếm các tỉnh lân cận. Bị bất ngờ, nên các tỉnh khác nhanh chóng thua trận. Chỉ trong một tháng quân của Khôi đã chiếm được cả 6 tỉnh Nam kỳ lúc đó.

Để bắt Khôi và đám người dưới trướng, triều đình Huế cho hàng chục nghìn quân thủy, bộ vào Nam, bao vây chặt thành Phiên An (do Tả quân Lê Văn Duyệt xây xong năm 1830). Thành xây bằng đá ong, cao và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới nên quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết nhiều người, mà không lấy được.

Tháng Chạp năm ấy, Khôi chết vì bệnh phù thủng, con trai là Lê Văn Câu mới 8 tuổi lên thay cha cầm cự. Tuy nhiên, phải vất vả mãi đến 2 năm sau, khi người của Khôi đều đã mệt mỏi, quân triều đình mới hạ được thành và vào bắt giết tất cả 1.831 người, đem chôn vào một chỗ. Sau gọi là Mả Ngụy (giặc, phản loạn) hay Mã Biền Tru. Sáu người cầm đầu thì bị đóng cũi đem về Kinh thành Huế trị tội (án tùng xẻo), trong đó có con trai Lê Văn Khôi.

Sự biến Lê Văn Khôi với kết cục gần 2.000 người bị xử tử (trong khi dân số Sài Gòn lúc bấy giờ còn ít ỏi), chôn cùng một chỗ đã gây kinh hãi cho người dân thành Gia Định suốt một thời gian dài. Khu vực Đồng Tập Trận thường được nhắc lại như một vùng đất của oan hồn, không ai dám bén mảng, dần trở thành một vùng rừng cây rậm rạp rộng lớn giữa trung tâm Gia Định.

bi-n-mo-chon-tap-the-lon-nhat-sai-gon-1

Một phần nhỏ của Đồng Mồ Mả được người Pháp chụp lại.

Dân Sài Gòn thời bấy giờ mỗi khi cúng cô hồn thường làm bánh màu xanh, đỏ dành cho “đầu lĩnh” Lê Văn Câu mới tròn 8 tuổi và trẻ con bị chết oan bởi binh biến Phiên An. Đến tận ngày nay nhiều người già vẫn còn truyền miệng mấy câu thơ về sự biến này. “Chiều giông Mả Ngụy cũng giông/ Hồn lên lớp lớp bềnh bồng như mây/ Sống thời gươm bén cầm tay/ Chết thời một sợi lông mày cũng buông/ Thương thay Mả Ngụy mưa tuôn…”.

Nguyên nhân là mỗi khi trời chạng vạng, lập lờ giữa ánh sáng và bóng tối, do có nhiều cây cối rậm rạp, hoang vu nên cả khu vực Mả Ngụy mờ đục như bị phủ một lớp sương. Người xưa đồn đại đó là vong hồn của gần 2.000 người bị chôn tập thể, bắt đầu trồi lên để sống phần của người cõi âm.

Trong cuốn Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh in trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (Tập 1, phần lịch sử), Mả Ngụy được nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu xác định khoảng gần Mô Súng, tức Ngã sáu Công trường Dân Chủ ngày nay.

Ngoài ra, còn một số ý kiến khác về vị trí Mả Ngụy được học giả Vương Hồng Sển dẫn lại trong cuốn Sài Gòn năm xưa. Như ý kiến của ông Lê Văn Phát trong quyển Khảo về Tả quân Lê Văn Duyệt (xuất bản năm 1924 tại Sài Gòn) cho biết Mả Ngụy ở gần trường đua ngựa cũ, thuộc làng Chí Hòa, tại góc đường Thuận Kiều (nay là Cách Mạng Tháng Tám) và Général Lizé (nay là đường Điện Biên Phủ).

Ngoài ra, theo nhận định của ông Đặng Văn Ký cũng được học giả Vương Hồng Sển dẫn lại, Mả Ngụy ở khoảng bệnh viện Bình Dân (thuộc quận 3), từ đường Lê Văn Duyệt (nay là Cách Mạng Tháng Tám) vào Chợ Lớn (thuộc quận 5) nằm phía tay phải đường Điện Biên Phủ ngày nay, tức phía đối diện với bệnh viện.

Dù còn nhiều ý kiến khác nhau về vị trí, song nhìn chung Mả Ngụy cũng chỉ quanh quẩn ở khu vực Ngã Sáu Công trường Dân Chủ – giới hạn bởi 3 con đường Cách Mạng Tháng 8, 3 tháng 2 và Điện Biên Phủ.

bi-n-mo-chon-tap-the-lon-nhat-sai-gon-2

Vòng xoay Dân Chủ ngày nay là giao lộ của các tuyến đường Võ Thị Sáu – Lý Chính Thắng – 3/2 – Cách Mạng Tháng Tám – Nguyễn Phúc Nguyên – Nguyễn Thượng Hiền. Ảnh: VOV giao thông

Trong khi đó, theo nhà văn Sơn Nam – Ông già Nam Bộ – tên gọi Mả Nguỵ có thể do buổi đầu dân còn sợ vua Minh Mạng. Nhưng lịch sử đã qua hơn 150 năm, người chết rồi thì ai cũng như ai, xoá bỏ đi những bất đồng, tranh chấp. Về sau, không ai còn gọi “Mả Nguỵ” nữa mà gọi là Đồng Mả Lạng, theo nghĩa mất dấu vết vì thời gian. Xưa kia, người Pháp gọi “cánh đồng mồ mả” vì có quá nhiều mồ mả (Plaine des Tombeaux).

Cũng theo cố nhà văn, trên đường Cao Thắng (quận 10), dân địa phương tự phát đề cao một ngôi đình làng (không được sắc phong) nhằm mục đích hương khói, thờ cúng những người chết đã dám đứng vào hàng ngũ của Lê Văn Khôi. Ngày xưa, các vị đó rơi vào hoàn cảnh khó xử đã chết, không bia mộ, mồ mả tập thể bị san bằng, vị trí không rõ ràng, thân nhân thời ấy cũng chẳng biết nơi đâu mà tìm.

Vì vậy, ngôi đình này có thể được xây để thờ những người chết vì tham gia dưới trướng Lê Văn Khôi, nên việc cúng tế cũng khá long trọng, trống chiêng vang rền. Tuy đất đai chật hẹp, những đồng bào lân cận vẫn chừa ra một khoảng đất khá rộng, giữ thể diện xứng đáng với ngôi đình. Bản chất tốt đẹp của người Việt Nam khi đã yêu kính lẫn nhau thì không bao giờ thắc mắc những điều vụn vặt.

Cho tới hôm nay, vẫn chưa có bằng chứng nào chắc chắn để có thể xác định vị trí chính xác của Mã Ngụy. Nhưng qua nhiều tư liệu lịch sử, nhận định của các nhà nghiên cứu có thể khẳng định dưới nền những khu phố đông đúc tại khu vực vòng xoay Dân Chủ ngày nay. Và Mả Ngụy vẫn còn là một huyền thoại không mấy thơ mộng, trường tồn với dòng lịch sử của vùng đất Sài Gòn.

Trung Sơn

Lịch sử dân tộc Uyghur/Duy Ngô Nhĩ

(Reds.vn) – Uyghur là một dân tộc Trung Á sống chủ yếu ở khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc. Trong lịch sử, tên gọi “Uyghur” được dùng để chỉ các bộ lạc nói tiếng Turk sống tại khu vực dãy núi Altay. Cùng với người Kokturk, người Uyghur là một trong các nhóm gốc Turk lớn nhất và tồn tại lâu nhất tại vùng Trung Á.

Con Đuờng Tơ Lụa

Con Đường Bạch Ngọc/Nephrite Road và Con Đường Lam Ngọc/Lapis Lazuli, nối Khotan, Afghanistan và Ấn Độ đã có từ 3000 năm đến 5000 năm truớc. Năm 126 Trứơc Công Nguyên, nhà Tây Hán phái Trương Khiên đi tìm đám Yuezhi/Nguyệt Chi làm đồng minh giúp chống Hung Nô/Mông Cổ. Người Yuezhi đã quá chán ngán chiến tranh nên từ chối. Tuy mục đích quân sự không đạt đựoc, nhưng kết quả khác hết sức bất ngờ: Con Đường Tơ Lụa nối dài Con Đường Bạch Ngọc. Từ đó, với chiều dài 7000km từ Nhật Bản đến La Mã, những đô thị, thành phố, vương quốc nở rộ như những bó hoa đầy hương sắc. Cũng từ đó, nảy sinh tranh giành quyền lực giữa các đế quốc vói những nền văn minh, giữa các thương nhân và các bộ lạc du mục.
Tuy con đường này mất dần vị thế kinh tế và chấm dứt khoảng thế kỷ thứ 14, tranh giành quá khứ còn để lại những cơn địa chấn. Mới đây, biến cố ở thủ phủ Urumchi thuộc Tân Cương/Xinjiang ngày 6 tháng bẩy 2009, con số chính thức, từ chính quyền Trung quốc, 197 người chết, “đa số là người Hán”. Số người chết/bị thương/bị cầm tù dù Hán hay Uyghur, cũng đều là những vết máu bầm trên khuôn mặt đau thương của nhân loại. Là thủ đô non trẻ trong lòng Turkestan trăm ngàn năm tuổi, Uyghur bướng bỉnh như một con ngựa Tây Vực, mà lòng trung với chủ cũ là một thách đố với bất cứ ai muốn ghìm cương, đó là lý do Uyghur hứng chịu đòn thù.
Thờ ơ và thiên kiến cũng tàn nhẫn như những lớp tuyết lớp cát thản nhiên phủ cơn thịnh nộ lên mớ tri thức ít oi của loài người về văn minh Turkestan, miền đất vinh dự chứng kiến hai tộc da vàng/da trắng hợp chủng, cũng là nơi tiếp nhận nhiều nền văn minh rạng rỡ nhất của nhân loại, La Mã, Hy Lạp, Ba Tư, Trung Hoa. Thủ đô Ürümqi nhỏ bé 10,989 km2, chia sẻ mẫu số chung bí mật của đất mẹ Turkestan, mà hé mở nào cũng là một thách đố đầy huyền bí. Những địa danh Turkestan có số phận không phải tầm thường, hoặc tung cát theo vó ngựa phiêu lưu hàng ngàn dặm khỏi nơi khai sinh; hoặc chỉ còn là cái bóng của một thời đế quốc, hoặc bị chủ mới gán ghép miễn cuỡng.
Từ Uyghur đến Hui đến Hồi
Trong suốt hàng chục ngàn năm, những sắc dân du mục di chuyển, tan rã, kết hợp…Bị xô đẩy vào hết bộ lạc này đến đế quốc khác, địa danh nào ở Turkestan cũng có nhiều tên: tên tự xưng, tên thời bộ lạc, tên thời đế quốc, tên Ba Tư, tên Ả Rập, tên Latin, tên Trung Hoa…Tên nào cũng có ý nghĩa trong một giai đoạn lịch sử nhất định, ví dụ: East Turkestan cho thời độc lập, và Xinjiang (Tân Cương) khi đã bị sát nhập vào Trung Quốc.
Cư dân ở East Turkestan có tên tự xưng là Oguz, được phiên âm thành nhiều dạng: Uighur, Uighuir, Uygur, Uyghur, Uigur, Uiguir, Urguys. Người Uyghur dùng chữ viết Arabic/Ả rập từ thế kỷ 11. Tuy không đọc được tiếng Ả Rập, người viết vẫn để trong bài vì tôn trọng dân tộc này; vì nét chữ đẹp như một bức tranh thêu tay. Trong bài dùng Uyghur để thống nhất với truyền thông quốc tế
Người Uyghur: حُوِ ذَو
Sắc tộc Uyghur: ئۇيغۇر
Tôn giáo Islam: الإسلام‎
Muslim: tín đồ Islam: مسلم

Thời nhà Nguyên, học giả Trung Hoa phiên âm Uyghur thành Wéiwú’ěr, viết 回回,đọc Huihui, Hủi Hử, rút ngắn là Hui hay Hủi. Chữ này có nguồn từ chữ HuiE 回纥 hay 回鶻, đọc Hủi I, có nghĩa chim ưng, khi người Uyghur tự ví nhanh như chim ưng vồ mồi.
“Sắc tộc Uyghur”, Quan Thoại víết 回族, đọc Huê Chù hay Hủi Yù; Quảng Đông đọc Wùi Truc.
“Tôn giáo của người Uyghur”, Quan Thoại viết 回教, đọc Huê Cháo hay Huỉ Chào; Quảng Đông đọc Wùi Cao. Hiện nay người Trung Hoa không dùng Huê Cháo/Huỉ Chào nữa, mà dùng Yīsīlán jiào: tôn giáo Islam.
Cũng xin nói thêm, những phát âm Hui/Hủi Hử/Hủi I – Huê Chù/Hủi Yù/Wùi Truc – Huê Cháo/Hủi Chào/Wùi Cao hoàn toàn do một người bạn Trung Hoa cung cấp. Theo chị, ngay phát âm Trung Hoa cũng thay đổi tuỳ miền. Khi người viết ghi lại bằng tiếng Việt, cũng không thể hiện trung thực 100% những âm tiếng Việt không có.
Hồi nào tới giờ người Việt nhìn thế giới qua lăng kính Trung Hoa. Người Hoa gọi thế nào, người mình gọi theo thế ấy. Tiếng Hoa phiên âm Uyghur thành Wéiwú’ěr, có lẽ từ đó người Việt đọc thành Duy Ngô Nhĩ. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi Hồi Ngột, có lẽ từ chữ Huihui. Truyền thông Việt vẫn đang dùng một chữ rất ngộ nghĩnh: Hồi Hột.
Cũng theo người bạn Trung Hoa, chữ Huihui ban đầu mô tả vương quốc và người Uyghur ở Tân Cương. Từ thời nhà Đường (618-907) đến thời nhà Nguyên (1271-1368), chỉ các thương nhân Islam đến từ Trung Đông. Ngày nay người Hoa không còn dùng Huihui nữa.
Như vậy, bản tin tiếng Việt, ví dụ “chính phủ Hồi giáo ở Islamabad”, hiểu “đúng” sẽ lùi đến … bẩy thế kỷ: thính giả/độc giả đang ở vào thời nhà Nguyên, người Hui ở nội địa Trung Hoa đang lãnh đạo chính phủ Pakistan. Điều hơi kẹt: Pakistan mới đuợc thành lập năm 1947; chỉ là một trong số quốc gia nhận Islam làm quốc giáo: Afghanistan, Iran, Mauritania, Saudi Arabia và Yemen.
Bài này, vì vậy sẽ dùng Islam và Muslim thay vì “Hồi giáo, người Hồi, Hồi Hột”, vì ba lý do: (a) ngay cả người Hoa không còn dùng Huihui, Huỉ Chào, (b) nằm ngoài ý muốn của cộng đồng người Việt-Chămpa Muslim, (c) không giúp truy cập thông tin trên internet.
Địa bàn vùng Turkestan
Địa bàn Turkestan gồm hàng ngàn bộ lạc Turkic trải từ Âu sang Á, thảo nguyên/sa mạc/ núi non từ Nam Siberi, tây Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương đến Cam Túc. Xương của người Neandertal ở Samarkand có tuổi 150,000 năm và tiệt chủng khoảng 35,000 trước. Đây là một miền đất phức tạp, không ngớt binh đao, một mặt những đế quốc huy hoàng dựng lên rồi tàn lụi, một mặt cư dân có những tiến bộ lẫy lừng về khoa học kỹ thuật, mỹ thuật kiến trúc, kinh tế thưong mại. Len lỏi giữa thảo ngưyên xanh mướt và sa mạc nóng bỏng, Con Đường Tơ Lụa ẩn hiện như giải lụa mềm nuôi sống, giữ gìn và thăng hoa những cây trái ngon ngọt nhất của tri thức loài người thuở ấy.
Người Turk, Turkic và Turkish
Không phải chỉ Uighur/Uygur/Uigur và Huihu/Huihe/Hồi, những tên có chữ “Turk” cũng có ý nghĩa riêng tuỳ khu vực địa lý.
Turkic là ý niệm về toàn thể khối 165 triệu người Turks, không phân biệt quốc tịch.
Turkish là tên của 74 triệu công dân mang quốc tịch của nước Cộng Hoà Turkey, nhưng không phải tất cả công dân của Turkey đều là người Turk. Dễ hiểu hơn, có thể nói dân tộc Turkish là một phần tử nhỏ nằm trong lòng sắc tộc Turkic lớn. Vì phủ một vùng quá rộng lớn, khối Turkic hiện nay chỉ có nghĩa cùng tôn giáo/ngôn ngữ hơn là quốc tịch/văn hoá. Chính vì vậy, biến cố ở thủ phủ Urumchi tháng bẩy 2009, Trung Quốc đàn áp ngừời Uyghur, khối Muslim Ả Rập làm thinh, cho rằng không cùng sắc tộc. Liên bang Nga và Trung Quốc đang ủng hộ Iran chống lại sự cấm vận của Hoa Kỳ, nên Iran cũng song ca bản làm thinh. Chính trường có vẻ ít tàn nhẫn hơn chiến trường nhờ tấm màn che phủ sự thật. Nhưng có khi đựơc vén lên thì định mệnh của cả một dân tộc đã tiêu tùng, và những nhân vật được tô tuợng hay tặng giải Nobel hoà bình, không chừng là sát nhân giết người hàng loạt.
Theo Orkhon Inscription -chữ víết cổ nhất của người Turkic- hàng ngàn sắc tộc Turkic bắt nguồn từ rặng Altay di chuyển dần về phía Tây theo nguồn nước và cỏ, tuy nhiên không rõ thời điểm nào họ rời Altay.
Hai nhóm Turk lớn nhất, niềm hãnh diện của người Turk: đế quốc Göktürk/Kokturk và đế quốc Uyghur, mặc dù trong quá khứ, hai đế quốc có lúc đoàn kết hay kình chống nhau kịch liệt, lúc theo Hung Nô lúc theo Trung Hoa.
Cổ thư đầu tiên nhắc đến tên Turk là lá thư của hoàng đế Trung Hoa, năm 585 SCN, xưng tụng Đại Khả Hãn Göktürks là Ishbara.
Đế quốc Göktürks khởi đầu ở vùng phía Tây Nam dãy Altai.
Göktürks, tiếng Việt là Đột Quyết (突厥), hãn quốc đầu tiên có tên “Turks”.
Gök: màu xanh, thưọng đế hay thiên đàng.
Göktürks: bầu trời của người Turk, thượng đế của người Turk, thiên đàng cuả người Turk.
Xứ Perse chọn màu xanh của đá Turquoise làm mầu quốc gia. Loại đá quí này rất hiếm, cân carat như kim cương nên, trong quá khứ chỉ được dùng cho nữ trang hoàng gia, như vương miện trên của Napoléon. Những mosque của Muslim đa số dùng màu này tượng trưng bầu trời thiêng liêng của người Turk.
Năm 162 TCN, khi bị Hung Nô lấn đất, người Yuezhi bỏ vùng East Turkestan, vượt rặng Thiên San di cư qua West Turkestan. Số người ở lại hợp vớí người Hung Nô làm thành một nhóm sắc tộc rất đa dạng tự xưng Oguz. Năm 745, người Oguz thành lập đế quốc Uyghur Empire ở thung lũng Orkhon Valle, cách thủ đô Ulaanbaatar 360 kilometers. Đế quốc này sụp đổ năm 840. Người Uyghur chạy đến vùng Lòng Chảo Tarim, hoà huyết với người bản địa làm thành nhóm Uyghur hiện nay.
Chữ viết của người Turkic: Orhon inscriptions
Năm 735, người Göktürks chế ra chữ viết Orhon inscriptions gồm 38 chữ cái. Chữ viết này về sau được cả người Hung Nô và Mãn Châu dùng. Những cột đá có khắc chữ cổ Orhon, vẫn còn tìm thấy ở Mông Cổ, gần bờ sông Orhun. Văn tự Orhon viết từ phải qua trái, được nhà ngôn ngữ học Đan Mạch Vilhelm Thomsen giải mã năm 1893. Bản văn này được coi như văn tự đầu tiên của ngôn ngữ Altaic. Không hiểu hơn 1200 năm truớc, người Göktürks dùng dụng cụ nào để khắc chữ lên đá. Năm 126 TCN, Zhang Qian/張騫/Trương Khiên ghi nhận dân cư từ vùng Fergana (thủ đô Uzbekistan) tới Parthia (Bắc Iran) tuy gồm nhiều sắc tộc, bộ lạc khác nhau, nói nhiều thứ tiếng khác nhau, nhưng họ vẫn hiểu nhau. Ghi chú quan trọng này khiến Trương Khiên xứng đáng là lữ hành vĩ đại, trước cả Marco Polo. Người Uyghur dùng chữ Orhon trong suốt 800 năm. Họ in sách hàng trăm năm truớc khi Gutenberg sáng chế máy in năm 1450. Chỉ đến thế kỷ 11, người Uyghur mới chấp nhận mẫu tự Arabic sau khi cải sang Islam.
Ba khu vực Turkic hiện nay
Tất cả chữ có –istan, -estan, -stan, có nghĩa “đất của”, ví dụ Uyghurstan “đất của người Uyghur”.
Khối Turkic chia làm 3 vùng địa lý:
– Vùng Uyghurstan hay East Turkestan, “đất của người Turk miền Đông”. Hai vùng East và West Turkestan có biên giới thiên nhiên là rặng Tiansan/Thiên Sơn. Sắc tộc da trắng/da vàng đan chen nhau, chung tình trạng du mục. Tên hiện nay là Xinjiang/Tân Cương, hoàn toàn ngoài ý muốn của người Uyghur.
– Vùng West Turkestan, “đất của người Turk miền Tây” -tên Hy Lạp là Sogdiana- thuộc Liên Sô cũ. Sau khi Liên Sô tan rã, các quốc gia Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turmenistan, Uzbekistan tuyên bố độc lập. Thế giới của họ khép kín với nhiều nền văn minh, chỉ riêng khoản cổ vật nữ trang không thôi, là một xa hoa và tài hoa không bao giờ có nữa.
– Với 74 triệu công dân Turkish, Cộng Hoà Turkey là quốc gia non trẻ nhất và xa nhất về phía Tây của khối người Turkic. Năm 1299 người Turkic lập lên đế quốc Ottoman lẫy lừng suốt 600 năm. Sau Thế Chiến I, đế quốc này thua trận. Nhờ nỗ lực kinh hồn của người hùng Mustafa Kemal Atatürk, đế quốc phục hồi dưới tên Cộng Hòa Turkey, (trong tên ông có chữ Turk). Bài hát Mustafa nghe ở Saigon những năm 1960, ca tụng người hùng này. Tiếng Việt gọi Turkey là Thổ Nhĩ Kỳ, có thể do phiên âm từ chữ Tokharian/Tocharian, tiếng Hy Lạp cổ để chỉ người Yuezhi, tổ tiên của người Uyghur.
Người Yuezhi/Nguyệt Chi/Nhục Chi là ai?
Phía nam rặng Altay, khu vực giữa hai rặng Tianshan/Thiên San và Kun-Lun/Côn Luân, là địa bàn của đám Yuezhi da trắng, cao lớn, tóc đỏ hay vàng nhạt có dợn sóng, ngôn ngữ thuộc hệ tiền Ấn Âu/Proto-Indo European, nhóm xa nhất về phía đông.
Năm 162 TCN, dưói sức ép của Hung Nô, người Yuezhi di chuyển dần đến vùng Sogdiana (Kazakhstan và Uzbekistan, bấy giờ thuộc ảnh huởng văn minh Hy Lạp) lập ra vương triều Kushan/Quế Sương lẫy lừng. Dân cư của đế quốc Kushan, còn có tên Indo-Scythian, gồm ba sắc tộc da trắng (1) người Saka (bộ tộc của Phật cũng thuộc nhóm này), (2) người Parthian (Ba tư cổ) và (3) người Yuezhi. Văn minh Kushan nổi tiếng ngang với ba nền văn minh lúc đó là La Mã, Hán, và Parthia. Phụ nữ Bắc Ấn Độ đẹp nổi tiếng, cao lớn, da trắng, mũi cao, môi đầy, mắt to, có thể là hậu duệ của đám Kushan này.
Trong vòng 3 thế kỷ, triều đại Kushan rực rỡ đã thay đổi cả giòng lịch sử của các nước trong quĩ đạo như Bactria, Persia và Ấn Độ sau này. Bốn điểm chói sáng của Kushan là chấp nhận sụ khác biệt sắc tộc/tôn giáo, chia đều phúc lợi cho cư dân bằng thương mại; khuyến khích vũ/nhạc/hoạ/điêu khắc/nữ trang/lễ nghi; quan trọng nhất bảo trợ và giao giảng Phật giáo, một vương triều như thiên đàng. Trương Khiên ở Kushan một năm. Ông quan sát có khoảng một triệu người sống trong thành có tường bao quanh. Ông tả họ cuỡi ngựa bắn cung giỏi, chạm khắc ngọc cực khéo, rất kinh sợ chiến tranh, trong buôn bán mặc cả khít khao, rất nghe lời vợ (khôn ngoan quá), đã đúc tiền vàng. Trẻ em 10 tuổi cũng biết phân biệt ngọc thật hay đá cuội. Đàn ông có mắt sâu, râu dài và ria uốn cong, hết sức bảo trợ cho nghệ thuật và tôn giáo.
Trong tám trăm năm, người Trung Á hết lòng mang đạo Phật vào Trung Hoa và Nam Á. Nhiệt thành nhất là người Yuezhi, họ hiểu đạo Phật không chỉ như một tôn giáo, mà sáng tác theo cả một giòng nghệ thuật, gồm điêu khắc, kinh sách, nghi lễ và tranh vẽ trên tường. Hai người Yuezhi đầu tiên dịch sách Phật sang tiếng Hoa là Lokaksema và Dharmaraksa. Lokaksema (137-189) sanh tại Khusan, đến Lạc Dưong dịch kinh Đại thừa. Dharmaraksa sanh tại Đôn Hoàng năm 230, đến Lạc Dưong năm 266 dịch kinh Liên Hoa. Những công trình đầu tiên này đã biến Lạc Dương thành một trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Trung Hoa.
Đã quen vói tuợng Phật kiểu Ấn Độ hay Trung Hoa, độc giả thử chiêm ngưỡng tượng Phật có nét mặt, tóc, khăn áo và dép chịu ảnh hưỏng Hy Lạp và La Mã. Ngó Phật đẹp trai và rất thể thao. Bức tuợng có chiều cao 163.8cm bằng người thật, tìm thấy ở Pakistan, đuợc đúc duới thời vua Kanishka (127 – 151), một vị vua Kushan bảo trợ Phật giáo nhiệt thành nhất. Hai tượng Phật lớn nhất thế giới ở Bamian/Afghanistan cũng được coi như tác phẩm của người Kushan vào thế kỷ thứ sáu, mới bị Taliban phá huỷ năm 2001
Đế quốc Gupta thay thế đế quốc Kushan năm 375 SCN. Lãnh đạo Kushan bị tiêu diệt nhưng dân Indo-Scythians vẫn còn y nguyên đó, ngọai trừ một số quí tộc di tản tứ tán: lớp trở lại vùng đất mẹ là Khotan-đất-ngọc, lớp chạy xuống phía Nam. Có thể đền đài Angkor Wat ở Campuchia, hết sức nguy nga và huyền bí không để lại dấu tích của chủ nhân, cũng từ đám Sogdian hay đám Kushan này?
Rặng Altay, nơi xuất phát người Turkic
Tiếng Anh là Altai, tiếng Nga: Алтай Altay, tiếng Turkic: Alytau hay Altay, tiếng Mông cổ: Алтайн нуруу Altain nuruu. Tiếng Turkic và Mông cổ đều có nghĩa, “núi Vàng”. Chỉ một địa điểm, đựoc viết duới nhiều dạng khác nhau, cho thấy từ nguyên là một vấn đề khó đạt đựơc sự đồng thuận.
Quần sơn Altay vời vợi, nơi Nga Sô-Trung Quốc-Mông Cổ-Kazakhstan gặp nhau. Altay đuợc xem như cái nôi hàng ngàn bộ tộc và 66 ngôn ngữ. Khối Turkic là pha trộn hai đại chủng da vàng và da trắng sống đời du mục trên lưng ngựa tìm đồng cỏ cho trừu, dê, ngựa… Bé con dù trai gái 5 tuổi đã cuỡi ngựa một mình. Nhóm Turkic ban đầu chiếm ba địa bàn sát nhau: rặng Altay, bắc Mông Cổ và thảo nguyên Trung Á. Nhân dáng họ thay đổi: càng về phía Đông càng nhiều nét da vàng, càng về phía Tây, càng nhiều nét da trắng. Mắt từ nhỏ, xếch đến sâu, to tròn; mầu mắt từ đen, hạt dẻ, xanh da trời, xanh lá cây nhạt. Tóc có thể xám,vàng, đỏ, nâu hay đen.
Thành phố Urumchi “thảo nguyên xinh đẹp”
Thành phố có tên Ürümqi, ئۈرۈمچی, Ürümchi, Urumçi, Wūlǔmùqí. Đài phát thanh BBC gọi Ürümchi; đài RFI gọi Địch Hoá nhưng đổi là Ürümchi từ ngày 23 tháng 9. 1200 năm trước là đô thị sầm uất của Uyghur Khanate/vương quốc Uyghur nằm trên Con Đường Tơ Lụa. Suốt một dọc lịch sử Trung Quốc, mãi đến đời nhà Thanh, vùng này vẫn là nơi đi đầy. Thời nhà Đường, Urumchi có tên là Luân Đài. Từ Bắc Kinh đến Luân Đài rong ruổi mất vài tháng. Thơ Sầm Tham, đàn Hồ cùng tỳ bà với sáo Khương tấu lên môt lượt, “Luân Đài tiễn anh ra khỏi cửa. Đường núi Thiên Sơn tuyết chan chứa”(1). Hôm qua tuyết còn rơi đọng trĩu quân kỳ, sáng nay hoa lê đã nở trắng dẫy Thiên San, hoá ra ngàn hoa đã vào xuân rồi đấy ư …
Urümqi nằm dựa rặng Thiên San/Tianshan, cách 10km. Người mình biết Ürümqi qua tiễn khúc Hòn Vọng Phu: “Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn. Vui ca lên rồi đi tiễn binh ngoài ngàn…” lời và nhạc rồn rập như vó ngựa và bi phẫn như nỗi buồn chinh phụ. Theo Phạm Duy, nhạc sĩ Lê Thương sáng tác Hòn Vọng Phu cảm hứng từ bài thơ Trăng Quan San của Lý Bạch, “Trăng sáng ló Thiên san, Mênh mang mây núi ngàn, Gió lùa bao vạn dặm, Tới ải Ngọc Môn Quan”. Ngọc Môn Quan cách Đôn Hoàng 90 km, nơi bạch ngọc nephrite của Núi Ngọc Qurum chào đất mẹ Kustana/Khotan lần cuối trước khi vượt Ngọc Môn Quan vào đất Trung Hoa (3). Lý Bạch có lẽ là thi sĩ đầu tiên có hai giòng máu Hồ-Hán, sanh đẻ ở Gansu/Cam Túc, cha người Hán, mẹ người Hồ, không rõ Hồ Yuezhi, Hồ Xiongnu hay Hồ Persian? Tranh chân dung vẽ ông có mắt hí và xếch, có thể chỉ là tưởng tượng.
Những con số theo trang mạng wikipedia cho thấy Ürümqi là một địa bàn đa sắc tộc. Những nhóm nhỏ gồm người Manchu, Mongol, Xibe, Russian,Tujia, Kyrgyz, Uzbek, Zhuang, Tatar, Tibetan, Dongxiang, Miao, Korean, dù chỉ là những mảnh vụn lưu lạc ở Ürümqi, nhưng tổ tiên họ đều có quá khứ lẫy lừng hàng ngàn năm trên thảo nguyên mênh mông tại địa bàn East Turkestan. Hình bìa cuốn Người HMông (2), cô em Hmông có khuôn mặt dài, màu mắt nâu nhạt trong vắt, ngó rất giống bà Rebiya Kadeer, lãnh đạo lưu vong hiện nay của người Uyghur. Người HMông-Miao vẫn ghi nhớ tổ tiên họ xuất phát ở vùng một năm có “sáu tháng có cát trắng”, tức là tuyết, có thể họ cũng phát xuất từ dãy Altay?
Bốn nhóm chính là Hán, Uyghur, Hui và Kazakhs.
1.567.562 Người Hán, chiếm 75,3%
Người Hoa Bắc có thể giống như người Uyghur, cùng là sản phẩm Turkic: lai da vàng Mông Cổ và da trắng Yuezhi. Có thuyết ghi nhận nhóm lai này rời địa bàn du mục qua hàng lang Cam Túc vào nội địa Trung quốc khoảng 5000 năm trước. Họ nhận bắc Hoàng Hà làm địa bàn và đứt đoạn với nguồn gốc ngoài Cam Túc. Ba ngàn năm sau, người Hoa không còn nhận ra nơi phát xuất ban đầu, nên gọi tổ tiên là Yuezhi, “rợ” Di.
Ý niệm về “người Hán” khá mơ hồ. Hán, không phải tên một sắc tộc, chỉ là tên văn hoá. Đời Hán dài hơn 400 năm, 206 TCN–220, ý đồ bành trướng đã vươn phía Tây Bắc tới East Turkestan, phía Nam tới Mê Linh vùng Hai Bà Trưng. Người Hoa rất hãnh diện với trào đại Hán, nên dùng “Hán” cho nhiều ý niệm: sắc tộc, ngôn ngữ, chữ viết, văn hoá và niềm kiêu hãnh “Đại Hán”. Họ gọi nhóm không-Hán ở miền Nam là rợ Man. Dù người sáng lập ra “nhà Hán”, Lưu Bang, một nông dân đi phất phơ làm nghề coi tù. Lưu Bang quê ở đất Bái, thuộc nước Sở, nay là Giang Tô, mé biển, thuộc địa bàn Man. Sông Hán, phụ lưu của sông Dương Tử, nơi Lưu Bang đuợc phong Hán Vương, cũng thuộc địa bàn của dân Man.
Năm 1876, khi tướng Tả Tôn Đường mang quân đi “bình định” miền East Turkestan, ông giáo dục binh sĩ “miền đất này từ đời Hán đã thuộc về Trung Quốc, còn đám bản địa chỉ là dị tộc. Cuộc chiến tranh này để thu hồi biên cương cho tổ quốc…” Lời giáo dục trên bất chấp lịch sử, và khá mâu thuẫn: tên mới của miền “đất cũ” lại là Tân Cương, Xịnjiang, có nghĩa địa phận mới.
Mai mốt đây, khi cần nuốt trọng châu Phi, Trung quốc sẽ không ngần ngại giáo dục quân dân “người Phi và người Hoa cùng chủng, chỉ tại họ dang nắng quá, nên có hơi đen.” Da đen, da trắng hay da vàng, chơi với thiên triều, nếu muốn sống còn đều phải đề phòng bàì học một sáng thức dậy biến thành … dị tộc trên đất nước của mình.
266.342 Người Uyghur chiếm 12,79%
Miền East Turkestan, một trong cái nôi ban đầu của khối Turkic, trải dài 2000km từ Đông sang Tây và 1650 km từ Bắc xuống Nam là địa bàn chính của hàng trăm bộ lạc người Uyghur.
Người Uyghur cũng là kết quả pha trộn in hệt người Hoa: da vàng Hung Nô và da trắng Yuezhi nhưng nằm trên Con Đường Tơ Lụa nên pha huyết thêm lần nữa với các tộc người da trắng Ả Rập, La Mã, Hy Lạp, Ba Tư trong suốt một ngàn năm. Người Uyghur vì vậy có hình dạng khác nhau, và cũng khác với người Hung Nô và người Hán: có người thấp, da hơi vàng, tóc đen, mắt nhỏ; có người cao lớn, da trắng, mắt vàng hay xanh nhạt, mũi thẳng cao, râu tóc hung vàng hay nâu. Xác Ướp Tarim- khoảng thế kỷ 3 TCN- hiện trưng bày tại viện bảo tàng Urumchi, có tóc hung vàng hoặc nâu đỏ. Từ thời Đường đến nhà Nguyên, ảnh hưởng Uyghur mạnh mẽ trên trào đình Trung Hoa, từ.văn học và sân khấu, âm nhạc và vũ điệu, hội hoạ và kiến trúc, giáo đường và điêu khắc, lầu đài và vườn hoa đến dược thảo và cách trị liệu. Chỉ riêng âm nhạc, người Uyghur có tới 62 nhạc cụ khác nhau. Ngay cả màn châm cứu bằng kim cả thế giới tưởng của người Hoa, cũng xuất xứ từ Uyghur. Thượng đế tặng cho họ bàn tay như có phép mầu, khéo léo vô song từ dệt thảm đến nữ trang; từ bình hoa, bình trà tỉ mỉ đến giáo đường nguy nga.
167.148 Người Hui, chiếm 8,03%
Khu vực có đông người Hui gần Tân Cương nhất, là Khu Tự Trị Dân Tộc Hồi Ninh Hạ, một trong năm khu tự trị. Cùng với Tây Tạng, đây là vùng nghèo nhất Trung quốc. Ngày xưa, người Hui Tây Hạ cũng có nhiều sản phẩm giàu có như người Uyghur, có thể cũng là động lực khiến Trung Hoa phải ăn gỏi đám “rợ” này. Họ có nước da đậm, mắt nhạt màu.
Tuy cùng sắc tộc, phong tục người Hui Ninh Hạ rất khác người Uyghur. Tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung lấy Tây Hạ làm khung cảnh với những nhân vật đáng yêu: các công chúa Tây Hạ (có tên Trung Hoa): công chúa Ngân Xuyên, Công chúa Văn Nghi, công chúa Mộng Cô. Quốc vương Tây Hạ xuống chiếu bằng tiếng Tây Hạ cho quần hùng quần tà hay các công chúa kén chồng. Có thể tục công chúa kén chồng Trung Hoa phát xuất từ Tây Hạ. Kim Dung còn cho quái kiệt Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt cóc Hư Trúc đem qua Tây Hạ giấu trong hầm nước đá, ép Hư Trúc phải ăn mặn và chung giựờng với công chúa xuân tình, khiến sau đó tiểu hoà thượng chớ phở thấy làm người phàm hấp dẫn hơn nhiều. Độc giả khoan khoan xuống tóc làm tiểu hoà thượng, làm gì còn công chúa Tây Hạ nào cho độc giả cầu thân!
48.772 Người Kazakhs, chiếm 2,34%
Người Kazakhs là bộ tộc Turk thuộc vùng Wusun, phía Bắc rặng Tianshan/Thiên San, rất hùng mạnh vào thế kỷ thứ nhất TCN, liên kết với Trương Khiên khi ông này vâng lệnh vua Hán đi tìm đồng minh diệt Hung Nô.
Người Kazakhs giỏi võ nghệ, có môn săn bắn bằng chim ưng rất độc đáo. Có lẽ tên Huihe, 回鶻, đọc là Hủi I, có nghĩa Hui Chim Ưng xuất phát từ họ. Đa số người Kazakhs chăn nuôi trừu và dê. Chỉ một số nhỏ trồng trọt hay buôn bán. Con Đường Tơ Lụa biến miền đất của họ thành trù phú. Họ sống trong lều yurts, có thể nhanh chóng ráp nối bằng cọc, da thuộc và thảm dệt thêu rực rỡ. Vào mùa đông giá, họ mới chịu ở trong lều, uống trà sữa dê và ca hát.
Họ ăn thịt, uống sữa trừu, bò và lạc đà. Cũng như người HMong, tuy du mục, nữ trang Kazakhs rất tinh xảo và có phong cách riêng. Họ mặc quần áo bằng da trừu, da nai, da chó sói. Khi Khotan có bông vải, họ tự dệt vải nhuộm màu với những motif rất lạ mắt. Đàn ông mặc áo khoác thêu tay đẹp hơn áo của nhà Christian Dior. Áo Jacket và áo gilet là từ người Kazakhs. Các cô mặc váy xếp nếp, áo tay dài thêu công phu. Người già vui với truyện kể không bao giờ hết về nuôi dậy chim ưng, đánh nhau với chó sói; người trẻ say mê âm nhạc ca tụng tình yêu và gíó tuyết. Chỉ cần một chuỗi thanh âm ríu rít từ đàn Dongbula, thanh niên thiếu nữ ngưng công việc và cuốn hút ngay vào điệu nhảy nhí nhảnh. Mũ hoa mới thêu, mùi thịt trừu nướng lẫn trong mùi cỏ, đeo vòng bạc cho chú dê mới sanh…cuộc sống thảo nguyên hoá thân vào tiếng đàn điệu múa, chan hoà một giòng sông văn hoá Kazakhs mà du lịch Trung Hoa ngày nay trình diễn trên sân khấu khá vụng về, quảng cáo om xòm “Chinese culture”, nhưng khách du lịch dễ tính tin sống tin chết.
Văn minh Tây Vực vào Trung Hoa qua ngả Tân Cương
Hai ngàn năm trước, người Hoa gọi vùng mênh mông từ Tân Cương, Trung Á, Tây Á là Tây Vực. Dân cư gồm người Xiongnu/Hung Nô, Yuezhi/Nguyệt Chi, Greco-Bactrian/Hy Lạp, Persian/Ba Tư, Turkic, Indian/Ấn Độ. Mỗi đế quốc lại đặt tên đánh dấu ảnh hưởng của họ, nhưng dân cư thì vẫn chỉ thuộc hai đại chủng da vàng và da trắng. Mỗi chủng lại có nhiều chi chủng. Người Hoa gọi tuốt luốt là “rợ Hồ”.
Tràng An đời Đường, dân không-Hán lên đến một triệu người, đủ thứ “rợ”. Đông nhất là “rợ” Hồ, tăng lữ, nhạc sư, hoạ sĩ, vũ sư, học giả, quan văn võ, nhất là thương nhân. Trung tâm buôn bán của Trường An là của người Hồ. Trường An có nhiều Hồ điếm (cửa hàng), Hồ đề (khách sạn). Trường An đầy văn hoá Hồ: bạch ngọc Hồ, tôn giáo Hồ, sáo Hồ, múa Hồ, y phục Hồ, ăn uống kiểu Hồ, bánh trái Hồ, rượu nho Hồ rót trong chén dạ quang Hồ. Ngựa Hồ đáng giá hơn cả mạng người. Xứ Trung Hoa có mía, nhưng phải đợi đến người Hồ mới biết làm đường. Lý Bạch tả các cô gái Hồ nơi quán ruợư “Đẹp như hoa không biết ở đâu lạc đến thế này?”
Người Hồ Ả Rập vào Trung Hoa mang theo hương liệu, ngà voi. Người Hồ Ấn độ mang đá quí, ngọc trai, trầm hương. Nhóm ảnh hưởng nhất tới Trung Hoa là Hồ Ba Tư nhờ địa bàn sát bên: vương triều Saka ở Khotan, cung cấp bạch ngọc nephrite và thợ khéo. Tại Trường An, người Ba Tư mở nhà hàng nấu món ăn Trung Á. Họ giới thiệu với giới văn nhân, học giả môn cỡi ngựa đánh cầu, thảm quí, nước hoa, đồ dùng bằng vàng bạc. Họ mang đến trào đình thú lạ, chim quí, cây kiểng, thuốc men, đồ thêu, tranh vẽ, âm nhạc, nữ trang, đồ sành sứ, đồ thuỷ tinh…Họ là người đánh giá các món nữ trang bằng vàng bằng ngọc bằng mắt thường. Nữ trang của họ vẽ riêng cho trào đình, thợ Trung Hoa (hồi đó hay bây giờ) không làm nổi, phải mời “rợ” Hồ qua với đãi ngộ đặc biệt, không tù đầy giam lỏng hay đe doạ chặt đầu như với đám thợ người Hoa. Đồ cổ ngoạn bằng ngọc tinh xảo mỏng chừng 3mm của hoàng gia, chắc chắn do tay nghệ sĩ “rợ” Hồ Yuezhi. Nhà Đường (618-907), mà ông vua chuộng mỹ thuật, ham chơi là Đường Minh Hoàng nhất nhất bắt chước rợ Hồ, kể cả sủng ái tướng An Lộc Sơn -người Đột Quyết-. cho đến khi mất ngôi.
Người mình quen gọi “Ba Tư” cho cả đế quốc Persia và quốc gia Iran. Iran ngày nay chỉ rộng 1,648,195km2, chỉ là một cái đuôi sao chổi của đế quốc Persia. Đế quốc này là một chuỗi những triều đại khởi đi từ cao nguyên Iran trong hơn 6000 năm. Huy hoàng nhất, dưới trào Darius đại đế (522 – 485 TCN), Persia trải từ Tây Á châu, Trung Á, vùng Caucasus, đến cả Bắc Phi, phủ một diện tích 7.500.000 km², với nhiều chủng tộc, triều đại…Nhưng sắc dân độc giả thoáng thấy trong bài này như Parthia, Sogdiana, Yuezhi, Saka, Scythia, Khotan, được các học giả phương Tây xếp vào tộc da trắng Indo-Aryan, lý do vì họ dưới sự cai trị của người Perse, không có nghĩa là họ cùng sắc tộc/văn hoá/tôn giáo với người Perse. Năm 1935, Vua Reza yêu cầu cộng đồng thế giới gọi Persia là Iran. Các học giả phản đối cho rằng việc đổi tên sẽ làm mất đi quá khứ huy hoàng. Vì vậy năm 1959, vua Mohammad Reza kế vị, cho lệnh dùng cả hai tên. Ngày nay, tên Iran dùng trong chính trị ngoại giao, còn tên Persia dùng cho văn hoá và lịch sử.
Nói chung, giữa Tây Vực và Trung Hoa, sự giao lưu kinh tế và văn hoá đã biến đổi toàn vùng thành một nơi muôn màu muôn vẻ. Người Hoa cũng xuất cảng sản phẩm sang Tây Vực, giấy, la bàn, trà, thuốc súng, kỹ thuật in ấn, đào giếng, và nhất là tơ lụa. Triều đình Trung Hoa nào cũng chuộng hàng hoá rợ Hồ. Duy nhất, chỉ Từ Hy Thái Hậu bài ngoại mù quáng, cái gì cũng cho là quỉ sứ, ngoại trừ bạch ngọc nephrite giữ khư khư. Đời GiangThanh mù quáng không kém, đến nỗi có lúc bao nhiêu vườn nho ở Tân Cương phải đào xới vứt đi.
Thời điểm người Tây Vực vào Trung hoa
Thống kê năm 1990, số Muslim ở Trung Hoa 17.6 triệu: gồm 8.6 triệu Hui; 7.2 triệu Uighur; 1.1 triệu Kazakhs; 375,000 Kyrghyz; 33,500 Tajik và 14,500 Uzbeks. Người Tây Vực đến Trung Hoa vào nhiều thời điểm, cả đường bộ lẫn đường biển.
Phía Tây Bắc Trung Hoa, sau khi Con Đường Tơ Lụa hình thành thế kỷ thứ ba TCN, người Ả Rập, Ba Tư, Trung Á và Mông Cổ đổ vào đất Trung Hoa như nhũng con bướm say ánh đèn đêm. Họ băng sa mạc, vượt núi non trên lưng những con lạc đà chất đầy hàng hoá. Mỗi chuyến đi về có thể từ 2 đến 8 năm. Vì vậy, dần dần có những người định cư ở Tràng An.
Phía Đông Nam Trung Hoa, thế kỷ thứ 7 đời nhà Đường, một số thương nhân Arabia/Ả Rập và Persian/Ba Tư tới Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tô, Hàng Châu bằng đường biển. Quảng Châu từ đó đụơc xem là “Con Đường Tơ Lụa” trên biển nối với Con Đường Gia Vị đã có từ 3000 năm TCN bởi những thương nhân từ bán đảo Ấn độ đến Ả Rập, La Mã, Ai Cập. Những thứ như quế, hồi, đậu khấu, gừng nghệ, muối …3000 năm trứơc đồng nghĩa với lối sống xa hoa và những chuyện thần kỳ kiểu Ngàn Lẻ Một Đêm. Giữa mùi hành tiêu tỏi ớt cay nồng thấp thoáng bóng giai nhân uốn mềm như rắn thơm như trầm hương mát như sữa dê khiến quỉ thần trên thiên giới hân hoan xếp hàng đợi bị đầy xuống trần gian.
Năm 758, vua Đường Túc Tông, kế vị Đường Minh Hoàng, cầu cứu vua Abbasid ở Baghdad gửi 20,000 quân dẹp loạn An Lộc Sơn. Sau đó, đám 20,000 này ở lại Cam Túc và Ninh Hạ.
Năm 801, người Tây Tạng tuyển 20,000 lính đánh thuê người Arab và Sogdian giúp họ đánh nhau với đế quốc Nam Chiếu/Nanzhao ở Vân Nam. Người Tây Tạng bị thua, nhưng đám quân nhân này vẫn ở lại Tây Tạng. Từ đó, người Tây Tạng trở thành đồng minh duy nhất của người Hui. Năm 1652, vị Đat Lai Lạt Ma Thứ Năm đến thăm Ngân Xuyên, thủ đô của Ninh Hạ/Ningxia.
Khoảng 1070-1080, Tống Thần Tông mời 15,000 quân Ả Rập đến làm vùng đệm giữa Trung Hoa và đế quốc Liêu của người Khiết Đan. Độc giả có thể nhẩn nha đọc lại đoạn sử này đựơc tiểu thuyết hoá trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung, với bi kịch muôn đời tình nưóc/tình riêng, Tiêu Phong tráng sĩ bồng xác A Châu ngơ ngác giữa Nhạn Môn Quan không biết về đâu.
Đại hãn Mông Cổ Hốt Tất Liệt (1215-1294) sáng lập nhà Nguyên mang 3 triệu người Trung Á vào Trung Hoa giúp phù tá triều đại của ông. Họ là quân nhân trung thành, thương nhân thành công và là thợ khéo. Duới thời nhà Đường đến nhà Nguyên, tiếng Trung Hoa gọi người Muslim ở East Turkestan là Uyghur, gọi người Muslin ở Ninh Hạ và trong nội địa là Hui. Người Hui gần gũi với người Hán về ngôn ngữ, chữ viết, văn hoá, phong tục. Người Uyghur, nguợc lại, không hề chia sẻ với người Hán điều gì. Câu nói phổ thông cho thấy tình trạng giữa hai khối trong/ngoài quan ải:
Người Uyghur ghét người Hui vì họ là người Hán.
Người Hán ghét người Hui vì họ theo Islam.
Thâm cung bí sử cho Chu Nguyên Chương (1328-1398) gốc gác xa gần là người Hui. Vì vậy đám Minh giáo (gồm Hoả giáo và Mani giáo, thờ lửa) hết lòng phò tá ông. Để trả ơn, Chu đặt tên triều đại của ông là “Minh triều”. Triều Minh che chở người Hui khỏi sự nguợc đãi của người Hán, cho họ nhiều đặc quyền về tôn giáo, chính trị. Họ là những sử gia, nhà toán học, thiên văn, học giả, thầy giáo, thông dịch, cận thần tin cậy, sứ thần ở Roma, Bagdad và Istanbul. Họ đã đủ đông làm một cộng đồng Huihe giầu có và vững mạnh. Họ không chỉ nắm thương trường, nghệ thuật mà còn can thiệp vào cả chính trường Trung Hoa. Tuy vậy, Chu ra lệnh bắt họ phải kết hôn với người Hoa, nói tiếng Hoa và y phục kiểu Hoa. Từ đó, người Hui mất dần căn tính Hui. Gần cuối đời, Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái Tổ chợt sợ rằng chính đám Minh giáo này có thể đe doạ ngai vàng của ông, nên đang từ Minh giáo sáng chói, ông đàn áp họ, cho họ là Ma giáo, khiến đám Nho gia hết sức hả hê. Tiểu thuyết gia Kim Dung hình như không đồng ý với điều này, nên đã xây dựng nhiều nhân vật Minh giáo xuất sắc trong bộ Cô Gái Đồ Long, trong đó Trương Vô Kỵ xả thân cứu Minh giáo.
Ngươi Huihui nội địa là hậu duệ của cả hai ngả di dân đường biển và đường bộ nói trên. Họ có những dây liên hệ kinh tế và văn hoá với người Hán và người Mông Cổ. Họ ở rải rác khắp nứơc Trung Hoa quây quần xung quanh thánh đường Islam. Khi lập gia đình với các sắc tộc khác, họ cải tên Muslim cho ngắn bót:
Sai cho Said;
Sha cho Shah;
Ha cho Hasan; Hu cho Hussein;
Zheng cho Shams;
Chuah cho Osman;
Koay cho Kamaruddin;
Ma, Mu, Han cho Muhammad;
Người Hui nổi tiếng nhất là thái giám Hajji Mahmud Shams, حجّي محمود شمس, tên Trung Hoa: Zheng He, tên Việt: Trịnh Hoà (1371–1433), nhà hàng hải kiêm ngoại giao Muslim nổi tiếng. Ông là hậu duệ đời thứ 6 của Sayyid Ajjal Shams al-Din Omar, một viên quan ở Vân Nam, có gốc gác từ thủ đô Bukhara của nứơc Sogdiana – Uzbekistan hiện nay. Sinh tại Vân Nam, năm 11 tuổi Zheng He bị tuyển làm thái giám cho triều Minh. Ông mất khi ghé một hải cảng ở Ấn Độ. Zheng He được thuỷ táng, mộ phần trống rỗng ở Vân Nam quạnh quẽ. Ông không may mắn như những thái giám chết già khác: không được nhận lại phần thưởng cuối cùng từ lệnh thiên tử: bộ phận sinh dục đã héo khô chứa trong một cái chai khằng kín.
Chiến dịch “biển Đông” được trào đình nhà Minh tài trợ, cho thấy Trung Hoa đã sắp xếp một trật tự mới để từ vùng biển phía Nam hướng ra thế giới. Bẩy chuyến hải hành trong 30 năm, mang về quà cáp biếu xén, uy danh và liên hệ kinh tế cho trào đình. Tuy vậy gây phản ứng ngược nơi đám Nho gia, là đám có nỗi sợ hãi kinh niên “sợ thay đổi”, có thể làm vị trí của họ lung lay. Dưói áp lực ấy trào đình nhà Minh chỉ coi thành công của Trịnh Hoà như “duyên dáng Minh trào”. Thái độ vừa sợ hãi vừa kênh kiệu ấy Thanh triều về sau sao cóp y chang. Cái giá phải trả là hoàng thành bị bọn “quỉ đỏ” Tây Dương đốt phá, triều đại sụp đổ.
Sang đến nhà Thanh (1644 – 1912) thời kỳ đen tối của người Hui thật sự bắt đầu. Dân Hán và triều đình ngày càng kỳ thị người Hui. Từ 1648 đến 1878, ở East Turkistan 12 triệu người Hui và Uyghur bị giết trong mười lần nổi dậy. Năm 1845, ở Tây Bắc Vân Nam quân đội và người Hán tàn sát người Hui trong 3 ngày. Biến cố đẫm máu này tạo nên cuộc khởi nghĩa Panthay (1856–1873) ở Vân Nam, người Hui chủ trương ly khai. Kết quả 1 triệu người chết, cả người Hui lẫn người Hán, một số người Hui đào thoát sang Miến Điện, hiện nay trở thành một quyền lực lớn ở khu Golden Triangle/Tam Giác Vàng, nắm giữ nhiều mối lợi lớn về thuốc phiện, vàng, ruby và Burmese Jade. Ở Thiểm Tây (1862-1877), một cuộc nổi dậy khác khiến dân số người Hui từ 1,700,000 chỉ còn 150,000 người.
Điểm chung duy nhất: Islam ?
Truớc khi theo Islam, người Turkestan theo các tôn giáo/hệ thống tư tưởng khác như Shaman, Ki Tô, Do Thái, Phật, Mani và Zoroastrianism/Hoả giáo, Nestorian (Ki Tô Giáo phương Đông).
Thế kỷ thứ 8, Islam bắt đầu nở rộ ở Medina/Arab Seoudite. Từ thế kỷ thứ 10, Islam thay thế đạo Phật ở khu vực Trung Á và East Turkestan. Theo tiếng Arabic, “Islam” để chỉ tôn giáo, “Muslim”để chỉ tín đồ Islam. Phật giáo và Ki-Tô giáo được đặt theo tên của giáo chủ sáng lập, còn Islam và Muslim là tên đuợc mặc khải, có ghi chép trong kinh Qur’an, không phải do tín đồ tự đặt.
Tính đến tháng tư 2009, có 1.4 đến 1.6 tỷ tín đồ Islam khắp thế giới. Cứ 5 người có 1 người theo Islam. Theo thống kê của CIA Online World Factbook, bốn quốc gia có đông người Muslim nhất: Indonesia 204 triệu, Pakistan 164 triệu, India 154 triệu, Bangladesh 128 triệu. Đa số người Turks theo phái Sunni Muslims. Thiên sứ Mohammed qua đời, không chỉ định người kế vị. Sunni chấp nhận cả bốn Caliphs (hoàng đế) kế vị thiên sứ Mohammed là chính thống. Trái lại, Shiites cho rằng chỉ một mình Ali, anh em họ và cũng là con rể cuả thiên sứ Mohammed, mới là chân truyền.
Ngày 13-7-2009, bài viết của Moisés Naím tựa đề “Mute Muslims/ Sự Im Lặng của Người Muslims” (4) nêu lên câu hỏi cho toàn khối Muslim. Bài báo nhắc biến cố 17/9/2005, một tờ báo Đan Mạch đăng hý hoạ nội dung kém kính trọng thiên sứ Muhammed, đã gặp phản ứng giận dữ của cả khối Hồi giáo. Toà lãnh sự Đan Mạch ở Beirut bị đốt. Ở Afghanistan, Pakistan và Somalia, xô xát đến tử vong. Ở Damacus, đám đông phẫn nộ đốt hai toà đại sứ Na Uy-Đan Mạch. Ở Tehran, tổng thống Ahmadinejad cho đăng hý họa nhạo báng thói đạo đức giả của Tây Phương trong vụ Holocaust tàn sát người Do Thái. Ông Naím đặt câu hỏi “Vậy tại sao năm 2009 khối Muslim yên lặng trước hành vi đàn áp tàn bạo của chính quyền Trung Hoa với người Urghuy ngày 6-7-2009?” Những đàn áp này có từ những năm 1990. Phụ nữ bị đoạn sản. Tiếng Uyghur không đựoc dậy ở trường học. Công chức không đựoc để râu và quàng khăn. Không được cầu nguyện hay ăn chay trong giờ làm việc. Công việc bị người Hán lấn chiếm. Nhà cửa tốt chỉ dành cho người Hán. Thanh niên Uyghur bụộc phải làm xa thành phố, nhường chỗ cho người Hán di cư đến. Tất cả những mầm mống chống cự đều bị coi là khủng bố, lãnh tụ bị bắt giam. Nhũng siêu thị ngạo nghễ cạnh thánh đường Islam hàng ngàn năm tuổi. Năm 2004, môt đoàn vũ công Uyghur trình diễn tại Canada đã xin tỵ nạn chính trị, vì sau khi trình diễn, họ bị nhân viên Trung Hoa ép phải uống rưọư và khiêu vũ, trái với đạo đức người Uyghur.
Câu hỏi của Moisés Naím rơi vào yên lặng không kém.
Uyghur trong quĩ đạo Trung Quốc
Người Mãn Châu thành lập đế quốc Thanh năm 1644 đã sáp nhập Mông Cổ, Tân Cương, và Tây Tạng năm 1759. Nhà Thanh chỉ bị lui bước ở Miến Điện và Đại Việt với chiến thắng của vua Quang Trung ở trận Đống Đa.
Sau những năm chiến tranh đẫm máu, tháng 11/1884, East Turkestan bị sát nhập vào Trung quốc vói tên mới Xinjiang/Tân Cương. Từ đó, uy danh, văn hoá của East Turkestan ở bên bờ vực thẳm. Sau khi lực lượng Trung Hoa Quốc Gia lật đổ nhà Mãn Thanh năm 1911, người Uyghur khởi nghĩa nhiều lần. Họ chống nhà Thanh, chống người Anh, chống chính phủ bù nhìn do người Anh dựng lên. Họ đánh bật quân đội Nga Sô ra khỏi khu vực Ili. Tất cả những chiến đấu gian khổ đó rốt cuộc vẫn không dành đựoc độc lập. Tháng 10 năm 1955, họ đựoc “chỉ định” là một khu tự trị của Trung quốc. Năm 1949, người Hán chỉ chiếm 6%, hiện nay là 40% với 7.5 triệu người.
Bức ảnh duới đây chụp tình cờ, nói lên đựơc nỗi lòng người Uyghur? Ông râu trắng xoá kề cận bên mái tóc cháu còn xanh. Giống nhau chăng là sự bất an, cái nhìn của người ông chịu đựng đầy nghi ngại và bé gái tí teo đã bậm môi đẫm căm hờn.
Một thi sĩ người Uyghur, Abduhalik Uyghur, ئابدۇخالىق ئۇيغۇر, hấp thụ cả năm nền học vấn: Islam, Trung Hoa, Ả Rập, Ba Tư và Liên Xô. Abduhalik làm nhiều thơ nhằm đánh thức người Uyghur trước nguy cơ bị Trung Hoa tiêu diệt. Bài thơ Oyghan (Wake Up, Hãy Thức Dậy) sáng tác năm 20 tuổi.
Xin dịch thoát 8 câu:
Này người Uyghur khốn khổ, thức dậy đi từ cơn ngủ đã dài
Người còn gì đâu ngoài mạng sống mỏng manh
Nếu không tự cứu khỏi cái chết
Phút tàn sinh sẽ chẳng còn bao lâu nữa
Hãy mở to mắt nhìn quanh,
Tương lai sẽ ra sao
Nếu lỡ dịp may này vuột khỏi tầm tay
Mai này sẽ chỉ là một nỗi ăn năn vô tận
Vị trí cuả Tân Cương đối với Trung quốc
Trong cuốn Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt, ông Bình-nguyên Lộc cho rằng một trong nguyên nhân nhà Hán chiếm Chămpa, khai thác mỏ đơn sa dùng làm vị thuốc, người Hoa gọi là thần sa, châu sa, mỏ ấy ở tại Cù Lao Chàm, người Chàm khai thác đến đời Tống thì cạn. Giấc mơ Đại Hán không chỉ đơn giản có thế. Nguợc lại, tầm nhìn gấp trăm lần nhằm thực hiện chủ nghĩa bành trướng và đế quốc: làm chủ toàn vùng, cả trên bộ lẫn trên biển.
Suốt 2000 năm, từ thế kỷ 5 TCN cho đến thế kỷ 16, không bao giờ Trung quốc thoát khỏi ám ảnh bị người ngoài tấn công. Vạn Lý Trường Thành là bằng chứng lịch sử cho sợ hãi đó. Chiếm đựơc vùng làm trái độn là vấn đề sinh tử với họ khiến ngay từ năm 126 TCN, nhà Tây Hán phái Trương Khiên thám hiểm phía cực Tây tìm đồng minh. Sau khi Con Đường Tơ Lụa hình thành ở phía Bắc, có thể nhà Hán căn cứ vào sự giầu có của xứ Chămpa, mơ màng kết nối Trung Hoa với Con Đường Gia Vị có từ 2000 năm truớc.
Ngày nay, Trung quốc phải chiếm và giữ East Turkestan cho bằng được. Trung quốc là một lục địa cổ, cũng giống như châu Âu, khai thác đã cạn, nên phụ thuộc nuớc ngoài về cả tiêu thụ lẫn khai thác nhiên liệu. Hoặc chưa cạn, nhưng cũng giống như Hoa Kỳ, khai thác thiên hạ truớc. Trung Quốc vì vậy cần đến những thuộc địa kinh tế.
Trong khi châu Phi xa xôi và khó lòng đồng hoá bằng văn hoá, ngôn ngữ hay hôn nhân mà Trung quốc còn thò tay tới, nói chi Tân Cưong cùng biên giới.
East Turkestan/Tân Cương rộng 1.6 triệu km², gấp bốn lần tiểu bang California, bằng Iran, bằng cả phía Tây châu Âu, và chiếm 1/6 diện tích toàn thể Trung quốc. East Turkestan là một vùng địa lý đa dạng, có sa mạc, núi, sông, hồ, đồng cỏ, rừng rậm. Đây là một vùng giầu có, ngoài chăn nuôi, còn có than đá, dầu lửa, quặng sắt. Đường ống dẫn hơi đốt từ Khazakhstan tới Trung quốc xuyên qua Tân Cương.
Trung Quốc đã thiết lập một số trung tâm nguyên tử lực ở Tân Cương. Có cả thẩy 45 lần thử nghiệm bom nguyên tử ở vùng hồ Lop Nur, đông bắc Tân Cương. Lần đầu tiên ngày 16 tháng 10, 1964. Từ đó, tỷ lệ ung thư nơi cư dân tăng từ 30 đến 35% so với địa phương khác.
Hai ngàn năm truớc, người Trung Hoa không bao giờ mơ màng đến việc đánh Ấn Độ. Nhưng ngó trên bản đồ ngày nay, Trung Hoa đang ở trên đầu Ấn Độ.
Năm 1962, Trung quốc bất ngờ tấn công Ấn Độ. Lúc đó, thủ tướng Ấn Độ là Nehru. Phía Trung Hoa có thủ tướng Chu Ân Lai. Nguyên nhân tranh chấp là tiểu bang Arunachal Pradesh, có mỏ dầu lửa rất lớn; hồi nào tới giờ thuộc Ấn Độ, dân chúng Ấn Độ, nói tiếng Ấn Độ. Trung Quốc ngang xương đặt tên mới là Nam Tây Tạng, và tuyên bố “chủ quyền không thể chối cãi”. Cuộc chiến kéo dài 41 ngày. Tổn thất về phía Ấn Độ: 3,128 chết, 3,123 bị bắt, 1,047 bị thương, phía Trung quốc 722 chết, 2 bị bắt và 1,697 bị thương.
Trung quốc tuyên bố thắng trận,“dậy cho Ấn độ” một bài học. Ấn Độ mất hai vùng đất thuộc bang Arunachal Pradesh. Vừa có của vừa ráp ranh với Trung quốc, người Ấn Độ lại vừa thiền vừa mơ ngủ theo chính sách “bất bạo động”của Ghandhi! Thủ tướng Nehru thú nhận “Chúng tôi sống trong thiên đàng hão huyền/We were living in fool`s paradise”. Sống đời này lại cứ vun xới thiên đàng ở đời sau! Bài học này không chỉ riêng cho Ấn Độ.
Nguồn: NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ

chinhluanvn.org