NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG CỦA ĐỒNG ĐỘI TÔI E582

Lời thưa,

Khi tôi viết tiểu thuyết Thời của mỗi người là viết về kỷ niệm của đời sông quân ngũ của chính mình. và Đoàn Tuấn viết tập ký Những người không gặp nữa cũng nắm trong suy tư đó. Cuộc chiến tranh Tây Nam không “khai sinh” ra nhiều nhà văn, nhà thơ. Chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay với Phạm Sỹ Sáu, Huỳnh Kim, Đoàn Tuấn, Lê Minh Quốc, Thành Nguyễn… Còn ai nữa? Đó là điều may mắn, bởi cuộc chiến kết thúc sớm. Hơn nữa, người ta cũng muốn lãng quên nó.  Sau tập thơ in chung Đất bên ngoài Tổ quốc, chúng tôi tự nhủ phải viết thêm một cái gì đó. Rồi thời gian lại cuốn tôi chìm xuống cơm áo gạo tiền… May mà Tuấn có viết tập sách này.

Lê Minh Quốc

VI.2012

DOAN_TUAN

Một buổi sáng, ngồi uống trà bên quán cóc trên đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội, tôi bỗng nghe thấy một người nói:

– Cứ mỗi lần nghe buổi phát thanh “Nhắn tìm đồng đội” là mình lại ứa nước mắt.

Tôi nhìn sang. Một nhà văn đàn anh, thoắt ẩn thoắt hiện.

Vì nhiều lý do, bản thân tôi cũng thường theo dõi buổi phát đó.

Song, về mỗi liệt sỹ, sau khi đọc quê quán, năm sinh, cuối cùng, ai cũng có chung một dòng : “Hy sinh tại mặt trận phía nam ngày… tháng… năm…”

Quá đơn giản!

Những liệt sỹ đó, khi sống, họ sống thế nào? Chơi với đồng đội ra sao? Họ linh cảm những gì trước khi chết? v.v và v.v…

Ai chết rồi cũng đều tuyệt đẹp. Chết trẻ càng xót thương. Nhớ mãi.

Ngày 15 tháng 9 năm 2001

Mùa thu năm 1998, trong một lần ra Hà Nội công tác, Lê Minh Quốc rủ tôi:

– Lúc nào rỗi đến thăm gia đình Hoàng An đi?

– Nhà nó bán lâu rồi.

– … ?

– Nghe tin nó hy sinh, ông già nó mất. Rồi bà mẹ cũng qua đời. Chị em gái lấy chồng. Nhà 66 Ngô Thì Nhậm bây giờ là cửa hàng bánh kẹo của người khác rồi.

Tôi thấy thương Quốc. An là lính C7, thuộc đại đội Quốc. Quốc quý An, coi An như thằng em. Ra Hà Nội nhiều lần, mỗi lần Quốc nhờ tôi dẫn đi thăm một chiến hữu ở đại đội cũ. Khi là Dũng 41, khi là Huần, khi là Dân “lùn”… Đối với tôi, Hoàng An mãi mãi là một hình ảnh đẹp.

An có nước da trắng hồng như da con gái. Trắng đến nỗi mái tóc cũng hoe vàng. Cặp mắt nâu lúc nào cũng long lanh sáng. Đôi môi đỏ tươi. Hàm răng trắng bóng. Cái tên An “bột” trở nên thân thiết với mọi người.

Cái ngày An hy sinh, tôi không thể nào quên được. Chiều đó, tôi vừa tắm ở suối lên thì gặp An đi tới. Hai thằng nói chuyện vài câu. Tôi định về thì An đứng dưới suối gọi vọng lên:

– Này Tuấn, cho mình cái khăn mặt đi.

Tôi lưỡng lự.

– Mấy khi xin nhau đâu. Ông hết, còn kiếm dễ hơn mình.

Tôi thương An, lính bộ binh phải đi tuần, đi phục liên miên. Quần áo, giầy, mũ, khăn mặt… đều rách sớm. Tôi ném cho An cái khăn ẩm mầu trắng đã vắt nước. An chộp lấy và cười rất tươi.

– Cảm ơn. Mình chỉ xin lần này là thôi đấy!

Tôi về trước, và dặn An tắm xong qua chỗ tôi ăn cơm.

Đơn vị An không có suối, phải qua chỗ tôi tắm nhờ. Mỗi lần tắm phải đi bộ chừng 700 mét, qua nghĩa trang tiểu đoàn. Mời An về chỗ tôi ăn cơm vì tôi biết, anh Liễm, trợ lý tác chiến tiểu đoàn người sống chung hầm cùng tôi, trước là đại đội phó của đơn vị An. Anh Liễm cũng rất quý An.

Anh Liễm mới nấu được nồi rượu đã mang ra đãi khách. Mỗi lần nâng bát, An đều vừa cười vừa nói: “Uống đi, chỉ lần này thôi. Lần cuối cùng đấy!”

An cười rất tươi. Giọng nói giòn tan. Chúng tôi nói nhiều thứ chuyện. Anh Liễm lại là cây tiếu lâm nên bữa ăn dưới ánh dầu khộp khá vui.

Sau đó An ngồi chơi trong hầm tôi hồi lâu. Nó mấy lần nhắc tôi:

– Tuấn viết thư cho chị Hương hộ mình nhé. Chị Hương mình xinh lắm!

– Xinh thì phải có ảnh. Nói mồm ai tin – Anh Liễm đùa. – An cười.

– Đi bây giờ tối lắm. Lính gác tưởng địch, nó bắn chết chả bõ. – Anh Liễm lại đùa.

– Thôi, Tuấn viết thư hộ mình nhé. Nói nghiêm đấy, chị Hương mình xinh lắm.

Tuy tôi chưa xem ảnh chị Hương của An, song tôi biết thể nào chị Hương cũng rất xinh bởi An đẹp trai, trắng hồng đến thế kia mà. Tôi hình dung ra tấm ảnh chị Hương và vừa mong vừa tin sẽ được An cho xem. Tôi gật đầu cho An yên tâm. Nó bắt tôi thề. Tôi khẳng định là sẽ viết.

Chừng 9 giờ An về để sáng mai còn đi phục.

Sáng hôm sau, An cùng đơn vị phải đi rải đường sớm. Nghĩa là đơn vị An phải rải quân ở những điểm quan trọng trên con đường từ tiểu đoàn tôi đến phum Cam Tuất, nơi C14 đóng, để đảm bảo an toàn cho chúng tôi sẽ đi gùi gạo và đạn.

Khoảng 7 giờ, tôi đang gói cơm nắm và con cá khô vào ba lô thì nghe tiếng mìn nổ phía đường. Dạo đó, cứ nghe tiếng mìn nổ phía đường, chúng tôi lại bàng hoàng, sửng sốt vì biết chắc rằng lính mình, ai đó, đã bị thương hoặc hy sinh.

Đến khoảng 8 giờ, tôi vừa qua đi được một quãng thì thấy An đang nằm vật trên đường. Vội chạy tới, tôi kinh hoàng thấy một bên chân An đẫm máu. Người đầy bụi đất. Ánh mặt trời chiếu thẳng vào mặt. An vẫn nằm thẳng cẳng, đầu dính bết đất. Một tay đặt ngang mắt che nắng.

Tôi cúi xuống gọi An. Nhưng nó không mở mắt, không trả lời. Hình như An đã ngất.

Tôi vội xin phép anh Lê Quỳnh Lang, trung đội trưởng thông tin, người phụ trách quân số tiểu đoàn bộ đi gùi gạo hôm đó, cho tôi được phép đưa An về phẫu tiểu đoàn. Nể tình tôi trước cùng là lính thông tin giờ đã chuyển về tác chiến tiểu đoàn nên anh Lang đồng ý.

Chúng tôi khiêng An về phẫu tiểu đoàn. Y sĩ Hiền vội truyền huyết thanh cho An. Chỗ ga rô ở chân An đã tím ngoét. Phần bị thương, thịt nhầy nhụa, xương vỡ vụn lởm chởm. Đất cát bám vào trông rất ghê rợn. Anh Hiền quyết định cắt một bên chân. Kiếm gỗ kê, dùi đục, dao rựa. Người giữ. Người chặt. Tiếng dùi đục đập vào sống dao, xương gẫy. Tôi nghiến răng, nhắm mắt, quay mặt ra phía bãi cỏ.

Sau đó tôi cùng Tuấn quản, nhà ở phường Thanh Lương, cầm xẻng và xách cái chân bị cắt của An đi chôn. Cũng chẳng chôn đâu xa. Gần chỗ giếng đào nhưng không sử dụng được vì nước quá đục. Cạnh đó còn có hố chôn bông băng. Chúng tôi chôn chân An xuống một hố đạn vì đất rất khó đào.

Hai chúng tôi thay nhau ở bên An, chẳng có gì gọi là tẩm bổ. Tôi chạy khắp nơi tìm mãi mới được quả trứng gà bé tí xíu. Tuấn quản luộc quả trứng, bẻ từng miếng nhỏ, cho vào miệng An, nhưng nó đùn ra. Mồm kêu: “Ước! Ước!” Tôi đổ nước cho An. Nuốt được hai thìa, đến thìa thứ ba thì nước tràn ra cổ, không nhận nữa.

Khoảng 12 giờ trưa, anh Hiền vành mí mắt An ra “Nhìn này. Sống sao được”. Tôi nhìn vào. Trắng nhờ, không còn mầu hồng đỏ như mắt người sống. Không nói gì thêm, anh Hiền bỏ sang hầm y sĩ.

Khoảng 1 giờ chiều, An lên cơn co giật.

Hai giờ chiều, tôi đổ sữa cho An, sữa tràn ra cổ.

Anh Liễm nhìn, bần thần:

– Sắp đi rồi!

Tôi rối rít lay gọi:

– An ơi! An nhắn gì cho gia đình, nói cho mình đi. Mình sẽ chuyển!

An không nói gì. Bất động.

Khoảng 20 phút sau, An nói. Ôi, nói không ra lời, nói ngọng, giọng phều phào đứt quãng.

Tôi bối rối ghé sát tai xuống nghe. Nhưng không thể hiểu được lời nào. Tôi nói như van lạy:

– Anh Hiền ơi, anh tiêm ít thuốc trợ tim hay trợ lực cho bạn em, để nó nhắn lời cuối cho gia đình!

Tôi như quỳ xuống, nói như khóc. Anh Hiền vẫn không nói gì.

Bỗng toàn thân An rung chuyển, lên cơn co giật dữ dội.

Tôi kêu gào thảm thiết, mong An nói một câu gì đó cho gia đình.

Rồi An thở bằng mồm. Tôi đau đớn nhìn. Bất lực. Lúc đó tôi mới bắt đầu hiểu thế nào là thở hắt ra.

Tôi lấy ít bông đặt trên mũi An. Bông không động đậy.

Hoàng An đã ra đi. Bốn giờ kém 15 ngày 29-12-1980.

Tuấn quản đun nước nóng, tắm rửa cho An. Mãi sau này, Tuấn quản còn trầm trồ: “Mẹ kiếp! Thân thể thằng An đẹp như con gái!”

Tôi cùng anh Liễm và Nguyễn Đình Huần mặc quần áo và liệm cho An. Đặt An vào quan tài, chúng tôi khiêng An ra nghĩa trang tiểu đoàn, cách đó khoảng 300 mét.

Cùng lính C7, chúng tôi đào một cái huyệt thật sâu, thật đẹp. Sau đó anh em C7 làm đội tiêu binh, bồng súng AK, đứng hai bên huyệt.

Anh Thuận chỉ huy đơn vị An, chủ trì lễ truy điệu. Ngắn gọn, xúc động.

Chúng tôi đắp mộ cho An khá to. Không biết Tuấn quản kiếm đâu ra bát cơm, quả trứng, nhờ anh nuôi Đệ điếc, người Đà Nẵng, mang ra. Tuấn quản đang bận chia cơm ở nhà. Là quản lý, phụ trách bếp ăn tiểu đoàn bộ có khác, Tuấn quản quả chu đáo.

Không có hương hoa gì cả. Mãi tối mịt mới xong.

Đêm hôm đó, tôi không ngủ được. Tìm cây bút bi có màu mực đẹp nhất, xanh biếc như lá mạ, tôi viết lá thư dài gửi cho chị Hương của An.

Tôi vẫn không biết mặt chị Hương của An thế nào. Lúc sang C7 nhận ba lô của An về tiểu đoàn để lập biên bản kiểm nghiệm quân tư trang tử sỹ, tôi không thấy có tấm ảnh nào, chỉ có mấy lá thư cũ của ông bố.

Tư trang không có gì. Bộ quần áo cũ, đôi tất rách.

Cái võng, cái màn, cái chăn, những quân trang ấy, tiểu đoàn thu lại, để cấp cho người khác.

Lá thư viết cho chị Hương hết sức đau đớn. Tôi đã khóc.

Chờ mãi, chờ mãi, không thấy thư chị Hương gửi sang. Tôi đoán chắc quá đau đớn, chị Hương không thể trả lời.

Cũng đêm đó, cách chỗ tôi chừng 700 mét, ở đầu kia nghĩa trang, Lê Minh Quốc, người cùng đơn vị với An, đã viết một bài thơ đầy xúc động, nha đề: “Gởi từ hòm thư 5A-2106” về cái chết của Hoàng An:

Bồng bềnh sợi tóc em bay

Tuổi hồng gửi với cỏ cây lạc loài

Trăng rơi trong mắt ngậm ngùi

Thân gầy guộc đã chôn vùi đất hoang

Thắp cho em nén hương tàn

Gió chiều hiu hắt hồn oan chưa về

Thấy em cười vọng trăng khuya

Đêm dài ma quái như chia nỗi lòng

Quan tài che kín gió đông

Hay mưa gió xuống lạnh lòng em tôi?

Hình hài còn gửi trăm nơi

Ngủ đi em để rong chơi thiên đường

Mộ em trăm hoa hướng dương

Của giọt nắng rụng còn vương mắt người

Vô tình sao thấy đắng môi

Khóc em không nước mắt rơi đầm đìa

Em nằm không có mộ bia

Sinh Việt Nam tử Cam-pu-chia tội tình

Trở về lòng đất vô minh

Thịt da em có hiện hình dương gian

Thắp cho em nắm hương tàn

Chợt nghe súng nổ bàng hoàng tương lai.

Chôn An rồi và mãi đến giờ, tôi vẫn còn ám ảnh bởi câu hỏi: tại sao An, khi xin khăn mặt mình, lại cứ nói là xin lần cuối? Tại sao uống rượu tối hôm đó, mỗi khi nâng cốc, lần nào An cũng cứ nói: “Uống lần này là lần cuối với các đồng hương”. Và tại sao An lại cứ nhắc mãi tới chuyện viết thư cho chị Hương?

Và tối hôm đó, tôi đã nổi giận với y sĩ Hiền, khi anh ta nói với Tuấn quản:

– Tao biết thế nào thằng An cũng chết nên không tiêm thuốc trợ tim và trợ lực cho nó. Để dành cho ca khác.

18 năm sau tôi vẫn còn giận anh Hiền. Mãi đến mùa thu năm 1998, khi anh em cựu chiến binh chúng tôi tụ tập kỷ niệm 20 ngày vào lính, y sĩ Hiền từ Sơn Tây cũng đến tham dự. Tay bắt mặt mừng, nhắc lại chuyện cũ, hiểu nhau hơn. Tôi và anh Hiền chụp chung kiểu ảnh làm kỷ niệm.

Song cái chết của An vẫn mãi ám ảnh tôi. Một lần đọc sách, tôi được biết nỗi bất hạnh của những gia đình có người không may bị chết không toàn thây. Lúc đó, chúng tôi còn non dại quá, quên không đào cái chân của An lên để chôn cùng thi thể của nó.

Trong tâm hồn tôi, Hoàng An mãi mãi là một hình ảnh đẹp. Đẹp như một buổi trưa tại phum Cầu Sắt, tôi đang khoác súng đi dọc suối xem có con thỏ nào bị sa bẫy không thì gặp Hoàng An đang tắm. Nó đứng trên những tảng đá đen bóng. Dòng suối trong vắt chảy loang loáng. Suối trong đến nỗi nhìn thấy cả những viên sỏi màu dưới đáy, nhìn thấy cả bàn chân trần sạch trắng của An. Và nó cười đùa với đàn cá nhỏ đang rối rít trước mặt. Những con cá óng ánh đủ sắc mầu nhỏ và dài như những chiếc lá trúc, đang thi nhau đớp mồi. Tôi dừng lại nhìn thì ra An “bột” đang “xóc lọ” cho tinh trùng ra.

– Ê An! Mày làm thế để làm gì?

– Cho sạch chứ còn gì. Đêm ngủ mơ, bắn pháo hoa, bẩn bỏ mẹ! – Nó ngẩng lên cười hồn nhiên.

Và bây giờ, dù không biết gia đình Hoàng An ở đâu, tôi vẫn chở Lê Minh Quốc qua phố Ngô Thì Nhậm. Để tìm sách cũ. Để đứng bên này đường, trang nghiêm nhìn ngôi nhà 66, hình dung lại những ngày thơ ấu, Hoàng An đã đùa chơi trước cửa, như những đứa trẻ con đang mê mải đá cầu.

Trích hồi ức của Nguyễn Đình Huần, lính C7, cùng đại đội với Hoàng An. Hiện Huần ở làng Phùng Khoang, xã Trung Văn, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

Bao tháng năm khổ đau nhưng cũng đầy oanh liệt, tự hào lại hiện về nguyên vẹn trong tôi và thế là tôi viết. Viết không phải để khoe hay kể lể, vì chiến tranh thì làm sao chúng tôi có trọn vẹn Tuổi xuân.

– Hỡi các chiến hữu! Đã cùng tôi với bao đồng đội những người trở về hay những người đã hòa trộn vào lòng đất của xứ sở quạ đen “Chùa Tháp” mang về cho gia đình mình tấm bằng Tổ quốc ghi công, cho Tổ quốc Việt Nam niềm tự hào làm nghĩa vụ quốc tế vẻ vang hay giang tay cứu độ một dân tộc đang bên bờ diệt vong, hay vì cái gì nữa… nữa… Cuối cùng, chúng ta, những người lính tình nguyện đã phải đổi bằng hoa hồng, máu và nước mắt để đem về cho Tổ quốc những hào quang chói lọi vì nghĩa vụ quốc tế vẻ vang. Trước mắt tôi, quá khứ lại trở về nguyên vẹn của thời đáng nhớ. Cũng như mọi người, với cuộc sống hiện thực là tấm áo, bát cơm, vì thế, tôi không có thời gian để giãi bầy cùng mọi người mà chỉ muốn nói về một kỷ niệm trong cuộc chiến hơn 20 năm đã trôi qua của đồng đội tôi đã cùng tôi và bao bè bạn sẵn sàng xả thân mình để cứu vớt một dân tộc láng giềng đang trong cảnh đọa đầy đau khổ.

Tôi viết về Hoàng An.

Người chiến sỹ hy sinh vì nghĩa vụ quốc tế vẻ vang, người đồng chí của chúng tôi và là đồng hương Hà Nội của tôi. Nên tôi nhớ và viết về sự hy sinh của Hoàng An trong cuộc chiến mà không bao giờ tôi quên được. Câu chuyện tôi viết là hoàn toàn có thật, một sự thật phũ phàng nhưng rất vinh quang. Ước muốn của tôi là viết ra đây để anh em của HT 5A.2106. PLEIKU (đoàn 330 chuyển) xem và nhớ lại một thời đã qua.

Khoảng 9 giờ sáng một ngày đầu tháng 12-1980, tôi đang cùng tổ phục bảo vệ đường dọc tuyến giao thông An-lung-viêng đi Cam Tuất thuộc cứ điểm đồi Con Cá, bỗng nghe tiếng mìn KP2 nổ chát chúa cùng tiếng hét man dại bên kia đồi Con Cá, bên đó tổ phục đến giờ thay ca trở về chốt nghỉ ngơi. Tổ phục của tôi được lệnh cơ động đến chỗ có tiếng nổ hỗ trợ cho tổ bạn, mấy phút sau chúng tôi có mặt. Một sự thật đau lòng đập vào mắt tôi, một thây người đẫm máu đang quằn quại cùng cỏ cây và đất cát. Tôi nhận ra Hoàng An, đồng đội tôi và là đồng hương Hà Nội. Tâm hồn tôi tê dại, tôi đứng lặng nhìn đồng đội mình đau đớn mà không làm được gì để giúp bạn. Chúng tôi hiểu mọi chiến sĩ, ai đã vướng mìn KP2 thì đều không cứu được. Bởi mìn KP2 chứa 20% chất độc hóa học. Sau phút đau đớn đó chúng tôi sơ cứu băng bó cho An và chuyển về ngầm An lung, đó là phẫu của tiểu đoàn. Với trách nhiệm và nghề nghiệp, y sĩ Hiền người Sơn Tây lúc đó là phẫu trưởng đã hết lòng cứu chữa hòng đem lại cuộc sống cho Hoàng An. Tôi ngồi cạnh An động viên và múc từng thìa nước đổ cho bạn uống thầm cầu mong cho bạn mình tai qua nạn khỏi, dù khi trở về trên đôi nạng gỗ thì cũng là hạnh phúc. Gần trưa An rất tỉnh, kêu đau ở vết thương. Nhìn ống chân bạn lủng lẳng chỉ còn dính một mảng da từ bàn chân lên gần đầu gối mà lòng tôi quặn đau. Tôi hiểu sự sống của An chỉ là một phàn ngàn. Tôi hỏi An có nhắn gì cho 6g không, An nói với tôi là: “Em chỉ còn mỗi chiếc khăn quàng cổ bằng sợi dệt mà trước khi sang K chiến đấu, mẹ em đã nhét vào ba lô cho An vì mẹ sợ những đêm dài giá lạnh con của mẹ sẽ viêm họng. Nếu trở về được thì Huần mang về cho mẹ hộ em”.

Nghe bạn nói mà tự nhiên nước mắt tôi cứ lăn dài xuống hai gò má vốn đã xanh xao vì sốt rét. Thỉnh thoảng bàn chân bị gẫy cứ giật lên từng đợt theo tiếng nấc ngắt quãng. Tôi gọi anh Hiền y sĩ, nói nhỏ: “Thôi anh xem cắt cái bàn chân gẫy đi cho bạn em, biết nó chả sống được nhưng cứ nhìn thấy là em xót xa cho nó quá”. Không biết là do sự khẩn cầu của tôi hay vì chuyên môn, anh Hiền đã cắt bỏ bàn chân đó và giao cho Đoàn Tuấn là đồng hương Hà Nội đem đi chôn. Tôi hỏi An có ăn gì không? Thú thật là chúng tôi cũng chẳng có gì ngoài nắm cơm vắt ướt đẫm mồ hôi vì từ sáng đến giờ chưa kịp ăn. Thấy An gật đầu, tôi chạy vào bếp tiểu đoàn thấy anh nuôi đang dùng xẻng đảo nồi cơm bốc hơi nghi ngút. Tôi xin ít nước cơm mang về chỗ An định đổ cho An uống. Thật tội nghiệp, nếu có thìa đường hòa vào vào với nước cơm thì tốt biết bao. Nhưng với điều kiện hoàn cảnh chiến trường như vậy kiếm đâu ra thìa đường cho bạn bây giờ? Tôi lại chạy đi gặp anh em nào cũng hỏi xem có gì có thể cho bạn ăn uống được không, để mong kéo dài cuộc sống cho bạn. Cuối cùng tôi lại gặp Đoàn Tuấn vừa đi chôn chân bạn về. Tôi nói với Tuấn “Thằng An nó đòi ăn, mình xin được ít nước cơm, song chả có đường… ước gì có tí đường hay quả trứng đánh vào nước cơm cho nó uống may ra nó còn tỉnh nữa”. Tuấn thần mặt ra một phút rồi vội vàng quay đi vừa nói “Huần đợi mình một tí”. Tuấn chạy đi một lát và quay lại trên tay cầm một quả trứng gà nhỏ thó dúi vào tay tôi và giục tôi về trước. Tôi như nằm mơ vì giữa chốn này mà Tuấn kiếm được trứng gà thì thật là tuyệt. Về đến chỗ An nằm tôi vội đập trứng vào bát nước cơm rồi múc từng thìa đổ vào mồm cho bạn, mong sao An uống hết chỗ nước cơm và trứng. Uống được hai thìa, An thôi không uống nữa. Ngừng một lát tôi lại động viên và múc đổ cho bạn, nhưng An đã không uống được nữa và nói ngọng. Trên khuôn mặt trắng nhợt vì mất máu đã bắt đầu có những dấu hiệu vô thức của kẻ sắp vĩnh viễn ra đi. Tôi lay gọi bao nhiêu thì phản ứng tự nhiên của con người An cứ chậm chạp và mất dần. Sau mấy lần oằn người và nấc lên một cách khó nhọc, người An từ từ mềm ra. Đôi mắt thì cứ trừng trừng nhìn vô hồn vào khoảng không, trống vắng như oán hận một điều gì. Tôi vuốt mắt cho An bằng bàn tay còn dính đầy máu từ vết thương của bạn. Đoàn Tuấn đun nước nóng mang lên thay quần áo và tắm rửa cho An. Đó là nhiệm vụ của ban chính sách tiểu đoàn. Nhưng là đồng đội và lại là đồng hương, tôi cùng Đoàn Tuấn đều làm hết sức mình, dù rằng việc thay quần áo và tắm rửa cho An không có gì là khó khăn, thế mà tôi và Tuấn cứ phải gượng nhẹ thật nhẹ nhàng. An chết rồi mà lấy khăn lau thi thể bạn tôi vẫn như sợ thấy bạn mình bị đau.

Chiều hôm đó, một buổi chiều thật buồn. Ban chính sách, chúng tôi những người lính Hà Nội và Quảng Nam lặng lẽ tiễn đưa thi thể Hoàng An ra nghĩa trang An-lung-viêng chôn cất. Trong nỗi đau nhưng cũng thật vinh quang vì ở chiến trường mà bạn tôi được chôn cất theo nghi lễ nhà binh. Hai bên huyệt là chúng tôi – những người lính bồng súng nghiêm trang, chính trị viên Thuận đứng giữa đọc điếu văn nêu những thành tích và sự hy sinh oanh liệt của bạn tôi. Thế cũng oai đấy chứ phải không các chiến hữu? Ngày tháng tiếp theo chúng tôi lại tiếp tục bổn phận của người lính đầy gian khổ và cũng đầy vinh quang. Được rảnh rỗi lúc nào tôi lại ra mộ Hoàng An cắm cho bạn vài bông hoa dại cùng bát cơm rời rạc xúc vội ở nhà bếp rồi thầm khấn Hoàng An phù hộ cho tôi cùng đội được bình An để hy vọng một ngày về…

Một năm sau tôi đi viện cũng vì cuộc chiến. Sáu tháng nằm điều trị tôi được trở về quê hương. Về đến Hà Nội, nhớ bao đồng đội còn đang chiến đấu trên chiến trường K, bao bạn bè đã nằm lại bên nghĩa trang An-lung-viêng, đến chiếc khăn của An và lời hứa của tôi. Tôi tìm đến gia đình Hoàng An ở 66 Ngô Thì Nhậm Hà Nội. Tôi gặp bố mẹ và em gái An. Tôi đã kể lại sự hy sinh của An cho bố mẹ và em gái An nghe chiếc khăn quàng cổ. Ôi chiếc khăn. Cầm chiếc khăn đã chớm bạc màu trao tận tay mẹ Hoàng An mà lòng tôi đau thắt. Đôi môi tôi mặn chát, không biết hương vị mặn của mồ hôi hay nước mắt. Hai tai tôi ù đặc. Tôi như thấy mình có tội với bố mẹ và em gái của An. Sau đó, tôi xin phép ra về. Tôi không biết mình ra về với niềm tự hào hay mình trốn chạy trước sự thật nghiệt ngã.

Thời gian cứ thế trôi, tôi lao vào cuộc sống để giành lấy miếng cơm manh áo. Tưởng rằng mọi cái đã lãng quên nhưng không, nó đã trở về trong tôi sau 20 năm quên lãng và tôi viết ra đây một kỷ niệm tuy nhỏ nhoi nhưng đáng nhớ gửi tới tất cả anh em đồng đội của HT 5A.2106.PLEIKU (đoàn 330 chuyển) để nhớ về một thời đã qua!

Khi nhớ lại một thời cầm súng

Thấy hồn ta bay bổng trời cao

Hà Nội 1-4-2001

Nguyễn Đình Huần

Theo sự chỉ dẫn của người hàng xóm với nhà An, tôi đến khu Hào Nam, tìm chị Điệp, chị cả của An. Chị kể:

Dạo nhà chị còn ở bên Giảng Võ. Một hôm, buổi trưa, chị nằm ngủ gần cửa sổ. Thiếp đi. Chị mơ thấy mưa hắt vào chân. Lạnh qua! Chị gặp An cùng mấy người bạn đang ngồi ở chợ. Thấy chị đi qua, An gọi: “Chị Điệp ơi, em đói quá!” – “Ô sao em lại ở đây?” Chị hỏi rồi giật mình tỉnh dậy. Em biết không, từ dạo An mất, bữa nào mẹ chị cũng cúng một bát cơm cho cậu ấy, toàn khấn về nghĩa trang ở biên giới Cam-pu-chia – Thái Lan. Sau này, gặp mấy đứa bạn An trở về, thông báo mộ An đã chuyển về Tây Nguyên. Chị khấn lại. Từ đó không thấy cậu về nữa. Em biết không, năm 90, ba chị bán nhà 66 Ngô Thì Nhậm, chia cho các con, có để dành phần cho An là hai cây vàng. Dạo ba chị mất, cụ có ước nguyện là mua bốn chỗ dưới Văn Điển để ba chị, mẹ chị, chồng chị, cùng cậu An được nằm bên nhau. Song đến giờ, hài cốt cậu An vẫn chưa mang về được. Chị thì bị bệnh tim. Năm ngoái tưởng đã chết rồi…

Tôi an ủi và hứa với chị sẽ tổ chức quyên góp tiền của đồng đội, sớm đưa hài cốt An về Hà Nội.

(Hình)

Hoàng An giờ giải lao trên thao trường (huyện Lạc Thủy, Hòa Bình, tháng 10/1978)

(Hình)

Mộ liệt sĩ Hoàng An tại nghĩa trang thị xã Plâyku – ảnh do người em rể chụp được trong một chuyến công tác xa.

Ngày 7 tháng 10 năm 2000

Trên truyền hình chiếu những hình ảnh lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long. Người ta phải buộc xác những người chết đuối vào lều lán, đợi khi nước rút mới mang đi chôn. Vợ tôi đang bế con lắc đầu, chép miệng:

– Sao lại khổ đến nỗi thế!

Tôi an ủi và trấn tĩnh:

– Anh cũng có lần phải chôn người như thế rồi đấy!

Hầu như lúc nào tôi cũng nhớ tới anh Hà Huy Lan, thiếu úy, đại đội trưởng C5 với cái chết bi tráng và tuyệt đẹp.

Dạo đó, những ngày đầu năm 1979, tôi được đi phối thuộc với đại đội 5. Đơn vị đóng quân ở ngoài phum Kầm-Prạ, một phum nằm sát biên giới Thái Lan, thuộc tỉnh Prêch Vihia. Suốt một thời gian dài ở đó, tôi đã trở nên gắn bó với C5. Có những đêm bắt cá dưới ánh trăng sáng như ban ngày, cùng chịu những trận tập kích của địch vào lúc tảng sáng, cùng đi những đợt truy quét mệt lả người, trở nên thân thiết với các anh trong ban chỉ huy đại đội như Hà Huy Lan, người Nghệ An, anh Nguyễn Văn Trung, người Mường ở Hòa Bình, anh Nguyễn Văn Huyên, người Ba Vì, Hà Tây.

Ngày 8 tháng 5 năm 1979, tôi được tiểu đoàn gọi về và hạ sỹ Nguyễn Văn Mạnh, người Bình Định, lên thay tôi.

Ngày 10/5, cùng Lê Quỳnh Lang, Nguyễn Văn Học và một số người khác trong trung đội thông tin, chúng tôi đi tát cá. Khoảng 3 giờ chiều, bỗng nghe súng nổ phía xa, nhưng không ai để ý. Khoảng 5 giờ, vừa về đến tiểu đoàn, đang làm cá thì nghe ồn ào trên nhà tiểu đoàn bộ, chúng tôi chạy lên, thấy anh Trung, chân đất, quần áo xộc xệch, mặt hớt hải, cầm ngang cây AK, thở dốc:

– Cả ban chỉ huy bị phục kích, anh Lan bị thương rồi.

Chúng tôi hốt hoảng. Chính anh Trung cũng bị thương, vết thương ở mông to và sâu bằng nắm đấm, máu vẫn đang rỉ ra. Ngay lập tức, thông tin trinh sát và vận tải vội triển khai đi tìm ban chỉ huy C5.

Đến tối chúng tôi mới đến địa điểm bị phục. Đó là con đường dẫn vào phum Tờ-nà-riêng. Bên trái là rừng thưa. Bên phải là rừng xanh. Nằm giữa rừng xanh và con đường là một bãi trống. Khi đoàn người vừa ra khỏi phum, bọn địch phục kích từ trong rừng xanh bắn ra. Hôm 8 tháng 5 khi qua đây, nghe những tiếng con chim “te te… hoắt!” hoảng loạn bay lượn trên vòm săng lẻ, tôi đã rợn người, cố đi nhanh qua đoạn đường nguy hiểm. Cái tiếng chim đó kêu suốt ban ngày và ban đêm. Mỗi lần chúng cất tiếng, sự nguy hiểm nào cũng xảy ra.

Khi đến nơi, chúng tôi thấy anh Huyên đang nằm gục bên hố nước ven đường, áo quần ướt đẫm vì nước và vì máu. khẩu AK báng gập vẫn chưa kịp bật báng, còn đeo bên vai. Anh bị trúng đạn vào giữa miệng. Cái mồm toang hoác. Những chiếc răng chìa ra. Khi còn sống, anh bị hơi vẩu. Giờ đây, cái miệng anh dẩu ra với hai hàm nứt toác. Ngay phút đầu tiên tôi không thể nào nhận ra anh Huyên. Ít giây sau, trấn tĩnh lại, tôi mới bàng hoàng khiêng anh vào võng.

Chuẩn úy Nguyễn Văn Huyên mới từ đại đội thông tin trung đoàn về C5 được ít ngày làm chính trị viên phó. Hình như anh vừa về phép, mới cưới vợ. Mấy hôm trước, tôi còn giận anh Huyên vì anh đã đọc trộm thư từ và nhật ký của tôi. Bây giờ anh đã chết. lúc trúng đạn, chắc anh đau đớn lắm. Bộ phận vận tải vội khiêng anh về tiểu đoàn.

Cách chỗ anh Huyên nằm không xa là xác một tên địch. Nó nằm sấp, mặc quần áo đen. Đây là thằng địch do anh Trung bắn chết. Anh Trung kể: “Khi nghe tiếng anh Lan kêu: “Trung ơi, tao bị thương rồi!” thì bọn địch xông lên định bắt sống quân ta. Anh Trung nấp sau phía cây, nổ súng. Một thằng ngã sấp. Số còn lại quay đầu chạy vào rừng. Chúng tôi vào phum, gọi phum trưởng ra nhận mặt, xem có phải là người trong phum không. Mấy người đàn ông Khơ-me ra, lật xác lên, lắc đầu và xua tay.

Chúng tôi bảo họ đi chôn tên địch. Mấy người Khơ-me cầm dao, chặt đoạn dây rừng, buộc hai chân tên địch đang nằm sấp, kéo về phía rừng thưa. Đường mấp mô và khô cứng, xác thằng địch bị kéo lê trên đất nghe sần sật, sần sật. Trời tối mò, rừng cây đen thẫm, xác thằng địch đen thui bị kéo lê trên mặt đất tối sầm, chỉ có những tiềng sần sật vang lên nhịp nhàng. Bao năm rồi tôi không thể nào quên được những tiếng sần sật ấy. Những người Khơ me bới qua loa cái hố sâu chừng mươi phân, đặt xác thằng chết xuống, chặt dăm cành cây phủ lên. Thế là xong. Rồi họ xin phép ra về như không có chuyện gì xảy ra.

Đêm đó, chúng tôi thức suốt để đi tìm anh Lan theo hướng anh Trung chỉ. Còn anh V. nữa những anh Trung không biết đã chạy hướng nào. Gần sáng, trinh sát Nguyễn Trần Hải, nhà ở phố Thi Sách, Hà Nội, nhặt được chiếc bàn chải đánh răng. Chúng tôi xác định cái này là của anh Lan. Đi vài chục mét nữa thì trinh sát Nguyễn Văn Cầm, người Tam Kỳ, Quảng Nam nhặt được mảnh túi áo bị xé cùng một số giấy tờ. Tất cả đều là của anh Lan. Đến khoảng 5 giờ sáng, chúng tôi tìm được xác anh Lan. Anh nằm bên bờ suối cạn. Đầu gối lên khẩu M.79. Vết thương trên thái dương được buộc lại bằng chiếc khăn mặt trắng. Các túi áo bị xé hết. Anh nằm nghiêng như đang ngủ say. Đôi dép cao su được đặt ngay ngắn dưới chân. Quanh anh còn ba vỏ đạn M.79. Da mặt còn tươi, áo vẫn bỏ trong quần. Đây là tư thế chết đẹp nhất ở chiến trường mà tôi được gặp.

Khiêng anh Lan về đến đơn vị thì chúng tôi tập trung vào chiến dịch đánh lên An-lung-viêng. Xác anh Huyên đã được chuyển lên trung đoàn. Còn xác anh Lan không kịp chuyển, phải buộc võng treo tạm vào kho đạn của tiểu đoàn. Trong kho còn ít đạn vì đã chia cho các đơn vị. Mãi đến gần 5 giờ chiều, tiểu đoàn đang chuẩn bị hành quân thì anh V. mới lò dò dẫn xác về. Thì ra anh chạy lạc đến một đơn vị của trung đoàn 95, được người của đơn vị bạn dẫn về.

Nhìn bộ mặt bạc nhược của chính trị viên phó tiểu đoàn Nguyễn Xuân V., chúng tôi chán hẳn. Cái chuyện bị địch phục kích đều từ anh này mà ra. Đang đi làm công tác dân vận, nhận được điện gọi về tiểu đoàn để chuẩn bị đại hội đảng bộ, anh V. rẽ vào C5 gần đó để rủ ban chỉ huy đại đội về cùng. Qua phum Tờ-nà-riêng, anh V. rủ ở lại nấu cơm ăn trong nhà dân. Các anh cũng chủ quan. Nghĩ mình đi bốn người nên không mang theo lính bảo vệ, có ngờ đâu trong phum vẫn có địch. Chờ cho các vị cơm no rồi mới lên đường, ra đầu phum là chúng quật.

(Chiến dịch đánh lên An-lung-viêng lần đó của đơn vị chúng tôi thất bại. Kéo quân đi lại kéo quân về. Lực lượng to lớn, cỡ trung đoàn tăng cường, được xe tăng của sư yểm trợ, chuẩn bị công phu nhưng cuối cùng phải về không. Nguyên nhân từ điều hết sức vặt vãnh. Số là nghe tin chuẩn bị đi chiến dịch, lính tráng đổ xô vào phum Choăm Sre xin thuốc hút. Dân hỏi: “Xin làm gì mà nhiều thế?”. Lính hồn nhiên: “Đi bắt Pôn Pốt ở An-lung-viêng”. Anh em có biết đâu rằng, dân trong phum có con em đi lính Pôn Pốt rất nhiều. Đêm, họ đã cắt rừng đi báo cho chồng con họ biết. Khi xe tăng ta kéo lên, dọc đường, địch đã chặt những cây to mấy người ôm không xuể, đổ ngang. Công binh phải dùng mìn đánh để mở đường. Đến nơi, An-lung-viêng vườn không nhà trống. Một tuần sau, ta phải rút về).

Đi bộ hàng trăm cây, vừa về đến đơn vị, trung đội trưởng Lê Quỳnh Lang đã phân công cho tôi cùng Nguyễn Đức Thừa, người Quảng Nam, liệm xác anh Lan để lên theo xe chuyển về sư đoàn. Suốt cả tuần đó, trời mưa không ngớt. Cái lán kho đạn không có vách thưng, mưa hắt xối xả. Từ nhà thông tin đã ngửi thấy xác anh Lan bốc mùi. Mỗi đợt gió thoảng qua, ai cũng phải nhăn mặt.

Tôi và Thừa ra kho đạn. Lạ thật, trời mưa nhiều thế, rừng và đất vẫn còn ẩm ướt, nhưng bao nhiêu cỏ cây quanh kho đạn đều úa vàng, chết rũ. Không ngờ nước dịch từ trong người tử sỹ rỉ ra lại độc đến thế! Đám cỏ tranh úa vàng quanh xác anh Lan khắc mãi trong tâm trí tôi.

Tôi và Thừa hạ xác anh Lan xuống. Bụng anh Lan đã trương phềnh như bụng trâu. Cả cái võng rộng 1,5 mét mà ôm không kín. Võng đã dính chặt vào áo quần và da bụng. Bóc lớp võng ra, da bụng cũng dính theo. Dòi bọ lúc nhúc. Thừa đề nghị cho luôn cả võng vào túi ni lông, nhưng người quân y sư đoàn không cho phép chôn võng cùng tử sỹ. Tôi không biết nguyên tắc đó của ai. Hay do anh ta nghĩ ra? Song do anh ta là cấp trên, chúng tôi phải tuân lệnh. Khi tôi bê đầu anh Lan lên, những mảng tóc dính da đầu cũng bị tuột, lộ ra hộp sọ. Tôi căng túi. Thừa khỏe hơn tôi, đẩy xác anh Lan vào. Một túi, nước dịch vẫn ứa ra. Phải lồng vào hai túi. Tôi lấy lọ pe-nê-xi-lin đựng mảnh giấy ghi tên tuổi, quê quán, cấp bậc, chức vụ, ngày hy sinh của anh Lan bỏ vào túi luôn. Ruồi nhặng kêu vu vu, đậu vào mắt, vào miệng, chúng tôi mặc kệ. Ngoài nghĩa vụ và trách nhiệm với đồng đội, tôi còn làm vì tình yêu đối với anh Lan.

Sau đó, tôi chạy về bãi cỏ gần nhà thông tin, nằm thở dốc. Nhìn lên bầu trời thấp, những đám mây trĩu nước, lờ đờ bay. Không còn anh Lan với giọng nói và tiếng cười sang sảng, không còn anh Lan dạy tôi lên gấu quần, không còn những đêm anh Lan rủ tôi vào các cơ sở trong phum Kầm-Prạ nắm tình hình địch, nướng những con cá to như cây chuối trên bếp lửa rực hồng rồi uống rượu xa-ra với dân. Không còn anh Lan như một điểm tựa tinh thần vững chắc của bao binh lính. Không còn… Không còn… Và lòng tôi buồn tê tái đớn đau khi biết rằng vợ anh, chị M., người con gái thành phố Vinh đã ngoại tình.

Tôi ra suối C8 tắm. Cạnh đó có cây khô bị sét đánh, chẻ toang. Lấy rìu bửa những tảng than ra để gội đầu và kỳ cọ cho sạch. Về đến nhà, gặp Thừa đang ngồi thừ ra bên bàn, tôi hỏi:

– Đồng hương giặt võng anh Lan ở đâu?

– Ở suối C8

– Chết mẹ! Sao không bảo? Mình vừa tắm ở đó về!

Thừa cười. Tôi giãy nẩy và cũng phải cười. Thừa đẹp trai hiền lành, da trắng như thư sinh. Tuy cùng trung đội, nhưng chẳng mấy khi gặp nhau vì phải đi phối thuộc luôn, song tôi rất mến Thừa.

Ít ngày sau, tôi lại vác máy thông tin đi phối thuộc với C7. Anh Trần Thanh Chương quê Nam Đàn, Nghệ An, chính trị viên đại đội kể:

– Mình về đến Chchép, nghe tin có xe chở tử sỹ của E29 chạy qua, mình vội đến tìm xem có ai quen. Không thể tin ở mắt mình được nữa. Trời ơi! Hà Huy Lan đây sao? Không thể tin nổi. Ông có biết không, từ đơn vị mình về đến nước, mỗi xác tử sỹ phải lồng vào chín túi ni lông. Đến Chchép đã là bảy túi. Đây ông xem, lá thư cuối cùng ông Lan viết cho mình hôm họp quân chính ở trung đoàn, trước khi mình đi công tác.

Anh Chương cho tôi xem lá thư. Đúng nét chữ rắn rỏi của anh Lan hay viết điện cho tôi truyền về tiểu đoàn hàng ngày. Vẻn vẹn chỉ có bốn câu thơ viết trên sổ tay:

Chim xa rừng cho cây nhớ cội

Người xa người nhớ lắm người ơi!

Từng bên nhau chiến đấu bấy năm trời

Trong phút chốc phương trời nam cách mặt.

Anh Chương cứ nhắc đi nhắc lại rằng lá thư này như điềm gở báo hiệu anh Lan sẽ hy sinh. Rồi với giọng Nghệ Tĩnh ngâm nga, anh đọc cho tôi nghe bài thơ khóc bạn. Hôm anh Lan mất, đúng vào dịp chi đoàn tiểu đoàn bộ phát động làm báo tường chào mừng đại hội đảng bộ tiểu đoàn. Tôi xúc động viết bài thơ vĩnh biệt anh Lan. Song y sĩ Nguyễn Văn Tố, bí thư chi đoàn, người Thanh Hóa, nói lại với tôi rằng, bài thơ không dùng được, sợ ảnh hưởng đến tinh thần anh em. Riêng tôi, bốn câu thơ anh Lan chép, nhập ngay vào tâm trí tôi và ám ảnh tôi mãi.

Anh Hà Huy Lan hy sinh rồi. Hai năm sau, năm 1981, mùa mưa chúng tôi đau đớn nhận được tin anh Trần Thanh Chương cũng hy sinh. Lúc ấy, chúng tôi đang phải trải qua những ngày ác liệt ở An-lung-viêng. Anh Chương đã được điều lên Ban cán bộ trung đoàn. Trong một lần đi công tác, xẩm chiều, qua suối phun Giềng, nước lũ đổ về cuồn cuộn. Vì muốn về đến đơn vị cho nhanh, lại cậy mình bơi tốt, anh Chương ôm ba lô làm phao, bơi qua suối. Không ngờ anh bị nước cuốn đi. Hôm sau nước rút, đồng đội mới tìm thấy xác anh. Cá đã rỉa hết tai và mũi. Anh vẫn mặc quần đùi ni-lông màu đỏ.

Về anh Nguyễn Văn Trung, kể từ khi ra quân, chúng tôi ít có điều kiện gặp anh. Đầu năm 2001, mấy anh em C5 gồm Vinh (Nam Đồng), Toàn cây si, Thành béo… rủ nhau lên Hòa Bình tìm thủ trưởng cũ. Gặp anh Trung đang tuốt lúa bên đường, gần dốc Cun, Toàn cây si giả vờ đến hỏi chuyện mua máy. Nhìn khách, anh Trung bỗng kêu lên: “A! A! C5! C5 phải không?” Anh em nhận ra nhau, quá đỗi hạnh phúc. Gặp nhau được ít giờ, khi ra về, Toàn hẹn tháng sau sẽ dẫn mọi người đến thăm anh Trung. Vài tháng sau lên, mọi người chỉ gặp anh Trung qua tấm ảnh trên bàn thờ. Anh Trung mới mất cách đó mấy ngày. Anh đi xe máy, tránh một người đi xe đạp, phanh gấp, đập đầu xuống đường, chấn thương sọ não và chết.

Như vậy Ban chỉ huy C5 ngày ấy gồm các anh Hà Huy Lan, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Trung, người chiến trường, người hậu phương, đều đã ra đi.

Ngày 25 tháng 8 năm 2001

Trích nhật ký của Nguyễn Văn Tuấn, trinh sát D8, hiện là công nhân nhà máy giầy Thượng Đình – Hà Nội.

Tôi nằm co người trong võng, ôm ghì khẩu súng. Mùi thuốc trong nòng súng phả ra hăng hắc nồng nồng. Cạnh tôi là Cường, nằm đấy bất động, trũng người trong chiếc võng loang lổ máu. Ánh trăng thượng ngàn chui qua khe lá hắt vào võng của Cường lỗ rỗ cứ như chiếc thuyền bị thủng. Tôi cố quên trận phúc kích và cái chết của Cường nhưng không sao quên nổi. Cường nằm ngay cạnh tôi. Quen thân đấy nhưng sao mà xa cách rờn rợn vậy. Cứ nhắm mắt là hình ảnh của Cường lại hiện lên, rồi tiếng cười ròn tan của nó, rồi giọng nói miền Trung nặng nặng, cái áo lính bạc trắng… Tất cả cứ đầy ắp trong đầu tôi. Rồi tôi thiếp đi lúc nào không biết.

Trong giấc chiêm bao hư ảo ấy, tôi thấy trong vòng tay tôi lúc này là một đứa trẻ sơ sinh đỏ hỏn. Nó khóc nhiều lắm. Nó ôm chặt lấy cổ tôi. Tôi bồng nó đi khắp nơi. Đi lên An-lung-viêng, đi xuống Kầm-pờ-rạ, rồi trở về Chom-sờ-re. Nó vẫn khóc ti tỉ bên tai. Tôi còn nhớ tôi bế nó đi vào một cái chợ xiêu vẹo. Chợ đông lắm. Đàn ông đàn bà mặc đồ đen; chân đi không chạm đất, khuôn mặt đờ đẫn. Họ nói không ra hơi. Tất cả chợ sao mà im ắng thế! Tôi mua cho nó rất nhiều thức ăn. Nhưng đến khi cầm lên tay chỉ thấy có lá mục và hoa khộp khô cứng. Tiếng khóc cứ nỉ non bên tai tôi. Bỗng tôi nghe thấy tiếng nói rất sõi từ miệng đứa trẻ sơ sinh:

– Tuấn ơi! Tôi mới sinh ra có một ngày, chưa có chút gì vào mồm. Đồng hương xem anh Vương có hộp sữa trong ba lô lấy ra cho tôi ăn với.

Tôi choàng tỉnh thoát khỏi cơn mê mà vẫn nghe văng vẳng giọng nói miền Trung của đứa trẻ sơ sinh. Mặt tôi lại quay về hướng chiếc võng tử sỹ. Nghĩ về giấc mơ, nghĩ về cái chết của Cường. Trăng mờ chiếu chếch càng gây cho cảnh vật thêm rờn rợn. Tôi nhỏm dậy tháo võng. Lúc này anh Vương y tá cũng nhỏm dậy nhìn trâng trâng vào mặt tôi và hỏi:

– Có gì đấy? Làm sao đấy?

Tôi trả lời:

– Chẳng sao! Không có gì? Anh cứ ngủ đi… Mấy giờ rồi?

Anh trả lời:

– 12 giờ đêm.

Tôi buộc võng sang chỗ khác. Lầm rầm khấn trong miệng. Tóc gáy tôi dựng đứng, da gà nổi khắp người. Ngẫm nghĩ lại giấc mơ với cái chết của Cường sao mà trùng khớp nhau đến thế. Sau khi khấn song tôi ngủ được ngay.

Sáng hôm sau tôi thức dậy, kể lại cho anh Vương sự việc đêm hôm qua. Anh cười có vẻ không tin lắm nhưng vẫn lấy hộp sữa trong ba lô đặt vào võng của Cường. Một lát sau trung đoàn trưởng đi xuống nhặt từng chiếc lá khô và cành mục rơi trên võng của Cường, miệng lẩm bẩm: Thằng này thiêng thật! Thiêng thật!

Tôi nghĩ, chả lẽ đêm qua Cường lại đến thăm thủ trưởng của mình? Một điều lạ kỳ hay chỉ là ngẫu nhiên? Nhưng tôi thì tôi tin là trong khoảng cách sống và chết đấy – người sống sẽ nghĩ nhiều về người đã khuất. Mà hồn người chết thì còn lẩn quất đâu đây, luôn luôn muốn gõ cửa những giấc chiêm bao để nhắn gửi đôi lời chưa kịp trối trăn.

Thứ sáu 30 tháng 3 năm 2000

Mới đây, báo Tiền phong đăng mẩu tin ngắn về việc phát hiện một mộ liệt sỹ ở Tây Nguyên. Điều đặc biệt trong ngôi mộ đó là cây bút Trường Sơn vẫn còn mực sau hơn 20 năm trời nằm trong lòng đất. Cây bút kỳ lạ đó được chôn cùng người liệt sỹ quê ở Hà Tây.

Dòng tin đã thoáng qua, gợi cho tôi nhớ đến truyện ngắn “Thời Gian” của nhà văn Cao Duy Thảo. Câu chuyện kể về chiếc đồng hồ của một liệt sỹ sau mấy chục năm nằm trong lòng đất vẫn không chết. Di vật bất tử đó đã giúp bà mẹ giải thoát được nỗi đau đớn hiểu lầm về người con đã hy sinh.

Tôi lại nhớ một chi tiết tuyệt vời trong phim Đàn sếu bay qua của Nga. Sau trận bom, trong cảnh đổ nát tan hoang của ngôi nhà, những chiếc kim của chiếc đồng hồ quả lắc vẫn chạy. Sự bất tử của thời gian, của sự sống.

Song trong tôi vẫn còn một nỗi đau về chiếc đồng hồ. Một chiều tháng bảy năm 1980, cơm nước xong, tôi qua chỗ anh Trần Văn Đan, tài vụ tiểu đoàn, ngồi chơi uống nước. Tối nhọ mặt người. Tôi đang đứng ở lối vào tiểu đoàn thì gặp anh Trần Thanh Biện. Anh nói luôn:

– Tuấn cầm hộ mình cái đồng hồ này. Nó vừa bị hỏng, khi nào có dịp về trung đoàn công tác, nhờ sửa hộ mình.

Tôi bối rối nhận chiếc đồng hồ vì trong lòng thầm nghĩ chẳng biết có dịp nào mới lên trung đoàn được. Nhưng vừa nói xong, anh Biện vội quay về C7.

Khoảng hơn tiếng sau, nghe tiếng mìn nổ. Rồi tin anh Biện hy sinh bay về tiểu đoàn. Anh dẫn trung đội đi tuần, vướng mìn.

Anh em khiêng anh Biện về tiểu đoàn bộ. Anh đã chết. Quần áo ướt đầm nước mưa. Trời tối, mặt anh xám đen.

Chúng tôi thay quần áo, liệm cho anh rồi chôn anh ngay trong đêm. Sợ để qua đêm, lại mất thêm người canh gác và cũng sợ thú rừng ăn thịt.

Sáng hôm sau tôi sang C7 nhận ba lô di vật tử sỹ của anh Biện về làm biên bản. Quần áo trong ba lô của anh rất sạch sẽ, đã được xếp gọn gàng. Cái ba lô cũng được giặt rất sạch. Có một chồng thư nhỏ được bọc trong hai lớp túi ni lông.

Tôi bỏ luôn chiếc đồng hồ chết vào ba lô di vật của anh.

Tôi nhớ lại gương mặt chiều qua, lúc sang gửi tôi chiếc đồng hồ. Gương mặt ấy có điều gì thảng thốt như tái dại, giọng nói dù vẫn nhỏ nhẹ nhưng không được bình tĩnh, ánh mắt cháy rực sáng. Rất rực sáng. Và dáng di của anh thật vội vã. Mất hút luôn.

Tại sao anh lại gửi tôi chiếc đồng hồ? Tôi xa thông tin lâu rồi, có mấy khi được về trung đoàn nhận pin đâu? Và cũng đã lâu, từ khi đơn vị lên đứng chân ở An-lung-viêng, tôi đâu còn được đi phối thuộc với C7? Chỉ năm 1970, gần như suốt năm, tôi đi với đơn vị anh trên một chặng đường dài. Dạo đó anh đã là trung đội trưởng. Nhớ dạo đóng quân ở Cầu Sắt, anh Biện nhận được lá thư của em gái. Anh cho tôi xem thư. Lá thư buồn lắm. Hoàn cảnh gia đình thật khó khăn. Hình như cha mẹ anh đã mất từ lâu, em gái anh sống cùng bà ngoại và bà dì. Người dì không quý cháu lắm. Cô em gái cứ hỏi bao giờ anh được về để làm một ngôi nhà cho anh em sum họp chứ sống như đi ở thế này thì khổ lắm.

Anh Biện rất buồn. Ba, bốn đêm liền trằn trọc trên võng. Tôi nằm gần anh chỉ biết im lặng.

Tôi biết, trong đơn vị, anh Biện cô đơn lắm. Trong lý lịch, anh là người Mường. Song những người Mường chính gốc lại ít chơi với anh, cho anh là người Kinh. Còn những người Kinh những lúc đùa vui lại giễu anh là người dân tộc. Tôi chỉ thấy anh im lặng, ít nói, kín đáo, cẩn thận. Dáng người anh chắc nịch, khỏe mạnh. Anh cắt những bó tranh mà tôi không gánh nổi. Tôi học ở anh cách đánh tranh lợp nhà. Những lúc giải lao trên đường hành quân hay lúc đi dã ngoại, gùi đạn, tôi thường ngồi nghỉ bên anh. Hút chung điếu thuốc. Uống chung bi đông nước. Đùa cùng anh vài câu tếu táo cho đỡ mệt, đỡ căng thẳng.

Sống lặng lẽ. Chết cũng lặng lẽ. Song hình như trước khi chết, anh Biện đã linh cảm. Nhưng vẫn đi.

Anh đã gửi gắm vào tôi quá nhiều, quá lớn. Tôi không nhớ anh ở huyện nào? Thuộc Hà Tây? Sơn Tây? Hay Hòa Bình? Tôi vẫn chưa về thăm quê anh được. Bao giờ thu xếp được thời gian? Chắc mộ anh đã được chuyển về Đức Lập. Và bao giờ mới có dịp trở lại Tây Nguyên đây?

Mở trang nhật ký của Lê Minh Quốc: “Trần Thanh Biện H/S 25 – tháng 11-1980”. Ngày mai, trong khẩu phần của lính C7, quản lý Quốc lại phải đong bớt một xuất.

Ngày 19 tháng 6 năm 1999

Mùa hè năm 1997, gia đình tôi vào nghỉ mát ở Sầm Sơn, Thanh Hóa.

Đây là một vùng đất thiêng, nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Đất và người Thanh Hóa có những tính cách riêng, đã trở thành những bài vè dân gian hiện đại, được truyền khẩu sinh động. Song đối với riêng tôi, mỗi lần đi qua hay nhắc tới Thanh Hóa, tôi lại thấy Thanh Hóa gắn liền với tên tuổi anh Phạm Văn Khai, đại đội trưởng đại đội 6, trung đoàn 29, sư đoàn 307.

Anh Khai là người đầu tiên hy sinh ở chiến trường mà tôi được tận mắt chứng kiến.

Sáng hôm đó, 4-1-1979, anh Lê Quỳnh Lang và tôi được phân công đeo máy thông tin 2w cùng hành quân với đại đội 6, đơn vị chủ công, đánh vào sân bay Stung-treng. Buổi sáng chúng tôi hành quân không có gì ăn, đói meo. Khoảng 9 giờ thì được lệnh giải lao. Không được ăn gì, lại uống nhiều nước, bụng tôi cứ sôi ùng ục. Bỗng anh Khai lôi trong túi cóc ra bao cơm sấy khô. Anh bốc một nắm nhai rồi vẫy mọi người lại, dốc cho mỗi người một tý. Tôi là lính phối thuộc, cũng được anh vẫy tới, dốc cho vài hạt. Quá xúc động, tôi hái vội cái lá rừng đựng cơm. Đưa nhanh lên miệng, hớp không còn một hạt. Xong, đá tung cái lá lên trời. Mắt sáng, miệng cười, thấy đời cũng lên hương. Sau đó đến cơn thèm thuốc nhưng không ai có. Anh Khai móc đâu ra một cục nhỏ thuốc lào bằng đầu đũa. Không có điếu cày, hút kiểu lính chiến. Anh xé giấy, cuốn hình sâu kèn, nhét thuốc vào một đầu, ngậm này trong miệng rồi châm lửa hút. Anh hút ngon lành, nhổ nước, say mê nhả khói. Lính tráng đứng xung quanh, thèm rỏ rãi và nhao nhao xin sái. Anh Bùi Văn P. cũng chạy tới xin đầu tiên, nhưng cái sái đó anh Khai đã đưa người khác. Tức giận, anh P. Vừa bỏ đi vừa lẩm bẩm nguyền rủa:

– Nhớ đấy! Bố mày xin mà không cho. Chốc nữa chết đếch thằng nào khiên đâu!

(Anh P. người Mường, quê Hòa Bình, trước ở vận tải tiểu đoàn. Năm ngoái, trong một lần đánh thọc sâu vào vùng sau lưng địch, anh đã tự thương. Những đêm đó, trời tối mịt. Mỗi lần điểm danh, tiểu đoàn trưởng Võ Sỹ Lực phải đi ngược đoàn quân, sờ tay lên đầu đếm từng người. Quân ta đụng địch khắp nơi. Chúng bắn ra như mưa mà ta không dám bắn lại bởi mục đích của chuyến đi này là trinh sát phòng tuyến địch. Trời mưa dầm dề mà không có nước uống, không có cơm ăn, chỉ có gạo sấy và muối rang. Không ai được hỏi, không được nói chuyện. Tất cả chỉ nói bằng ám hiệu và ánh mắt. Một đêm, vào khoảng 4 giờ sáng, đến phiên gác của anh P., mọi người nghe một phát súng AK nổ. Anh P. Khai là súng bị cướp cò, nhưng nhìn bàn tay phải của anh mất ngón trỏ, ai cũng biết là anh tự thương.

Trong mọi hành động tiêu cực của lính tráng ở chiến trường, ông Lực ghét nhất là thói tự thương. Với những ai tự thương, ông ra lệnh cho quân y không được băng và bị ông đánh rất đau. Ông đánh cho đến lúc phải khai ra sự thật mới cho phép băng bó và khi vết thương lành, ông lại bắt phải trở về đơn vị cũ.

Anh P., vốn là lính 74, có nhiều kinh nghiệm để tự thương mà không bị phát hiện. Anh lấy khăn mặt ướt, đặt lên mu bàn tay phải rồi bóp cò để vết thương đỡ bị ám khói thuốc. Nhưng vết đạn phá quá gần khiến âm mưu của anh bị lộ.

Sau đó, anh P. bị khai trừ ra khỏi Đảng. Song, bản chất anh là người tốt, biết nhận khuyết điểm, một phút giao động, tiểu đoàn châm chước, điều anh về đại đội 6).

Nghe anh P. rủa anh Khai, tôi hơi sửng sốt. Không ngờ ở chiến trường họ lại rủa nhau phũ phàng đến thế! Với tôi anh Khai hay anh P., đều được quý trọng. Anh Khai đã tốt nghiệp trường sỹ quan lục quân Sơn Tây, chiến đấu dũng cảm, bị thương vừa ở viện về. Còn anh P. hay kể cho tôi nghe nhiều chuyện thú vị về rừng, về suối, và về quân ta lẫn quân địch. Khoảnh khắc đó, lời nguyền rủa ấy chỉ như cơn gió thoảng nhẹ qua tôi nếu so với bao câu văng tục của lính tráng ở chiến trường và nó cũng sẽ không còn đọng lại trong lòng tôi nếu sau đó ít phút, anh Khai không hy sinh!

Khoảng 11 giờ trưa, tiểu đoàn tôi tiếp cận và bao vây sân bay Stung-treng. Sân bay vắng lặng. Một sự im ắng căng thẳng đầy nguy hiểm bất ngờ. Bên phải, một mũi trinh sát trung đoàn tiến vào trước. Đi đầu là Châu, nhà ở khu tập thể Bách khoa, Hà Nội. Tôi biết Châu do ở trên trán nó có một vết bớt đỏ. Chợt từ trong sân bay, những loại đạn AK bắn ra, xuyên thủng trán Châu. Rồi đạn hai bên dội lên như mưa. Đạn chiu chíu qua đầu. Tôi mở máy thông tin và chạy theo đại đội trưởng Khai. Cành lá rơi rào rào, anh Khai cầm AK thúc giục anh em xung phong. Bỗng phía trước xuất hiện con suối chạy ngang. Anh Khai nhảy xuống. Tôi vội nhảy theo. Bỗng một quả lựu đạn nổ gần ngay trước mặt. Nước bắn tung lên. Anh Khai lùi lại và ngoặt sang hướng khác. Đang còn tức bụng vì sức ép của nước, tôi và anh Lang còn phải bám sát chỉ huy. Bỗng thấy anh Khai hô lên:

– Nó đây rồi! Bắt sống lấy nó!

Trong tiếng đạn nổ ầm ấm vẫn nghe rõ giọng anh Khai. Bờ suối thật rậm rạp. Mấy người vội lao lên. Bỗng thấy anh Khai trúng đạn, gục xuống. Cách chỗ anh Khai nằm mấy bước là hai cái bòng con màu đen, ướt đẫm, chắc của hai thằng lính Pôn Pốt bỏ lại bên gốc cây to. Anh Lang vội gọi điện về tiểu đoàn, báo tin đại đội trưởng Khai bị thương. Trận đánh vẫn tiếp tục. Cổ và gáy anh Khai ra rất nhiều máu. Chúng tôi không có băng. Trên người tôi có mỗi cuộn băng cá nhân, chẳng bõ bèn gì. Không thấy y tá hay vận tải đến. Anh Lang bảo tôi đặt tay lên mũi anh Khai xem còn thở không. Tôi bò lại gần. Anh Khai nằm như người ngủ nghiêng. Mặt trắng lấm đất, mắt nhắm. Tôi đưa ngón tay trỏ lên ngang mũi anh. Im lặng, nín thở theo dõi. Không thấy dấu hiệu gì. Sợ da tay mình dày không cảm nhận được hơi thở yếu ớt của anh, tôi đặt xuống lần nữa.

– Có còn thở không? – Anh Lang bình tĩnh hỏi.

– Em cũng không biết nữa – tôi trả lời.

– Lấy bông đặt lên xem.

Tôi mở túi bông băng làm theo. Mẩu bông băng nằm trước mũi anh Khai, không động đậy. Tôi cứ để nguyên mẩu bông như thế. Anh Lang điện về tiểu đoàn báo tin anh Khai hy sinh.

Khoảng 20 phút sau, trận đánh kết thúc. Mũi chúng tôi vượt suối vào sân bay. Quay lại chỗ anh Khai, lính vận tải tiểu đoàn đang tháo bao đạn của anh ra và đặt anh lên tấm võng đã trải rộng dưới đất. Chúng tôi mở hai cái bòng con chiến lợi phẩm. Mấy vắt cơm đã thiu, ướt nhoét. Hai chiếc võng ni lông màu đen. Một con dao găm Mỹ. Vì tôi và anh Lang có chung một ba lô nên anh Lang bảo tôi lấy cái võng. Tôi vừa cầm lên, cái võng nhẹ tênh, cuộn lại bằng nắm tay, có sợi dây dù màu vàng thẫm. Bỗng anh Lang bảo tôi:

– Thôi bỏ lại. Lấy chiến lợi phẩm xúi lắm!

Tôi vừa bỏ xuống thì may có anh lính đi qua, nhặt ngay.

Riêng con dao găm, anh Lang đeo bên sườn:

– Cái này có nhiều công dụng lắm đây!

Còn khẩu AK của anh Khai, anh Lang bảo tôi nên giữ lại vì hai lính thông tin chúng tôi đều không có súng trường. Có mỗi khẩu súng ngắn lại ít khi sử dụng. Riêng bao đạn AK của anh Khai thấm nhiều máu quá, tôi không dám đeo. Chỉ rút băng đạn, buộc vào dây lưng. Cái bao đạn đó, anh chàng tên Đi đeo vào.

Tối hôm đó, dưới gốc me già bên dòng Mê Kông, tôi ngồi trên võng đọc những dòng lý lịch trích ngang về anh Phạm Xuân Khai. Quê anh ở huyện miền núi Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Bố anh đã 76 tuổi. Mẹ anh cũng đã ngoài 70. Anh Khai có một người anh đã hy sinh từ thời chống Mỹ. Không biết tin con trai nữa hy sinh, ông bà có còn đủ sức chịu đựng không?

Suốt ngày hôm đó đến tận đêm khuya, cả đơn vị chúng tôi đều không có gì vào bụng. Buổi tối, bên dòng Mê Kông, nằm trên võng dưới tán me già, gậm nhấm lại mấy hạt cơm trắng tinh với hương vị thơm ngon mà anh Khai cho tôi buổi sáng. Say mê ngắm nhìn chiếc cầu vồng đỏ rực do pháo ta bắn sang bờ bên kia và pháo địch phản lại sang bờ sông bên này. Một cầu vồng lộng lẫy ngang trời đêm, một cầu vồng lung linh dưới đáy dòng sông đang cuộn xiết. Trong chiến tranh có những hình ảnh thật lãng mạn kinh hoàng và tột cùng khốc liệt.

Trong nhà nghỉ có một tấm bản đồ Thanh Hóa. Tôi tìm huyện Thiệu Sơn. Nhìn vào đó để biết rằng tôi không quên anh Khai. Gần 20 năm qua rồi, chắc cha mẹ anh Khai không ai còn sống nữa. Không biết xác anh có còn ở Đức Lập không? Cái chết của anh Khai thật ngắn gọn.

… Và sau đó tôi cũng không thể không đến anh P… Nhưng lời rủa của anh thì tôi vẫn thấy kinh hãi. Chắc bây giờ anh đã phục viên về Hòa Bình, tôi không nhớ về xã, huyện nào.

Thứ ba 27 tháng 3 năm 1999

Vợ chồng Đỗ Thúy Hằng đến nhà tôi chơi. Hằng là bạn cũ của vợ chồng tôi, chị đang công tác tại Bộ Tài chính. Khanh, chồng Hằng, là cảnh sát kinh tế huyện Từ Liêm. Trong câu chuyện, chúng tôi nhắc đến những người lớp 10B của Hằng ra trận, nào Đạt “rùa”, Khả Minh, Nhật Minh đã hy sinh. Công “bầu” bị cụt chân. Và Đinh Ngọc Long, tức Long “ghẻ” cũng không trở về. Trường hợp hy sinh của Long “ghẻ” thật đáng tiếc. Anh chết do quân ta bắn nhầm quân mình.

Trong một lần đi phục buổi tối, tiểu đội của Long chạm trán với một tiểu đội khác cùng đại đội 2 thuộc tiểu đoàn 7. Hai bên cứ tưởng nhau là địch. Cùng nổ súng. Khi có người hy sinh rồi, nghe tiếng kêu, mới nhận ra nhau. Hình như đã thành cái “dớp” trong lính, hễ quân ta “đụng nhầm” quân mình, thể nào cũng có người bị thương hoặc hy sinh.

Hằng kể một chuyện buồn cười. Một người bạn trong lớp cũ của Hằng, tên Q. Khi còn đi học, Q. chơi rất thân với Long “ghẻ”. Sau ra trường, làm nghề kinh doanh, Q. vào cầu trúng quả như điên. Q. đi xem bói, thầy phán Q. làm ăn phát đạt chính là nhờ một người bạn rất thân của Q. nay đã chết ở Căm-pu-chia phù hộ. Q. nghe mà phát hoảng. Vội tìm đến nhà Long “ghẻ” ở khu lắp ghép Trương Định, hỏi phần mộ của Long và sắm lễ đến tạ ơn.

Trích nhật ký của Nguyễn Minh Toàn, nguyên trung đội trưởng của Long. Ngày 2/11/1981 Long hy sinh, khi ấy Minh Toàn đang nằm viện Cầu Cháy.

Đinh Ngọc Long

Không ngờ mày là thằng bạn thứ ba tao phải viết vào đây. Tao tô đậm tên mày với dòng chữ trang trọng để rồi trong đời tao vĩnh viễn xa mày. Long ạ, quả đất vẫn xoay tròn nhưng tao với mày không còn gặp nhau được nữa. Cuộc đời thằng lính là như thế phải không Long? Tao biết mày là đứa còn nhiều mối hận. Nghe tin mày ngã xuống làm tao choáng váng một trăm lần. Không ngờ mày đã ôm trọn mối hận sang thế giới bên kia, xác mày nằm tại trận địa. Không có đứa bạn đồng hương nào được nghe mày trăn trối. Thôi nhé hãy vui lòng yên nghỉ. Những đứa bạn đồng hương của mày chỉ biết gọi tên mày, cất giữ tên mày trong kỷ niệm cuộc đời. Hứa với mày khi trở về tao sẽ đến thăm gia đình mày, mày hãy tin vào lời tao nói, dù ngày còn sống mày cũng chẳng ưa gì tao. Nhưng tao biết mày vẫn nể tao và giúp đỡ tao thầm kín, mày vẫn thường có những lời tâm sự để tao không thể quên mày. Về đến trung đoàn tao sẽ đến viếng mộ mày.

Thôi nhé, vĩnh biệt

5/11/81

Minh Toàn

Trong đầu tôi vẫn mãi không thể quên được hình ảnh Long ghẻ. Cái thằng học lớp 10B ngay bên cạnh lớp tôi. Cả trường Lý Tự Trọng năm đó có mỗi hai lớp 10 làm gì chẳng nhớ. Trong sân trường, trên sân bóng, trên đường đi về… lúc nào chả gặp. Trán rộng, mắt sâu, mặt bướng, mũi cao, tính nóng. Đinh Ngọc Long đấy. Tôi xuống khu lắp ghép Trương Định, tìm gặp Sơn kép, bạn cùng đơn vị với Long ghẻ, hỏi:

– Ông nhớ gì về Long ghẻ không?

– Tôi nhớ nhất là những ngày gần cuối, tự nhiên Long ghẻ phát tướng, to béo mập một cách kỳ lạ. Tôi nghi ngờ: “Quái lạ, thằng này ăn gì mà béo trắng ra như thế nhỉ? Mà ông biết đấy, đơn vị hồi đó ăn thiếu thốn lắm! Đùng một cái, mấy hôm sau nó chết. Cũng lạ thật, đơn vị mình có mấy thằng sau này tự nhiên cũng phát tướng, thế là đều hy sinh. Từ đó mình nghiệm ra rằng, cứ thằng nào phát tướng, chắc chắn sẽ hy sinh”.

Sơn nói trơn tru, như khẳng định. Tôi tin vào linh cảm và kinh nghiệm của Sơn. Trong lớp lính nhập ngũ cùng ngày, Sơn là người ra quân sau cùng khi đã leo đến cấp đại úy, phó trung đoàn trưởng trung đoàn tôi.

Thứ ba mùng 5 tháng 3 năm 1997

Từ Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Minh Quốc gửi cho tôi cuốn tình khúc Trịnh Công Sơn khá dày và rất đẹp. Tôi mở ra, không thấy một bài hát mà bài hát ấy gắn liền với hình ảnh anh Bùi Văn Ngườn, người Mường, quê Hòa Bình.

Tháng 5 năm 82, trên đường từ Stung-treng về E29, tôi nghỉ lại ở một đơn vị thuộc trung đoàn 94, gần Đồi Đá. Buổi chiều, tôi ra suối tắm thì gặp một người đang kỳ chân bằng dép cao su. Tôi không nhận ra anh. Nhưng anh lại nhận ra tôi, tươi cười.

– A đồng hương, sao lại đến đây? Mới về đơn vị tớ đấy à?

Tôi chưa hết ngạc nhiên. Giọng anh giả vờ dỗi:

– Chóng quên thật! Không nhớ cái đêm ở Chchép à?

Tôi nhớ ra rồi:

– Anh Ngườn! Xin lỗi, em mệt quá, không nhận ra anh.

Cái đêm dừng chân ở Chchép ấy, năm 79. Đã 3 năm rồi. Cả một rừng quân, dầy đặc, bạt ngàn. Tôi thấy thật hùng vĩ, không hiểu thế nào, tiểu đoàn bộ chúng tôi nghỉ gần chỗ anh Ngườn.

Đêm khuya, khi cả rừng quân đã ngủ, bỗng cất lên giọng hát tha thiết, say sưa:

Người chiến sỹ trong giờ phút xuất chinh

Nhìn người yêu đưa tiễn mình…

Mờ trong đêm bên thềm đá xinh xinh

Lòng lưu luyến anh giã từ

Dưới bóng tối qua ngàn lớp sương mù

Nhìn quê hương anh thẫn thờ

Kìa cô gái đang còn thức trong đêm

Và một bên sông một ánh đèn.

Giọng hát thật âm vang, ấm và quyến rũ. Thấy lạ, tôi mò sang. Thì ra anh Ngườn đang ngả mình bên vệ đường, hát. Anh hát đi hát lại, âm nhạc thật đẹp. Lời ca thật trữ tình. Anh nói:

– Đây là bài hát Nga, tên là “Ánh lửa nhỏ”, mình học được từ hồi ở trường quân chính quân khu.

– Anh chép cho em với. Em rất thích.

Tôi về mở ba lô, lấy đèn pin, sổ tay sang nhờ anh Ngườn chép. Nét chữ anh nhỏ, rời rạc nhưng rõ ràng. Anh ký tên ở dưới hẳn hoi.

Sáng hôm sau, không kịp chia tay nhau. Không biết đơn vị anh Ngườn hành quân từ lúc nào. Mắt nhắm mắt mở, chúng tôi đã phải đi tiếp.

Thế mà đã ba năm trôi qua, không ngờ gặp lại ở đây.

Anh Ngườn bây giờ đã là trung đội trưởng. Buổi tối tôi nghỉ lại ở hầm anh. Có anh Thành chính trị viên người Nghệ Anh Ngườn sang chơi. Bên ấm trà, tôi kể chuyện về con gái Hà Nội. Anh Thành kể chuyện “nhất thủ, nhì vỹ, thứ ba là đĩ Plây-ku”. Anh Thành hồ hởi:

– Này Ngườn, mày đã chơi đàn bà chửa bao giờ chưa? Nghe người ta bảo chơi đàn bà chửa sướng gấp ba gái thường.

– Rồi. – Anh Ngườn khẽ nói.

– Bao giờ?

– Hồi em đi dân công trên huyện. Có một chị bụng chửa. buổi tối, chị ấy cứ kéo vào ngủ cùng.

– Này, coi chừng trúng phong đấy! Lỗ đít mày có lông không?

– Không.

Chuyện nọ xọ chuyện kia, đêm xuống lúc nào không biết.

Lán hầm của trung đội anh Ngườn nằm trên sườn đồi. Có cả võng và sạp. Nằm võng, nửa đêm, hơi đất bốc lên, rất lạnh lưng. Nhưng có cái khoái là sáng dậy, làm vài động tác thể dục, xương cốt kêu răng rắc. Đã vô cùng.

Sáng sớm tôi tỉnh dậy, chợt nghe tiếng hát trên đỉnh đồi. Nghiêng người, ló đầu nhìn. Anh Ngườn đang đứng giữa đỉnh đồi, say sưa hát. Anh mặc chiếc áo bạc màu, rất hợp với nước da trắng hồng dân tộc Mường, chiếc quần sỹ quan màu xanh thẫm tươi, thắt lưng màu mận chín. Hai tay chống sườn, mắt nhìn bầu trời xanh non lúc giao mùa, hát như chim giữa thiên nhiên. Rừng khộp đang bắt đầu xanh thắm lá non. Cỏ trên đồi còn ướt đẫm sương. Anh cứ hát như chỉ có một mình anh trên đời. Lúc nhìn sang đông, khi quay về hướng nam, rồi nhìn về hướng tây, rồi quay về phương bắc. Và lúc nào mặt cũng ngẩng cao nhìn trời. Tôi cũng say mê ngắm nhìn anh Ngườn. Giọng anh thật ấm, thật thiết tha, thật khao khát:

Hòa bình ơi!

Chờ trông nhau như con chờ mẹ

Chờ trông nhau như lúa mùa hè

Chờ trông nhau nắng đẹp tình quê.

Hòa bình ơi! Ơi hòa bình ơi!

Bao nhiêu năm trời khổ đau nhiều rồi

Về đây hỡi người ơi!

Có lẽ đấy là lần tôi được nghe hát hay nhất trong đời. Trước đó, năm 79, khi ở phum Kầm-prạ, một buổi chiều đi gánh nước, bất ngờ tôi được nghe giọng một em gái nhỏ người Khờ-me đang cất cao tiếng hát sau rằng cây bên suối. Tiếng hát lảnh lót theo giai điệu một bài dân ca, dù không hiểu lời, sao cứ ngân âm vang mãi trong tâm hồn tôi? Thấy tôi bất ngờ xuất hiện, em nhìn đầy nghi ngờ, ngừng hát, cúi mặt đi. Và bây giờ, một buổi sáng đầu mùa mưa, giữa chiến trường, bên cái chết rình rập từng khoảnh khắc, tôi có một buổi sáng thật cao đẹp, thật hạnh phúc.

Buổi sáng hôm sau, tôi nhờ anh Ngườn chép cho tôi bài hát mà đêm qua anh hát rất hay. “Tôi nhớ hồi một chiều/ Dừng chân ghé qua/ Thăm miền ước mơ/ Hà Tiên mến yêu/ Đẹp như xứ thơ/ Xa cách tôi còn nhớ/ Nước non mây trời/ Thắm màu biển khơi/…” Cuối bài hát, anh phóng bút: “Chiến trường K. Vĩnh biệt em. Bùi Văn Ngườn”.

Tôi muốn hỏi anh tại sao lại đề hai chữ “Vĩnh biệt” nhưng lúc ấy, anh viết trong tâm trạng rất xúc động, tôi không dám hỏi.

Bài hát ấy, cho đến giờ, tôi không nghe ai hát lại. Tôi cũng không thuộc hết bài, chỉ nhớ mấy câu đầu đôi lúc ngâm nga, nhớ về một miền đất mà mình chưa bao giờ được đến. Ở góc trái, anh Ngườn còn ghi cho tôi địa chỉ quê anh. Nhưng cuốn sổ tay đó, ngày tôi đi Nga, để ở nhà, trên gác xép, đã thất lạc đâu đó. Song tôi vẫn nhớ những dòng chữ mực xanh, nhỏ li ti như kiến bò của anh Ngườn.

Lúc thấy tôi sắp xếp ba lô, chuẩn bị ra đi, bỗng anh Ngườn tròn mắt hỏi tôi:

– Có nhớ tên bà cô Tổ không?

Tôi mỉm cười lắc đầu.

– Lúc nào nó bắn rát quá, cứ bà cô Tổ mà gọi. Không nhớ tên cũng được. Nhưng nhớ gọi.

Ngừng một lát, anh nói tiếp:

– Hai vai cậu, tớ thấy có hai người. Một người nam, một người nữ. Lúc nào cũng che chở cho cậu.

Dù không tin tôi vẫn lạnh cả người. Một mình tôi đi từ Hà Nội sang Cam-pu-chia, qua Gia Lai, Môn-đôn-ki-ri, Rát-ta-raki-ri, Stung-treng, Prếch Vihia. Sắp về đến đơn vị rồi, chả nhẽ lại chết dọc đường?

Khi chia tay, anh Ngườn dặn tôi đi phải hết sức cẩn thận. Vì trước đó mấy ngày, trên đoạn đường này, anh đã tháo được gần 200 quả mìn lá của địch. Và tôi đi được một quãng thì gặp cái hố mìn tăng đã giết chết Hạm và Điệp của tôi.

Mấy tháng sau, khi tôi lên sư đoàn để chụp ảnh làm thẻ Đảng, gặp Kiên ở trung đoàn 94, người cùng tôi đi tập huấn điều lệnh sỹ quan ở Nha Trang. Khi tôi hỏi về anh Ngườn, Kiên trố mắt:

– Ông Ngườn chết rồi. Mẹ, đang hát, bị bọn nó bắn thủng họng, vỡ quai hàm.

Lòng tôi như bờ biển đang có đợt sóng lùi. Hai bàn tay tê lại. Chắc lúc ấy anh Ngườn đang hát “Hòa bình ơi!”

Và sau này, mỗi khi bài hát ấy chợt đến, tôi lại thấy nó như một chuỗi cườm bị đứt, đỏ tươi, thấm máu ròng ròng. Và những lời anh Ngườn nói với tôi, sao tôi nhớ mãi.

Ngày 21 tháng 8 năm 1998

Hàng năm, cứ đến 21 tháng 8, chúng tôi lại tổ chức gặp mặt để kỷ niệm ngày nhập ngũ.

Năm nay, mùa thư năm 1998, buổi gặp mặt có phần trọng thể hơn, bởi chúng tôi kỷ niệm 20 năm ngày nhập ngũ.

Trong ngày đó, các chiến hữu từ Hải Phòng, Hòa Bình, Hà Tây… cũng đến dự.

Khỏi phải nói vui ra sao. Sau buổi liên hoan, chúng tôi trích quỹ thăm gia đình những đồng đội ở Hà Nội đã nằm lại chiến trường.

Cuộc viếng thăm gia đình Tân “cu lừng” để lại trong lòng tôi những xúc động khó quên.

Nhà Tân nằm ở khu vực chợ Giời. Gọi là nhà nhưng mái vẫn lợp lá gồi. Nhà chỉ kê đủ cái giường con, cái tủ và một khoảng đất rộng chừng hơn ba mét vuông. Hai người đứng cũng chạm nhau.

Lúc đó khoảng 3 giờ chiều. Nghe có khách đến, mẹ Tân cùng bố Tân đang bán bún ốc ở chợ vội chạy về. Bà khóc khóc mếu mếu mời chúng tôi vào nhà. Tôi sững sờ trước căn nhà quá nhỏ. Anh Thơm, người Hải Phòng, chững chạc nhất hội, trao gói quà nhỏ cho mẹ Tân.

Trong nhà không thấy bàn thờ Tân, chúng tôi hỏi, ý muốn thắp cho linh hồn Tân nén nhang. Bà nói không có. Ừ, nóc tủ sát mái nhà thế kia, đặt bàn thờ ở đâu! Song, bà bắc ghế, lấy trên nóc tủ xuống một tấm ảnh chân dung Tân.

Tấm ảnh đã quá cũ. Nước ảnh bong gần hết, lại bị mốc. Dù sao chúng tôi vẫn nhận ra hình ảnh quen thuộc của Tân, cái thời mới vào lính. Quân hàm không sao không gạch.

Bà nhờ chúng tôi làm lại ảnh cho Tân. Biết tôi làm báo chí, bạn bè cử ngay tôi đứng ra nhận. Tất nhiên tôi vui lòng.

Mang ảnh Tân đến hiệu Photocen ở 47 Lý Thường Kiệt, nơi tôi có anh Tiến, bạn học báo chí chuyên nghề ảnh ở Nga về, nhờ chụp lại. Nhìn tấm ảnh quá cũ, anh Tiến lắc đầu, không thể phục hồi được.

Tôi quyết định đến hiệu truyền thần. Trên những phố Hà Nội thường qua lại, tôi biết có hai hiệu truyền thần. Một hiệu ở phố Huế. Hiệu kia ở Hàng Ngang – Hàng Đào. Tôi mang ảnh Tân đến hiệu thứ hai. Chị họa sỹ nhận và hẹn 20 ngày sau quay lại. Tôi đặt làm luôn cả khung và kính.

Tạm yên lòng. Song hình ảnh ngôi nhà của Tân cứ ám ảnh. Hỏi bạn bè, mới biết, hai thằng em Tân nghiện hút. Ông bà già phải bán dần bán mòn căn nhà, chỉ để lại một chỗ để ngủ.

Không biết, nếu còn sống trở về, Tân có để gia đình mình rơi vào hoàn cảnh thế không?

Tôi nhớ Tân. Trận đánh An-lung-viêng lần thứ nhất. Cái chết của Tân mới lẫm liệt làm sao!

Chúng tôi chiếm An-lung-viêng. Bọn địch bỏ chạy. Chuẩn bị nấu cơm trưa thì bọn địch tổ chức phản công. Chúng bao vây, C5, C7, C6, tiểu đoàn bộ… hướng nào cũng có địch.

Tân ở C5. Trước mặt là cánh đồng trống trải. Bọn địch từ hướng đó, nấp sau các ụ mới và cây thốt nốt, bắn vào.

Dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Hà Huy Lan, Tân ôm RBĐ xông lên. Và nó nằm sấp, đặt súng giữa đồng, quét về phía địch. Thật là một hình ảnh phi thường.

Bỗng Tân trúng đạn. Đạn cày nát lưng. Người nó giật lên. Khẩu RBĐ vẫn nhả đạn. Rồi người Tân rung lên lần nữa. Đầu nó gục xuống.

Anh em bò ra lôi xác Tân vào. Tân vẫn sống. Vết thương trên lưng khá lớn, không đủ băng.

Không biết tự bao giờ hàng đàn ruồi nhặng đã bu đen lại. Chúng hút máu và đẻ trứng xuống vết thương.

Bị ngứa khó chịu, Tân quát tháo ầm ỹ. Trinh sát Nuyễn Trần Hải vừa an ủi vừa cúi bốc từng vốc trứng ruồi vứt đi.

An-lung-viêng đúng là xứ sở của ruồi. Đuổi thế nào chúng cũng không đi. Hải phải lấy chiếc áo đông xuân ra, ập lên vết thương của Tân. Vừa băng lại, vừa đuổi ruồi.

Anh em khiêng Tân về phẫu tiểu đoàn ở vườn xoài. Nằm trên võng, Tân còn rên rỉ:

– Thôi, thế là ông bà già tao được chiếc thẻ chen ngang rồi.

Tân nghĩ tới cái thẻ liệt sĩ, khi mua hàng không phải xếp hàng.

Đến đêm, Tân quá đau đớn. Nó cứ kêu:

– Ới đại đội trưởng ơi! Cứu em với!

Anh Lan chạy đến. Nắm tay Tân. Quá quen với những cảnh như thế, anh Lan động viên Tân.

Nửa đêm Tân đi.

Đó là một ngày cuối tháng hai năm 1979.

Tôi nhớ Tân. Trước, tôi và Tân cùng ở trong đội thông tin. Tân ở tiểu đội hữu tuyến. Nhớ những ngày ở biên giới Việt Nam – Cam-pu-chia, Tân đi dải dây dưới rừng lồ ô, không mặc áo lính. Quần bộ đội, áo phông đỏ rực, đầu cạo nhẵn thín, trắng hếu, không mũ mão. Cái bóng hình bướng bỉnh ấy cứ thấp thoáng giữa mầu xanh mênh mông, trùng điệp.

Rồi một đêm bên sông Mê Kông, Tân làm cả tiểu đoàn thức giấc. Đứng gác, nghe tiếng loạt xoạt trong khu vườn trước mặt, Tân lia một phát, cả loạt băng AK bay ra khỏi nòng. Chẳng có thằng địch nào, chỉ có mỗi con trâu đi lạc. Bọ Lực tiểu đoàn trưởng, đang ngon giấc, chửi ầm lên.

Và Tân về C5. Cá tính của nó hợp với đại đội trưởng Hà Huy Lan. Sau khi Tân chết, anh Lan tâm sự với tôi, rằng anh đang có ý định bồi dưỡng Tân thành tiểu đội trưởng. Bởi qua vài trận chiến đấu, Tân đánh rất lỳ.

Tôi nhớ Tân. Cái thằng, thời ở Hòa Bình, xuyên tạc rất bậy lời bài hát “Con kênh ta đào” của Phạm Tuyên. Lạ thay, những lời bậy bạ ấy, thỉnh thoảng tôi vẫn hay ngâm nga một mình. Và buồn cười một mình “Mới đến sân trường ta đã mến yêu nhau. Anh cứ bảo em mặc quần trễ rốn. Mục tiêu số 4. Dới rốn 10 phân. Bắn!”

Tôi nhớ Tân. Cái thằng cùng Khánh xếch, khi mới vào chiến trường, đã cạo hết tóc tai lẫn lông mi, lông mọi, lông… dái, để phản đối những lời nói dối của trung đoàn trưởng E582.

Có gì đâu. Trước khi hành quân vào Nam, trung đoàn trưởng E582 nói răng, chúng tôi vào Nam để bảo vệ cảng Sài Gòn, bổ sung vào sư đoàn 307. Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Khang, người còn bộ khung xương, môi thâm xì vì sốt rét, hai mắt trắng dã, đầu cũng cạo trọc tếu (ông bị thương ở đầu, mới đi viện về, đầu phải cạo trọc để điều trị vết thương), giải thích rằng đơn vị huấn luyện phải nói thế để đảm bảo bí mật trên đường hành quân, tránh bị CIA theo dõi. Lời giải thích khá đơn giản ấy cũng được bọn Tân tin và phấn khởi lao vào cuộc chiến đấu mới.

Tôi nhớ Tân. Cái thằng lúc nào cũng thèm thuốc. Song khi có thuốc, Tân luôn chia cho mọi người. Trong tiểu đội thông tin hữu tuyến, có anh chàng Nguyễn Văn L. Anh này không bao giờ xin thuốc ai và cũng không bao giờ cho ai điếu thuốc nào. Anh ta bao giờ cũng có câu cửa miệng khi mọi người xin: “Còn điếu vét túi”. Có lần trước bữa ăn, Tân xin, L. cũng trả lời như vậy. Nhưng sau bữa ăn, quãng 1-2 giờ chiều, Tân thấy L. đang ngồi trong nhà vệ sinh và đang âm thầm rít thuốc một mình. Tức quá, Tân luồn ra phía sau, bật lửa đốt nhà vệ sinh, L. đang ỉa, được một trận chạy tháo thân.

Tôi nhớ Tân…

Bây giờ Tân đã chết rồi.

Tôi nhớ Tân… và đến giờ, tôi vẫn không hiểu vì sao Tân lại có biệt danh là Tân “cu lừng”?

Những ngày vừa vượt qua sông Mê Kông, một buổi trưa, chúng tôi đang ăn cơm độn ngô bên suối. Mấy cô gái Khơ-me đi kín nước ngang qua. Một cô cười hiền lành hỏi: “Bộ đội Việt Nam ăn cơm với gì?” Cả bọn chưa kịp trả lời. Ai cũng xấu hổ vì quân đội tình nguyện mà ăn cơm độn ngô thì yếu lính quá! Bỗng có tiếng trả lời rất to: “Ăn cơm với trứng!” Chúng tôi cùng cười quay lại. Người nói câu thông minh vừa rồi là Tân.

Sau khi Tân chết ít ngày, tôi về C5 phối thuộc. Nhắc đến Tân, đại đội trưởng Hà Huy Lan trầm ngâm: “Cái thằng lạ thật. Hôm trước, trên đường hành quân đến An-lung-viêng, mình thấy nó lúc nào cũng lơ ngơ như bò đội nón. Mặt cứ đần thối ra. Mình đã định cho nó về tuyến sau nhưng không hiểu sao, không kịp ra lệnh. Kinh nghiệm cho thấy, cứ thằng nào đang tinh ranh, bỗng trở nên lừ đừ, khi ra trận thế nào cũng chết!”

Ngày 17 tháng 11 năm 2001

Trích nhật ký của Nguyễn Văn Tuấn, trinh sát D8, hiện là công nhân nhà máy giấy Thượng Đình – Hà Nội.

Chúng tôi được lệnh đi tuần đường (từ C6 đến tiểu đoàn bộ). Đoạn đường dài 15 km, nhưng vô cùng nguy hiểm. Cạm bẫy lúc nào cũng chờ sẵn, nhất là khu vực đồi Tròn, án ngữ ngay đường về của C6, cách đơn vị 2km. Nó là nỗi kinh hoàng của chúng tôi. Nó như chiếc bát úp khổng lồ chứa đựng số phận đỏ đen của từng chiến sĩ qua đây.

Buổi sáng chúng tôi tập trung trước ban chỉ huy để nghe đại đội nhắc nhở trước lúc lên đường làm nhiệm vụ. Ai ai cũng tất bật chuẩn bị cho chuyến đi. Người thì mang bình mật ong, người thì mang bộ gạc nai rừng, có người còn vác cả bộ giát giường về tiểu đoàn để tặng bạn và đổi thuốc rê. Riêng chỉ có Hưng, hai tay chống cằm ngồi thu lu trên đống cây kè hầm suy tư. Bộ quân phục mới tinh làm cho nó nổi bật nhất toán quân. Tôi và Dương nói đùa với nó:

– Sao hôm nay diện thế. Định về Chom sờ ra lấy vợ à!

Hưng xua tay:

– Im! Để tao nghe đài.

Đại đội có chiếc đài bán dẫn hôm nay đưa tin Phạm Tuân được bay vào vũ trụ. Nó nghe một cách rất thờ ơ rồi thọc tay vào túi lấy ra một bịch thuốc rê vấn một điếu to bằng ngón chân cái, rít từng hơi dài, rít lấy rít để như không bao giờ được hút nữa ấy.

Chúng tôi ra đi, sau lưng là tiếng nhạc hùng tráng được phát ra từ chiếc đài bán dẫn. Đó là bản nhạc định mệnh của Bết-thô-ven thường được phát vào những dịp trọng đại.

Tôi đi trước, Hưng đi sau, tiếp là Dương và cả đoàn quân.

Đoạn đường cứ hun hút. Tôi rõi theo từng kẽ lá gốc cây để tìm mìn.

Nhìn xa vào tận rừng xanh đề phòng địch phục kích. Cả chân, tay, mắt đều phải hoạt động hết công suất. Thần kinh căng lên như dây đàn. Chỉ cần một sơ suất nhỏ là sẽ bị thương vong. Đồi Tròn nằm lù lù trước mắt tôi như con quái vật. Nó chứa đựng biết bao nhiêu loại mìn. Mìn ở đây dăng kín như mạng nhện, mìn đè nổ nằm kín dưới đất. Mìn vướng, dây giăng ngang ống đồng, treo ngang tầm mắt. Ở đây giờ nào cũng nghe thấy tiếng nổ. Nai, báo, công, quạ không thoát khỏi dây mìn KP2. Bao nhiêu chiến sĩ đã hi sinh tại nơi đây: Trưng, Trung, Hùng, Thành lùn…

Đến đoạn cây khộp đổ, tôi nhắc Hưng và Dương đi thật cẩn thận. Vì chỗ này là chỗ địch gài mìn và chính chúng đã bị vướng mìn khi đang gài mìn. Chúng tôi im lặng đi trong cái nắng chói chang. Chỉ nghe thấy tiếng ve kêu o o bên tai. Tôi vòng qua gốc cây khộp đổ, đứng lại định hướng địa bàn thì đột nhiên một ánh chớp vàng chói, một luồng hơi phụt vào người tôi tê tái cùng tiếng:

– Ầm!

Tôi nhào xuống ôm ngang gốc khộp, xả đạn vào hướng rừng xanh trước mặt (mặc dù tôi chả thấy gì).

Sờ quanh người xem có bị thương không. Quay lại, tôi nghe thấy tiếng rên mỗi lúc một to hơn. Đúng Hưng rồi! Tôi trườn dần đến chỗ Hưng. Một đoạn ngắn mà tôi cảm thấy sợ. Trong đầu tôi tưởng tượng như có hàng ngàn ngòi mìn đang tua tủa chĩa từ lòng đất ra chờ chực tôi đến. Phía dưới hàng quân có tiếng của anh Quang đại đội phó vang lên:

– Tuấn ơi!

– Thằng Tuấn trinh sát bị mìn rồi!

Tôi trườn đến chỗ Hưng. Dương cũng vừa đến. Lúc này Hưng kêu lên thảm thiết:

– Tuấn ơi! Tôi mất chân rồi!

Hai tay ôm chặt ống quần đẫm máu, Hưng ngửa cổ lên trời kêu lên:

– Các anh ơi! Em chết mất. Các anh cứu em với. Sao lại là em cơ chứ! Trời ơi!

Vừa lúc đó Đước y tá cũng vừa tới. Anh lật quần lên. Một hố đen sâu hoắm gọt sâu vào ống đồng lồi ra những răm xương tua tủa. Ào ra trong hố đen đấy là máu. Anh ga rô xong, an ủi nó:

– Thôi xong rồi. Cố chịu đựng nhé!

Chúng tôi chặt cây làm cáng, cắt rừng lao nhanh về hướng tiểu đoàn. Đi được nửa đường thì Hưng trút hơi thở cuối cùng.

Thứ ba 17 tháng 4 năm 2001

Qua chỗ anh Đặng Vương Hưng, phó tổng biên tập tờ An ninh Thế giới. Anh Hưng cho biết, một Tổ chức phi chính phủ nước ngoài muốn qua báo anh, tặng một số xe lăn cho người tàn tật. Nhớ ngay đến Trần Nam Tiến, đồng đội cũ, có đứa con bị liệt chân, tôi xin anh Hưng đăng ký cho một chiếc. Buổi trưa đến ngay nhà Tiến ở đường bê tông Thanh Xuân Bắc, giục làm giấy tờ.

Chuyện trò lan man, lại quay về đời lính. Dạo đó, Tiến cao to, khỏe mạnh, lần hành quân nào tôi cũng thấy Tiến, lưng đeo ba lô trĩu nặng, vai vác nòng cối 82 to tướng, xuống suối, lên đèo, luồn qua rừng rậm, lầm lũi, cắn răng đi, không một lời phàn nàn. Nòng cối ấy tôi đã thử vác, đi khoảng vài trăm mét chắc đứt hơi.

– Tiến có nhớ thằng Nguyễn Thu chết thế nào không nhỉ?

– Nó ở trung đội DKZ của ông gì nhỉ?

– Hà Văn Cạc, người Quảng Nam.

– Đúng rồi, nó chết cũng kỳ lạ lắm. Đêm trước hôm lên C6, ngồi uống nước với anh em, nó chỉ nói: “Các đồng hương biết đại tá Nguyễn Văn Thọ ghi trong nhật ký câu nào hay nhất không? Đời chỉ đẹp khi ánh mìn lóe chớp / Đời mất vui khi đậy nắp quan tài” Mình bảo: “Nguyễn Văn Thọ ra cái đếch gì. Hàng binh ấy mà”. Nhưng sáng hôm sau, khi cùng trung đội DKZ lên tăng cường cho C6, thằng Thu vấp mìn thật. Đúng là điềm gở.

– Có. Mình nhớ. Mình liệm và chôn thằng Thu. Người Nghĩa Bình. Tóc nó dầy, xanh mượt. Gương mặt và giọng nói khảng khái lắm. Cái hôm nó bị sốt rét nằm ở phẫu tiểu đoàn, mình xuống chơi, nó cùng hai thằng nữa nằm trong hầm, khúc khích đọc cho nhau nghe câu chuyện “Mối tình đầu đời” không biết của đứa nào. Thấy người vào, bọn nó dừng lại. Nhưng khi nhìn ra mình, thằng Thu lại đọc tiếp. Lâm ly lắm. Mình nhớ đúng là cuốn vở học trò, bìa màu vàng, mép cong. Đến giờ mình vẫn nhớ nụ cười của nó. Thật đôn hậu, thật hiền. Mà nó chết, người sạch sẽ lắm!

– Thì nó bị mảnh mìn cắm đúng vào cổ, bên phải chỗ này này. Mỗi vết, nhưng mà hiểm. Máu ra không cầm được.

Tôi nhớ hôm liệm Thu, hết quan tài, phải chờ đến chiều tổ đóng quan tài mới tìm được gỗ.

Thứ tư ngày 25 tháng 4 năm 2001

Từ Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Minh Quốc gửi cho tôi một đoạn nhật ký. Những trang photocopy ghi tên những người đơn vị Quốc đã hy sinh trong mùa mưa dữ dội năm 80.

“Huỳnh Lộc 15-6-1980, Đỗ Nhờ 16-7-1980, Nguyễn Tiếp 21-7-1980, Nguyễn Luân 13-8-1980, Lý Văn Nga 18-8-1980, Mai Công Ngói 15-6-1980, Lê Văn Lâm 21-6-1980, Phạm Hữu Phước 17-6-1980, Trần Thanh Biện 25-11-1980, Lưu Thanh Sơn 25-11-1980, Hoàng An 28-12-1980, Huỳnh Hoan 13-12-1980, Trần Lợi 13-12-1980…”

Tôi hình dung lại những gương mặt thân yêu không bao giờ gặp nữa. Huỳnh Lộc mặt tròn, hồng hào, tóc đen nhánh. Đỗ Nhờ nhanh nhẹn, mặt sáng, răng bàn cuốc, ăn to nói lớn, nóng tinh. Nguyễn Tiếp người đen, cằm nhọn, mắt sáng, chẳng bao giờ to tiếng với ai, rủ rỉ rù rì. Nguyễn Luân bồng bột, tính bướng. Ôi Lý Văn Nga! Từ liên lạc tiểu đoàn xuống C7 làm lính bộ binh. Mặt mũi sáng sủa, đẹp trai, mắt tinh, giọng nói tiếng cười giòn tan, trung thực. Mà buổi sáng ấy Nga vấp mìn và chết một cách hết sức vô tình. Và Nga ra đi đau đớn, nhẹ nhàng. Huỳnh Đức Thuận cùng hầm tôi đã khóc, đã nức nở ra đón xác Lý Văn Nga khi anh em khiêng về tiểu đoàn. Mai Công Ngói đầu tròn, mặt tròn, hiền khô. Trần Thanh Biện tôi đã kể. Lưu Thanh Sơn sẽ phải kể dài sau. Và Huỳnh Hoan nhẽ ra không chết. Hoan bị thương nhẹ, đơn vị đã cử người đưa về viện sư đoàn. Nhưng Hoan chưa muốn đi, chờ giấy gọi về trường văn hóa quân khu, ôm mộng học tiếp. Và Hoan vẫn cùng anh em đi tuần, không may vấp mìn, tử trận. Trần Lợi nữa, lính mới nhập ngũ đầu 80, cuối 80 đã chết. Phạm Hữu Phước cũng vậy, chết chưa tròn 20…

Đấy mới là danh sách năm 80 của C7, còn sau này nữa? Tôi cứ băn khoăn nhớ một người đơn vị Quốc. Tôi đã chôn. Hình như anh ấy quê Thuận Hải. Bởi hôm sau, tôi sang C7 lấy ba lô của anh về làm biên bản kiểm nghiệm di vật tử sĩ. Lính tráng chết nhiều. Anh Thuận chính trị viên chẳng buồn tiếp, bảo tôi cứ về hầm anh Tân mà lấy ba lô. Tôi lom khom cúi vào. Hầm ẩm mốc. Có ba cái sạp, hai người nằm hai bên chắc đã đi tuần, đi phục. Tôi lấy cái ba lô ở giữa, theo lời anh Thuận dặn. Mang về tiểu đoàn, mở ra, tôi bần thần thấy có mấy lá bùa, viết kiểu chữ nho, hình người dài ngoẵng. Kèm theo lá bùa là lá thư của người cha dặn con, mỗi ngày, trước khi đi ngủ, đọc câu gì mấy lần. Tôi không biết anh ấy có làm theo lời cha dặn không? Tôi đưa cho chính trị viên phó tiểu đoàn Nguyễn Văn Vẳng xem. Ông lừ mắt, phẩy tay: “Vứt đi”. Tôi mang xuống nhà anh nuôi vứt vào bếp, đốt.

Tôi nhớ hôm sang lấy xác anh này. Trời mưa lâm thâm. Rừng ẩm ướt. Tối om. Không có đèn pin. Hai trinh sát dẫn tôi đi. Chẳng biết họ đến hầm Ban chỉ huy đại đội lúc nào. Cách vài mét, tôi nhận ra ánh đèn le lói trong hầm. Chợt thấy một người đứng lù lù bên gốc cây, tôi định vỗ vai hỏi. Vừa chạm vào, tôi thấy tay mình chạm phải vật gì cứng đờ, lạnh toát, ướt át. Vớ phải cây cọc, tôi lắc lắc. Cái bọc cũng rung theo. Tôi cũng lạnh toát người. Thì ra đó là xác một chiến sỹ vừa tử trận. Anh em khiêng về, chưa kịp tháo ra, cứ để nguyên cả võng và cáng dựng vào thân cây.

Đêm trước, tôi nằm mơ thấy trong lòng đất An-lung-viêng có một khu hầm mộ. Những cái tiểu được xếp từng lớp, từng lớp. Một anh bộ đội giao những cái tiểu đó cho tôi. Nhận tiểu, tôi lại chuyển cho người khác. Đến một cái tiểu, tôi thấy ướt nhoèn. Tỉnh dậy, thì ra nước trong hầm đã ngập đến ngang võng.

Nhưng sao tôi cứ liên tưởng đến cái tiểu ướt đêm qua với anh lính này?

Sau 20 năm tôi vẫn băn khoăn. Anh ấy là ai? Có đúng quê Thuận Hải không? Có lẽ ngày đó anh em hy sinh nhiều quá. Hầu như ngày nào tôi cũng phải chôn người, nên có một số người tôi không nhớ được họ tên, quê quán. Nhưng riêng lá bùa, tôi mãi không quên.

Rồi sau này, Tô Văn Phán, trinh sát tiểu đoàn, lính 80, chết, trên cổ và trong ví cũng có bùa. Lần này thì tôi lẳng lặng chôn theo cùng em, không nói cho ông Vẳng biết nữa.

Dạo đầu năm 79, tôi đi phối thuộc với C7. Đến giải phóng một phum, các cụ già râu tóc bạc phơ quỳ xuống lạy chúng tôi đã cứu thoát họ. Dân trong phum dẫn chúng tôi ra xem một cái hố to, nói rằng lính Pôn Pốt ra lệnh đào cái hố này để chôn họ. May chúng tôi đến kịp. Vợ chồng một ông bà già trong phum rất quý anh Trần Thanh Chương, chính trị viên C7 và tôi. Họ đã làm bùa cho anh Chương, nói rằng đeo bùa này trong người thì sẽ không bị trúng đạn. Họ bảo lính Pôn Pốt cũng đeo bùa nhiều lắm. Ông bà già đó, mà tôi thường gọi là “âu” “me” (bố mẹ) cũng gợi ý tặng tôi một lá bùa. Nhưng tôi cảm thấy nó ghê ghê thế nào ấy khi mang trong người, nên tôi không nhận. Lúc nào cũng cảm thấy vướng víu trong ý nghĩ thì chiến đấu làm sao được. Ở phum đó độ mươi ngày, chúng tôi lại hành quân. Trước lúc ra đi, anh Chương lại nhắc rằng ông bà ấy vẫn chờ tôi ra lấy bùa, thực tình tôi không thích. Có hai loại bùa, đeo ở cổ tay hoặc giấu trong túi ngực. Anh Chương lấy loại thứ hai. Tôi thấy anh nói nhiều về nó, chắc anh tin ông bà già đó lắm và cũng rất tin vào sự hiệu nghiệm của lá bùa. Song không ngờ sau này chính anh Chương cũng hy sinh. Anh bị lũ cuốn khi bơi qua suối phum Giềng.

Ngày 22 tháng 11 năm 1999

Một ngày cuối năm năm 1999, Trịnh Quốc Tài, nhà ở ngõ số 375 phố Bạch Mai đến nhà tôi.

– Tuấn, trưa nay mày có nghe mục “Nhắn tìm đồng đội” không?

– Không. Mãi hơn 12 giờ tao mới về đến nhà. Có chuyện gì thế?

– Gia đình Nhật Minh nhắn tin trên đó. Mày có biết nhà Nhật Minh không? Hôm nào tao với mày đến. Tao vừa về qua thăm trung đoàn cũ của mình đang đóng ở Quảng Ngãi. Có thể cung cấp cho gia đình nó ít thông tin…

Cả tôi và Tài đều chơi thân với Nguyễn Xuân Nhật Minh. Tuy Minh ở tiểu đoàn 7, chúng tôi ở tiểu đoàn 8, mỗi tiểu đoàn đóng cách xa nhau khi thì hàng chục, khi thì hàng trăm cây số, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau. Nhật Minh hy sinh khi đang làm nhiệm vụ gần tiểu đoàn 9 và xác Nhật Minh chôn tít trên đó, cách xa An-lung-viêng của chúng tôi hơn một ngày đường.

Cứ mỗi lần cạo râu tôi lại thấy xót thương Nhật Minh. Mấy ngày trước lúc hy sinh, trên đường tăng cường lên D9, Minh ở chỗ chúng tôi. Dạo đó những ngày đầu năm 1981, tiểu đoàn chúng tôi đang lâm vào tình trạng thiếu đói ghê gớm. Không có rau, chúng tôi phải đi rất xa, thỉnh thoảng kiếm được ít lá bèo lục bình, về xào với nước mắm. Gọi là nước mắm, chứ thực ra đó là nước được nấu từ một phần ba hộp thịt xay, cho nước lã và muối vào, quấy đều rồi chia cho 60 – 70 người ăn. Ấy thế mà năm thì mười họa mới có một bữa. Thấy Nhật Minh lên, chúng tôi chẳng có gì đãi. Nhật Minh rất thông cảm và chỉ hỏi tôi có dao cạo râu không.

Nhìn bộ râu cằm lởm chởm của Nhật Minh, tôi thấy ái ngại. Quả thực, đã lâu lắm tôi cũng không để ý đến râu ria của mình ra sao. Trong hầm tôi ở, ngoài tôi và Huỳnh Đức Thuận là trẻ, còn có anh Lâm Xuân Liễm đứng tuổi và có râu nhiều hơn. Anh Liễm cũng không còn con dao cạo nào. Chỉ có Thuận giữ lại một lưỡi dao lam để rọc giấy. Thấy Minh tha thiết hỏi, Thuận cũng đưa cho mượn. Lưỡi dao ấy đã cùn lắm, song Minh rất mừng. Minh lồng ngón tay trỏ vào phần thủng giữa dao, đưa lên cằm cạo xoàn xoạt. Thú thực, đó là lần đầu tiên tôi thấy một kiểu cạo râu dã chiến như vậy. Không gương lược, không xà phòng, không bàn cạo, chỉ một lưỡi dao cùn và ngón tay trỏ là xong.

Giữa tôi và Nhật Minh có nhiều kỷ niệm đẹp. Chúng tôi cùng là học sinh trường Lý Tự Trọng, Hà Nội. Minh có gương mặt rất đàn ông, khảng khái, cương nghị. Dạo đi học, Minh là đứa tập xà đẹp nhất. Ngực và eo của Minh nở như hình chữ V, chắc lẳn. Đúng là “đùi ếch, ngực dơi, tay cử tạ”. Mỗi lần Minh tập xà, trên các hành lang, các cô gái đứng nhìn mê ly. Bọn con trai chúng tôi nhìn cơ thể khỏe và đẹp của Minh còn phát thèm nữa là con gái. Mỗi lần Minh tập xà, là một màn trình diễn tuyệt đẹp ở dưới sân trường.

Chúng tôi gặp nhau trên sân bóng, dưới sân trường, trên sân thể dục… Bao giờ tôi và Minh cũng có bao nhiêu chuyện để nói, để cười. Song chuyện tình yêu lại ít khi thổ lộ.

Rồi chúng tôi cũng vào lính một ngày. Khi vào chiến trường, Minh được biên chế về trinh sát trung đoàn. Dạo cuối tháng 12 năm 1978, trên đường vào chiến dịch, tôi đang ngồi trên xe GMC, qua ngã ba trạm phẫu trung đoàn, bỗng có người đứng bên đường gọi to:

– Tuấn ơi, mình bị thương rồi!

Tôi giật mình nhìn xuống. Trời ơi! Nhật Minh của tôi. Đầu quấn băng trắng, tay trái cũng quấn đầy băng, treo trước ngực. Minh cười rất tươi, giơ tay vẫy tôi. Chưa hết bàng hoàng, tôi đã nghe Minh nói to:

– Đồng hương đi trước nhé. Mình sẽ vào sau!

Ôi, một hình ảnh bị thương đẹp tuyệt trần! Thú thực là khi vào lính, tôi chỉ có một ước mong đơn giản, là mình bị thương, ở đầu và ở tay như Minh. Rồi mình sẽ chụp một tấm ảnh, gửi về cho các bạn trong lớp cũ cho oai! Cái hình ảnh mơ ước ấy của tôi giờ lại rơi vào Nhật Minh. Đang hành quân cấp tốc thế này, lấy đâu ra máy ảnh mà chụp? Song cái hình ảnh đó của Nhật Minh mãi sáng ngời trong tâm trí tôi. Đêm ở An-lung-viêng, Nhật Minh kể cho tôi nghe trường hợp mình bị thương lần ấy. Mới vào trinh sát, trong mấy ngày đầu, Nhật Minh được đại đội phân công đi thực tập địa hình, cầm bản đồ và địa  bàn thử đi xem có xác định đúng phương hướng không. Nhóm đi gồm bốn người. Lúc ấy, quân ta và quân địch còn gần nhau lắm. chúng tôi đi tắm còn nghe tiếng quân ta hô xung phong sau quả đồi trước mặt. Tay đang xát xà phòng lên đầu cũng dính mảnh đạn luôn. Đi đứng không theo lối mòn là dẫm mìn như không. Trên các cành cây, các loại lựu đạn treo lủng lẳng. Song đã vào đến đây rồi thì chấp nhận tất cả.

Nhóm trinh sát của Minh đi thế nào mà rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng nổ súng. Anh em vừa chạy vừa bắn trả. Vì đều là lính mới cả nên sau một hồi chạy, không ai xác định được phương hướng nữa. Lúc này, Minh đã bị thương ở đầu và tay. Máu ra nhiều mà không có bông băng gì cả. Chiều tối, bọn địch không bắn nữa. Anh em nghỉ lại giữa rừng và phân công mọi người thay nhau gác. Đến phiên của Nguyễn Thanh Tùng. Có lẽ do sợ địch tập kích không kịp phản ứng nên Tùng đã tháo chốt an toàn quả lựu đạn rồi cầm trên tay. Sau một ngày vừa sợ vừa mệt, Tùng thiếp đi lúc nào không biết. Bất ngờ quả lựu đạn trên tay rơi xuống, nổ rầm một tiếng. Tùng hy sinh ngay. Cùng lúc đó bọn địch bắn ra như mưa. Anh em trinh sát mỗi người lại chạy một hướng. Thêm một người lính mới nữa hy sinh. Hình như tên là Dũng. Không ai biết bằng cách nào anh ta lại rơi vào đại đội trinh sát. Một người nữa thì lạc rừng, sau tìm về được hậu cứ của trung đoàn 95 tại Măng giang. Còn Nhật Minh, trong đêm tối đen ấy, Minh vừa chạy vừa nghỉ. Bỗng Minh thấy trước mặt như có một bóng hình của ai đó, cứ thấp tha thấp thoáng. Nghĩ là người của mình nên Minh cứ bám theo. Nhưng cứ bò đến gần thì cái bóng đó lại biến ra xa, lại lúc ẩn lúc hiện trước mặt. Và cả đêm Minh cứ bám theo cái bóng ấy mà Minh không biết là ai. Gần sáng, cái bóng ấy biến mất, Minh cũng mệt lả, thiếp đi lúc nào không biết. Khi tỉnh dậy, cứ nhằm hướng thẳng mà đi. Mãi đến xẩm chiều mới tìm được về đến đơn vị. Quần áo tả tơi. Mừng đến phát khóc.

Sau trận ấy, trong đơn vị, có người khen Minh, song cũng có người chê Minh là bỏ tử sỹ lại trận địa. Rồi từ đó, trong đơn vị, dẫu không nói ra, nhưng Minh như người có “phốt”. Sau, gặp lúc các tiểu đoàn cần bổ sung trinh sát, Minh xin xuống D7.

Câu chuyện của Minh cứ ám ảnh tâm trí tôi. Phải chăng cái bóng hình ấy là hồn vía của một người lính nào đó đã hy sinh, hiển linh để dẫn đường cho Minh trở về. Tuy không nói với Minh điều ấy song tôi cứ nghĩ vậy.

Rồi đầu năm 79, khi đang tiến vào giải phóng Cam-pu-chia, đơn vị tôi cử một tiểu đội tăng cường quay về biên giới để tìm xác đồng đội. Tôi nhớ Nguyễn Thanh Tùng là người lính Hà Nội đầu tiên trong đợt lính chúng tôi hy sinh. Nhà Tùng ở 25 phố Phù Đổng Thiên Vương. Sau một tuần càn đi quét lại, chúng tôi không tìm thấy xác ai cả. Tôi đã viết bài thơ “Tìm bạn” kể lại chuyến đi này.

TÌM BẠN

Chiến dịch kết thúc rồi tôi quay về biên giới

Tìm xác bạn bè trên chốt cũ yêu thương

Hơn hai mươi con người, một trung đội tăng cường, 

hơn hai mươi tay súng

Sống lại cùng tôi những bạn đường.

Không thể tìm ra đầy đủ một bộ xương

Đất cháy đen xỉ than

Xương cánh tay lẫn cành khô rơi vãi

Tấm bản đồ không mang lại một điều gì mới

Vệt máu đông rỉ ra nhức nhối mắt nhìn

Từng khoảng thời gian, từng trận đánh, từng người một,

cứ nhớ thế mà tìm

Đồi 328, chốt X.B… chỗ nào cũng gặp bạn bè đang sống

Vẫn nói cười, vẫn thổi mắt cho nhau, ôm súng xông lên 

và những loạt Đ.K. dập xuống

Bạn bè tôi hóa trăm mảnh sao trời…

Lòng tôi đau một nỗi khổ không nguôi

Đâu cũng gặp mà tìm không thấy

Đêm ngủ trong những căn hầm còn lại

Nham nhở  những mảnh trăng hình phễu hứng sương trời…

Hơn hai chiếc túi mang theo dồn một túi không đầy

Chiếc gùi nhạ trên vai bao cuộc đời sông núi

Đồng đội tôi nằm đây chưa thể nào ngủ nổi

Những mảnh pháo mảnh mìn đau cấn lắm dưới lưng

Cây cháy vẫn đen thu, chim chưa trở lại rừng

Đi tìm suốt mấy ngày bỗng sáng nay gặp một bông hoa dại

Ánh mặt trời đọng sáng những hạt sương

Những người nằm xuống rồi đều có chung một gương mặt

tươi sáng lạ thường

Tôi bỗng dốc bi đông tưới cho bông hoa nhỏ

Bông hoa nhìn theo mỗi bước tôi đi…

1979-1985

Ít lâu sau, Minh được tăng cường về tiểu đội trinh sát D7. Chiến trường rộng lớn, mỗi tiểu đoàn một ngả, tôi ít gặp Minh hơn. Song mỗi bước trưởng thành của Minh, chúng tôi đều theo dõi. Tôi được biết, trước lúc qua chỗ chúng tôi ít ngày, Nguyễn Xuân Nhật Minh đã vinh dự được kết nạp Đảng. Điều này Minh không nói với tôi, nhưng anh em D7 kể lại. Bản thân tôi rất mừng và khâm phục Minh.

Gặp Minh tôi rất mừng. Nhớ lại một chuyện cười.

– Minh biết không, dạo đó, vào khoảng tháng Mười năm 1979, mình đi phối thuộc với C7, chốt ở phum Cầu Sắt. Một hôm, mình phải đón xe về trung đoàn nhận pin. Vừa trèo lên thùng xe, mình ngạc nhiên thấy một tốp lính Khơ-me đỏ. Có một thằng mặc áo quân Tân, trên ngực in số hiệu đơn vị và có thêu hai chữ “mỗi ngày”. Lại nghe tin D7 vừa đánh trận Xa-vai Đam-lắc…

– Có phải cái thằng tóc xoăn tít không?

– Chính hắn. Nhưng Minh biết thế nào không. Thấy nó mặc áo của đồng đội mình, mình liền táng cho nó một báng AK vào vai. Thằng ôn con nghiêng người né. Mình làm tiếp phát nữa. Nó chúi đầu xuống tránh. Nhưng mình dừng lại vì thấy hai tay nó bị trói chặt vào thành xe…

– Thằng đấy trước thân với mình lắm. Mấy tháng đó mình đi làm công tác dân vận. Nó là một trong những “phần tử tích cực” được bọn mình sử dụng. Song vẫn phải cảnh giác vì bọn này lá mặt lá trái lắm. Hôm đó, bọn mình ngủ trong phum. Nửa đêm, bọn nó dẫn lính Khơ-me đỏ tập kích vào. Nhưng bọn mình rất cảnh giác, đã rời ra bìa phum từ 8 giờ tối. Bọn nó đánh ra, quân mình không đào công sự nên phải rút vào rừng. Bọn nó cướp được mấy cái ba lô, trong đó có cái của mình…

Những ngày ở chỗ tôi, Minh hay giở lá thư của mẹ ra đọc. Có lẽ đó là lá thư mới nhất. Một buổi tối, dưới ánh đèn dầu khộp trong hầm, Minh cho tôi xem thư mẹ: “Nhật Minh con thương yêu”. Nhìn dòng chữ hoạt bát nghiêng nghiêng của người mẹ, lòng tôi dâng một niềm cảm động và cô đơn. Những ngày đó, giữa mùa mưa, trời ướt dầm dề. Cứ đến đêm, trong hầm lại đầy nước. Nước từ mạch dâng lên, theo các rễ cây chảy vào. Chúng tôi phải mắc cao võng lên. Tôi rủ Minh ở lại hầm ngủ chung võng. Song Minh là người rất có kỷ luật. Chơi đến quá khuya, Minh về đơn vị.

Sáng hôm sau Minh sang chỗ tôi xin giấy viết thư. Tối đến Minh lại qua hầm tôi, tâm sự rằng khó viết quá, không có tâm trạng. Song nghe giọng Minh và nhìn gương mặt Minh, tôi hiểu những gì đang diễn ra trong lòng bạn. Tuy bề ngoài vẫn nói cười vui vẻ với Minh, song trong lòng tôi lại thầm thương bạn. Bởi trong tôi cũng đã trải qua những ngày như vậy. Trước khi vào trận, muốn nói rất nhiều. Nhưng nói chuyện gì với ai? Quả là một vấn đề không đơn giản.

Buổi tối, Minh sang hầm tôi gửi tôi lá thư về cho mẹ. Thư không có phong bì, không có tem. Minh bảo:

– Mình đang viết dở, không viết được nữa. Đồng hương viết tiếp hộ mình.

– Thôi, ngồi đây viết tiếp đi. Mình với Thuận đi chỗ khác để Minh viết tiếp đấy!

Thuận cũng trêu Minh vài câu. Song Minh không đồng ý, cứ để lá thư viết dở lên bàn tôi. Ngồi nói chuyện tào lao một lúc, tôi cất lá thư vào trong ba lô cho Minh yên tâm.

Bỗng một chiều, Minh nhận được điện phải hành quân gấp lên D9. tối hôm đó Minh sang chỗ tôi xin chiếc cần câu câu mìn. Dạo đó, quanh An-lung-viêng, hầu như lối nào bọn địch cũng gài mìn. Những sợi dây mìn mỏng manh như sợi chỉ, chúng giăng là là mặt đất, ngang lối đi hẹp, cỏ xùm xòa trùm kín. Lính ta đi không để ý, vướng dây, quả mìn nảy ngang người, nổ tung. Bọn địch còn buộc mìn vào thân cây, tầm ngang ngực người đi, rồi căng dây mìn ngang đường. Ánh mặt trời chiếu lấp lóa, thật khó nhìn thấy dây mìn. Nhiều người đang đi, bỗng nghe tạch một cái, một luồng hơi mát vút qua, rồi một tiếng  nổ tiếp liền. Cái cảm giác về luồng hơi mát chưa kịp nhận ra thì đã gục xuống. Có những nơi bọn địch còn dùng dây hà thủ ô để buộc vào kíp mìn, quân ta đi ngỡ dây rừng, đạp bừa lên, toi mạng như không. Song cái khó không bó cái khôn. Những người lính Việt Nam, xuất thân từ nông dân, đã nghĩ ra cách phát hiện dây mìn. Họ vót tre thành hình cái cần câu, phía đầu hơi mỏng, để lại phần đốt như cái mấu. Khi đi, cầm cần câu ngửa lên, đặt sát mặt đất, thấy vướng thì dừng lại, từ từ nhấc cần lên, xem gốc sợi dây mìn ở đâu rồi ngồi xuống gỡ mìn. Chỉ đến lúc lên D8, Nhật Minh mới biết cách phát hiện mìn của chúng tôi và học. Tôi cho Minh chiếc cần câu mìn. Trước cửa hầm, Minh đứng thử, cần câu phất lên vun vút. Tôi thấy gương mặt thận trọng của Minh ánh lên niềm vui.

Sáng hôm sau, khi tôi đang ăn sáng thì Minh khoác ba lô qua chào tạm biệt. Tôi chỉ biết dặn Minh thận trọng. Minh nhìn tôi tự tin:

– Đồng hương cứ yên tâm.

Rồi Minh dẫn anh em D7 đi lên D9, khoảng một trung đội. Rừng mùa mưa xanh thẫm, cành lá nặng trĩu nước. Mái rừng như sà thấp xuống ngay trên đầu. Tôi nhìn theo đoàn quân đi im lặng. Một chuyện bình thường nhưng lòng se lại.

Ba hôm sau, chúng tôi nhận được điện từ D9 báo về, Nhật Minh đã hy sinh. Mấy ngày đó, tôi cứ nóng ruột chờ mang xác Nhật Minh về. Từ D9 về chỗ chúng tôi mất hai ngày đường rừng. Nửa đường sẽ ngủ lại C6. Chúng tôi đã chuẩn bị quan tài, lọ pê-ni-xi-lin (đựng mảnh giấy ghi tên tuổi, quê quán của Minh, chôn cùng xác Minh, để khi bốc mộ, đỡ nhầm xác các tử sỹ với nhau) và bát cơm quả trứng, điếu văn… để đón Nhật Minh. Dạo đó tôi được tiểu đoàn giao làm công tác khâm liệm và chôn cất tử sỹ. Ngoài tình đồng đội, đồng hương, giữa Nhật Minh và tôi còn có tình cảm thương mến của nhóm bạn học cùng trường.

Nhưng chờ mãi, chờ mãi, không thấy xác Nhật Minh về. Hóa ra, do đường xá xa xôi, đi lại không thuận tiện, thiếu người khiêng và bảo vệ tử sỹ, nên sư đoàn quyết định đặt thêm một nghĩa trang nữa tại D9. Và Nhật Minh là người đầu tiên nằm tại nghĩa trang mới này.

Trường hợp Nhật Minh hy sinh không ai có thể ngờ tới. Ngay hôm đó đơn vị Nhật Minh đi phục. Đến khoảng 4 giờ chiều, không thấy địch, có lệnh rút về. Trước lúc ăn cơm, kiểm tra súng đạn, mọi người phát hiện một anh lính mới thiếu dây đạn M.79. Phải mau quay lại tìm. Trời tối, anh lính mới quay lại. Đến chỗ phục, mọi người không dám vào. Vốn là người ưa thích sự mau lẹ và muốn để mọi người ăn cho xong bữa cơm, dù rất bực, Nhật Minh vẫn xung phong vào ổ phục tìm dây đạn. Sau khi kiếm tìm một hồi, lúc thấy dây đạn, Nhật Minh vừa cầm lên thì một trái mìn nổ tung trời. Anh ngã xuống.

Thì ra, khi quân ta vừa rút đi cũng có thể là lúc địch tới. Phát hiện thấy dây đạn của ta, đoán thế nào quân ta cũng quay lại tìm, bọn địch đã cài mìn vào đó.

Nhật Minh bị thương rất nặng. Đến khoảng nửa đêm thì anh qua đời. Ít lâu sau, tôi nhận được lá thư của bạn tôi là Cù Đăng Hạnh từ D9 gửi về do anh em đi công tác qua chuyển cho.

“Tuấn ơi, thế là thêm một thằng lính mình không được về Hà Nội nữa rồi. Không biết Hà Nội ngày chúng mình về có ai biết thiếu vắng Nhật Minh không? Hà Nội chắc vẫn vui như xưa nhưng Nhật Minh không bao giờ về nữa. Thằng bạn cùng trường chúng mình đã hy sinh hồi… giờ… ngày… tháng… năm…”

Lá thư của Hạnh gây trong lòng tôi chút xao động. Thú thực, lúc đó tôi không hề nghĩ đến Hà Nội, nghĩ đến ngày về. Cuộc chiến đang cực kỳ gay go, ác liệt. Đang mùa mưa, rừng âm u, chúng tôi không biết mình chết lúc nào.

Nhật Minh chết rồi. Thế là lời hẹn của Nhật Minh sẽ cùng tôi về phum Xằng-cung Thơ-mây mãi mãi xa vời. Minh kể ở đó có ngôi chùa rất đẹp. Ngôi chùa lại nằm trên một hòn đảo. Và hòn đảo lại nổi trên một cái hồ rộng mênh mông. Điều kỳ lạ là hòn đảo ấy không bắt chặt vào đất mà nổi trên mặt hồ, khiến ngôi chùa đó buổi sáng ở phía đông, đến buổi chiều lại bị gió thổi dạt về phía tây. Và ban đêm gió lại thổi cho ngôi chùa lặng lẽ, từ từ trôi về phía đông. Minh bảo:

– Mình sẽ chèo thuyền chở đồng hương ra thăm chùa. Đồng hương biết không, trong mỗi pho tượng trong chùa đều có một cục vàng đấy. Trong hồ có nhiều cá sấu lắm. Nhưng nó chỉ nổi từng đợt thôi. Mình biết quy luật của chúng nó rồi.

Dạo đầu năm 1983, khi đi công tác về phum Xằng-cung Thơ-mây, tôi được ghé thăm thắng cảnh độc đáo này. Nhớ lời hẹn xưa, càng thương tiếc bạn. Đêm đó, dân trong phum thức suốt đêm nhảy múa, cúng bái để cầu mưa. Họ hát những bài dân ca, đọc những câu thần chú, những bài cúng đầy bí ẩn. Nửa đêm về sáng, họ vứt gà cùng các đồ cúng khác xuống hồ cho cá sấu ăn. Từng đàn cá sấu đen nhảy lên tranh nhau đớp mồi. Cảnh tượng ngoạn mục như thời nguyên thủy. Nghĩ tới Nhật Minh đang nằm trên biên giới, cảnh đây mà người vời vợi xa bao nhiêu, xa hơn ngôi sao bé nhỏ trên bầu trời mùa khô của miền đông bắc Cam-pu-chia.

Rồi chúng tôi đến nhà Nhật Minh ở khu tập thể Phương Mai. Trước khi đi và trên đường đi, thâm tâm tôi định nói bao lời. Nhưng vừa bước vào căn phòng trên tầng 3, tôi đã bàng hoàng. Đập vào mắt tôi, đập vào ngực tôi là hai tấm chân dung liệt sĩ. Nguyễn Xuân Nhật Minh và người anh của Minh. Người anh này đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngoài bố mẹ Minh, hôm đó chúng tôi còn được gặp chị em gái và em trai Minh. Bố mẹ Minh còn tương đối khỏe. Ông cụ sinh hoạt ở hội cựu chiến binh và Tổ hưu trí phường. Cứ nghĩ chúng tôi sẽ là người nói nhiều, không ngờ ông bà cụ khá lạc quan, kể cho chúng tôi bao chuyện. Ông đọc cho chúng tôi một số bài thơ do ông sáng tác, nội dung chủ yếu coi sự hy sinh của hai người con trai của mình là đóng góp nhỏ nhoi của gia đình đối với sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Tôi đọc tặng bà mẹ Minh bài thơ “Mẹ và hòm thư con” mà tôi viết trong cái đêm ở An-lung-viêng được Nhật Minh cho đọc chung thư mẹ. Khi đọc, hình ảnh Nhật Minh hiện về. Tôi không thể nào cầm nổi nước mắt.

Trịnh Quốc Tài mới thăm trung đoàn cũ của chúng tôi ở Quảng Ngãi ra, Tài đang lái xe cho công ty TODA của Nhật, xây dựng trường học ở Đà Nẵng và Quảng Ngãi. Tài muốn cung cấp cho gia đình Nhật Minh một số thông tin để bố mẹ Minh tiện liên hệ trong việc tìm xác con. Chúng tôi không biết nghĩa trang D9 được bốc đi lúc nào và chuyển về đâu. Đến giờ gia đình Nhật Minh vẫn chưa tìm được xác Nhật Minh.

Trích nhật ký của Nguyễn Minh Toàn, nguyên trung đội trưởng C3, người có mặt lúc Nhật Minh hy sinh, khâm liệm cho Nhật Minh. Hiện Toàn ở E1B khu tập thể dệt 8/3 Hà Nội.

18h45 phút ngày 3-12-1981

Tại biên giới Tây bắc Cam-pu-chia, cách cửa khẩu 2 độ 10km trong một khu rừng xanh thưa. Xé không gian bằng một tiếng mìn. Quả mìn KP2 của quân Pôn Pốt đã cướp đi của tôi một người bạn, một người đồng hương, đồng chí. Nguyễn Xuân Nhật Minh, tiểu đội trưởng trinh sát đã anh dũng hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ, mới 15 phút trước mình còn nói chuyện với nhau, mà chỉ sau một tiếng nổ Minh không thấy được quê hương nữa. Mình liệm Minh trong chiếc quần của anh Lợi, chiếc võng của Minh cùng chiếc màn trắng, ba ngày sau mới đưa Minh về được D9. Thôi nhé hãy vui lòng an nghỉ. Mong sao thời gian nhanh chóng xóa mờ nỗi đau trong lòng người mẹ đau khổ của Minh. Các đồng hương của Minh sẽ còn mãi mãi nhớ Minh. Cuối cùng xin vĩnh biệt.

15-12-81

Minh Toàn

Trích nhật ký của Nguyễn Xuân Trường, người chứng kiến cái chết của Nhật Minh hiện ở khu tập thể Hoa quả – Hà Nội.

Hai mươi năm viết về đồng đội.

Tôi phải cám ơn thật nhiều Tuấn, đồng hương của năm xưa vì là bạn hữu của hôm nay đã gợi cho tôi thật nhiều kỷ niệm thời khói lửa, những câu chuyện kỷ niệm những đồng đội nằm xuống hy sinh thân mình vì nghĩa vụ quốc tế cao cả mà Tổ quốc giao phó cho mỗi chiến sĩ chúng tôi trên rừng thiêng nước độc của xứ sở láng giềng Cam-pu-chia. Câu chuyện ấy tôi cứ tưởng mới xảy ra từ hôm qua thôi chứ đâu nghĩ đã hơn hai mươi năm rồi, vì cuộc chiến đấu ấy nó vừa bất ngờ, khủng khiếp nhưng lại hết sức thanh thản đến ngẫu nhiên trong tiềm thức quen thuộc của mỗi người lính chúng tôi…

… Chúng tôi là những người lính Hà thành, mỗi người một ngành nghề, hoàn cảnh khác nhau, nhưng theo tiếng gọi lên đường để trở thành người lính bảo vệ Tổ quốc thì tình cảm xa quê hương cùng nhiệm vụ người lính nó giống nhau như mầu xanh lá cây của mỗi người lính trong hoàn cảnh xa nhà, xa quê hương, xa cả đất nước đến ngàn dặm ấy. Tất cả đồng hương chúng tôi đều nhập ngũ tháng 8 năm 1978, đó là năm tháng nhiều kỷ niệm sâu sắc trong mỗi người lính chúng tôi đều ở lứa tuổi trẻ măng. Những kỷ niệm khắc sâu trong lòng tôi nhất là những đồng đội đã anh dũng hy sinh trên mặt trận. Mỗi trận đánh là mỗi vẻ vang để giúp nước bạn, nhưng cũng biết bao xương máu phải đổ xuống một cách thầm lặng trên nước bạn, ngoài những câu chuyện đồng đội đi truy quét tàn quân Pôn Pốt và đi bảo vệ hành lang cho xe chở gạo lên D9 và E95 kể lại, mà trực tiếp tôi còn được chứng kiến thực tế qua những lần truy quét địch cùng đơn vị.

Tôi xin kể kỷ niệm sâu sắc nhất về đồng hương Nhật Minh (Nguyễn Xuân Nhật Minh) là trinh sát tiểu đoàn 7 xuống phối thuộc với C2 chúng tôi đi truy quét 1 tuần ở tây bắc huyện Chom-ka-san tỉnh Prét-Vi-hia Cam-pu-chia. Những tháng đó tôi không còn nhớ lắm chỉ biết rằng thời điểm ấy vào cuối mùa mưa.

… Cả đoàn quân đã vài ngày hành quân tìm địch trong rừng khộp và rừng rậm, do đồng chí Long đại đội trưởng của tôi chỉ huy và đồng hương Minh đi trinh sát theo bản đồ cho đoàn quân đi đúng địa bàn hoạt động. Mấy ngày hành quân đã gần như mệt mỏi cũng không tìm thấy dấu vết nào khả nghi cả, lúc đó vào giữa trưa nắng, đoàn quân sau 15 phút nghỉ giải lao ở giữa rừng rậm, qua một cuộc hành quân dài, đã lấy sức để tiếp tục hành quân trong rừng rậm, thật dễ chịu trước mắt chúng tôi là một bãi tráng rộng vì chúng tôi đang mang vác súng ống đạn dược rất nặng mà phải đi trong rừng rậm, gai góc cào đến rách da, mệt đến chết được. Thật cảm phục tài nghệ băng rừng rậm của hai đồng chí trinh sát nhanh thoăn thoắt chui luồn thật khéo mà không bị sao. Tôi thầm cám ơn đồng hương Minh đã mở đường cho bộ binh chúng tôi đỡ vất vả và nguy hiểm. Nhưng cũng thật không may cho đoàn quân chúng tôi, khi đã qua bãi tráng đến bìa rừng xanh bên kia tưởng như không có chuyện gì xẩy ra, đoàn quân vẫn thẳng hướng đi.

… Bỗng… ầm… tiếng nổ chói tai từ đầu đoàn quân, tôi thoáng nghĩ đã bị địch phát hiện và phục kích bằng hỏa lực, nhưng phán đoán của tôi đã nhầm. Khi đại đội chúng tôi đã tản ra để sẵn sàng chiến đấu thì bỗng nghe khẩu lệnh từ trên đầu hàng quân truyền xuống trung đội tôi chuẩn bị đưa thương binh ra phía sau để sơ cấp cứu. Lúc bấy giờ tôi mới hiểu rằng quân ta đã bị vướng mìn KP2 mà địch mới gài theo đường mòn hoạt động của chúng. Lúc bấy giờ tôi chưa biết ai bị thương cả, một lúc sau, được lệnh rời vị trí chiến đấu để cáng thương binh quay lại đi đường khác để khỏi bị lộ, thì tôi mới biết người đồng chí bị thương nặng đó chính là Nhật Minh, đồng hương trinh sát của tôi. Sự bất ngờ ấy làm tôi không tin được vào mắt mình nữa, vừa mới 20 phút trước đây còn là một con người hoàn chỉnh khỏe mạnh yêu đời hơn cả mọi người mà bây giờ thân hình lại dập nát sũng máu. Lòng tôi quặn đau không gì tả được khi nhìn thấy đồng hương mình đang quằn quại trong cơn đau dưới chiếc cáng bằng bạt xanh mà tôi và đồng đội đang vác tới nơi an toàn để cứu chữa. Dọc đường tôi quên cả gian nan vất vả mà chỉ biết luôn mồm động viên đồng hương thôi, lúc đang cáng, Nhật Minh rất tỉnh táo nói năng như bị thương nhẹ lắm, thậm chí còn muốn nhỏm dậy trên cáng. Theo như kinh nghiệm chiến trường, những người bị thương nặng mà vẫn tỉnh táo là không trường hợp nào có thể cứu sống được, chỉ coi đó là những giây phút trăn trối trước khi nhắm mắt thôi. Có lẽ Nhật Minh đã biết trước sự sống ngắn ngủi của mình nên đã tâm sự với tôi trước những giây phút không thể chịu đựng hơn được nữa:

“Đồng hương Trường ơi… Mình không cố được nữa rồi… Minh nhớ mẹ và Hà Nội (bỗng tôi chẩy nước mắt vì giống ý mình)

“… Minh chỉ tiếc không được học tiếp đại học… Đồng hương ơi cho mình hụm nước” (lúc đó bi đông tôi còn nước nhưng không được phép cho uống vì uống vào máu sẽ chảy nhanh đến không cứu chữa được nên động viên Nhật Minh cố chịu đựng thêm. Khi nhìn vào cáng thấy nửa thân bị hoàn toàn dập nát, từ bụng đổ xuống hàng vài chục mảnh mìn to nhỏ như nghiền nát chiếc quần, đôi chân rắn chắc ấy đang sũng trong máu (lúc chưa qua đoạn đường nguy hiểm để băng bó). Hình như Nhật Minh sức đã yếu dần, toàn thân như bị mềm lại. Tôi lo sợ không biết đồng hương của tôi có chịu đựng nữa được không… Sức khiêng của tôi đã bắt đầu đuối dần, trung đội trưởng thấy vậy đã thay cho hai đồng chí khác trong trung đội tiếp tục cáng cho chúng tôi đưa thương binh về tuyến sau cấp cứu. Đại đội tôi vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ truy quét và tìm bãi mìn của địch thêm hai ngày nữa mới trở về đơn vị. Ngay chiều hôm mìn nổ ấy, tôi biết tin đồng hương Nhật Minh đã hy sinh khi chưa hạ cáng vì bị thương quá nặng. Nỗi đau mất đồng hương và đồng đội ùa vào lòng tôi và cả đơn vị, nhất là những ai người Hà Nội thì nỗi đau càng lớn hơn và tất cả đều im lặng như mặc niệm vài phút. Suốt cả tối hôm ấy, ngoài phiên gác tôi không sao ngủ được, mặc dù cả ngày hành quân và cáng thương binh toàn thân mỏi mệt rã rời, vì hình ảnh Nhật Minh luôn khuấy động trong tâm trí tôi từ khi chúng tôi biết nhau ở trường huấn luyện cho đến lúc đồng hương ấy bị hy sinh. Làm sao tôi quên được thân hình vạm vỡ ấy, duy chỉ hơi thấp một chút. Hồi mới biết nhau tôi cứ nghĩ Nhật Minh là vận động viên thể dục thể thao, về sau mới biết không phải vậy. Điều đặc biệt là Minh sống lạc quan và hòa mình lắm, luôn hay cười với mọi người, dù hoàn cảnh có gian nguy cũng không xua đuổi được nụ cười hiền lành vui vẻ và yêu đời của Nhật Minh. Có lẽ khi học cuối cấp III Minh cũng sống như vậy với bạn bè cùng trường lớp. Trong cuộc sống quân ngũ chúng tôi cũng hay đùa nhau lắm, mỗi người đều có một tên thêm mà đồng hương đặt cho ứng với tính cách dáng vẻ từng người ví dụ tên đồng hương tôi vẫn còn nhớ, như: Dũng “bà già”, Thắng “xã trưởng” vì hay vào phum bản, Thành “giun”, Bình “bớp”, Tuấn “môi đỏ”, Trường F111 tức “phản lực”, còn Nhật Minh bị gắn tên cũng ngộ, Minh “Các Mác”, vì hơi móm khi cười. Đó là những kỷ niệm khói lửa, nhật ký người lính mà tôi với Nhật Minh đã có được trong những tháng sống và chiến đấu bên nhau, kỷ niệm thì nhiều nhưng thời gian 20 năm qua ít nhiều cũng mài mòn trí nhớ của tôi. Để viết được đầy đủ hơn về Nhật Minh, mong các đồng hương khác góp thêm sự nhớ về nhật ký đồng đội hy sinh ở mặt trận.

Nhật Minh chết rồi. Tôi viết thêm mấy dòng báo tin Minh tử trận vào lá thư viết dở dang của Minh gửi cho mẹ. Đêm ấy, tôi không sao ngủ được. Nghĩ tới Minh, nghĩ đến lá thư của mẹ Minh, và lá thư sắp gửi, tôi viết bài thơ “Mẹ và hòm thư con”, để nhớ ngày Minh hy sinh.

MẸ VÀ HÒM THƯ CON

Tưởng nhớ Nhật Minh 

Với một chiếc ba lô

Chúng con có ngôi nhà

Hòm thư là biển số

Sáng hai mùa nắng mưa

Chùm chữ số đơn sơ

Như mắt con nhìn mẹ

Con ở xa là thế

Đôi mắt nhìn bình yên

Giọng con trầm như đêm

Dù giữa nơi mặt trận

Tên hòm thư mẹ khắc

Tên cột mốc biên cương

Gập ghềnh bao núi non

Bóng con đi nhỏ bé

Con nhìn nét chữ mẹ

Bao giờ được thảnh thơi

Con biết dáng mẹ ngồi

Mong lá thư biên giới

Con biết mắt mẹ mỏi

Ngóng từng cánh chim qua

Dòng chữ số rất xa

Bé như là con kiến

Bò từng mi-li-mét

Tìm đường về quê hương

Mẹ nhìn theo dáng con

In những dòng số nhỏ

Còn những dòng số đó

Còn xa mẹ, mẹ ơi…

Lúc này con đang ngồi

Nghĩ là thư gửi mẹ

Giấy bút con không có

Hình dung trong nỗi nhớ

Không có gương mặt nào

Đang chịu đựng khổ đau

Như là gương mặt mẹ

Không có địa chỉ nào

Làm mẹ luôn lo lắng

Địa chỉ hòm thư con.

Còn lá thư viết dở của Nhật Minh. Sao Minh lại nhờ tôi viết nốt? Câu hỏi đó ám ảnh tôi suốt hơn 20 năm trời, mãi hôm nay tôi mới viết ra được.

Thứ năm mùng 7 tháng 3 năm 1999

Mưa tầm tã. Tôi qua nhà Chung mua một bó hoa. Nhà Chung có cửa hàng hoa nhưng thuê người khác bán. Bố mẹ Chung ngồi trong nhà nhưng không nhận ra tôi. Dù sống cách nhà Chung không xa, nhưng ít khi tôi ghé thăm nhà số 6 phố Minh Khai. Tôi chỉ ghé vào những dịp kỷ niệm 15 hay 20 năm lính, lại đi cùng với hàng chục anh em. Và trong những dịp đó, thường là anh Thơm, anh Lễ, những người có tuổi quân cao, lại là cán bộ trung đoàn hoặc một số anh em khác, ăn nói tốt hơn tôi, thay mặt cả đoàn, nói những lời chia buồn và an ủi gia đình. Thực ra tôi chỉ muốn Thành ở 55 Trần Xuân Soạn, đồng nghiệp của Chung, người chứng kiến cái chết của Chung, nói những lời chân thành với gia đình Chung, nhưng anh này chỉ nói hay ở quán bia với bạn bè cũ thôi, chứ với những việc hệ trọng lại lúng túng như gà mắc tóc.

(hình)

Nguyễn Xuân Nhật Minh (thứ 5 từ trái qua) và Đinh Ngọc Long (bìa phải) cùng các bạn lớp 10B trường cấp 3 Lý Tự Trọng trong ngày cắm trại tại công viên Lê nin (Hà Nội). Ảnh chụp ngày 26/3/1978 do Kiều Bằng Khánh – bạn thân của Minh cung cấp.

Mùa mưa năm 1980, một trung đội tăng cường của D7 lên D8 chúng tôi để phối thuộc với C6 – một đơn vị độc lập, đóng trên núi đá, cách D8 khoảng 50 cây số. Trong số lính D7 đó có Thành và Chung là thông tin. Hai người mang theo một máy 2w Silic 71 của Trung Quốc, Chung là bạn cùng trường cấp III Trương Định với tôi. Còn Thành, thời kỳ huấn luyện ở Hòa Bình, cùng trung đội với tôi. Hơn nữa, tôi cũng vừa từ thông tin chuyển lên làm trợ lý chính trị tiểu đoàn nên khi gặp Trung và Thành, tôi cảm thấy rất gần gũi. Hai đứa ở cùng trung đội thông tin của tiểu đoàn 8, tối nào cũng qua hầm tôi chơi.

Tôi nhớ cái ngày trước khi lên C6, Chung và Thành cứ ngồi mãi ở hầm tôi. Lúc nào Chung cũng nhắc đi nhắc lại câu “Nhỡ thằng đi đầu không giẫm, thằng đi giữa giẫm thì sao?”. Dễ đến hàng trăm lần Chung nói câu này. Thậm chí khi về hầm thông tin để ngủ, Thành kể lại, Chung còn nhắc hàng trăm lần nữa, đến nỗi Thành phát bực, gắt bạn đi ngủ để mai có sức hành quân.

Ngày đó, con đường từ D8 lên C6 nhiều mìn lắm. Quanh C6 cũng nhiều mìn. Lính ta hy sinh đều do vấp mìn địch. Tiểu đoàn tôi đánh địch quá mệt, thỉnh thoảng trung đoàn lại cử một số trung đội của D7 lên tăng cường cho D8.

Cũng như Nhật Minh, khi lên D9, Chung cũng xin tôi một chiếc cần câu mìn. Tôi cho Chung nhưng không nghĩ bạn sẽ phải sử dụng đến nó. Bởi Chung và Thành là thông tin, thường đi giữa đội hình.

Trang bị của Chung và Thành cũng hết sức giản đơn. Một cuộn dây mìn Clây-mo làm ăng ten liên lạc. Nhưng Chung cứ sợ rằng khi mình ném dây ăng ten lên cành cây, sẽ vấp mìn. Khi nói câu “Nhỡ thằng đi đầu không giẫm, thằng đi giữa giẫm thì sao?”, tôi thấy mặt Chung tái dại, mắt mở to, con ngươi không cử động. Da mặt Chung như dẹt xuống. Các cơ mặt hầu như không cử động. Mầu sắc da mặt lạnh hẳn, nhợt nhạt. Song lúc đó, tôi và Thành chỉ nói với Chung: “Sợ gì, sống chết có số!”, “Có người có ta!”, “Mình vẫn còn an toàn hơn anh em bộ binh nhiều” v.v… Nhưng Chung cứ im lặng được một lát lại nhắc hệt câu cũ. Tôi với Thành nằm võng. Chung ngồi một chỗ không yên, cứ đi đi lại lại, cầm cần câu gẩy đất lên thành hầm. Đã quá quen với bao nhiêu trường hợp như thế ở chiến trường, chúng tôi đâu có ngờ đó là dấu hiệu báo trước những giờ phút cuối cùng của cuộc đời Chung.

Mấy ngày sau, tôi nhận được tin Chung hy sinh. Thật bàng hoàng. Lẽ nào sự linh cảm của Chung lại đúng như thật? Tôi chuẩn bị quan tài, vải liệm, lọ pênixilin, đào huyệt, điếu văn… để đón Chung. Nhưng đêm đó trời mưa tầm tã, xác Chung không chuyển về được. Phải đến hai ngày sau, tôi mới nhận được xác Chung lúc 5-6 giờ chiều. Trời đã tối. Chúng tôi tắm rửa và chôn xác Chung ngay trong đêm mưa. Bởi xác Chung đã trương. Bụng căng phồng. Đã bốc mùi. Một số thư từ, nhật ký và ảnh của Chung, khi làm biên bản kiểm nghiệm di vật tử sỹ với anh cán bộ D7, tôi đã xin giữ lại.

Tháng 5/1982, sau khi tập huấn điều lệnh sỹ quan ở Nha Trang, tôi tranh thủ về Hà Nội được một tuần. Thăm nhà, thăm người yêu, tranh thủ đến thăm gia đình một số đồng đội bị thương hoặc hy sinh.

Trước khi đến nhà Chung, tôi cảm thấy thật nặng nề. Một mình đi báo tử. Nói gì và nói thế nào đây? Tôi còn mang theo cuốn sổ tay, một ít ảnh, cái khăn mùi xoa, cây bút cùng một ít đồ dùng lặt vặt khác của Chung. Song thời gian quá gấp, tôi quyết định đến nhà Chung vào buổi tối.

Khi tôi đến nhà Chung, bố mẹ Chung đã biết tin con mình hy sinh. Mẹ Chung khóc nhiều lắm. Bố Chung cứng cỏi hơn. Khi tôi trao cho gia đình những di vật của Chung, mẹ Chung nghẹn ngào:

– Thà nó hy sinh ở Trường Sơn hay Đồng Tháp thì bác còn nhớ. Dù sao đây cũng là ở nước mình, chứ nó hy sinh ở cái tỉnh nào xa vời tận Cam-pu-chia, bác làm sao nhớ nổi.

Cuộc viếng thăm ấy diễn ra vào buổi tối, sau bữa cơm chiều. Tôi phải vội về vì không dám nhìn cảnh mẹ Chung khóc nhiều quá.

Sau này trong bài thơ “Ngày tôi rời mặt trận”, tôi đã ghi lại cảm tưởng buổi tối hôm đó:

“Ngày tôi rời mặt trận

Không dám một mình đến nhà những người bạn hy sinh

Cảm thấy mình như người có lỗi

Tôi sợ nhìn nước mắt mẹ bạn tôi”

Trong tôi vẫn còn sáng mãi hình ảnh Chung những ngày đi học. Chàng trai có khuôn mặt hiền lành, thường đi bộ từ ngã tư Trung Hiền đến chùa Sét. Dạo ấy trường cấp III Trương Định của chúng tôi còn là những dẫy nhà tường đất mái lá, nằm trong khuôn viên chùa. Sau giờ học, chúng tôi thường gặp nhau trên sân bóng đá Tương Mai. Dáng người to đậm, chậm chạp nên Chung thường bị chúng tôi dễ dàng lừa bóng qua.

Tuy cùng ở một trung đoàn, lại cùng là lính thông tin, song tôi và Chung thường xa cách. Chiến trường mênh mông mỗi đơn vị một hướng, thường chỉ hỏi thăm tin tức về nhau, không ngờ lần gặp nhau đầu tiên ở chiến trường giữa tôi và Chung cũng chính là lần vĩnh biệt nhau.

Trong lòng tôi có một nơi ước ao, giá như trường cấp III Trương Định có phòng truyền thống, sẽ treo những bức chân dung của những học sinh và của trường đã trở thành liệt sỹ. Thật xúc động biết bao khi tôi đặt chân vào trường Đại học điện ảnh quốc gia Liên Xô trước đây (VGIK), trên tấm bia đá, bao người đứng kính cẩn và trang nghiêm đọc tên những thầy giáo và sinh viên của trường đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Sự bất tử của những người đã khuất đôi khi bắt đầu từ hành động bình thường của những người đang sống.

Trích hồi ức của Trần Chí Thành, nguyên lính thông tin D7, người đi cùng và chứng kiến những ngày và giây phút cuối cùng của Phạm Văn Chung.

“Đầu năm 1981, đang là đầu mùa khô, lại đúng dịp tết cổ truyền của ta nên bọn tàn quân Pôn Pốt tăng cường hoạt động đánh phá ta.

Suốt ngày tiếng súng ầm ầm từ biên giới Cam-pu-chia – Thái Lan dội về tạo nên không khí chiến sự căng thẳng. Trước tình hình đó, cấp trên quyết định điều động đơn vị chúng tôi chi viện một D thiếu cho D bạn đang chốt ở tuyến trước. Cùng tổ đài vô tuyến điện phối thuộc với tôi là Phạm Văn Chung. Hai chúng tôi thay nhau làm việc đảm bảo phục vụ tốt chỉ huy chiến đấu. Chung người thấp, béo lại vui tính nên được anh em trong đơn vị yêu mến. Hơn nữa hai đứa chúng tôi lại là đồng hương Hà Nội nên “rất thân” nhau. Ban ngày, chúng tôi hành quân truy quét địch, tối đến thì rải một chiếc tăng xuống đất và đắp chung chiếc chăn chiên, rồi hai đứa ôm nhau đánh một giấc ngon lành đến sáng. Sau 1 tuần truy quét, đơn vị chúng tôi đã tiêu diệt được một số tên địch và đuổi bọn tàn quân về bên kia biên giới.

Chiều 30 tết, chúng tôi rút về đón tết với đơn vị bạn.

Cách đơn vị 50m chúng tôi dừng chân bên con suối một mùa nước trong vắt để tắm rửa. Được vẫy vùng trong làn nước mát, chúng tôi cảm thấy người tỉnh táo hẳn lên, muốn ngâm mình lâu hơn nữa cho thỏa thích nhưng rất tiếc đã tới phiên liên lạc với cấp trên, tôi đành phải vác máy về trước, còn Chung ở lại tắm tiếp. Làm việc xong, tôi vừa bước chân ra khỏi hầm âm đã thấy Chung thong thả về tới nơi. Nhìn cậu ta trong bộ quần áo mới thay, đầu chải gọn gàng trông đẹp trai hẳn lên, nhưng gương mặt cậu ta có vẻ hơi buồn. Hỏi ra mới biết là sơ ý Chung đã để chiếc gương nhựa tròn nhỏ vào túi cóc ba lô, sau đó để bi đông con vừa lấy đầy nước lên trên, đi được mấy chục mét mới sực nhớ đến, khi nhấc chiếc bi đông ra thì chiếc gương đó đã bị vỡ làm đôi. Biết chuyện cậu Tuấn trinh sát có nói trêu đó là điềm “xúi” lắm và kể lại chuyện cũ hồi ở nhà cô em gái vô tình làm vỡ chiếc gương treo tường nên bị tai nạn giao thông. Nhưng tôi thì cố gạt đi và nói mấy câu cho Chung vui. Sau tết, chúng tôi lại được lệnh ở lại chốt đường cho xe chở hàng hậu cần và vũ khí cho đơn vị bạn. Chúng tôi phải đi theo hai vết bánh xe cũ để gỡ mìn chống tăng và mìn bộ binh do địch gài. Sau đó dải quân ra chốt hai bên đường cách 50m một người. Tối hôm trước khi đi chốt đường, trời tối đen như mực, hai chúng tôi đang nằm tâm sự trong hầm âm thì có một con đom đóm rất to bay vào. Chung nói đùa là thằng Xuân nó về kia kìa (chả là hôm trước cậu Xuân trinh sát mới hy sinh do vấp phải mìn địch). Tôi phải bấm nó mấy lần ra hiệu không được nói nữa, không khéo thủ trưởng nghe được lại xạc cho một trận.

Sáng hôm sau chúng tôi xuất phát. Đội hình đi theo hàng một, dẫn đầu là trinh sát và công binh. Tiếp sau người nọ cách người kia mọi và phải dẫm đúng vết chân của người đi trước. Đây là đoạn đường cắt qua hành lang của địch từ Thái Lan sang nên địch gài rất nhiều loại mìn. Chúng tôi vừa đi vừa gỡ mìn nên một giờ chỉ đi được khoảng 1km.

Khi mặt trời gần đến đỉnh đầu thì chúng tôi gặp phải một cây rừng lớn bị cháy đổ vắt ngang qua đường nên đội hình phải vòng tránh sang vệt xe bên kia. Đã gần nửa đội hình vượt qua được, sau đó đến Chung và tôi. Tôi đang nhẹ nhàng bước theo vết chân trước thì bỗng ầm… một tiếng, đất đá bay vào làm rát mặt. Định thần lại, tôi đã thấy Chung đang từ từ ngã xuống, hai ống quần bị cháy xém, máu tuôn ra rất nhiều. Thì ra Chung đã sơ ý dẫm phải quả mìn KP2 cháy chưa hết kíp nổ, nó đã nhảy lên đúng đáy chiếc máy thông tin Chung đeo sau lưng và chụp xuống xé nát hai chân anh. Tôi vội lao lên băng bó vết thương cho Chung và nhanh chóng cùng anh em cáng Chung về đơn vị. Nhưng do vết thương quá nặng, Chung thiếp dần và ra đi mãi mãi…

Chiến dịch kết thúc thắng lợi, trên đường hành quân trở về đơn vị, bên cạnh niềm vui chung, trong lòng tôi nặng trĩu nỗi thương tiếc vô cùng người đồng đội đã ngã xuống để lại ước mơ đến ngày chiến thắng trở về sẽ theo học tiếp trường đại học Tài chính và trở thành một nhà quản lý kinh tế”.

Những lần đến nhà Chung, tôi nghe mẹ Chung kể:

“Em nó chết thiêng lắm, anh ạ. Nhà tôi dạo đó, đi ngủ thường để xoong nồi bên cửa, đề phòng kẻ trộm. Tôi nhớ đêm đó, tôi và ông nhà tôi nằm ở gian này. Nửa đêm nghe xoảng xoảng xoảng xoảng. Tôi dậy ra xem. Tất cả vẫn y nguyên. Cửa vẫn đóng. Tôi trở vào. Một lúc sau, lại nghe tiếng loảng xoảng. Ông nhà tôi dậy, ra xem, vẫn không thấy gì. Một lúc sau, lại nghe tiếng loảng xoảng trên gác. Tưởng là chuột, tôi chạy lên. Vẫn không nghe động tĩnh gì. Ít lâu sau, nhận được thư bạn Chung báo tin Chung hy sinh. Tôi tính ngày âm, đúng cái đêm hôm đó. Hình như em nó về. Cháu biết không, lạ lắm. đêm đó, hai chị gái của Chung đi thành phố Hồ Chí Minh. Cả hai chị đều mơ thấy Chung về. Một bên chân đầm đìa máu. Anh cả của Chung cũng vậy. Mơ thấy em về. Vai đeo ba lô, chân đi tập tễnh.

Rồi một năm sau, gần đến ngày giỗ đầu của Chung, tôi cứ thấy một con đom đóm, to như ngón tay cái thế này này, sáng rực, bay vào, lượn khắp nhà, đậu lên tấm ảnh Chung, đậu vào bàn thờ, rồi bay lên gác. Một lúc sau mới bay đi. Những lần sau, cứ gần đến ngày giỗ Chung, lại có con bươm bướm, to lắm, bay vào, đậu ở bàn thờ. Sau này tôi chuyển bàn thờ em nó lên gác, con bướm cũng theo lên đó”.

Khi tôi đến nhà Chung xin gia đình những tấm ảnh của Chung. Mẹ và anh của Chung ngồi tiếp. Mẹ Chung hỏi:

– Em nó mất chân nào hở anh?

– Chân phải bác ạ. Vì khi bước qua một thân cây to đổ chắn ngang, chân phải bao giờ cũng đặt lên trước – tôi làm động tác bước qua thân cây cho mẹ Chung hình dung.

(hình)

1. Phạm Văn Chung (bên phải) khi đang học lớp 3.

2. Phạm Văn Chung lúc ôn thi đại học (tháng 6/1978)

3. Phạm Văn Chung (thứ 4 từ trái qua hàng sau) cùng gia đình (tháng 10/1976.

Có tiếng cháu nhỏ khóc ở nhà trong, mẹ Chung chạy vào. Anh Chung cùng tôi ngồi lại. Chuyện gần chuyện xa. Tôi nhớ lại ngày trước chúng tôi đá bóng ra sao. Anh cả Chung nghẹn lời:

– Nhắc chuyện đá bóng. Ngày bé, Chung hay ra chợ Mơ đá bóng. Có lần đá vỡ mấy cái vại sành, niêu đất của người ta. Họ đến tận nhà mách. Tôi tức quá, lấy xích, xích chân thằng em lại. Bây giờ…

Anh không nói tiếp được nữa. Cúi mặt xuống. Tôi vội ra về. Ôm lấy anh, chào tạm biệt. Anh không nói gì. Tôi nhìn vào gương mặt anh, thấy đôi mắt người đàn ông tuổi gần 60 đỏ hoe.

Chủ nhật ngày 25 tháng 2 năm 2001

Tết Kỷ Tỵ vừa rồi, gặp Minh “da đỏ” và Vinh “gạo”. Lần nào gặp nhau, chúng tôi cũng đều nhắc đến chuyện làm thế nào để chuyển mộ Hạm từ Tây Nguyên về Hà Nội. Hạm và Điệp chết cùng một ngày, hai đứa chôn cùng một nơi. Nay mộ Điệp đã tìm thấy, còn mộ Hạm đang ở nơi nào? Đối với chúng tôi, cái chết của Hạm là một trong những cái chết đau xót nhất.

Sau khi dự lớp tập huấn điều lệnh sỹ quan mới ở Nha Trang, tôi tranh thủ về thăm nhà được một tuần. Ngày 16-5-1982, tôi lên tầu Thống Nhất về lại đơn vị.

Tối 18-5, tầu đến Diêu Trì. Tôi xuống ga, lang thang một mình, chưa biết đêm nghỉ đâu, bỗng có một anh bộ đội đến làm quen. Đi loanh quanh một hồi, rẽ vào một hẻm phố, anh ta rủ tôi trèo lên sân thượng của một ngôi nhà nhỏ, mái bằng, để ngủ. Chẳng còn cách nào khác, tôi đồng ý.

Gối đầu lên ba lô vẫn đeo khẩu súng ngắn bên mình, tôi cố thức. Đề phòng người bạn đường mới quen.

Đang mơ màng, chợt thấy động, tôi vùng dậy. Người bạn đường kia đã ôm ba lô của tôi đang lao xuống đất.

“Trộm! Trộm! Bắt lấy nó!” Tôi hô lên thất thanh và rút súng đuổi theo, vừa chạy vừa bắn bừa một phát lên trời. Ông chủ nhà cũng chạy ra đuổi trộm. Chạy được một quãng chừng 200 mét, tên trộm phải vứt ba lô của tôi để chạy thoát thân. Mẹ kiếp! Bao nhiêu tài liệu quan trọng của trung đoàn suýt bị mất. Mình suýt toi mang vì thằng bộ đội đểu. Ông chủ nhà trách tôi sao quá tin người.

Lại lang thang ra ga Diêu Trì. Đã hơn 12 giờ đêm. Ngồi bên quán nước, bỗng gặp một anh lính răng vẩu ám khói thuốc lào.

– Ở đơn vị nào đấy? Anh hỏi.

– Dạ, em ở F307, E29

– À, đồng hương rồi. Tớ ở E576 đây. Mới từ bên K về.

– Tình hình bên đó thế nào?

– Mìn muỗi liên miên. Hôm qua có hai thằng 29 chết.

Nghe anh nói, tôi đã hình dung tình hình chiến trường không có gì khác so với một tháng trước đây, khi tôi còn ở bên đó. Tôi cũng không quan tâm hai người lính trung đoàn tôi chết là ai, E29 đông lắm. Đóng quân trên một địa bàn mênh mông.

Nghe tôi kể vừa bị trộm ba lô, anh dẫn tôi cùng anh về nhà trọ gần đó. Anh chỉ cho tôi lên một cái giường, có màn cẩn thận. Tôi lại gối đầu lên ba lô, ngủ ngon lành. Dù sao anh ấy cũng là lính cùng sư. Vì trung đoàn pháo 576 là đơn vị phối thuộc với sư đoàn tôi.

Tôi tỉnh dậy vì ánh nắng chiếu qua đầu hồi hình tam giác trống hoác vào giữa mặt. Tôi nhỏm dậy. Chợt thấy hoảng vì quanh tôi, trên các giường khác, giường nào cũng có một đôi nam nữ. Anh lính của E576 cũng nằm cạnh một người phụ nữ. Chị ta đang ngồi vấn mái tóc dài của mình. Thì ra tôi đã gặp chị này cùng ngồi bên quán nước nhưng tôi không để ý. Thấy tôi, chị ta cúi mặt.

Ăn sáng xong, tôi cám ơn và chia tay anh. Đón xe lên Plây-ku. Nghỉ lại ở trạm 7 mấy ngày vì không có xe sang Cam-pu-chia. Được chứng kiến những cơn mưa cao nguyên thật hoang dại.

Mấy hôm sau có đoàn xe của người Khơ me chở gạo sang Cam-pu-chia, tôi xin đi nhờ đến Strung-treng. Rồi từ đó, qua mỗi đơn vị, tôi lại trình giấy công lệnh, xin người đưa mình đi từng đoạn đường. Cứ như thế hơn 20 ngày trời, tôi đã đi bộ hơn 600 cây số qua Chchép, qua trung đoàn 94, qua sông Sen, qua Kulen để về đến trung đoàn bộ E29.

Qua Đồi Đá, tôi kinh hoàng nhìn thấy cái hố mìn tăng đã giết chết Hạm và Điệp. Sâu như cái hầm cá nhân. Anh em E94 kể rằng dưới quả mìn tăng, bọn địch còn đặt một khối thuốc nổ 10kg nữa. Thảo nào một xe tải chở đầy gạo, trên thùng xe có thêm 4 lính ta, bị lật đổ nghiêng. Khi tôi đến, chiếc xe đã được kéo đi. Gạo còn rơi vãi đầy xung quanh. Đặc biệt, trên miệng hố và gần đó, tôi còn nhặt được những giấy tờ cắt quân trang của Điệp, giấy đề nghị trường đại học Bách khoa cung cấp tài chính tiếp tục cho Hạm… Những tờ giấy pơ-luya màu trắng, màu xanh vẫn còn đây mà Điệp và Hạm ở đâu? Tôi cúi xuống lượm những mảnh giấy đó. Không dám hỏi anh em E94 về cái chết của Hạm và Điệp. Không hiểu sao, tôi sợ họ biết tôi là bạn thân của hai người. Hoặc tôi sợ nếu hỏi, sẽ bộc lộ những tình cảm yếu đuối của mình. Tôi cứ lặng im đi.

Khoảng 5 giờ chiều, anh em E 94 giao cho tôi một đơn vị khác. Đó là một đơn vị nhỏ, đóng gần một phum người Khơ-me. Vừa thấy tôi, một cậu lính trẻ cất giọng nhỏ nhẹ.

– Anh Hạm anh Điệp đồng hương của anh, chết rồi.

Tôi gật đầu, không nói gì. Thấy chặng đường trước mặt còn dài mênh mông quá, không biết số phận mình ra sao.

Khi về đến trung đoàn, tôi mới được anh em kể về cái chết của Hạm và Điệp. Số là, trung đoàn có một xe để chở anh em được phục viên về nước. Chiều tối ngày 16/5, xe vẫn đỗ bên này sông Sen. Trong khi đó có 3 xe chở gạo của người Khơ-me sang bên kia sông. Sợ đêm xuống, nước sông lên to, xe không sang được như mọi năm nên Hạm, Điệp cùng Minh da đỏ và Đại bám theo xe bạn sang trước.

Sáng hôm sau, xe ta qua sông và vượt lên đi đầu. Con đường qua Đồi Đá nhiều mìn nên xe nào cũng ngại đi trước. Hạm và Điệp cùng Minh và Đại ngồi trên xe bạn, đi thứ 3. Hai xe đầu đi qua, không có dấu hiệu gì nguy hiểm. Đến xe chở 4 người này, người tài xế chủ quan đi chệch vết xe trước. Thế là mìn nổ, xe chở đầy gạo như thế mà bị lật. Cả 4 người bay tung khỏi thùng xe, văng xuống đất. Hạm chết ngay tại chỗ. Điệp bị thương nặng. Vào đến bệnh viện thì chết. Minh bị chấn thương cột sống. Mỗi Đại bị thương tương đối nhẹ.

Khi Điệp bị thương, anh còn nhận ra ba lô của mình. Tuy đau đớn, song Minh vẫn gắng bò, thu lượm giấy tờ cho bạn bè. Minh còn nhớ, khi bị thương, trên tay Hạm còn đeo chiếc đồng hồ và Điệp còn đeo cái nhẫn vàng. Nhưng khi nhập viện thì những thứ đó không còn nữa.

Tối hôm đó 17/5/1982, Hạm và Điệp được chôn ngay bên bờ sông Sen. Anh em tỉnh đội Thuận Hải, đơn vị kết nghĩa với tỉnh Prếch-Vi-hia, chôn.

Khi qua sông Sen, tôi không gặp ai để hỏi về mộ Hạm và Điệp. Chiến trường mênh mông, người đơn vị mình chết ở đâu có người ở đơn vị đấy chôn cho.

Hạm và Điệp chết, có phải vì quá cẩn thận không? Sang sông từ chiều hôm trước. Không đi xe ta mà đi xe bạn cho an toàn vì bọn lính Pôn Pốt chủ yếu bắn vào xe ta. Xe bạn lại đi sau chỉ chẳng may vướng mìn, cũng không ngờ được quả mìn tăng còn kèm theo 10 cân bộc phá. Chứ một quả mìn tăng thì cũng chẳng sao. Tôi cũng bị một lần vấp mìn tăng khi lên sư đoàn. Đang ngồi trên thùng xe. Mìn nổ, bay tung người xuống. Ù tai. Đau ê ẩm. Địch bắn ra như mưa. Nhưng nằm dán mình xuống đất, miệng vẫn hô xung phong.

Nhưng mọi người nói, Hạm và Điệp chết có lẽ là do ăn thịt chó đen. Đã chó đen lại còn chết.

Đầu đuôi câu chuyện thế này. Khi được tin Hạm, Điệp cùng Minh và Đại được phục viên, anh em đồng hương Hà Nội rất mừng, làm bữa liên hoan chia tay. Việc lo thực phẩm được giao cho Vinh gạo, lính trinh sát trung đoàn. Mọi lần vào phum đổi chó và gà rất dễ, không hiểu sao hôm ấy, Vinh đi mấy phum vẫn không đổi được con chó nào. Mãi quá trưa, đến một phum rất xa mới đổi được một con gà nhỏ và con mực. Buộc mõm lại cho vào ba lô, đeo về đơn vị. Xẩm chiều mới về đến nhà. Mở ra thì chó đã chết. Tuy vậy anh em vẫn cố cắt tiết. Còn con gà nhỏ để nấu cháo. Mọi người đều biết là chó chết nhưng không ai để ý bởi niềm vui ngập tràn.

Thức ăn thừa, anh em còn gói lại để bốn người mang theo ăn đường.

Và thế là, sáng hôm sau nữa, mìn nổ.

Trịnh Quốc Tài đang tập huấn chỉ huy 12 ly 7 vội theo xe về trung đoàn báo tin. Gặp Vinh gạo vừa đi tuần về, Tài nhẩy xuống nói:

– Vinh ơi! Thằng Hạm và Điệp chết rồi!

Vinh không tin. Cả trung đoàn không ai tin. Bao năm ở chiến trường không sao. Giờ trên đường về đi học lẽ nào lại chết? Điệp ở pháo binh, từng dày dạn trận mạc. Chứ còn Hạm, mấy năm ở chiến trường, chưa hề phải bắn một viên đạn. Mấy tháng đầu làm vệ binh, sau về ban tài vụ trung đoàn đến lúc phục viên. Số phận thật đen đủi.

Lẽ nào Hạm linh cảm về cái chết của mình từ rất sớm? Tôi còn nhớ về những ngày đầu tháng 11-1978, khi chúng tôi đang hành quân bằng tầu Thống Nhất vào Nam. Đêm ấy trên tầu, tôi không ngủ, ngồi bên cửa sổ đầy gió lộng và ngắm sao trời. Chợt Hạm đến bên tôi. Hai đứa nhìn vào trong khoang tầu. Bọn Khánh “xếch”, Tân “cu lừng” đang say sưa sát phạt đỏ đen, còn lại anh em đang ngủ ngon. Người nằm, người ngồi, người ngủ gục… Bỗng giọng Hạm vang lên thầm thì:

– Không biết trong những khuôn mặt này, ngày về, ai còn, ai mất?

Tôi không để ý đến tâm trạng của Hạm. Lãng mạn quáTôi không để ý đến tâm trạng của Hạm. Lãng mạn quá chăng? Lúc đó chúng tôi không hề biết mình đang đi đâu. Có thể vào Sài Gòn. Tôi nhớ gương mặt Hạm lúc ấy, rất tươi, tuy vẫn phảng phất buồn. Lúc ấy lòng tôi đang âm vang một khúc tình ca thời chiến.

Rồi đầu năm 79, khi chúng tôi phải sang sông Mê Kông từ đêm trước. Sáng hôm sau đánh nhau từ sớm đến trưa. Đói. Người chết, người bị thương quanh mình. Tôi đã phải nhăn mặt vào, lấy bát sắt úp lên bụng, băng cho một thương binh bị thủng ruột trên đường. Và chốt lại bên sông. Mấy hôm sau, bộ phận hậu cần trung đoàn mới sang bằng phà. Chúng tôi gặp Hạm. Từ bờ bên kia, nhìn dòng Mê Kông mênh mang cuộn sóng, Hạm chợt cất giọng:

– Thôi, thế là con tốt sang sông rồi nhé!

Minh lùn cười:

– Tốt sang sông chỉ có tao thôi nhé. Trinh sát luôn đi đầu rúc bụi.

Tôi không có sự mẫn cảm giống Hạm. Ừ, con tốt sang sông chỉ đường quyền đi thẳng đi ngang, chứ không có đường lùi. Đêm, tôi sang sông bằng thuyền máy nhưng phải chèo bằng tay để giữ bí mật. Đến giữa sông, tôi vốc nước rửa mặt với ý nghĩ: nếu mình chết, phải giữ cho gương mặt sạch sẽ. Lúc ấy tôi nhớ hình ảnh một người tù binh, bị đối phương mang đi hành quyết, yêu cầu cuối cùng của anh là xin được rửa mặt trước khi chết.

Con tốt sang sông ư? Hạm còn được về phép trước tôi. Nhưng sau này, nghe anh Bằng, anh trai Hạm nói, trước khi trả phép, không hiểu sao Hạm rất buồn. Gia đình Hạm nhận thấy điều người nhưng không ai dám nói. Ít ngày sau thì nhận được tin Hạm hy sinh.

Hạm ơi, còn nhớ ngày hai đứa mình ở chung nhà của anh Quách Công Đệ, xã Phú Tường, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình không? Chiều ấy mình ra trung đoàn lĩnh quân trang về, Hạm ở nhà lấy củi một mình, nhìn núi xanh buồn rơi nước mắt. Hạm tâm sự với mình, sao mình không biết nói gì để an ủi Hạm?

Rồi những ngày ở chiến trường ác liệt, Hạm dành cho mình từng tờ giấy viết thư, từng lọ mực. Chính trong những ngày ác liệt ở An-lung-viêng, Hạm đã cho mình mượn “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”. Và chính Hạm đã khích lệ, tin tưởng và hy vọng mình sẽ trở thành nhà thơ! Và mình vẫn còn giữ bài thơ của nhà thơ Tiệp Khắc Jiri Taufer do Hạm chép cho mình. Bài thơ ấy lại do một cô bạn gái của Hạm gửi cho Hạm ở chiến trường. những câu thơ sao giống hoàn cảnh chúng mình đến thế: “Dạo ấy chúng mình ra đi/ xa đất nước mà không cần hộ chiếu/ không ngoại tệ, không tiền tiêu/ Một cuộc hành quân ra mặt trận/ Cả hai đứa mình/ Đều yêu đất nước đó? Đồng ruộng cùng làng quê/ Niềm tin và hy vọng”.

Rồi mình đi công tác ở Nha Trang, không hy vọng được về Hà Nội. Tháng 4 năm 82 ấy, biết tin Hạm sẽ được về lại Đại học Bách Khoa, mình đã sang gửi một chùm thơ, nhờ Hạm mang về tạp chí “Văn nghệ Quân đội”. Khi xe bị trúng mìn, đồ đạc trong ba lô Hạm tung tóe. Cả những bài thơ của mình cũng tả tơi. Không ngờ Minh lùn còn cố gắng thu lượm, bỏ ba lô, mang về. Gần năm trời điều trị tại đoàn 979 Quy Nhơn chờ cấp thẻ thương binh, Minh đã không làm mất chùm thơ, mà còn mang được về Hà Nội, giao cho nhà thơ Vương Trọng.

Hạm ơi, Điệp ơi, Minh ơi, chùm thơ ấy, sau này được tạp chí VNQĐ trao giải A trong cuộc thi thơ 1983 – 1984. Đêm chiêu đãi bạn bè ở Đại học tổng hợp và đại học Ngoại ngữ mình nhắc lại số phận chùm thơ này. Nhớ Hạm, Điệp và Minh vô cùng.

Rồi những năm sau, cứ đến ngày 17 tháng năm, mình lại mua bó huệ, đến thắp hương cho bạn. Mỗi lần bước vào căn nhà 23 Phùng Khắc Khoan, bố Hạm lại giơ bàn tay xương xẩu ôm lấy mình, khóc: “Tuấn đấy à? Sao cháu giống thằng Hạm nhà bác thế?”. Mình cũng khóc theo.

Rồi một lần rủ Vinh gạo đến cùng. Nó không đi:

– Tao ngại quá! Lần nào bố nó cũng khóc. Tao không muốn khơi lại vết thương của gia đình thằng Hạm.

Biết nói thế nào? Vinh gạo cũng có lý. Giờ bố Hạm mất rồi, mà xác Hạm vẫn còn ở rất xa. Biết khi nào mang được bạn về Hà Nội, Hạm ơi?

Ôi những ngày ở chiến trường, Hạm cho mình xem tấm ảnh nhỏ xíu của cô bạn tên Oanh kháu khỉnh. Một tình yêu. Và Hạm còn hẹn, sau này, khi nào mình cưới vợ, Hạm sẽ làm phù rể cho mình. Ngày mình cưới, Hạm không về được, mình cũng chẳng mời ai làm phù rể đâu.

Nhất định chúng mình sẽ mang xác Hạm về Hà Nội.

Tôi đến nhà Nguyễn Văn Minh ở xóm Chùa, Đồng Nhân, Hai Bà Trưng hỏi thăm về cái chết của Hạm và Điệp. Minh là người đi cùng chuyến xe đó. Minh mở tủ đưa tôi cuốn nhật ký đời lính. Đây là đoạn ghì trong bệnh viện về cái chết của hai người bạn thân.

“Trưa ngày 15-5 chiếc xe GMC chuyển bánh rời khỏi trung đoàn, chở chúng tôi về với Mẹ. Xin giã từ mãi mãi mảnh đất này, chiến trường này, trong chúng tôi dâng tràn những niềm vui xốn xang về những ngày sắp tới. Những kỷ niệm của quá khứ trở nên tẻ nhạt không có gì quyến luyến. Nỗi buồn đọng lại trong chúng tôi lúc đó chỉ bởi những cánh tay vẫy chào của những đồng đội, đồng hương ở lại. Những anh em đất thánh ở lại kia biết đến lúc nào chúng tôi sẽ lại gặp nhau, và lúc đó người nào không về được?

Bỏ lại đằng sau những địa danh đã in dấu chân chúng tôi qua đường 12, Tà ben, sông Sen, Đồi Đá 94 và…

Đến hôm nay sau gần một tháng nằm điều trị tại V19, sức khỏe tôi đã khá hơn, một vòng bột trắng nặng chịch ôm quanh người tôi từ giữa hông lên gần nách khiến tôi vận động rất khó  khăn. Nằm viện buồn quá, phải ghi lại những đau buồn đã qua và cũng là để giết chết thì giờ về nghĩa, lấp đi những gì trống trải trong lòng. Phải nằm sấp trên giường mà viết vậy.

Lúc này đã vào giữa tháng 6, mùa mưa đã chính thức bắt đầu, nước ở dòng sông Sen dâng tràn đỏ ngầu, gây rất nhiều khó khăn cho việc vận chuyển ở vùng này. Năm nay mùa mưa đến muộn hơn, nhưng những dấu hiệu ban đầu đã khiến người ta lo lắng cho một mùa mưa ác liệt hơn sẽ tới và đang tơi. Mới đầu mùa địch đã tăng cường hoạt động mạnh, địch từ trong dân ra, từ ngoài biên vào, những tiếng mìn nổ, những chuyến xe bị phục, những cáng thương binh… Cả đoạn đường xe từ tỉnh lên sư 307 hầu như không còn một chiếc cầu nào.

Đáng lẽ ra lúc này chúng tôi đã có mặt tại Hà Nội và đang sống những ngày vui sướng nhất. Nhưng mảnh đất ác nghiệt này, kẻ thù thâm độc này đã ngăn cản chúng tôi. Chúng tôi đã tỏ ra bất lực trước dòng sông Sen, đã qua rồi lại phải quay lại. Người thì phải nằm lại yên nghỉ mãi mãi. Hạm và Điệp, trẻ như tôi, Đại, Tuấn thì một tháng nay vẫn chưa qua nổi dòng sông này. Xe qua đồi Đá rồi bỗng dưng chẳng ai còn biết gì nữa, khi tỉnh lại thì mỗi người một nơi, một hố mìn tăng rộng hoác đã bắt chiếc xe dừng lại và quăng chúng tôi xuống đường. Oái ăm thay, tất cả bốn thằng lính Hà Nội chúng tôi đều bị chấn thương không dậy được, anh em đưa chúng tôi lên xe quay về viện 19. Nhưng dọc đường Hạm đã tắt thở, còn Điệp vì bị gẫy xương đùi và bị choáng quá mạnh nên khi đến viện mặc dù được cấp cứu ngay cũng không qua khỏi. Còn lại hai chúng tôi đều bị chấn thương cột sống phải nằm bất động.

Ôi! Thế là H + Đ đã ra đi thực sự rồi. Có lẽ nào sự thật lại phũ phàng thế chăng? Sáng nay chúng tôi còn ngồi chung xe, còn cười, còn vui khi nghĩ đến ngày đặt chân lên đất Hà thành. Thế mà trưa nay… Chả lẽ nào đêm qua lại là đêm cuối cùng tôi ngủ cùng với Hạm, lẽ nào…? Lẽ nào…? Sự thực đau xót là vậy mà tôi đâu có tin là sự thực. Các bạn của tôi ra đi đột ngột quá, nhưng lại rất lặng lẽ, bình thản không một lời dặn lại. Thương tiếc các bạn quá! Đau quá! Đau như đứt ruột ấy mà mắt cứ ráo hoảnh, trừng trừng. Tôi muốn kêu lên, thét lên trước sự thật phũ phàng này. Ôi, điều mà chúng tôi mong ước bấy lâu nay đến hôm nay đã trở thành sự thực rồi, đứa nào cũng vui, cũng sướng khi được cầm tờ quyết định, thế mà chỉ còn đường về thôi, chỉ cần qua một đoạn đi ngắn khoảng vài km, vài trăm mét… Rồi vài mét nữa thôi mà cũng không được. Chiếc bánh xe đi trật đường, một tiếng nổ, thế là các bạn tôi phải nằm lại, nằm lại vĩnh viễn bên mảnh đất này. Mẹ ơi! Thế là con của mẹ đã xa mẹ thật rồi, đứa con mà Mẹ mong ngóng từng giờ, từng ngày đã không bao giờ trở về bên Mẹ nữa. Vắng con yêu Mẹ biết sống ra sao. Và chiều nay Mẹ nào có hay, Mẹ lại ra đứng tựa cửa trông về phía trời xa chờ mong con của Mẹ trở về. Mẹ vẫn tin con của Mẹ sẽ về với Mẹ! Mẹ ơi! Con của Mẹ ra đi rồi, sẽ có những đứa con khác làm con của Mẹ: chúng con đã nói với nhau rồi: chúng con có chung một Mẹ.

Hạm, Điệp ơi! Nhớ lại ngày nào chúng ta gặp nhau ở C4 huấn luyện ấy. Trước kia nào chúng ta có biết nhau, thế mà chả mấy chốc chúng ta đã thân nhau và gắn bó với nhau, gắn bó cho đến tận bây giờ và còn mãi về sau nữa. Bởi vì chúng ta đã hiểu nhau quá và có nhiều nét đồng cảm nữa: gia đình, bản thân, cuộc sống với những ước mơ. Ngay cả cho đến khi sang đây cũng thế thôi. Cuộc sống chiến trường khiến chúng mình càng gần gũi hơn, càng đậm đà hơn. Mỗi đứa mỗi đơn vị đó nhưng vẫn thường xuyên lo lắng săn sóc nhau đó! Săn sóc lo lắng khi một đứa thiếu thốn, ốm đau gặp khó khăn, lo lắng trong mỗi chuyến công tác của bạn và cũng phấn khởi, vui cười khi bạn trở về bình an, mạnh khỏe.

Hạm, Điệp ra đi đã để lại trong tôi một sự trống trải lớn không gì lấp nổi cả về hiện tại cũng như về cuộc sống sau này. Cuộc đời tôi về sau này sẽ mãi mãi thiếu một cái gì đó lớn lao, cần thiết. Trước kia ở đơn vị chúng tôi đâu có chịu vắng nhau, một tuần không nhìn thấy nhau là nhớ lắm rồi. Hạm người cao, mảnh người, trán cao thông minh, tính tình sôi nổi, chân thực thẳng thắn và nhiệt tình với bạn. Hạm có cái nhìn nhạy bén về mọi vấn đề, thường đưa ra những vấn đề buộc người khác phải tranh luận và luôn bảo vệ ý kiến của mình bằng những lập luận, phân tích chắc, sát. Hạm là người có nhiều ước mơ và có sự nhiệt tình ham mê đến cao độ đối với khoa học. Hạm là một người con hiếu thảo với cha mẹ. Bố mẹ Hạm già cả rồi. Hạm là con út mới học xong đã phải ra đi, chưa giúp đỡ gì cả nên Hạm rất thương bố mẹ già yếu ở nhà. Chính vì vậy mà Hạm đã xác định con đường đi của mình rất rõ ràng dứt khoát, xác định rõ cả những khó khăn mà mình sẽ phải gặp và luôn mong mỏi vào ngày trở về – một ước mong cháy bỏng ở H đó. Và ở H còn có một nét riêng nữa là hay nghĩ ngợi nhiều khi mất ngủ: nghĩ về gia đình, về hiện tại của bản thân. Nhiều lúc trầm lặng xuống, tôi đã nhiều lần nhìn thấy nét mặt buồn đó. Chính những lúc nghĩ ngợi, buồn bã đó đã thúc giục H mau chóng phải trở về, đã làm giàu thêm những ước mơ ở H, đã thức đầy mạnh mẽ hơn sự ham mê trong con người đó và càng làm nảy sinh nhiều dự kiến mới trong tương lai.

Tôi đã phải học ở H rất nhiều. Tuần nào tôi cũng phải tìm cớ gặp H, giao báo ban cũng tạt vào, có việc đi qua cũng tạt vào, rồi ngày nghỉ, có lúc một chốc, lúc cả buổi, có khi cả ngày thường là để trò chuyện với nhau tất cả cả những gì chúng tôi quan tâm. Thường những lúc đó H luôn sôi nổi hơn tôi, tôi đi lại với H đến nỗi có người nhầm tưởng chúng tôi là anh em, họ bảo hai đứa có nét mặt rất giống nhau. Mà làm sao tôi giống H được cơ chứ. Chúng tôi vẫn thường nói với nhau sau này chúng tôi mãi mãi bên nhau. Thế mà giờ đây… Mất H rồi tôi mất đi một người bạn hết sức tốt, mất đi sự tin cậy, và để lại trong tôi một sự trống trải vô cùng lớn không ai lấp nổi.

Còn Điệp cũng đã để lại trong tôi những ấn tượng đẹp đẽ, tôi và Điệp thì có ít điều kiện để gặp gỡ nhưng nếu có dịp nào đấy thì bộ ba chúng tôi nhất định đầy đủ không thể thiếu một ai. Điệp cũng có hoàn cảnh gia đình khác hoàn cảnh gia đình tôi. Điệp một con người dễ thương, sống có tình, nét mặt phúc hậu, hay cười, tính sôi nổi nhưng lại điềm đạm. Cùng có một ước vọng cháy bỏng như nhau, chúng tôi đã gắn bó với nhau. Thế mà đến lúc này chúng tôi lại xa nhau. H, Đ ra đi để lại tôi một mình. Tôi thấy mình càng phải có trách nhiệm nhiều hơn với bạn. Một trách nhiệm cho mãi về sau.

Cùng cuốn sổ nhật ký, Minh còn trao cho tôi một số thư từ của Hạm. Khi Hạm hy sinh, Minh đã báo tin buồn này cho chị Phạm Kim Oanh, người bạn gái thân thiết của Dương Công Hạm. Và Oanh đã viết thư trả lời Minh khi nhận được tin đau này. Chúng tôi xin trích ra đây một phần bức thư của chị Phạm Kim Oanh.

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 21-10-82

Bạn Minh thân mến!

Mấy ngày nay, tôi nhận được thư của mấy bạn học cùng phổ thông vì tưởng tôi chưa biết nên họ báo tin Hạm hy sinh cho tôi hay. Tôi vô cùng đau đớn khi đọc những dòng chữ đó. Cho đến bây giờ, nhiều khi tôi vẫn bàng hoàng không hiểu đây là một sự thật phũ phàng hay chỉ là một giấc mơ phũ phàng? Nhưng những lá thư của anh Các, của bạn và mọi người đã phá vỡ các ảo tưởng của tôi, trời ơi, đây lại là một sự thật, một sự thật… Không, Minh ạ, tôi muốn tin rằng đây là một sự nhầm lẫn, phải chăng trong chiến tranh sự nhầm lẫn là thường tình?

Tôi thấy như trời mưa và tất cả tối sầm lại trước mắt tôi. Tôi không thể cầm được nước mắt khi viết thư cho bạn. Chao ôi! Sao sự thật lại cay đắng, xót xa đến vậy! Chiến tranh, chia ly xa cách – những cái đó thật là khủng khiếp biết bao, vì nó mà bao nhiêu cuộc đời phải chịu những vành tang trắng, những đau đớn suốt đời không nguôi, những mất mát chẳng có gì bù đắp nổi… Tôi nghĩ mãi mà không hiểu tại sao con người ta lại bị ngăn cách nhau bởi cái sống và cái chết? Tại sao số phận con người lại khắc nghiệt đến vậy? Đã gần 5 tháng rồi, người bạn thân thiết nhất đời của tôi đã phải nằm xuống, đã phải trở về thiên cổ, những ước mơ mà Hạm đã nuôi dưỡng suốt 4 năm trời sẽ không là hiện thực nữa. Tôi đã mất đi một người bạn thân thiết, gần gũi nhất của thời thơ ấu, thời thanh niên; người bạn mà tôi rất kính trọng và quý mến. Tôi không thể chịu đựng nổi sự mất mát quá to lớn này, nếu như không vì những người thân quanh mình chắc là tôi không sống nổi. Thế là đã 10 năm rồi, chúng tôi thân nhau. Biết bao kỷ niệm đã gắn bó tình bạn chúng tôi. Những cái đó đối với tôi là vô cùng thiêng liêng. Giờ đây, kỷ niệm vui buồn đó lại sống động trong lòng tôi một cách rõ rệt nhất những điều tưởng chừng như vụn vặt nhưng nó đã làm thành toàn bộ cuộc sống của tôi. Bao giờ tôi cũng mong muốn tình bạn chúng tôi mãi mãi tốt đẹp, mãi mãi vững bền. Phải nói rằng, những gì tốt đẹp mà tôi đạt được một phần rất lớn là nhờ ở Hạm. Tình bạn chúng tôi đã giúp tôi vượt qua khó khăn, đau buồn, những thử thách của cuộc sống. Ước mong lớn nhất của tôi bao giờ cũng là một ngày nào đó Hạm được trở về và Hạm sẽ thực hiện được ước mơ mà Hạm đã bao lâu dày công vun đắp và mong đợi.

Đêm nay trăng sáng làm sao. Vầng trăng đó trước kia là nỗi nhớ, là tình thương, là những gì cao đẹp nhất mà tôi dành cho Hạm, bây giờ nhìn lên tôi chỉ thấy một nghĩa trang rộng lớn với những nấm mộ mà thôi. Dù người ta nói thật đúng rằng: trăng thật sáng và đẹp nhưng trong những căn nhà mà trăng làm cho bề ngoài có vẻ đẹp hẳn lên biết bao tâm hồn đang quằn quại vì những đau thương, những nỗi khổ không bao giờ cạn?

Tôi muốn hỏi bạn nhiều chuyện, muốn vô cùng nhưng nhiều khi tôi thấy khó diễn tả trong thư quá, có lẽ nói với nhau bao giờ cũng dễ hơn. Trước hết tôi muốn hỏi bạn mộ Hạm bây giờ đặt ở đâu? Có phải ở nghĩa trang Xiêm Riệp không? Thời gian ở bên đó, bạn có điều kiện đến thăm mộ của Hạm lần nào chưa? Và khả năng mai sau mộ Hạm có thể được chuyển về nước? Bạn cũng là một bạn thân của Hạm, vì thế bạn chắc hiểu Hạm nhiều và như bạn nói, bạn biết nhiều về tôi. Tôi rất mong muốn qua những lá thư sau bạn hãy kể lại những kỷ niệm về những năm tháng ở chiến trường, về tình bạn giữa Hạm và bạn. Tôi rất muốn biết nhiều về cuộc sống, về những ngày tháng gian khổ mà Hạm đã trải qua, những vùng đất nào mà Hạm đã đến. Bạn ạ, xưa kia qua những lá thư Hạm luôn nói với tôi rằng ngày trở về Hạm sẽ kể nhiều chuyện cho tôi nghe, tôi vô cùng khao khát được muốn nghe những mẩu chuyện về những năm tháng trong chiến đấu của Hạm. Suốt những năm tháng ở đại học tôi đã mong chờ những ngày đó biết nhường nào nhưng giờ đây thì Hạm đã không còn nữa. Tôi vô cùng đau đớn và thương tiếc Hạm! Biết bao nhiêu chuyện mà chúng tôi đã không nói được với nhau và vĩnh viễn… Và những kỷ vật của Hạm trong đó có lá thư của tôi giờ đây ai giữ?

Tôi rất muốn được giữ kỷ vật đó.

Còn một chuyện này, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, giờ đây tôi quyết định sẽ hỏi bạn. Bạn còn nhớ đợt anh Các về phép và đã mang hộ thư của Hạm gửi cho tôi? Từ ngày đó trở đi tôi không nhận được một lá thư nào của Hạm. Không hiểu những lá thư tôi gửi trong năm vừa rồi Hạm có nhận được không? Tôi suy nghĩ nhiều nhưng không hiểu được tại sao tôi không nhận được một lá thư nào của Hạm. Nếu Minh biết, mong rằng thư sau bạn hãy nói cho tôi rõ sự thật. Tôi hiểu rằng có thể bạn sẽ đắn đo khi trả lời câu hỏi trên của tôi vì bạn sợ tôi buồn, nhưng tôi thiết tha mong muốn bạn hãy viết cho tôi, nói cho tôi hay sự thật một cách thật chân thực nếu bạn biết dù đó là sự thật thế nào chăng nữa. Một lần nữa, tôi rất thiết tha về vấn đề trên cả tôi và bạn sẽ nói một cách rất thật và đầy đủ cho nhau biết.

Cuối cùng, tôi chúc bạn luôn mạnh khỏe, đạt được mọi ước mơ trong cuộc sống. Tôi rất mong thư bạn.

(Phạm Kim Oanh 76 Nghĩa Thục, Q5, TP HCM)

Bạn

Phạm Kim Oanh,

(Hình)

Binh nhì Dương Công Hạm (Ảnh chụp tháng 11/1978 ở Hà Nội trong lần về phép trước khi vào chiến trường K).

Đôi bạn Đoàn Văn Điệp và Dương Công Hạm trên đất Cam-pu-chia (tháng 10/1980)

Trích nhật ký của chị Doanh, chị gái của Điệp

Hà Nội ngày… tháng… năm 2000

Cứ đến hè hoa phượng nở đỏ rực trên các hè phố Hà Nội, những tháng năm này cả nhà ai cũng nhớ đến em… Ngày mong em trở về để được đoàn tụ gia đình sau bao năm chờ đợi. Mong đợi cái ngày em về để trường Đại học Y dang tay đón nhận em. Một người lính đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế. Song ngày ấy không còn nữa và em đã ra đi thật xa… Hè năm nay bố mẹ, anh, chị, và cậu Đằng mong tìm được mộ em đã xa cách bao lâu rồi, ngoài Tô quốc hay trong đất nước mình… Khi được biết tin cậu Liên, một người tìm mộ rất giỏi, cả nhà bố mẹ, chị đã tìm đến nhờ cậu. Người nhờ xem rất đông, song cả nhà đã kiên trì chờ gặp được cậu Liên. Gia đình đã nhờ được chú phóng viên ở Gia Lai chụp được ở nghĩa trang Plâyku (qua ảnh cậu Liên nói đó là mộ của em). Thế là một ngày đẹp đầu tháng 6 cả nhà lên tầu vào Gia Lai tìm em… Bố, cậu Đằng, chị ruột của em đã lên đường. Ngồi trên tầu cả nhà mong được gặp em lắm. Chị luôn khấn trời phật phù hộ cho chuyến đi này. Khi xuống tầu tới Qui Nhơn để lên Gia Lai, trời mưa rất to, ngồi trong ô tô lên Gia Lai chị đã khóc. Khóc nhớ cái ngày cách đây 19 năm khi về phép, em trở lại đơn vị cũng mưa như những ngày hôm nay. Mưa xối xả qua kính ô tô, trong lòng chị nhớ thương em nhiều hơn… Bố và cậu Đằng ngồi cạnh chị trên xe – chắc cả nhà cũng cùng trong tâm trạng – Mưa! Mưa lạnh, chị cũng lạnh,  nghĩ đến em nằm nơi đâu có lạnh không em. Em nằm đó cùng đồng đội trên cao nguyên – có biết rằng người chị gái nhớ thương em bao năm ròng… Xe cứ chạy chạy mãi, trời tối dừng ở một khách sạn ở thành phố Plâyku. Cả nhà đã vào nghỉ tại đây. Song bố và chị không sao ngủ được, chỉ mong cho chóng sáng để được ra nghĩa trang được gặp em…

Suốt đêm bố và chị nói chuyện về em… về những ngày em nằm tại nơi đây khi mùa nước đến!… Cũng thành phố này nhưng chắc ngày ấy là những bìa rừng cảnh lán trại căn cứ của đơn vị. Sau mưa rét em mới trở lại Cam-pu-chia. Và ngày trở lại thì có, mà ngày trở về đâu còn nữa… Và bây giờ em lại nằm lại nghĩa trang Plâyku này. Sáng hôm sau khi cả nhà lên ô tô ra nghĩa trang nơi em nằm… Sáng nay đi sao lòng chị và bố xúc động quá. Mỗi bước chân lên tới nghĩa trang là bố và chị như nhìn thấy em, trong màu áo lính đã sờn, ngôi sao lấp lánh trên mũ – và đang mỉm cười đón bố và chị. Khi thắp nén nhang đầu, trên mộ em và đồng đội – đã thấy em về – tim chị bị bóp lại, toàn thân chị lúc ấy không còn là chị nữa. Chị chỉ còn gào thét tên em. Điệp ơi! Điệp ơi. Bố và chị – cậu Đằng đã ở ngay cạnh em đây! Em ơi! Sau 18 năm rồi còn gì, cả nhà mong em, giờ mới tìm lại được em. Đúng là em của chị rồi, trái tim chị bị bóp nghẹn, chân tay chị không còn đứng vững được. Chị gặp em rồi. Bố mẹ và cả nhà giờ này đang mong tin em đây! Bố gọi điện về cho mẹ và cả nhà. Rồi sau đó cả nhà bố, chị và cậu trở về xin làm thủ tục và rước đón em về. Nơi quê nhà cội nguồn của Tổ tiên. Xe con băng băng qua bao con đường mòn của cao nguyên. Hai bên là những cánh rừng già, xe bon bon suốt đêm qua bao cầu bao sông – suốt quốc lộ. Một đứa em trở về trong vòng tay thương yêu của gia đình, cô dì, chú bác, anh chị em. Và những người bạn của em ở tuổi học trò ngày nào. Hôm nay đây… những ngày của hoa phượng nở đỏ… Nghĩa trang thành phố – Ngọc Hồi nơi sinh ra Tổ tiên ông bà của em đã đón nhận em về trong lòng đất của Tổ tiên sau bao này xa cách… Lễ đón nhận liệt sỹ được cử hành rất long trọng – tất cả các cơ quan, đoàn thể, họ hàng cô dì chú bác – các bạn của em đến tiễn em. Nấm mồ xanh trong nghĩa trang nơi em nằm đây yên nghỉ, vẫn những ngày hè, hoa phượng nở đỏ rực như mừng vui cùng gia đình đã đón được em về gần gũi… Em lại được nằm đây cùng đồng đội với những cây xanh rì rầm với những bông phượng nở đỏ rực…

Cả nhà bây giờ sẽ lại được gần em. Nhất là bố mẹ và chị, anh, em của em. Với những ngày nghỉ, chủ nhật lại được hương khói cho hương hồn em – một người lính trong trắng, được tất cả mọi người yêu quý em.

Em mãi mãi trong lòng của tất cả mọi người.

Người lính trẻ – Đoàn Văn Điệp.

Ngày… tháng… năm 2000

Chị gái em

Đoàn Thị Doanh

Chị Doanh còn kể cho tôi nghe câu chuyện khá li kỳ về việc nhờ vả nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên tìm thấy mộ Điệp ra sao. Thỉnh thoảng tôi tạt qua phố Lê Văn Hưu nói chuyện với chị Doanh. Chị có một quán nước nhỏ bên hè phố. Cũng có lần gặp cả Nguyệt, em gái Điệp. Hai chị em còn cho tôi biết thêm vài chi tiết về cái chết của Điệp. Chẳng hạn, không hiểu sao, trước ngày phục viên, Điệp lại gói tất cả thư từ và nhật ký của mình vào một bọc rồi gửi cho một người bạn trai rất thân của Điệp là bác sĩ Trần Việt. Lúc này bác sĩ Việt đang tu nghiệp ở Mỹ. Điệp và Việt là những người bạn thân nhau từ hồi phổ thông cùng thi và đỗ vào Đại học Y khoa Hà Nội. Hiện nay Việt vẫn giữ tất cả những kỷ vật cuối cùng đó của Điệp.

Nguyệt còn kể, ngày Điệp mất, đám bạn học phổ thông đến chia buồn. Hai cô bạn gái Liên và Hằng mới kể lại, rằng dạo trước khi thi đại học, cả bọn kéo nhau đi xem bói. Ông thầy phán về Điệp là: “Cậu này sẽ chết ở nơi đất khách quê người”. Các bạn mới bảo: “Điệp ơi, mày học giỏi làm gì để mà sang Liên Xô rồi chết ở bên đó!”. Vì dạo ấy ai cũng nghĩ đỗ đại học điểm cao sẽ được đi Liên Xô. Có ai ngờ “đất khách quê người” với Điệp lại là Cam-pu-chia!

Còn Hạm, Minh lùn cứ hay nhắc lời Hạm ví “con tốt sang sông”, còn tôi lại cứ nhớ trên tầu vào Nam, tháng 11 năm 78 ấy, chưa ai biết đi đâu, làm gì, mà sao Hạm đã linh cảm trước cảnh “người còn kẻ mất”? Và nhiều người khác cứ nhắc chuyện ăn thịt chó chết, lại là chó mực nữa. Đen vô cùng là đen.

Một ngày hè năm 2001, cùng một số anh em, tôi về thăm tại Đồng Bông, Phú Tường, huyện Lạc Thủy, Hòa Bình, nơi những gia đình đồng bào Mường và Kinh đã cưu mang, cho chúng tôi ở nhờ những ngày huấn luyện. Tôi vào thăm gia đình anh Quách Công Đệ ở thôn An Bình. Anh đã biết tin Hạm và Điệp hy sinh. Tin do anh Quách Văn Quý, người thôn này nhận khi đi liùnh, 1974, cũng ở trong trung đoàn 29 chúng tôi, về kể. Hăm hai năm đi lại con đường ngày xưa, nơi mỗi chiều, có ngôi sao Mai chơi vơi trên ngọn tre bên đường, Hạm và Điệp, sau khi ăn cơm ở bếp đại đội về, mỗi người còn múc thêm một bát nước rau muống luộc, vừa đi vừa uống “để trong người có thêm chất vitamin”. Đây vườn sắn bên chân núi, nơi một chiều Hạm ngồi ứa nước mắt nhớ Hà Nội. Đây cái giường trong nhà anh Đệ, nơi tôi và Hạm cùng nằm, vẫn còn nguyên, tuy đã có vài đường mọt ăn. Đây thung lũng, nơi thao trường ngày xưa, chúng tôi cùng lăn, lê, bò, toài, giờ đầy khoai sắn. Đây con đường qua hẻm núi, một tối Hoàng An đã đảo ngũ, băng qua. Đây bờ đập sáng sáng chúng tôi tập thể dục, hô “1-2-3-4” âm vang non nước. Một đoạn được ngắn mà đầy kỷ niệm. Tùng, An, Hạm, Điệp mãi mãi không được về thăm lại nơi này.

22 năm, những người dân nơi đây vẫn nhận ra chúng tôi, tên từng đứa một. Anh Đệ tặng tôi con sóc đỏ mới bẫy được. Chúng tôi mời các anh ra Hà Nội, thăm nhà chúng tôi. Khi đến đây mới 18 tuổi tròn. Lúc quay lại đầu đã hai thứ tóc, song tình cảm vẫn như xưa, nhớ ơn những người nghèo khi đã nhường cơm chia nhà cho chúng tôi.

Thứ sáu 20 tháng 4 năm 2000

Buổi trưa, đi ăn cơm bụi. Bà chủ quán đong cho bát cơm khê. Tôi nói với người bạn đi cùng:

– Cơm này, thời lính chắc có nhiều người bỏ lắm đây.

Thế là câu chuyện của chúng tôi liền xoay quanh chuyện cơm khê, cơm sống. Không biết tự bao giờ, trong đời sống hàng ngày của lính, lưu truyền cái tục kiêng ăn cơm sống, cơm khê, cơm nát. Bởi ăn cơm sống: gặp địch; ăn cơm khê: gặp đích; ăn cơm nát: cũng gặp địch. Mà đã gặp địch thì trường hợp bị thương hoặc hy sinh thường rơi vào người ăn sống hoặc cơm khê.

Tôi nhớ năm 79, đang hành quân, chẳng may một bữa trưa, anh nuôi nấu cơm khê, Cường “phở” lính 74, quê Hải Phòng, cầm vắt cơm, quăng ngay đi, chửi rầm trời suốt chặng đường, kể cả lúc giải lao, chửi đến tận chiều tối. Lại còn dọa bắn anh nuôi nữa. Ông Hán, thủ trưởng trung đoàn can cũng không nổi.

Sau tết năm 81, anh Liễm được ra quân về nước, hầm tôi thêm một người mới: chuẩn úy Đặng Văn Độ, trợ lý tác chiến. Anh Độ người Hải Phòng, cao, hơi đen, tóc dựng. Vừa đến hầm tôi, đúng bữa cơm trưa, Thuận đi lấy cơm về. Anh Độ phát hiện ra cơm khê. Nhịn luôn. Tôi và Thuận cứ ăn. “Ăn cơm khê cho thơm miệng” – Thuận đùa. Vừa ăn, chúng tôi vừa nghe anh Độ kể:

– Đơn vị mình vừa chết một thằng. Tên nó là Cải. Thằng này nổi tiếng là ky bo nhất đơn vị. Không bao giờ cho ai cái gì. Ai cũng ghét, không chơi với hắn. Anh em thèm thuốc rỏ rãi mà hắn vẫn hút một mình. Đến tàn thuốc cũng giấu đi, nhưng chiều qua tự nhiên ông tướng lục ba lô, cho người này cái áo, cho người kia chiếc bi đông, còn mình thì hắn cho chiếc dây lưng. Còn bao nhiêu thuốc rê trong ba lô hắn chia hết cho mọi người.

Nhưng đặc biệt là, đến tối không phải phiên hắn đi phục, hắn vẫn xung phong đi. Hắn là tiểu đội trưởng. Khi phục, thì hắn lại phân công hai người nằm bên này đường, còn hắn nằm chếch phía bên kia. Đến khuya không hiểu thế nào, hắn Cải nà lại bò ra, nằm ngang giữa đường, đầu gối lên súng, hai tay giang ra, ngáy khò khò. Gần sáng bọn địch đi qua, gặp ông Cải chúng nổ súng bắn liền.

– Thế chiều qua đơn vị anh nấu cơm sống hay khô? – Thuận hỏi đùa.

– Vừa sống vừa khê, không biết thằng Cải có ăn không, chứ mình thì vẫn nhịn.

Tôi không biết mặt anh Cải, cũng không rõ quê anh ở đâu, song từ đó đến giờ, cái chết của anh Cải vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi.

Thứ hai ngày 12 tháng 3 năm 2001

Đọc lại truyện ngắn “Một bữa no” của Nam Cao, tôi lại nhớ đến cái chết của trung sỹ Lê Văn Ẩm, C6, người Quảng Ngãi. Trong truyện ngắn của Nam Cao, bà cái đĩ đã phải quằn quại, mệt và chết vì bội thực sau nhiều ngày nhịn đói. Anh Ẩm của tôi cũng vậy. Anh đã chết vì một bữa thịt nai.

Anh Ẩm có dáng người cao, tình hiền lành, ít nói. Đặc biệt anh có nụ cười rất đôn hậu. Bộ ria rất “tay chơi” cũng làm nổi vẻ đẹp đôi môi đỏ của anh, dù anh hút thuốc khá nhiều. Anh vấn thuốc rất “suya”. Nhìn anh vấn thuốc, có cảm tưởng như nhìn một người thợ thủ công lành nghề đang chăm chú sản phẩm. Anh luôn phải vác B40, B41, song tôi chưa thấy anh to tiếng với ai bao giờ. Đó thật sự là một người nông dân với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp còn nguyên.

Mùa khô năm 80, một trung đội C6 truy quét ở khu vực nông trường mía, trên An-lung-viêng. Lương thực thực phẩm thiếu, nhưng vì nhiệm vụ, vẫn phải đi. Ròng rã nửa tháng trời, đến muối cũng gần hết và nước thì luôn thiếu.

Mùa khô hành quân thật gian nan. Mệt lả, mắt mỏi chân mỏi, ai cũng khát khao trở về. Có lần Hoàng Phê, người Khánh Hòa, bỗng truyền xuống: “Phát hiện một con đường chạy về Việt Nam!” Tin lan theo hàng quân. Tôi nghi ngờ, giữa rừng xanh núi đỏ thế này vẽ đâu ra con đường về Việt Nam? Đại đội trưởng lên kiểm tra. Thì ra mấy lính trinh sát đi đầu rỉ tai nhau và truyền xuống chỉ huy rằng: phát hiện một lối mòn chạy từ hướng bắc về hướng nam”. Tin ấy truyền đến anh chàng Phê thì bị cải biên. Anh này người miệt biển, mù chữ, chỉ biết viết mỗi tên mình nhưng chữ ê lại thiếu dấu, thành ra trên mũ anh ta lúc nào cũng có một chữ PHE nguệch ngoạc.

Đêm hôm đó, nghỉ lại giữa rừng, Hoàng Phê thắc mắc “sao mùa khô mà đi mãi không gặp vũng suối nào để bắt cá? Xứ sở của cá gì mà thế này? Đ. Mẹ, về quê tôi, ăn cá ngập đầu!”. Anh Ẩm vừa bốc gạo sấy vừa nhai vừa đùa: “Ông già đặt tên mình là Ẩm làm gì mà từ bé đến giờ lúc nào cũng đói khát”.

Bỗng một buổi sáng, đang hành quân, anh em bắn được con nai. Ngả làm thịt giữa rừng. Xoong, chậu, mắm, mỡ không có. Mọi người chỉ còn cách nướng. Sau bao ngày mệt mỏi, đói khát, được bữa thịt nai ấm chân răng. Ăn thật ngon lành. Nói cười rôm rả.

Đến trưa, trung đội trưởng Văn Châu Thanh, người Quảng Nam ra lệnh hành quân tiếp. Chủ yếu đi tìm nước uống. Bởi vừa ăn thịt nai chấm muối, ai cũng khát. Đến khoảng 2 giờ chiều, anh em gặp một con suối nhỏ. Mọi người ùa xuống. Người cứ thế vục mồm xuống uống, người múc bằng mũ cối, ngửa cổ đổ tràn vào miệng, có người còn tranh thủ ngụp cả đầu xuống. Rồi sau đó tất cả sang bờ bên kia nghỉ giải lao.

Riêng anh Ẩm không ngồi. Vẫn đeo gùi B40, anh đứng dựa vào một thân cây to, khịt khịt mũi. Bỗng anh nhăn mặt, bụng quặn lên, thở dốc. Mặt anh tái xám, mắt trợn ngược, miệng méo, nói không ra hơi. Không ai để ý đến anh. Bỗng nghe rầm một cái. Cây B40 đổ xuống. Mọi người nhìn lại, thấy anh Ẩm trợn mắt, sùi bọt mép, ngã vật ra. Gùi đạn vẫn đeo trên lưng. Y tá Đi, người Bình Định, vội chạy tới hô hấp nhân tạo, song không được. Anh Ẩm lăn lộn trên đất. Chỉ khoảng 15 phút sau đã từ trần.

Cuộc hành quân truy quét gần kết thúc phải bỏ dở. Khiêng anh Ẩm về C6 mất một ngày. Từ C6 về tiểu đoàn lại mất một ngày nữa. Tôi nhận xác anh Ẩm lúc trời đã tối. Tắm rửa, liệm, bỏ quan tài, làm biên bản kiểm nghiệm di vật tử sỹ đến khuya mới xong. Đêm đó tôi ngồi viết điếu văn để mai chôn anh sớm.

Y tá Nguyễn Đi kể, mấy hôm trước khi chết, hôm nào anh Ẩm cũng kể: “Đêm qua lúc gác tao ngửi thấy mùi thịt nướng. Thơm điếc mũi”. Anh em trêu Ẩm. Song Ẩm vẫn khát khao “sẽ được ăn một bữa thịt nướng chết bỏ”. Đi vừa kể vừa cười, cái mũi tẹt phập phồng. Anh ấn chiếc võng vào ba lô, buộc lại rồi đứng lên: “Tui đi đây. Đừng buồn, đồng hương. Ông Ẩm chết thế là mãn nguyện rồi. Tui đây mà chết thì chẳng có gì để lại đâu”. Đi cười và bước nhanh.

Con người ấy sống quá đỗi hiền lành. Những ngày tôi đi phối thuộc với C6, với giọng rủ rỉ rù rì, anh thường kể cho tôi nghe chuyện đồng quê anh, chuyện con bò nhà anh ăn hết ruộng mía ra sao, chuyện ông già anh khỏe thế nào, 60 tuổi vẫn bơi qua sông cứu thuyền đắm thế nào… Hình như tôi không thấy anh văng tục một câu. Đọng mãi trong tôi, anh cười thật hiền, đôi mắt đen láy, nụ cười thật tươi, tầm thước thật đẹp, bước đi thật dài.

Chủ nhật 18 tháng 3 năm 2001

Chương trình thời sự của Đài truyền hình Việt Nam có đưa tin về công việc đánh bắt cá của bà con ngư dân Phú Yên. Giọng nói của những người dân Phú Yên có một âm sắc thật riêng, thật lạ. Giọng đó sâu hơn giọng Ba Vì, hơi dính. Lúc đầu có vẻ khó nghe. Nhưng đã nghe một lần thì không bao giờ quên.

Mỗi lần nghe giọng nói ấy, tôi lại nhớ đến em Cường, chàng trai Phú Yên vóc người nhỏ, gầy, mặt nhiều tàn nhang. Em đã chết trong một buổi chiều mùa khô trên đường gùi gạo từ Cam Tuất về An-lung-viêng.

Tôi gọi Cường là em vì em còn trẻ lắm. Nhập ngũ năm 1980, phải vào ngay chiến trường ác liệt là tiểu đoàn tôi ở An-lung-viêng. Dạo ấy, trong đơn vị, chúng tôi đã là cựu binh bởi sau chúng tôi còn có nhiều lớp lính nhập ngũ các đợt của năm 79 và 80. Cường về trung đội thông tin của tôi. Tôi nuôi đàn gà con. Nhìn những lính trẻ như Cường, sao tôi thấy thương các em, chiêm chiếp, chiêm chiếp như lũ gà con đến kỳ bị mẹ bỏ rơi.

Sáng hôm ấy, tôi gặp Cường, tay cầm dao, run run đi trong rừng. Mặt tái mét, mồ hôi đầm đìa. Ánh mặt vàng vọt, run rẩy. Từ gương mặt ấy tôi thấy tỏa ra mùi ung ủng thối như mấy bông hoa phù dung ở gần nhà bếp đang rữa ra dưới mưa. Cái mùi tàn úa ấy sao lúc này lại tỏa ra từ gương mặt Cường?

– Cường, sao không về nghỉ? – Tôi hỏi.

– Anh Lang vẫn bắt em đi chặt cây. – Cường ứa nước mắt.

Tôi chạy đi tìm Lê Quỳnh Lang. Tôi vừa xa trung đội thông tin được ít ngày, có thể anh Lang còn nể.

– Anh Lang, thằng Cường đang bị sốt rét, sao anh không cho nó nghỉ?

– Trung đội hết người rồi. Cử nó đi chặt cây cũng là để nó cử động chân tay…

Trong thời điểm gay go ấy, thông tin chẳng khác gì bộ binh. Canh gác, truy quét, đi phục, gùi đạn, gùi gạo, đào hầm… Dạo ấy, chúng tôi phải làm cả hàng rào chống B40. Bọn địch hay bắn vào nhà hầm. Chúng tôi phải đi chặt những cây gỗ to, dựng sát vào nhau ở phía sau nhà thành một bức tường cao từ 4-6 mét. Nhiều lần địch tương B40 vào nhà hầm, may có hàng rao đó nên anh em đỡ thiệt mạng.

Nghe Lang thở dài nói, tôi hiểu hoàn cảnh của anh và Cường. Tranh thủ lúc rỗi, tôi đi giúp Cường chặt và khiên cây về.

Sáng hôm sau, trong đoàn quân đi gùi gạo, tôi lại gặp Cường. Em lại vẫn đang lên cơn sốt rét. Tôi xin Lang cho Cường nghỉ, vẫn không được. Lý do là hết người. Và Cường vẫn đi, vẫn gùi gạo như mọi người. Có điều em đi lật đật phía sau. Gùi gạo nặng quá. Em bước đi loạng choạng, không dẫm đúng theo dấu chân những người đi trước. Qua khỏi suối, em giẫm mìn. Em chết. Mắt vẫn mở trừng trừng, như ngạc nhiên, như không kịp kêu đau đớn. Ôi, rất trẻ. Mới 18 tuổi đầu.

Chúng tôi khiêng em về. Xuống anh nuôi, xin nước nóng, rửa ráy và vuốt mắt cho em. Lạy trời, lạy Phật, lạy em mãi, mắt em mới chịu nhắm. Khiêng thân hình gầy guộc của em vào quan tài, nhẹ bẫng mà lòng tôi nặng nề.

Lúc chôn em, tôi vẫn phải gắng gượng cứng cỏi đọc điếu văn.

Đã chôn bao nhiêu đồng đội, nhưng bao giờ tôi cũng không dám là người đầu tiên ném nắm đất  xuống quan tài. Tôi vô cùng sợ cái âm thanh của viên đất rơi xuống ván thiên. Bởi tôi sợ nghe tiếng đó vang trong mơ.

Em Cường đã chết. Tôi vẫn nhớ gương mặt đau khổ của em lúc bị sốt rét vẫn phải làm việc, và giọng Phú Yên của em như vẫn đang phân trần với tôi. Và cái mùi hoa phù dung tan rữa dưới mưa tỏa ra trên gương mặt em. Sau này, đọc E. Hemingway, tôi nhớ ông kể về một võ sỹ đấu bò tót bị bò húc chết bởi trên gương mặt anh ta từ hôm trước đã tỏa ra mùi chết. Phải chăng mùi hoa phù dung đang tan rữa trên gương mặt Cường cũng là mùi chết?

Thứ tư 21 tháng 4 năm 2000

Thỉnh thoảng tôi gặp trên đường phố một vài người sinh viên có gương mặt giống Dương Công Hạm hoặc ai đó có nét hao hao giống Nguyễn Xuân Nhật Minh hay Hoàng An. Những cuộc gặp gỡ lặng lẽ, đơn phương đó mang đến cho tôi một niềm cảm động, rằng những đồng đội thân yêu của tôi hình như vẫn còn sống đâu đó quanh tôi.

Những lúc gặp đạo diễn Đặng Xuân Hải, Giám độc điện ảnh quân đội, tôi nhận thấy anh Hải có nụ cười giống anh Tô Văn Than, đại đội trưởng đại đội 6 của chúng tôi. Có điều đôi mắt anh Than to hơn, dài hơn, lấp lánh hơn; dáng người anh Than cao và chắc khỏe hơn, ra dáng một cán bộ chỉ huy quân sự hơn.

Nhưng anh Than đã hy sinh rồi.

Một buổi sáng đầu mùa mưa năm 80, tôi vừa thức dậy đã thấy anh Than đứng trước cửa hầm. Đêm qua thức nấu rượu với anh Liễm nên tôi dậy muộn. Nồi rượu vẫn đang chảy vào chai huyết thanh. Thấy anh Than đến, anh Liễm rót rượu ra mời, bốn bát bốn người. Thêm Huỳnh Đức Thuận. Anh Liễm cười, giọng chủ xị:

– Rượu đầu be đấy. Uống vào bổ lắm!

Anh Than cười và đùa:

– Chốc ra kia, không bổ ngang thì bổ ngửa như chơi.

Cứ mỗi lần chúng tôi ép, anh lại nhắc đi nhắc lại câu này. Vừa nói vừa cười rất tươi. Gương mặt anh rượu vào ửng hồng rất đẹp. Có ai ngờ trên gương mặt đó đã đượm mùi tử khí?

Chúng tôi vừa nhấp môi thì chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Vẳng bước từ trong hầm tiểu đoàn ra, gọi:

– Này Than, về xem đơn vị thế nào. Anh em đi tuần phát hiện bãi mìn ngay lối vào đơn vị đấy.

Anh Than mới về làm đại đội trưởng C6 được hai tháng. Đơn vị anh mới rút từ trên núi về đứng chân gần tiểu đoàn. Uống nốt chỗ rượu, anh Than vội đi.

Khoảng 10 phút sau, chúng tôi nghe có tiếng mìn nổ phía C6. Tin điện sang tiểu đoàn: anh Than vấp mìn. Cùng lúc đó, chiếc võng cáng anh Than được khiêng tới. Anh nằm im trên võng, như đang chìm vào giấc ngủ đau đớn.

Rồi chúng tôi liệm anh, đặt anh vào quan tài. Người anh quá dài nên phải nối quan tài ra.

Chôn anh Than buổi sáng trời thật đẹp. Những cây khộp khô đang xòe những chiếc lá xanh non. Bầu trời cũng xanh như tán lá. Câu nói lúc uống rượu của anh Than cứ ám ảnh mãi trong tôi. Mà sao anh cứ vừa cười vừa nhắc đi nhắc lại đến mấy lần?

Lúc làm biên bản kiểm tra di vật tử sỹ, tôi thấy có một lá thư của anh Than viết cho vợ nhưng chưa kịp gửi. Thư đã dán kín và có tem nên tôi không thể đọc. Trong trích ngang, thú thực là tôi không còn nhớ quê anh ở đâu. Mãi đến ngày 21-8-2001, gặp anh Thừm, anh Hiên ở Hòa Bình hai anh mới nói cho tôi biết anh Than quê ở xã Đại Hoàng, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Sơn Bình và nơi làm việc của vợ anh là Công ty lương thực Hà Sơn Bình. Mấy ngày sau đó, lòng tôi cứ băn khoăn hình dung cách vợ anh nhận tin báo tử ra sao?

LỜI THƯA CUỐI SÁCH

Ngày vào chiến trường, tôi có mang theo cuốn “Chiến Trường – Sống Và Viết” của Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Bản in lần đầu. Tôi nhớ trong đó, một nhà văn Nga đã kể về một số trường hợp hy sinh của mấy nhà văn Nga ở chiến trường. Có nhà thơ linh cảm mình sẽ hy sinh khi bị đạn bắn vào đầu thì ít lâu sau nhà thơ này cũng hy sinh đúng như hoàn cảnh đó. Có nhà văn linh cảm mình bị đạn quân thù bắn trúng tim và sau đó anh cũng hy sinh khi trái tim vỡ nát. Rất tiếc rằng nhiều lần tái bản sau này, bài viết đó bị loại bỏ đi. Tôi mang câu chuyện này nói với nhà thơ Ngô Thế Oanh. Anh cũng công nhận lần in đầu có bài thơ đó.

Cuốn sách này thật khó viết. Hơn mười năm trước, tôi đã thử viết một lần, dưới dạng tiểu thuyết, nói về những cái chết của đồng đội tôi. Nhưng nhiều người chết quá, không thể dựng được nhân vật chính. Được vài chục trang, lại bỏ.

Mấy năm sau, tôi nghĩ ra một cách. Vẫn tiểu thuyết, nhưng dưới dạng những bức điện gửi về trung đoàn. (Vì tôi là lính thông tin). Mỗi bức điện là một cuộc hành quân, một trận đánh và những người hy sinh. Nhưng viết được dăm sáu bức điện, thấy đơn điệu quá, lại thôi. Tôi đã ghi đề từ cho cuốn tiểu thuyết có tên là “Linh Cảm” đó: “Con mèo nhỏ linh cảm cơn động đất/ Ngựa đang phi biết phía trước đầm lầy/ Lính chúng tôi linh cảm mình sẽ chết/ Dù số phận cuốn đi vẫn sống trọn kiếp người”

Chuyện linh cảm về cái chết không những có ở loài người mà còn có ở cỏ cây và các loài sinh vật khác. Trong những năm chiến tranh, thành phố Hà Nội có phát động chiến dịch cấm nuôi chó. Những người dân phòng thường cầm gậy gộc xông vào từng nhà đập chó. Tối tối, những con chó bị đuổi đánh, chạy tứ tung khắp phố. Nhà tôi cũng nuôi một con chó. Buổi sáng hôm ấy, dân phòng rầm rập kéo đến, gậy gộc lăm lăm. Con chó mất hết hồn vía, nằm như con thỏ trong gầm giường. Bố mẹ tôi xin các bác dân phòng tạm tha, đừng đập, sẽ làm thịt nó ngay. Sau khi dân phòng rút đi, đến tận chiều, lôi mãi, con chó mới dám mò ra. Nó không đi được nữa, gục bên bát cơm, những dòng nước mắt ứa ra. Bố mẹ tôi cứ nhìn nó, nát cả cõi lòng mà không làm gì được. Nó không sủa, không ăn, không buồn đi lại. Nó có nói được gì đâu mà cũng biết mình sắp chết.

Và cỏ cây cũng mang tâm hồn, tính cách như con người. Có người luôn vươn lên như cây dương; có người luôn bi quan, buồn như cây liễu, có người ương ngạnh như cây dứa dại nhưng bên trong lại chứa trái tim nhân hậu, như liều thuốc giúp người bệnh đúng lúc… Tôi nhớ những ngày sống nhờ bên nhà bố mẹ vợ, hàng rào trước cửa là mấy lùm cây. Những đêm trăng, nhìn những lùm cây đó, tôi luôn cảm thấy gương mặt bạn bè đã chết hiển hiện, rõ rệt mà lặng im, những đôi mắt trong sáng, lấp lánh nhìn tôi như muốn nói điều gì. Tôi nhớ căn hầm ba người của Hoàng An ở An-lung-viêng. Sau khi ba người lần lượt hy sinh, mỗi lần qua đó nhìn vào, tôi cố đi và nhìn thật nhanh, vẫn cảm thấy cái hố đó đen ngòm, đầy khí lạnh thoát ra. Và cái cây nhỏ trước cửa hầm, hàng ngày anh em vẫn phơi khăn, gác đũa bát lên đó, sau này cũng hắt hiu, héo dần, lá tự khô và thân cây cũng tự se lại.

Trong lòng tôi luôn suy nghĩ một điều là những người lính đồng đội tôi, hình như đã linh cảm thấy mình sẽ chết. Nhưng họ hoàn toàn không ý thức được điều này. Định mệnh, số phận và cái chết cuốn họ đi. Chỉ khi họ chết rồi, xâu chuỗi lại những lời nói và hành động của họ, tôi mới nhận ra được những điều họ đã linh cảm. Những ngày học ở Nga, tôi được xem bộ phim “Ngày mai đã có chiến tranh”. Bộ phim gợi cho tôi sự so sánh “Ngày mai chúng mình đã hy sinh”.

Trong những năm tháng chiến tranh, tôi đã được chứng kiến nhiều cái chết của đồng đội. Đã phải chôn và bốc cả một nghĩa trang của tiểu đoàn tôi ở An-lung-viêng. Năm 1982 đã áp tải hơn 40 xác đồng đội về Đức Lập… Khi biết tôi có ý định viết cuốn sách về những đồng đội bị thương hoặc hy sinh, những người còn sống trở về đã giúp tôi rất nhiều tư liệu. Nguyễn Minh Toàn, Trịnh Quốc Tài, Đào Long Đỗ, Nguyễn Văn Minh… đã cung cấp cho tôi rất nhiều nhật ký và ghi chép chiến sự. Song nếu làm cuốn sách như thế quả là công phu. Còn đồng đội ở Quảng Nam, Bình Định, Thuận Hải nữa. Chưa gặp được họ. Còn cả một núi tư liệu khác nữa. Chỉ có cách dần khai thác mà thôi.

Cuốn sách này tôi đã dựng lên rất nhiều chân dung những đồng đội đã chết. Song cuối cùng, để tập trung cho chủ đề cuốn sách, tôi chỉ chọn ra 18 chân dung những đồng đội của tôi – những người đã linh cảm về cái chết của mình. Về hình thức cuốn sách, cũng do sự tình cờ đã giúp tôi trộn cái chết hôm qua với cuộc sống hôm nay. Đó là những sợi dây vô hình nhưng hết sức bền chặt.

Chiến trường mênh mông. Mỗi đơn vị, mỗi người lính phải đánh bao nhiêu trận. Một mình tôi không thể quán xuyến nổi. Xin cảm ơn Tuấn trinh sát, Trường bút thép, Thành run, Toàn lùn, Sơn kép, Tài môi đỏ, Huần, Lê Minh Quốc cùng nhiều chiến hữu khác đã góp công cùng tôi hoàn thành cuốn sách này. Những thư từ nhật ký đó, dẫu có đoạn còn dài dòng tôi vẫn giữ nguyên để tôn trọng tính chân thực của tư liệu.

Xin cảm ơn số phận những ngày ác liệt đó đã đưa tôi từ trong đội thông tin lên làm trợ lý chính trị tiểu đoàn – một công việc cho tôi tiếp xúc với nhiều đau thương.

Xin cảm ơn những đồng đội, đồng hương đã chết, khi còn sống, anh em đã tin cậy tôi, đã tâm sự với tôi, đã gửi gắm ở tôi những điều sâu kín trong lòng, để khi sang thế giới bên kia, hình bóng các bạn vẫn mãi còn bất tử.

Về sự linh cảm của con người trước cái chết, nhiều người đã viết, ở trong nước cũng như trên thế giới. Trong khi viết cuốn sách này, tôi được chứng kiến vụ nổ tại ngầm Kursk của Nga. Và mới đây, Nhà xuất bản Thông tấn cho ra mắt cuốn “Bí Mật Tàu Ngầm Nguyên Tử Kursk”, trong đó có một số trang nói về sự linh cảm của các thủy thủ trước tai họa. Xin trích ra đây để bạn đọc tham khảo.

Bất cứ một sự kiện nào xảy ra trên thế giới, nhất là những sự kiện bi thảm, thường kèm theo những điềm báo trước không rõ ràng. Thật đáng tiếc, mọi người chỉ hiểu ra những ý nghĩa thầm kín đó sau khi tai họa xảy ra. Trước khi tàu ngầm nguyên tử Kurks bị đắm, trước đó cũng diễn ra nhiều điềm báo và linh cảm.

Tàu Kursk đã nhiều lần ra khơi, và chuyến ra đi cuối cùng của con tàu vào tháng 8 lại là chuyến đi buồn tẻ nhất. Không hiểu tại sao lúc đó một làn sóng của những linh cảm không may bao trùm lên các thủy thủ và gia đình họ. Nhiều người trong số họ đã nhìn thấy giấc mộng tiên tri, quanh họ diễn ra những sự việc không thể giải thích nổi.

Chị Natasa, vợ Đại úy quá cố Rachin nhớ lại: Khi chồng chị ra đến cửa, bất chợt quay lại, im lặng nhìn chị hồi lâu.

– Sao anh lại nhìn em im lặng thế?

– A! Chỉ để ghi nhớ em thôi – Anh trả lời chị như vậy.

Hôm đó, lần đầu tiên trong đời anh mang theo những bức ảnh của con gái, anh nói để chúng sẽ luôn luôn bên anh.

Trong gia đình Thượng úy Rednicov, người đầu tiên linh cảm thấy tai họa là cô con gái Dasa, tuy cách xa nơi thảm họa hàng nghìn kilômét. Ngày 12-8, dường như đúng lúc bố cháu hy sinh, một cơn động kinh vô cùng khủng khiếp xảy ra với cháu, và những người trong nhà không hiểu tại sao như vậy.

Chuẩn úy Kadaderov khi sửa soạn đồ dùng đi công tác, chìa vết sẹo trên bắp chân và nói với vợ:

– Em có thể nhận ra anh nhờ có vết sẹo này đấy.

Câu nói của chồng không bình thường đến mức vợ anh nhớ nó suốt đời.

Chuẩn úy Belaev, đầu bếp của tàu, theo vợ anh hồi tưởng lại, ngày hôm trước khi tàu Kursk rời bến, không hiểu tại sao lại nói với vợ:

– Giá như em biết anh chẳng muốn chết ở dưới biển tí nào.

Lúc đó người vợ chẳng để ý gì đến câu nói của chồng, nhưng mấy hôm sau chị mới linh cảm thấy ý nghĩa đáng sợ của câu nói đó.

Thượng úy Dmitri Kolexmicov chính là người ở  khoang số 9 kịp viết lại một mẩu thư để chúng ta biết rõ tiến trình tai họa xẩy ra. Trước lúc ra đi, chuyến đi cuối cùng, không hiểu sao anh lại để ở nhà chiếc thánh giá anh luôn đeo bên mình. Đại úy Hạng nhất Vladimir Barriansev, Tham mưu trưởng Sư đoàn là tác giả của lời chuốc rượu rất lạ lùng ở Hạm đội Phương Bắc. Không hiểu vì sao trong lời chuốc rượu này, anh lại tiên đoán trước được cái chết của mình. Bốn câu thơ của lời chuốc rượu đó như sau:

Nếu trong tương lai có xảy ra một chuyện

Khắp các khoang tàu bão lốc cứ tràn lên

Làm thủy thủ đoàn phải nghỉ yên vĩnh viễn

Tôi xin nâng cốc này chúc họ mãi bình yên

Tại sao anh lại không viết về đám cháy, về tình trạng ngập nước, mà lại chính về việc “các khoang tàu bão lốc cứ tràn lên”? Bởi vì một tiếng nổ với sức mạnh khủng khiếp đã xé toang các bức vách ngăn các khoang, cơn bão lửa bừng bừng trong khoang thiêu cháy tất cả những cơ thể sống. Đây là sự trùng lặp hay linh cảm?

ĐOÀN TUẤN

YÊU KHÔNG HỐI TIẾC

Yeu không nuối tiếc

– Tên truyện: Yêu không hối tiếc

– Đây là phần 2 của truyện: Chỉ có thể là yêu
– Tác giả: Hân Như (Muội Muội)
– Số chương: 29
– Tình trạng : hoàn thành

Trích đoạn:

“… Chợt cô hạ máy ảnh, cúi xuống nhìn xuống vách núi dưới chân mình. Nơi lưng chừng núi, cách nơi cô đang đứng khoảng 1m, có một loài thực vật kì lạ đứng đó một mình, và vô cùng nổi bật. Nó sống đơn độc, ngay trên vách núi nên từ cái dáng vẻ mỏng manh, cô có thể nhìn thấy một nét gì đó vô cùng mạnh mẽ và kiên cường. Nó có 5 hay 6 lá gì đó, hình tròn, nhỏ bằng bàn tay, màu xanh, những gân lá hơi ngả sang màu tím biếc. Nổi bật giữa đám lá đó là một bông hoa màu vàng, hơi giống hoa uất kim hương nhưng phía đầu cánh nhọn như lá sen…”

Lời tác giả:

Vẫn là những con người đó, nhưng thế giới của CHỈ CÓ THỂ LÀ YÊU giờ đây sẽ nhường chỗ lại cho một thế hệ mới hơn, có suy nghĩ mới hơn, nhưng chân lý tình yêu thì chỉ có một.

18 năm sau, những đứa trẻ rồi sẽ khôn lớn…

18 năm sau, một tình yêu mới lại bắt đầu…

18 năm sau… Có những vụng dại khiến người ta phải ân hận.

Có thể bạn không thích sự trần trụi đó. Tôi cũng không thích. Nên tôi sẽ cố gắng thay đổi nó…

Dành tặng bạn, nếu bạn từng đồng hành cùng CHỈ CÓ THỂ LÀ YÊU

Dành tặng bạn, nếu bạn lần đầu bước vào thế giới của Hân Như.

Dành tặng bạn, nếu bạn tiếp tục ủng hộ YÊU KHÔNG HỐI TIẾC

Tieuthuyet.Net cập nhật các truyện tiểu thuyết, truyện ngôn tình, truyện ngắn tình yêu hay và mới nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ.

Mời các bạn đọc truyện :

 

Chương 1: Trở lại Việt Nam

          Đậu chiếc xe đời mới vào gara ô tô, chàng trai nhanh nhẹn nhảy ra khỏi xe, lại gần người quản gia đang tỉa hoa với một vẻ chăm chú đặc biệt.

– Chú Kim, mẹ cháu về chưa ạ?- Anh liếc chừng về phía ngôi biệt thự sang trọng.

– Thưa cậu, bà chủ đã về từ lâu rồi ạ. Bà nói cậu về thì lên phòng bà ngay.

“Ôi! Ôi! Xong rồi!”- Anh thầm than- “Lần này thì chết chắc với mẹ rồi.”

Cửa phòng làm việc của mẹ anh không khép, anh hé mắt nhìn vào, thấy mẹ mình đang đứng khoanh tay nhìn ra ngoài cửa sổ. Vậy là bà đã trông thấy anh về, có muốn trốn cũng không được. Anh lại gần, ôm chầm lấy bà từ phía sau, nói bằng giọng nịnh nọt mà xưa nay anh vẫn làm nũng với bà:

– Mẹ yêu, con về rồi đây.

– Biết về rồi à?- Mẹ anh khẽ hừ giọng.

– Con nhớ mẹ nên về mà.

– Lần này lái xe đến tận đâu thế?

– Ôi, mẹ thừa biết rồi mà, con có chạy lên trời cũng không thoát khỏi bàn tay của mẹ.- Anh nháy mắt cười và ngồi phịch xuống ghế.

Quay lại nhìn con trai, người phụ nữ ấy khẽ lắc đầu thở dài.

Đã bước sang tuổi 43, Thảo Nhi vẫn còn mang vẻ đẹp mặn mà như gái một con, dù rằng cô con gái thứ hai của chị vừa bước sang tuổi 16, đẹp như một đóa hoa. Nhiều năm nay, là phu nhân chủ tịch tập đoàn Silver Wings nhưng chị vẫn giữ được những nét giản dị, mộc mạc như hồi 20 năm về trước, khi chị còn là một cô sinh viên tỉnh lẻ về thành phố học, rồi vô tình gặp gỡ được con trai của tập đoàn Lotus Vũ Nam Phong.

Sau khi đoàn tụ, chị sinh tiếp bé Trác Vân, rồi cả gia đình sang Hà Lan sinh sống để thuận tiện cho việc phát triển sự nghiệp của chồng chị. Hai đứa trẻ cũng lớn lên trên quê hương hoa Tuylip này cho đến tận bây giờ.

Khánh Nam đã tròn 20 tuổi, giống ba mình như đúc, cũng cao lớn, cũng đẹp trai, thông minh và mê đua xe, nhưng thằng con trai này của chị còn mắc thêm tật phong lưu mà chị không sao sửa được cho nó.

Ném cho đứa con một cái nhìn không hài lòng, chị rút từ trong ngăn kéo ra một đống hóa đơn và phiếu phạt, vất lên bàn, nghiêm giọng:

– Con nghĩ sao nếu ba con trông thấy đống giấy tờ này? Đua xe trái phép để cảnh sát phải gửi vé phạt về nhà, rồi vào quậy ở quán bar… Còn có việc gì là con không dám làm không?

Khánh Nam định mở miệng cãi lại nhưng nhìn thấy đôi mắt giận dữ của mẹ, anh chỉ há miệng ngáp ngáp mấy cái như thiếu hơi rồi lại im re. Mẹ anh thường ngày rất hiền, nhưng mỗi khi bà nổi nóng lên thì nghĩa là bà đang giận thật sự.

– Còn nữa… Đưa con gái vào khách sạn ngủ. Con không nghĩ được việc gì hay ho hơn để làm à?

– Mẹ… Ở đây mấy thằng bạn con đứa nào chả thế. Con vào khách sạn là lịch sự lắm rồi đấy.

– Con còn dám cãi à?- Chị trừng mắt- Mẹ quyết định phải tách con với đám bạn hư đốn đó ra.

– Ôi dào… Đằng nào thì con cũng vui vẻ với chúng được mấy ngày nữa đâu. Sang tháng là con cũng sang Harvard nhập học rồi còn gì. Mẹ yêu cứ lo lắng hão cho già người.- Anh khẽ đung đưa người trên chiếc ghế xoay êm ái.

– Con hãy quên giấc mơ Harvard đi.

– Cái…gì?- Khánh Nam suýt té ngã xuống đất khi nghe mẹ mình nói câu đó- Mẹ nói sao cơ ạ?

– Mẹ và ba đã quyết định sẽ không cho con đi học ở Harvard.

– Mẹ…mẹ điên à?- Anh hét lên- Ơ…con xin lỗi… con không có ý đó… Nhưng thật bất công. Mẹ biết là Harvard không phải là nơi ai muốn đến cũng được cơ mà.

– Mẹ biết.- Chị bình tĩnh đáp lại con trai.

– Thế tại sao ba mẹ lại có quyết định kì cục như thế?

– Đó không phải là nơi ai muốn đến cũng được, mẹ biết điều đó. Nhưng đó cũng không phải là nơi tốt nhất cho con.

– Vậy theo mẹ thì còn nơi nào là nơi tốt nhất cho con?- Anh bất mãn hỏi lại.

– Con sẽ về Việt Nam học.

– Sặc…- Lần thứ hai trong vòng chưa đầy 5 phút, anh bị shock toàn tập- Về…về…về Việt Nam ạ?

– Phải, con sẽ về sống với bà nội và gia đình bác Phương.

– Không.- Anh đứng phắt dậy- Con không về… Sao ba mẹ lại bắt con về đó được cơ chứ?

– Tùy con, con có thể không về, nhưng hãy đưa lại cho mẹ chìa khóa xe và thẻ tín dụng của con.

– Mẹ…- Anh đưa ánh mắt uất ức nhìn mẹ mình, hy vọng bà sẽ mủi lòng- Mẹ nỡ xa con sao? Con là con của mẹ cơ mà. Sao mẹ lại không tin con? Tại sao có thể cho con về Việt Nam mà lại không thể cho con sang Mỹ học?

– Về đó có gì là không tốt cho con đâu?- Chị kiên quyết- Đã đến lúc con phải học cách sống tự lập và trưởng thành hơn rồi. Ba mẹ không thể ở bên con mãi được. Harvard là một nơi rất tốt, nhưng nó không tốt cho bản thân con. Bà nội sẽ sắp xếp cho con vào trường đại học tốt nhất ở Việt Nam. Hai ngày nữa con sẽ lên máy bay.

Biết không còn cách nào khác để lay chuyển mẹ mình nữa, Khánh Nam hậm hực trở về phòng. Anh phải làm một bữa tiệc chia tay thật hoành tráng với đám bạn của mình và đặc biệt với Luna, cô bạn gái xinh đẹp bốc lửa mà anh mới quen được nửa tháng.

– Anh hứa là phải trốn về đây thăm em đó.- Luna nũng nịu đặt lên môi anh một nụ hôn nóng bỏng.

– Nhất định rồi, con búp bê xinh đẹp của anh ạ! Cứ nghĩ đến cuộc sống nhàm chán ở đó là anh đã oải hết cả người rồi.- Khánh Nam ôm eo cô nàng ngật ngưỡng bước vào thang máy ở King Hotel. Trưa ngày mai anh sẽ lên máy bay về lại Việt Nam.

*

Về Việt Nam đã hơn hai tuần rồi mà Khánh Nam vẫn không tài nào quen được với khí hậu và nếp sống mới ở đây. Bà nội cưng chiều còn hơn cả ba mẹ anh khi trước, nhưng anh không sao thoát khỏi cảm giác buồn chán. Đã vậy anh còn bị ông chú Trung- bạn thân của ba anh ngày trước suốt ngày kè kè nhắc nhở. Hai bà chị họ sinh đôi Vân Anh, Mai Anh thì cả ngày tò tò theo anh, đi đến đâu cũng khoe khoang hãnh diện vì cậu em họ đẹp trai, ga lăng. Giá như hai bà chị họ này mà được mẹ anh dạy dỗ chắc đã không đến nỗi hư hỏng như bây giờ.

Vừa về nước, Khánh Nam đã cặp ngay với một bà chị xinh đẹp trong đám bạn ăn chơi của hai bà chị họ, nhưng chỉ được ba ngày là anh chán. Thì ra con gái ở đây cũng táo bạo chẳng thua gì cô nàng búp bê Luna của anh cả.

Niềm an ủi nhỏ nhoi của anh là ngày nào cô em gái đáng yêu cũng gọi điện nhỏ to với anh.

– Anh Gấu ở đó có vui không?

– Chán ngắt Cún ơi.- Anh thở dài ngán ngẩm.

– Mẹ nói Hà Nội đẹp lắm mà.

– Ờ thì có đẹp. Nhưng mà em cứ thử một lần bị kẹt cứng một chỗ trong ô tô hai tiếng đồng hồ liền ở ngoài đường coi em nghĩ sao?

– Cún nhớ anh Gấu lắm. Mẹ nói bao giờ đến nghỉ đông mẹ sẽ cho Cún về thăm anh Gấu và bà nội. Cún cũng xin với mẹ bao giờ vào đại học Cún về đó ở với anh Gấu nhé!

– Ngốc thế… Về đây làm gì? Cún về ai chăm sóc ba mẹ?

– À, tại anh Gấu giận không nói chuyện với mẹ nên mẹ hỏi anh đã sang thăm chú Khánh và cô Linh chưa?

– Có đi ăn tối với họ rồi.

– Có gặp chị con gái của cô chú ấy không?- Cún háo hức hỏi.

– Không, mà anh Gấu chả quan tâm. Bọn con gái ở đây chán ngắt, chẳng khá hơn con bé Luna là mấy.

– Trời, mới về mà đã có bạn gái rồi hả? Anh Gấu tài nha. Ơ mà Cún phải đi học piano đây. Có gì Cún gọi cho anh sau nhé! Cho em gửi lời hỏi thăm bà nội và hai bà chị chảnh nữa.

– Ừ… Tạm biệt.- Khánh Nam gửi tới cô em gái một chiếc hôn gió trước khi cúp máy.

8h tối, hai bà chị họ lại rủ rê anh đi bar, có một bữa tiệc sinh nhật của cô bạn nào đó trong nhóm sẽ diễn ra lúc 10h.

– Em chán cảnh lái máy bay bà già rồi.- Anh nằm dài ra giường vẻ lười biếng- Không đi đâu, thật phiền phức chết đi được.

– Thôi năn nỉ em mà.- Vân Anh kéo tay anh lôi dậy- Không thích hơn tuổi thì kiếm đứa kém tuổi. Đi với bọn chị cho vui. Ở đây em cũng có đứa bạn nào đâu.

– Đến trường bị bọn con gái theo cũng đủ phiền lắm rồi.- Anh càu nhàu.

– Nhưng bọn chị đã hứa là sẽ dẫn em đi cùng rồi. Bọn bạn chị nó mê em lắm mà.- Mai Anh năn nỉ.

– Nhưng bà nội có mắng thì hai chị chịu nhé! Ai bảo dụ dỗ con nít…- Anh ra điều kiện.

– OK, đi thôi.- Vân Anh toét miệng cười và kéo anh ra xe.

Thực ra, ngoài việc hãnh diện vì có cậu em họ đẹp trai, tài tử, hai bà chị họ này còn thích ra oai với thiên hạ khi được đi trên chiếc xe nổi tiếng Windy. Chiếc xe này đã được đưa từ trường đua Golden Arrow ra khi anh về đến Việt Nam.

Để mặc hai bà chị đua đòi nhảy nhót ngoài sàn, gào rú với đám bạn ăn chơi như một bọn điên, anh đi về phía quầy bar ngồi.

– Chivas.- Anh nói với gã bồi và đưa mắt tìm kiếm một con nai xinh đẹp để nói chuyện cho đỡ chán.

Và đôi mắt anh dừng lại ở một bàn khuất sau kệ trưng bày rượu ngoại, nơi có một cô gái đang ngồi. Cô ta ngồi đó một mình, cốc rượu đầy còn nguyên trên bàn. Cô ta cúi mặt, thỉnh thoảng lại đưa tay lên má. A, thì ra cô ta đang khóc. Một kẻ lạc loài kì lạ trong một chốn chỉ dành cho sự vui vẻ này.

Anh tiến lại, ánh mắt nhìn cô ta đầy hiếu kì, mà cái làm cho anh hiếu kì xưa nay không nhiều. Anh ngồi xuống đối diện cô ta, hỏi:

– Này cô bé xinh đẹp, tôi có thể ngồi đây được chứ?

Ngước đôi mắt đỏ mọng lên nhìn anh trong một giây, rồi cô ta lại gằm mặt xuống bàn.

“Dám lơ mình đi à?” Anh cau có nghĩ.

– Sao cô lại khóc ở một nơi chốn đông vui như thế này vậy?

Cô ta không đáp, cũng chẳng thèm nhìn anh thêm một lần nào nữa.

“Nhạt nhẽo thật.” Khánh Nam bực dọc vì lần đầu tiên anh nói đến câu thứ hai mà có một đứa con gái không thèm đáp lại một câu, thậm chí còn nhìn anh bằng đôi mắt chán ngắt.

Lần thứ ba, quyết tâm bắt cô ta phải mở lời, anh với tay lấy cốc rượu trắng trước mặt cô ta định uống, và lần này cô ta có phản ứng thật. Nhưng hiệu quả có vẻ hơi quá khi cô ta giằng lấy lại cốc rượu làm rượu đổ tràn ra tay áo sơ mi của anh. Giận điên người, anh gằn giọng:

– Ê, cô bị điên à đồ xấu xí này?

– Ai điên ở đây thì người đó tự biết- Cô ta đáp lại- Cốc rượu này không dành cho anh. Cút về với hai con vịt của anh đi.

“A, thì ra cô ta có thấy mình vào đây cùng với hai bà kia.”

Khánh Nam định đá lại vài câu cho bõ tức, nhưng phía sau đã nghe giọng léo nhéo của bà chị họ:

– Nam, ngồi đây làm gì thế? Mau qua đây, bữa tiệc bắt đầu rồi.

Anh đứng dậy, bước về phía Mai Anh nhưng vẫn còn ngoái lại nhìn con nhỏ kì cục đó.

“Đôi mắt nó đầy căm hận…”- Anh nghĩ khi hai bà chị ríu rít giới thiệu anh với đám bạn ăn chơi của họ.

“Mà cô ta đang uất ức cái quái gì mới được chứ?” Người ta bắt đầu thắp nến sáng trưng lên trên chiếc bánh ga tô 4 tầng.

“Thật xúi quẩy khi gặp đúng con nhỏ lập dị đó.” Anh giận điên lên khi nghĩ đến cánh tay áo ướt nhẹp vì rượu của cô ta, chẳng buồn hát bài hát chúc mừng sinh nhật nữa.

“Nhưng mà…ủa, cô ta đâu rồi?”- Anh giật mình khi liếc về phía chỗ cô ta ngồi khi nãy, giờ đã trống không.

– Nguyễn Mạnh Trường…

Một tiếng hét vang tới làm cả bọn ngừng vỗ tay, và có đến nửa vũ trường lặng ngắt sau tiếng hét ấy.

Tiếng hét kinh thiên động địa đó xuất phát từ phía con nhỏ Khánh Nam vừa mới bắt chuyện khi nãy. Cô ta đứng đó, đôi mắt long lên, môi mím chặt đầy giận dữ, tay cầm cốc rượu của cô ta rung lên, còn tay kia thì nằm chặt lại.

Một số đông người nhìn cô ta bằng ánh mắt kinh dị như thể họ đang nhìn thấy một con nhỏ trốn ra từ nhà thương điên, còn một số khác thì len lén quay vào nhìn nhân vật nam chính, người vừa được con nhỏ có thần kinh không bình thường kia (theo suy nghĩ của Nam) xướng tên một cách không nhã nhặn gì cho lắm.

Nhân vật nam chính lúc này mặt còn trắng hơn sáp nến, tay cầm con dao cắt bánh mà còn run hơn cả tay đứa con gái kì cục kia đang cầm cốc rượu. Hắn ăn mặc bảnh chọe, quần bò, áo phông hàng hiệu, tóc nhuộm vàng, một bên tai còn đeo khuyên trông rất sành điệu. Nhìn một cách tổng thể thì hắn cũng khá đẹp trai. (“Nhưng còn thua xa mình.”- Khánh Nam tự nhủ.) Và quan trọng nhất, hắn chính là bạn trai của người tổ chức sinh nhật đêm nay.

Khánh Nam hiểu ngay ra vấn đề, khẽ huýt sáo thích thú vì anh sắp được đích mục sở thị một màn đánh ghen hay ho.

Mỗi bước chân cô ta tiến lại là mọi người nín thở nhìn theo. Cô ta đã tiến lại sát sạt trước mặt gã có tên kêu như chuông Nguyễn Mạnh Trường, liếc mắt nhìn sang cô bạn gái ăn mặc sexy của anh ta, lúc này cũng đang ngơ ngáo chiếu tướng lại. Bất thình lình, với một động tác nhanh và chính xác, cả cốc rượu táp thẳng vào mặt anh ta, không mất đi giọt nào trước khi đến đích.

Mọi người sửng sốt ồ lên, còn cô nàng có sinh nhật hôm nay, vì đứng cạnh người yêu nên cũng bị ướt nhoẹt, làm chiếc áo mỏng manh giờ đây càng trở nên trong suốt như không có gì vậy. Cô ta đỏ mặt hét lên.

– Á… con ranh con này… Mày muốn chết à?

Nhân vật nam chính cũng đỏ rần mặt lên, gằn giọng nói:

– Cút về chỗ của cô đi, còn bám theo tôi làm cái gì? Đồ thần kinh. Không mau cút đi đừng trách tôi không nể nang cô là con gái nhé!

– Sao?- Cô gái đặt cốc rượu cái cạch lên bàn làm hắn giật bắn- Anh sợ người ta biết à? Ngày hôm nay thì tôi hiểu hết anh rồi. Anh là thằng khốn nạn nhất, bỉ ổi nhất mà tôi biết… Tôi đến đây chỉ để nói cho anh hay, tôi có chết đi cũng không tha cho anh đâu.

– Cô…- Hắn giơ tay lên nhưng không dám hạ xuống.

– Còn dám đụng bàn tay bẩn thỉu đó vào tôi ư? Đồ tồi.- Cô ta giơ tay tát anh ta một cái và quay sang nói với đứa con gái lúc này đang sượng trân cả mặt- Còn cô, cô nghe cho rõ đây, cô rồi cũng sẽ chẳng có kết cục khá hơn tôi đâu.

Nói xong, cô ta quay ngoắt người bỏ ra cửa. Hai người bảo vệ tiến tới giữ chặt lấy tay cô ta.

– Tránh ra…- Cô ta hét lên giận dữ, giãy giụa giữa hai cánh tay rắn chắc của hai gã đàn ông cao to.

Khánh Nam không biết tại sao lúc đó anh lại xông đến để cản hai người bảo vệ và giải thoát cho cô ta, có lẽ là vì cảm thấy thương hại chăng. Anh cũng đã bỏ rơi không biết bao nhiêu cô nàng, nhưng giờ anh mới hiểu cảm giác bị bỏ rơi ấy nó ra sao. Hai người bảo vệ đã để cô ta đi khi anh lên tiếng sẽ bù lại thiệt hại cho quán, anh muốn chạy theo xem cô ta ra sao, nhưng rồi tiếng gọi của hai bà chị lại lôi anh về với hiện thực và bữa tiệc mà có lẽ chẳng còn gì thú vị nữa.

Sao tự nhiên anh lại ghét cái tính trăng hoa của mình đến thế.

Chương 2: Gặp lại

          Khánh Nam vọt lẹ ra khỏi lớp trước khi mấy cái đuôi đáng ghét đuổi theo anh, không ngày nào là được yên thân với lũ con gái rắc rối này. Không rủ anh đi ăn thì cũng là đi cafe, anh ngán đến tận cổ những cô gái thiếu muối.

Vừa đi về phía chỗ để xe anh vừa lẩm bẩm vài câu chẳng hay ho gì. Đó là những câu chửi thề bằng tiếng Anh mà anh vẫn hay nói khi ở Hà Lan, đống ngôn ngữ chợ búa do đám bạn anh dạy cho. Điện thoại trên tay anh reo inh ỏi, anh đọc vội tin nhắn từ số của bà chị Vân Anh và cười một cách nhạt thếch. Vừa cắm cúi nhắn tin trả lời, anh không để ý và đã va ngay vào một người đi ngược chiều, làm giấy tờ trên tay người đó rơi hết xuống đất. Nhưng người tru tréo lên sinh sự lại chính là anh:

– Ê này, bộ đui hả? Không thấy người ta đang đi hay sao mà không biết đường tránh.

Con nhỏ xấu số lúi húi nhặt từng tờ giấy dưới mặt đất, lặng thinh chịu trận.

– Này, cô bị điếc à? Ngẩng đầu tôi xem nào?

Cô ta tuyệt nhiên vẫn cắm cúi vào đống giấy má bừa bãi trên sân. Anh đặt chân lên một tờ giấy khi cô ta định quơ đến nó, định buộc cô ta phải ngẩng đầu lên. Nhưng cô ta chỉ dừng lại 2 giây để nhìn tờ giấy và… bỏ qua nó, tiếp tục nhặt những tờ khác. Cái hành động chống đối đó là anh muốn nổi điên. Dạo này, phải nói là từ hồi về đây, anh hay nóng tính hẳn, không vừa lòng một chút là có thể làm ầm lên như một con mụ bán cá ngoài chợ (theo cái kiểu mà bà chị Mai Anh hay mỉa mai mấy con nhỏ mà bà ta không ưa) rồi.

– Này, đồ xấu xí kia, tôi đang nói với cô đấy…- Anh tức giận xông đến, cúi xuống túm lấy cổ áo cô ta kéo về phía mình.

Cái mà anh nhận được là một ánh mắt vô hồn, vô cảm, không có một chút sức sống nào, u ám như người đã chết vậy. Anh giật mình buông tay ra, miệng ú ớ:

– Xấu…xấu gái đấy à?

Từ lúc gặp con nhỏ khùng bị bạn trai bỏ rơi trong quán rượu hôm trước đến giờ, anh gán luôn cho cô ta cái biệt danh “xấu gái” mặc dù công bằng mà nói cô ta chẳng xấu chút nào. Chỉ có điều trông cô ta héo hắt như một cái cây khô vậy. Không biết có phải mấy ngày hôm nay anh hay nghĩ về cô ta không mà sáng nay đụng trúng luôn.

– Tôi không ngờ cô học cùng trường với tôi đấy.- Anh nói thêm.

Anh không muốn to tiếng với cô ta vì cảm thấy cô ta đã có quá nhiều thương tổn trong lòng rồi. Hơn nữa, nhìn cái bộ mặt như đưa đám của cô ta làm anh thấy một ngày bỗng nhiên u ám hẳn đi, đến nổi cáu anh cũng chẳng thiết tha gì nữa.

Anh vừa nhặt đám giấy cho cô ta, vừa liếc nhìn. So với mấy ngày trước, trông cô ta bây giờ còn thảm hại hơn nhiều, chẳng khác gì một con gấu trúc suy dinh dưỡng cấp độ 3 cả.

“Cái quái gì làm cô ta trông như thây ma thế nhỉ?”- Khánh Nam tự nhủ- “Chẳng lẽ chỉ vì bị một thằng con trai bỏ rơi mà ra nông nỗi này à?”

– Này xấu gái…- Anh đưa xấp giấy cho cô ta- Tại sao cô cứ phải khổ thế nhỉ? Vì một thằng Đông Gioăng mà thành ra như thế này không đáng đâu.

Không cám ơn, cũng không thèm nghe anh nói, cô ta lại đứng dậy, đi thẳng về phía trước, u uất như một cái xác không hồn. “Mình có lòng tốt đưa ra lời khuyên mà cô ta không thèm cảm ơn một tiếng. Đâu phải lúc nào anh đây cũng tử tế thế đâu chứ.”

Và anh khẽ rùng mình, hôm trước cô ta có nhắc với thằng kia về cái chết, không lẽ cô ta muốn chết thật? “Lạy trời đừng bao giờ mình yêu phải con nhỏ nào dở điên dở khùng như thế, chứ không cả đời mình không dám lấy vợ quá! Con gái ở cái xứ này…không đỡ được.” Anh định chạy đuổi theo cô ta nhưng vừa nhác thấy bóng mấy đứa con gái trong lớp, anh vọt lẹ.

– Cứ chuồn khỏi đây để được toàn mạng đã rồi tính sau.- Anh nghĩ và lái xe vụt ra khỏi cổng trường.

*

– Ngày mai là ngày giỗ một người bạn cũ của ba mẹ, con hãy thay ba đến viếng mộ cô ấy nhé!

– Nhưng con có biết mộ cô ấy ở chỗ nào đâu ba?- Anh cự lại mặc dù anh rất sợ ba anh sẽ nổi giận.

– Việc đó không phải lo, ba đã dặn chú Trung đưa con đi rồi. Những gì cần chuẩn bị chú ấy sẽ lo hết, con cứ đi theo chú ấy là được.

– Vâng, con biết rồi.

Anh chào ba mình và cúp máy.

“Haizz. Tối ngày không đi với bà nội đến chỗ nọ họp thì đến chỗ kia dùng tiệc, mình chán đến tận cổ rồi. Ước gì có Luna ở đây mình sẽ đưa cô ả ra Hạ Long du hí.” Anh thầm nghĩ và ngạc nhiên là lần đầu tiên trong những ngày qua, anh nhớ tới con búp bê Hà Lan xinh đẹp của mình. Và hình ảnh con búp bê đó ngay lập tức được thay bằng khuôn mặt đờ đẫn, thất thần và đôi mắt vô hồn, nhưng đôi khi lại hốt hoảng lo sợ của con bé lập dị kia. Anh vội đập đầu xuống gối lẩm bẩm:

– Nghĩ làm quái gì kẻo đêm lại gặp ác mộng…

Nơi mà chú Trung đưa anh đến không phải là một nghĩa trang nào đó như anh vẫn tưởng, mà là một bãi bồi giữa sông Hồng. Ngôi mộ đó nằm ở cuối bãi, giữa mênh mông những bông cỏ lau cao bằng đầu người. Người trong bức ảnh trên bia mộ đã mất gần 30 năm trước, khi còn khá trẻ.

– Cô ấy là bạn của ba mẹ cháu ạ?- Anh hỏi chú Trung.

– Phải, năm nào chú cũng thay mặt bố mẹ cháu đến đây thắp hương cho cô ấy. Bố cháu nói cô ấy thích nhất là hoa thạch thảo tím.

Hai người thắp hương và nhổ vài ngọn cỏ lơ thơ trên mộ rồi lên đường ra về. Khánh Nam cũng chả thích thú gì khi ở lại một nơi thơ mộng nhưng lại có ngay một ngôi mộ lạnh lẽo nằm đó.

Vừa lên đến cầu Long Biên, anh ngẩn ra nhìn một người đang lững thững đi về phía giữa cầu, giật mình nói với chú Trung:

– Cháu về sau. Chú cứ về trước đi nhé!

– Vậy chú bắt taxi về trước. Nhớ về sớm đấy, tối nay cháu phải chở bà nội đi dự khai trương khách sạn mới ở bên Hà Đông mà.

– Cháu nhớ rồi.- Anh đáp và chạy biến đi.

“Cô ta điên rồi.” Anh lẩm bẩm trong miệng và vội tiến về con nhỏ khùng đó. Cô ta đã dừng lại ở mép cầu, tay vịn chặt vào lan can, mắt nhìn chăm chăm xuống dòng nước.

– Này, cô điên đấy à?- Anh túm lấ khuỷu tay cô ta giật lại.

Cô ta quay sang nhìn anh, nhưng đôi mắt vô hồn giờ đã đẫm nước mắt. Cô ta đang khóc.

Giật tay ra khỏi tay anh, cô ta lại quay nhìn xuống sông.

– Này nhé! Đừng để tôi phải gọi xe cứu thương đưa cô vào viện tâm thần đấy. Hay cô muốn ngày mai trên trang nhất báo sẽ đăng tin một con nhỏ ngu ngốc nhảy cầu tự vẫn chỉ vì thất tình.

– Mặc xác tôi.- Cô ta gào lên- Anh về đi. Tôi có quen biết gì anh đâu mà anh cứ xen vào chuyện của tôi. Tôi không còn lý do gì để sống nữa cả…

– Đồ điên, đồ thần kinh, đồ ngu…- Anh cũng hét lên không thua gì cô ta làm cho hàng trăm người đi dường phải nhìn hiếu kì.

Cái cảnh này chẳng khác gì cảnh một anh chàng đang dỗ dành người yêu đừng tự tử cả.

– Đứng với cô mãi ở đây tôi quê lắm rồi đó.- Anh tiếp.

– Thế thì cút về chỗ của anh đi. Mặc kệ tôi.

– Này…- Anh hạ giọng xuống- Tôi hỏi thật nhé xấu gái, cô yêu lần đầu phải không? Sao cô ngây thơ thế hả? Nhảy xuống đó đi cho cá nó rỉa… Còn cái thằng người yêu cô ấy…

– Hắn không phải…- Cô ta cự lại.

– Ờ…ờ… thì cái thằng người yêu cũ của cô ấy, cô có chết ấy mà, hắn cũng chẳng ăn năn đâu nhé! Nó vẫn sống vui, sống hạnh phúc… Sao cô không sống mà trả thù hắn ấy, làm hắn sống không bằng chết ấy, có phải hơn không?

– Tôi có lỗi với bố mẹ tôi, tôi còn mặt mũi nào mà nhìn họ nữa…- Cô vẫn nức nở khóc.

– Chẳng có việc gì là không giải quyết được cả…

– Anh thì hiểu cái gì, anh có phải tôi bây giờ đâu. Tôi còn đường lui nữa sao? Tôi sống chỉ là nỗi nhục nhã của bố mẹ tôi, của bạn bè tôi mà thôi.

– Thế này đi…- Anh đề nghị- Tôi với cô kiếm một chỗ nào đó ngồi uống nước, cô bình tĩnh nói tôi nghe xem vấn đề của cô là gì mà cô nhất quyết đòi chết. Nếu lý do chính đáng, OK, tôi lại đưa cô ra đây, tiễn cô nhảy xuống hẳn hoi… Nào, đi…

Anh nói và nắm lấy bàn tay gầy gò của cô ta, lôi đi một cách dứt khoát. Cô ta thất thểu bước theo anh, vẫn không thôi khóc.

Khánh Nam dừng xe trước một quán cafe vắng ven hồ Tây và mở cửa cho cô ta xuống. Gọi hai cốc capuchino xong, anh lấy đám khăn giấy để trên bàn đưa cho cô ta, giục:

– Mau lau nước mắt của cô đi không người ta lại tưởng tôi bắt nạt cô đấy. Làm gì mà lắm nước mắt thế? Bao nhiêu thịt và năng lượng trong cơ thể cô chuyển thành nước mắt hết rồi à?

Lấy khăn giấy lau khô nước mắt xong, cô ta lại ngồi im. Anh đẩy cafe về phía cô ta nói:

– Này, uống đi, khóc khan cả cổ rồi sức đâu mà nói nữa. Uống đi rồi kể cho nó ngọt giọng.

– Có lẽ anh nói đúng, tôi không nên chết, làm điều đó thật ngớ ngẩn.- Cô ta bình tĩnh nói.

– Chuyện…- Anh chắt lưỡi- Cô nhận ra chân lý này hơi muộn đó. Lúc đó tôi mà không cản cô thì giờ này cô ngồi đó mà luyến tiếc với hà bá.

– Nhưng tại sao anh lại tốt với tôi thế?

– A, chả hiểu, có lẽ cô lập dị quá nên tôi mới bị cô làm cho chú ý.- Anh nhún vai cười làm cô ta cười theo.

“Con nhỏ này mà không thê thảm thế này chắc cũng xinh đáo để đấy chứ.” Anh thầm nhận xét.

– Tôi nghĩ tôi chưa đủ tự tin để kể với ai chuyện của tôi. Mặc dù anh vừa cứu tôi nhưng cũng không thể là ngoại lệ. Bây giờ tôi không muốn tin một ai nữa, nhất là con trai.

– Này cô định vơ đũa cả nắm đấy à? Tôi mà giống cái thằng Đông Gioăng đó hả?- Anh bật lại.

“Ôi lạy chúa! Tại sao con có thể nói câu đó trơn tru như vậy nhỉ?” Anh thầm nghĩ. Khi còn ở bên Hà Lan, chính anh được coi là một gã Đông Gioăng chính hiệu, vậy mà bây giờ anh dám dùng cái biệt hiệu đó để đi đả kích một kẻ khác.

– Tôi không có ý đó.- Cô ta bối rối giải thích- Nhưng đó là tâm lý thôi, con chim sợ cành cây cong mà…

Anh cố nghĩ đến một chủ đề nào đó để cốt làm cô ta quên chuyện này đi:

– Cô học cùng trường với tôi à?

– Phải, tôi mới học năm thứ nhất thôi. Còn anh?

– Năm thứ nhất như cô ấy.- Khánh Nam nhún vai- Tôi mới từ Hà Lan về nên phải bắt đầu lại chương trình đại học ở đây. Nếu không phải tại tôi lêu lổng quá thì ba mẹ tôi đã chấp nhận cho tôi sang Harvard học rồi.

– Ối, anh học giỏi vậy à?- Cô ta kêu lên thán phục.

– Nhắc thêm bực mình.- Anh gạt phắt đi.- Mà đến giờ tôi phải về rồi, cô ở đâu để tôi đưa cô về?

– Tôi ở trong kí túc của trường.

– Vậy lên xe đi, tôi sẽ đưa cô về đó. Cũng tiện đường thôi mà…

“Sao hôm nay mình…tử tế thế nhỉ?” Anh nghĩ khi mở cửa cho cô ta.

Về đến nhà rồi, anh mới chợt nhớ ra và lẩm bẩm:

– Quên mất, không biết xấu gái tên gì nhỉ? Nhất định mai đi học phải hỏi mới được.

Chương 3: Phượng Vũ và Minh Sang.

          Có một điều là ngoài lớp của cô ta ra thì Khánh Nam chẳng biết gì hơn cả, tên không, số điện thoại không. Cả buổi học anh ngồi vò đầu bứt tai, làm sao tìm ra cô ta mà hỏi thăm tình hình cô ta được nhỉ? Thấy anh đứng thập thò ngoài cửa lớp, lũ con gái lớp cô ta xì xầm rồi nhìn anh cười cợt.

“Khỉ thật…”- Anh bực bội nghĩ- “Cái lớp gì mà toàn con gái, lại đông như động nhện thế này biết tìm cô ta ở chỗ quái nào chứ?”

– Anh Nam…- Một giọng lảnh lót vang lên, một cô nàng xinh như mộng đi ra.

Trông cô ta quen quen, mà cô ta lại chào anh thế này, hình như đã từng ăn cơm cùng cô ta trong canteen thì phải?

– Chào em…

– Anh tìm em à?

– À, anh tìm con gấu trúc…

– Con gấu trúc á?- Cô nàng đưa tay che miệng khúc khích cười.

– À không, một con nhỏ mắt thâm như gấu trúc ấy… Nó cao thế này này, gầy gầy, tóc dài thế này…

Anh làm một loạt những động tác miêu tả. Cô nàng mà anh đã quên mất tên ngay sau cái bữa ăn trưa hôm đó trố mắt nhìn anh, miệng há hốc.

– Sao giống người hành tinh quá vậy anh?

Anh không làm sao cười nổi trước cái vẻ khôi hài rởm đời của con nhỏ này. Tại sao anh còn đứng đây mà mất thời gian lôi thôi với nói chứ nhỉ?

– Ờ, thế có ai giống thế không?

– Em không rõ, từ đầu năm đến giờ em có đi học mấy đâu, từ dạo anh học ở đây em mới chăm chỉ đến lớp đấy. Hôm nào nhất định phải cho em cơ hội mời anh đi uống nước để cảm ơn anh đã cho em động lực đến lớp đấy nhé!

– Thế thôi vào lớp đi, anh đi đây.

Khánh Nam quay đi, vẫy tay lại đầy kiểu cách, nhưng miệng thì càu nhàu:

– Tại sao lại phải vì cái con gấu trúc ấy mà biến thành thằng đần trước mặt người khác cơ chứ? Đồ xấu gái chết tiệt, đối với người có ơn cứu cô mà một cái tên cô cũng không để lại. Cô đang chết ở cái xó nào rồi, ra đây cho tôi…?

Anh giơ chân đá cái chai nước lăn lóc dưới chân, miệng chửi thề một câu:

– Mẹ kiếp… thằng vô văn hóa nào uống nước rồi không biết quẳng vào sọt rác thế này?

– Ái…ối…- Tiếng con gái phía sau lùm cây.

“Quái lạ, đây là vườn trường mà, sao lại có con bé dở hơi nào ra đây đào giun thế?”

– Cái gì thế? Thằng nào dám…?- Giọng con trai bực tức vang lên, sau đó kẻ vừa nói đứng phắt dậy.

Đứa con gái cũng đứng dậy theo, lúng túng nhìn anh.

“Hơ…” Khánh Nam ngẩn ra nhìn kẻ đang dứ chai nước về phía mình. “Con gấu trúc này cũng thiêng nhỉ? Thế này cô ta mà chết mình đem cô ta về thờ quá!”

– Xin lỗi…- Anh gãi đầu cười- Thành thật xin lỗi… Hai người cứ…tiếp tục đi nhé!

Cả hai đỏ bừng mặt vì vừa bị bắt quả tang làm chuyện lén lút. Nhưng Khánh Nam lại coi như không có gì, gì chứ mấy trò này anh chơi với bọn con gái từ hồi còn đi mẫu giáo.

Nói người ta cứ tự nhiên tiếp tục mà anh cứ chôn chân tại chỗ, không thèm tránh đi. Anh khẽ mỉm cười thích thú khi nhìn thấy vẻ mặt tức tối của gã Đông Gioăng, kẻ đã đá con gấu trúc ngu ngốc, đá tiếp bà chị bạn tội nghiệp của hai chị họ anh, và giờ lại cặp kè với một em tươi mới nữa. Thằng cha này còn có nghề hơn cả anh nữa.

– À… tôi định hỏi anh cái này… Cái cô nàng hôm trước mà đến phá đám bữa tiệc sinh nhật ấy…

– Nó không liên quan đến tao.- Hắn vội gạt đi vì sợ anh lật tẩy hắn trước cô bồ mới này.

– À, tất nhiên, tôi biết, cũng chỉ là tại cái con nhỏ ấy ngu ngốc thôi mà… Nhưng mà cô ta tên là gì ấy nhỉ?

– Phượng Vũ…

“Phượng Vũ”- Một cái tên nghe thật lạ, anh thầm nghĩ.

– Hê hê, cám ơn anh nhé! Chúc một bữa trưa ngon miệng.- Anh nháy mắt rồi rảo bước quay lại lớp của con gấu trúc.

– Đã trưa lắm đâu mà chúc ngon miệng chứ?- Giọng đứa con gái thắc mắc.

– Quên nó đi. Mình đi kiếm chỗ nào khác vậy.- Hắn gạt đi.

Tiếp Khánh Nam tại lớp của Phượng Vũ vẫn là con nhỏ anh mới gặp cách đó không lâu.

– Có ai tên Phượng Vũ ở trong lớp không em?- Anh hỏi ngay chẳng đợi cô ta mở lời tán tỉnh lung tung nữa.

– A, con nhỏ kì cục đó hả? Bữa nay nó nghỉ sớm, kêu mệt nên xin thầy về từ tiết hai rồi. Anh tìm nó có chuyện gì thế?

– Không có gì.- Anh lắc đầu- Có chuyện muốn hỏi thôi. Thôi học đi nhé!

Anh chạy biến đi thật nhanh. Trưa nay bà nội muốn anh về ăn cơm vì bảo có người muốn giới thiệu cho anh nhưng anh đã kêu phải học cả ngày nên không muốn về. Gì chứ anh ghét nhất là bọn con gái õng ẹo kiểu tiểu thư của đám nhà giàu. Nhão nhoét không chịu nổi, giá chi chúng bằng được một phần trăm nào của em gái anh thì anh còn nghía qua tí chút. Lúc nào cũng “Anh ơi em sợ…” nghe nổi hết da gà, mà cũng mất luôn cái hứng đụng vào người bọn nó nữa.

Khánh Nam lang thang xuống canteen kiếm cái gì bỏ bụng thật nhanh trước khi cái bọn con gái kéo nhau xuống làm hỏng bữa trưa của anh. Anh thích mấy món ở trường hơn là mấy món sơn hào hải vị ở nhà bà nội. Khi anh còn ở Hà Lan, mẹ anh cũng thường nấu những món ăn giản dị như thế này nên ba anh thích về nhà ăn cơm cùng ba mẹ con lắm. Mẹ nói đó cũng là một trong những cách níu chân ba về với gia đình. Thế nên nhiều năm nay ba mẹ sống với nhau rất hạnh phúc. Dù ba là một ông chủ của một tập đoàn xe hơi lớn, tiếp xúc với rất nhiều người, nhưng ba vẫn chỉ yêu mình mẹ.

Đột nhiên, anh chạnh lòng nhớ tới mẹ và gia đình. Không biết nếu đi học ở Harvard thì anh có thể ngồi nhớ đến mẹ anh như lúc này không? Tính anh vốn ham vui, nên rất có thể anh sẽ bị cuốn vào lối sống kiểu Mỹ, và anh sẽ quên mẹ, quên gia đình.

– Mẹ yêu ơi…- Anh gọi khi nghe giọng bà bên kia đầu dây.

– Sao thế con? Ở đó thế nào? Có quen không?

– Ổn hết mẹ yêu à. Chỉ là không có ba mẹ với Cún ở đây nên con hơi buồn thôi. Con xin lỗi vì đã giận mẹ vô lý.

– Sao bữa nay Bin của mẹ giống ông cụ non thế? Giờ này chắc đang là trưa ở Việt Nam nhỉ? Con ăn gì chưa?

– Con đang ăn nè, canh mướp đắng mà mẹ hay nấu đó.

– Học hành chăm chỉ, nhớ vâng lời bà nội nhé con. Ngày nghỉ thì cố gắng về thăm ông bà ngoại và nhớ thường xuyên gọi điện cho mẹ Phương, ba Giang, ông bà ngoại ở trong Lâm Đồng nữa nhé!

– Dạ con nhớ mà…

– Thôi ăn trưa đi con. Rảnh thì cứ gọi cho mẹ.

– Dạ, tạm biệt mẹ yêu.

Đặt điện thoại xuống bàn, anh lại tập trung vào bữa ăn vừa bị bỏ dở bởi cái cảm xúc yếu đuối chết tiệt của mình.

– Anh ơi, em có thể ngồi ở đây được chứ?

Khánh Nam ngẩng đầu nhìn người vừa cất tiếng đề nghị bằng cái giọng ngọt như mía lùi, lại một con búp bê xinh xắn trắng trẻo nữa, nếu thêm mái tóc vàng và đôi mắt xanh nữa thì sẽ giống một con búp bê tuyệt hảo.

Nhưng trước khi mở lời đáp lại lời đề nghị đó, anh đã trông thấy con gấu trúc mà anh tìm từ sáng đến giờ. Cô ta đang đứng ở quầy mua thức ăn, với hai cô bạn nữa. Hôm nay trông cô ta bớt thê thảm hơn rồi, cái áo màu vàng nhạt làm cô ta có vẻ tươi tắn và có sức sống hơn. Anh cất tiếng gọi làm nửa cái canteen phải quay ra nhìn:

– Ê này, xấu gái, ê…

Con gấu trúc không nghĩ là anh đang gọi mình, nhưng cũng quay lại nhìn vì tiếng của anh khá to. Thấy anh chàng hôm qua đang vẫy tay ra hiệu cho mình, cô trố mắt nhìn.

Khánh Nam thấy con gấu trúc chào hai cô bạn rồi rẽ sang phía anh. Anh mỉm cười nói với con búp bê nãy giờ vẫn đứng tẽn tò trước mắt.

– Em qua bàn khác giúp anh được không? Anh có công chuyện muốn nói với bạn nữ kia.

Cô nàng đỏ ửng cả mặt vì bị đối xử như thế, bèn quay ngoắt đi, không thèm nói thêm một câu gì.

Đặt khay thức ăn xuống bàn, Phượng Vũ hỏi:

– Ủa, cô ấy là bạn anh à? Sao không cho ngồi chung đi, còn nhiều chỗ mà.

– Không, một cô bé đến xin chết.

– Hử…?

Anh suýt bật cười vì cái vẻ ngây ngô của cô ta.

– Cô bé ấy ngoan lắm. Đến chỗ tôi kêu muốn chết, tôi bảo: em chưa chết được đâu, thế là cô bé ấy ngoan ngoãn nghe lời luôn. Chứ có như cô đâu xấu gái, được người ta cứu lại còn quay ra chửi làm tôi tức muốn ói máu.

– Tôi cấm anh nói lại chuyện đó thêm một lần nào nữa.- Con gấu trúc trừng mắt với anh.

– Ngày xưa í, muốn bịt miệng quan tham người ta hay đút tiền vào miệng. Miệng ngậm tiền rồi làm sao mà há ra được nữa.

– Ý anh là muốn tống tiền tôi hả?- Cô ta liếc xéo, không biết có bao nhiêu cặp mắt đang nhìn mình ghen tức

– Hey, tôi mà thiếu tiền đến nỗi phải đi tống tiền một con bé còm nhom thiếu ăn như cô sao?

– Đó là dạo này tôi đang ốm chứ bộ…- Cô ta cự lại.

– Cô thì ốm cái gì? Ốm tình à? Tự đày đọa thân xác rồi quay ra ngụy biện này nọ.- Anh bĩu môi.

– Đừng có chọc gậy bánh xe nhé!

– Không dám. Mà cô cho tôi số điện thoại đi.

– Không có.- Cô ta đáp cộc lốc.

– Thật không đó?

– Có nhưng hôm trước ức quá tôi ném vỡ rồi. Chưa kịp mua cái mới. Đợi cuối tuần về nhà xin tiền bố mẹ đã rồi tính sau.

Anh lắc đầu ngán ngẩm rồi rút từ trong túi ra một cây bút và một mảnh giấy nhớ, ghi số điện thoại của mình vào rồi đập bộp lên ví của cô ta.

– Này, số của tôi đấy, cất cho kĩ vào. Tôi mà bị con gái gọi điện hay nhá máy quấy rầy là cô ốm đòn với tôi.

Con gấu trúc bĩu môi nhìn tờ giấy, rồi nhìn anh:

– Anh tên là Nam hả?

– Ghi rõ ràng thế mà còn hỏi à?- Anh vặc lại.

– Tại thấy cái tên thì hiền mà sao anh thì cứ như đàn bà ấy, nói dai như đ ỉ a …

– Cái gì?- Anh quắc mắt- Cô dám nói tôi là cái gì? Xin lỗi, cô mới phải là người nên xem lại mình ấy, cái tên đã thiếu mĩ miều nữ tính rồi, người còn giống đàn ông hơn. À mà cũng chẳng giống đàn ông. Làm gì có cái thứ đàn ông nào động thất tình cái là muốn…

Nhưng anh không thể thốt ra được mấy từ sau vì con gấu trúc đã nhanh tay đút vào miệng anh chiếc đùi gà rán làm anh ú ớ mất một lúc. Hàng chục con mắt hiếu kì nhìn hai người đôi co, có cả đám con gái ở đấy mơ ước được ngồi thế vào chỗ cô mà làm những trò ngu ngốc như thế dù chỉ một lần cũng đáng.

– Này…- Anh nhả chiếc đùi gà ra, quát tướng lên- Cô tính ám sát tôi đấy à? Tôi đúng là làm ơn mắc oán mà…

– Xin lỗi… Ai kêu anh dám lớn giọng nhắc lại chuyện đó làm chi.

– Bộ tôi có hứa là tôi không nói ra hả?

– Tôi năn nỉ anh mà, anh đừng nói chuyện đó ra nữa nhé! Anh cần gì cứ nói ra.

– Nói ra để tôi mang tiếng ức hiếp con gái à? Hỏng hết hình tượng. Thôi được, tại vì cô khẩn khoản nên tôi sẽ chỉ bắt cô làm một việc thôi.

– Việc gì?- Cô ta hí hửng hỏi.

– Tạm thời tôi chưa nghĩ ra.- Anh thản nhiên đứng dậy- Chừng nào nghĩ ra tôi sẽ gọi cho cô, nên nhanh chóng mà sắm cái điện thoại mới đi nhé kẻo lúc tôi cần không gọi được cô tôi sẽ đi loan tin đấy.

Anh cười thích thú và đi ra bãi đậu xe. Ít ra thì anh cũng có một chút niềm vui sau những ngày buồn chán đầu tiên ở Việt Nam.

Chỉ vì mải nghĩ đến niềm thích thú đó mà anh quên mất tiêu những vị khách ở nhà, cứ thế mò về, giữa lúc họ đang ngồi uống trà ở phòng khách. Đó là một người đàn ông Nhật, một phụ nữ rất đẹp, ngồi cạnh người phụ nữ đó là một con bé mặc bộ đồ trông khá hầm hố, mặt thì như con nít.

Thấy anh đứng sững nơi ngưỡng cửa, bà nội vội vẫy tay gọi anh:

– Bà tưởng cháu phải ở lại trường để học?

– Dạ cháu vừa mới biết là được nghỉ thôi ạ.

Người phụ nữ nãy giờ vẫn chăm chú nhìn anh, bây giờ mỉm cười lên tiếng:

– Cậu quý tử của tập đoàn Lotus đây ạ? Giống anh Long hồi trẻ quá bác nhỉ?

– Cô biết ba cháu ạ?- Anh dừng lại, ngạc nhiên nhìn những vị khách, hỏi.

– Cô với ba mẹ cháu là chỗ quen biết lâu năm mà. Tên cô là Vân. Nhiều năm nay cô sống bên Nhật, còn ba mẹ cháu lại sang Hà Lan nên bặt tin nhau nhiều năm nay.

– Thế ạ?

– Đây là chồng cô, đại diện đại sứ quán Nhật ở Việt Nam. Còn đây là Chiyoko, con gái cô. Tên Việt của em ấy là Minh Sang.

Khánh Nam liếc nhìn con bé kì cục nãy giờ vẫn ngồi sát cạnh mẹ, không nói năng gì. Nó giống mẹ nó, đẹp như một công chúa trong các truyện cổ tích phương Đông. Đôi mắt nó to, tròn, đen láy, cái môi nhỏ chúm chím và đỏ hồng. Lớn hơn chút nữa chắc nó sẽ là một mỹ nhân như mẹ nó quá.

– Sắp tới cô chú ấy phải quay về Nhật vài tháng…- Bà nội anh nói tiếp- Nhưng việc học của Minh Sang bên này thì không thể dừng lại được. Hết năm nay là con bé tốt nghiệp cấp 3 rồi nên cô chú ấy định gửi con bé ở đây với chúng ta một thời gian. Ý cháu thế nào?

– Bà cứ quyết định thôi ạ. Cháu xin phép, cháu lên phòng chút, lúc nãy mẹ gọi điện cho cháu mà điện thoại hết pin. Cháu lên gọi lại xem mẹ cháu có dặn gì không?

– Ừ…- Bà anh gật đầu.

Khánh Nam chào ba người khách và chạy biến lên phòng. Anh thà nằm trong phòng chat online với mấy đứa bạn bên Hà

Chương 4: Phượng Hoàng khóc.

          5h chiều, Khánh Nam lò dò đi xuống nhà để đi đánh tennis. Bước ra đến bậc thềm, anh ngạc nhiên thấy Minh Sang đang ngồi bó gối ủ rũ trên chiếc xích đu cạnh bể bơi, trông cô nhóc có vẻ không vui. Anh tiến lại, gọi:

– Sao mới có chút thế mà đã nhớ ba mẹ rồi à?

Cô nhóc ngẩng đầu nhìn anh, đôi mắt buồn làm anh cũng cảm thấy chơi vơi theo.

– Anh có sống cùng bố mẹ anh không?

– Bây giờ thì không.- Anh ngồi xuống nhún vai- Từ nhỏ đến giờ, đây là lần đầu tiên anh xa ba mẹ anh. Anh thích qua Mỹ học, mà cuối cùng mẹ anh lại đẩy anh về đây.

– Vì sao?- Cô bé ngẩng đầu nhìn anh, đôi mắt ngây thơ đáng yêu lạ.

– Vì mẹ yêu anh. Mẹ biết cái gì là tốt nhất cho anh.

– Em chưa khi nào sống xa mẹ em một ngày. Cứ như bị bỏ rơi vậy.

– Em chỉ sống một mình có mấy tháng thôi mà.- Anh cười- Coi như là thời gian để em học cách sống tự lập đi. Nhóc Cún em gái anh bằng tuổi em mà nó chẳng giống em đâu. Vui lên đi nào… Thôi anh đi tập bóng chút đây.

– Dạ, em chào anh.

Cô bé nhìn theo anh, ánh mắt cô, có gì đó vui hơn một chút.

Không có mẹ, không có bố ở bên, nhưng có lẽ cô sẽ không cô đơn.

*

Khánh Nam vừa lái xe vừa nghĩ đến cô nhóc làm khách của nhà mình đến hôm nay đã được 4 ngày rồi. Sau cuộc nói chuyện đó, anh không còn thấy cô bé ngồi ủ rũ nữa. Nó hay cười hơn và thường giúp mấy chị giúp việc nấu cơm, chẳng giống những cô tiểu thư khác. Có lẽ vì thế mà anh chẳng có lý do gì để ghét con bé cả.

Điện thoại đổ chuông làm anh giật bắn mình. Một số điện thoại cố định lạ. Anh tấp xe vào lề đường và nghe máy:

– A lô, có phải số máy của anh Nam không?- Giọng một phụ nữ chứ không giống giọng của mấy cô gái hay cố tìm cách gọi điện cho anh.

– Vâng, phải ạ.

– Bạn gái anh đang nằm trong bệnh viện, anh hãy đến đây đi.

Nam cau mày không hiểu.

– Xin lỗi, chị nói ai cơ ạ.

– Bạn gái anh chứ ai.- Chị ta giận dữ quát lên khiến anh phải kê máy ra xa- Hay anh nói là anh không biết chị Lâm Phượng Vũ đấy hả? Bọn đàn ông các anh chẳng ai ra hồn cả, ăn ốc rồi không thèm đổ vỏ phải không? Anh đến đây ngay cho tôi.

“Xấu gái sao?” Anh thầm nghĩ.

Anh hỏi tên bệnh viện và lái xe thẳng đến đó.

“Cô ta lại làm chuyện điên khùng gì nữa đây mà còn kéo cả mình vào cuộc nữa chứ?”- Anh bực bội nguyền rủa.

Vừa xưng tên với bác sĩ trực, một chị phụ nữ chừng 35 tuổi, anh đã bị mắng một trận tối tăm mặt mũi, toàn những điều liên quan đến giáo dục giới tính. Đợi chị ta nói xong, anh mới nhã nhặn hỏi:

– Xin lỗi, nhưng con gấu trúc, à không, Phượng Vũ bị làm sao ạ?

– Còn sao trăng gì…- Chị ta tiếp tục quát- Cố tình tông vào đầu xe tải tự tử chứ sao? May mà ông lái xe ông ta tỉnh đấy không thì chết cả mẹ lẫn con rồi.

– Cái gì mà cả mẹ lẫn con cơ ạ?- Anh ngẩn ra.

– Này, anh cố tình không biết bạn gái anh có thai à? 30 tuần rồi đấy. Va đụng mạnh quá nên sẩy rồi, còn may là cứu được mẹ đấy.

– Có…thai ạ?- Anh trố mắt.

Đến tận bây giờ anh mới hiểu hết vấn đề của con gấu trúc ngu ngốc. Thì ra cái thằng khốn nạn kia làm cô ta có thai rồi bỏ của chạy lấy người. Nói sao cô ta phản ứng dữ dội như vậy.

– Anh còn hỏi được câu đó à? Tôi thật không hiểu bọn trẻ các anh bây giờ sống thế nào. Một ngày tôi tiếp đến mấy chục ca, toàn bọn ranh con 17, 18 tuổi, có đứa mới 16 tuổi đến nạo phá thai. Học chưa thông mà đã làm liều…

– Ơ, này chị…- Anh ngắt lời bà cô ngoa ngoắt này- Thứ nhất, tôi không phải là tác giả của cái thai đó. Thứ hai, tôi mới về Việt Nam được một tháng, còn cái thai kia đã hai tháng rưỡi rồi. Thứ ba, tôi và con gấu trúc ngu ngốc kia mới gặp nhau có vài lần thôi, và lần nào cũng cãi nhau tóe khói chứ mần ăn gì mà ra một cái thai được.

– Ơ, thế cậu không phải bạn trai con bé à?- Chị ta ngẩn ra, rồi cười trừ- Xin lỗi cậu nhé, tôi hay bị bức xúc thế lắm. Phải làm trong nghề này mới thấy hết được những cảnh đau lòng. Nhìn cậu đẹp trai sáng sủa thế này đủ biết cậu là con nhà được giáo dục tử tế rồi. Tại trong ví của con bé có mỗi cái chứng minh thư với một tờ giấy ghi số điện thoại của cậu nên tôi cứ tưởng…

– Thôi không đứng đây dài dòng nữa, chị dẫn tôi đi làm cái thủ tục nhập viện cho cô ta đi đã. Mà cô ta giờ sao rồi?

– Bị shock, có lẽ lâu nay tâm thần cô bé luôn bất ổn và ở trạng thái kích động. Tiêm thuốc an thần rồi, yên tâm. Nhưng mà, tôi e vụ sẩy này có thể làm cô bé mất khả năng sinh sản đấy.

Khánh Nam hơi sững lại khi nghe câu đó.

Tự nhiên anh cảm thấy thương cho Phượng Vũ.

Thương cho cả những cô gái bị anh bỏ rơi trước đây.

Và anh ghét bản thân anh quá!

Lâm Phượng Vũ, con gấu trúc ngu ngốc. Nhìn cô ta nằm giữa một đống dây rợ lằng nhằng, mặt mũi tái nhợt không chút sức sống, anh cảm thấy mình đang ở một thế giới khác, thế giới chỉ toàn giả dối, đau khổ, lọc lừa và nước mắt.

Cô ta không mang giấy tờ tùy thân gì, ngoài chiếc ví bên trong chỉ có một chiếc CMT, tờ giấy ghi số điện thoại của anh, và một số tiền nhỏ. Tại sao cô ta lại làm cái chuyện dại dột này, trong khi đã hứa với anh là sẽ không làm thế nữa rồi? Một cái thai có gì là khó giải quyết đâu, việc gì phải lấy tính mạng mình ra mà đánh đổi thế chứ.

– Sau khi tỉnh lại cô ta có thể về ngay được không ạ?- Anh hỏi người y tá đứng cạnh mình.

– Chắc phải nằm đến ngày mai.

“Mình có nên để cô ta thấy mình khi cô ta thức dậy không?”- anh tự nhủ. Cô ta không muốn cho ai biết về bí mật này, mà anh cũng chẳng biết gì hơn về gia đình hay bạn bè của cô ta cả. Anh thì không yên tâm để cô ta ở lại một mình ở đây, có lẽ cô ta sẽ cảm thấy rất cô đơn, và có khi lại còn nghĩ quẩn lần nữa.

8h tối, điện thoại của anh đổ chuông liên tục nhưng anh chẳng buồn nghe, lại là hai bà chị quậy phá rủ đi chơi nữa. Phượng Vũ vẫn chưa tỉnh. Anh ngồi trên ghế, nhìn hộp cháo đã nguội ngắt, hồi nào đến giờ một đại thiếu gia như anh có phải làm một việc ngớ ngẩn như thế này đâu. Ba mẹ anh mà biết giờ này anh đang ngồi trong một phòng bệnh nhỏ hẹp, cũ kĩ để trông chừng một người chẳng quen thân lắm thì chắc hai người sẽ sửng sốt mà bay ngay về Việt Nam mất.

– Tại sao anh lại ở đây?- Phượng Vũ đã thức từ bao giờ và hỏi anh bằng giọng yếu ớt, khác xa với thái độ hung hăng, nhiều khi là bất mãn của cô ta hằng ngày.

– Chắc do kiếp trước tôi nợ cô đấy nên giờ phải ráng mà trả thôi.

Phượng Vũ đưa tay đặt lên bụng, mặt có vẻ thất thần:

– Nó…

– Cô đã không muốn giữ cái thai như thế, cô có thể phá bỏ nó đi mà. Tại sao cô lại phải chọn cái chết chứ?

– Nếu tôi bỏ nó đi, tôi sẽ là kẻ sát nhân.- Phượng Vũ nói, những giọt nước mắt long lanh trên mặt.- Mà lại là giết chính con mình nữa. Tôi chưa bao giờ có ý định muốn bỏ nó cả. Nó vô tội, chỉ có tôi mới là có tội.

– Vậy tại sao còn cố tình đâm vào đầu ô tô?- Anh giận dữ.

– Không phải, lúc đó tôi đang sang đường thì bị choáng ngất. Dạo gần đây tôi ăn uống kém lắm.

– Dù sao thì cái thai cũng sẩy rồi. Bây giờ cô có thể làm lại cuộc đời của cô, chẳng cần buồn lo về nó nữa.

– Nói không nghĩ về nó nữa chắc tôi không làm được… Dù sao cũng cám ơn anh đã ở đây với tôi. Anh cứ về đi.

– Cô định ở đây một mình sao?

– Không sao mà. Tôi có thể gọi cho bạn thân của tôi đến nên anh cứ về đi.

– Cô đọc số bạn cô đi để tôi gọi, chừng nào cô ta đến thì tôi sẽ về.

Phượng Vũ đọc cho anh một số di động. Anh bấm số rồi đưa máy để cô ta tự nói chuyện.

Trước khi ra về, anh chỉ vào hộp cháo nói:

– Tôi có mua cháo cho cô đấy. Nó nguội rồi nhưng cũng cứ nên ăn một chút. Lúc nào cô khỏe tôi sẽ tới trường thăm cô, tôi về đây.

Khánh Nam, giữa cái lúc tâm trạng buồn bực không biết làm sao để giải tỏa, anh lái xe thẳng đến Jimmy café, nơi mà ông chú Trung vẫn thường lui tới nhất trong chuỗi những nhà hàng của Lotus.

– Sao thế anh bạn trẻ?- Chú vỗ vai anh khi anh ngồi ủ rũ trên ghế.

– Cháu muốn nói chuyện với chú được không ạ?- Anh đề nghị.

– Ồ, tất nhiên rồi. Sao thế, có tâm sự gì à?

– Có phải chú rất thân với ba cháu không?

– Chú không thân với ba cháu giống kiểu của chú Tùng và chú Khánh, chú với ba cháu giống hai cộng sự trong làm ăn thì đúng hơn.

– Nhưng ba cháu rất coi trọng chú. Ba cháu nói một nửa Lotus hiện nay là nhờ tay chú mà có.

– Ngày đầu tiên ba cháu đến tìm chú, khi đó chú là quản lý một khách sạn 4 sao có tiếng trong thành phố này và chú chỉ mới có 25 tuổi. Ba cháu đến gặp chú, nói với chú rằng: “Cậu chính là người tôi đang đi tìm. Cậu có muốn theo tôi không?” Lúc đó ba cháu muốn chú về làm quản lý cho cái quán café nhỏ bé này, một trong những nơi xuất phát đầu tiên của ba cháu và cũng là điểm đầu tình yêu của ba và mẹ cháu nữa. Chú biết ba cháu khi đó chỉ mê đua xe mà thôi chứ không hề có ý định làm ăn nghiêm túc, nhưng chú vẫn quyết đi theo ba cháu, vì chú nhìn thấy tương lai những năm về sau của anh ấy. Chú biết chắc chắn ba cháu sẽ làm mưa làm gió trên thương trường trong một ngày không xa.

– Nhưng cháu nghe nói hồi trẻ ba cháu là một dân anh chị phải không ạ?

– Nói thế thì nghiêm trọng quá!- Chú Trung vỗ vai anh- Khi đó tuổi trẻ mà, chỉ là ba cháu có những người bạn quá “nổi tiếng” trong giang hồ nên mới thế.

– Ba cháu rất ghét những gì chướng tai gai mắt phải không ạ?

– Có thể nói như thế.

– Vậy nếu thấy một kẻ bỏ rơi người bạn gái đang mang thai của mình để chạy theo một kẻ khác thì ba cháu sẽ làm gì ạ?

– Khánh Nam, cháu hỏi vậy là sao? Cháu đã gây ra chuyện gì à?- Chú Trung sửng sốt nhìn anh.

– Tất nhiên là không ạ!- Anh xua tay- Cháu vốn là một thằng chẳng ra gì, nhưng về đây rồi, cháu còn thấy nhiều kẻ tồi tệ hơn cả cháu. Những gì mẹ cháu nói về nơi này thật khác xa những gì cháu đang thấy.

– Những gì mẹ cháu nói là đúng, nhưng là của hai mươi năm về trước rồi. Bây giờ mọi chuyện khác lắm, mẹ cháu đã xa nơi này lâu như thế nên không cảm nhận được sự khác biệt đó thôi.- Ông vỗ vai anh gật gù vẻ cảm thông.

– Mẹ cháu luôn phê bình cháu suốt ngày đàn đúm với lũ bạn xấu, nhưng ít nhất chúng cháu cũng biết vứt rác vào thùng rác công cộng, cũng biết chịu trách nhiệm với những gì chúng cháu gây ra.

– Nói chú nghe cháu đã thấy chuyện gì vậy?- Chú Trung nghiêm túc hỏi lại anh.

– Cháu thừa nhận cháu đã có rất nhiều bạn gái, quan hệ với họ nhiều lần, nhưng chúng cháu ý thức được cái mình đang làm và sẵn sàng chịu trách nhiệm với bản thân. Cháu cũng đủ am hiểu để đảm bảo cho cả hai sự an toàn. Còn về đây, cháu không hề thấy thế. Quá bừa bãi.

– Đừng gay gắt quá như thế con trai à? Đó chỉ là một bộ phận nhỏ hiện nay thôi.

– Nhưng sao cháu thấy nhiều lắm. Kiến thức về sức khỏe sinh sản quá tồi, lại còn không hề được dạy bảo cách phải chịu trách nhiệm trước hành động của mình. Khi yêu thì dỗ ngon dỗ ngọt người ta, nhưng lỡ để lại hậu quả thì phủi tay chạy mất. Những hạng người như thế cần phải xử lý thế nào đây? Con gái thì chỉ chăm chăm nghĩ đến giải thoát bằng cái chết. Họ tiêu cực quá! Cháu muốn làm gì đó, nên cháu mới hỏi chú nếu là ba thì ba sẽ làm gì?

– Không thể làm gì cả con trai ạ.- Ông thở dài- Không có luật nào quy định những việc đó cả, cái quy ước nó chính là đạo đức và sự tự nhận thức. Chú cũng có con, chú thấy chúng tiếp thu tri thức nhanh lắm, chẳng thua giới trẻ trên thế giới. Nhưng chỉ có một điều, chúng ta cứ mãi tiếp thu nửa vời.

– Có lẽ cháu sẽ xin mẹ sang Harvard học.

– Nếu được thì chú ủng hộ. Nhưng chú không nghĩ là mẹ cháu sẽ mềm lòng đâu. Mẹ cháu cũng có cái đúng chứ, cho cháu về đây để cháu nhìn thấy cái sai lầm mà tránh nó ra, sống cho tốt hơn. Thôi, tươi tỉnh lên nào, nãy giờ cháu cứ như một lão 70 khó tính ấy. Phải nhìn cuộc sống thoáng ra con trai ạ! Đừng bao giờ nghĩ tiêu cực mà hãy nghĩ tích cực lên.

– Dạ… Cháu hiểu ạ!

 Lan còn vui hơn.

Chương 5: Thay đổi

          Khánh Nam ngồi thất thần trước tập hồ sơ bệnh án của Phượng Vũ mãi, băn khoăn không biết có nên đưa lại cho cô ta hay không? Cô ta không nên biết đến sự thật ghi trong này thì hơn, nếu không con gấu trúc đó lại chui ngay vào cái kén đau khổ của mình. Cô ta đang tìm cách quay lại với sự vui vẻ, anh càng không nên phá vỡ sự cân bằng đang chậm chạm quay trở lại ấy.

Đứa bé và vụ tai nạn sẽ là bí mật của anh và cô ta, nhưng còn việc cô ta không sinh được con trong tương lai, đó sẽ là bí mật của riêng mình anh. Phượng Vũ sẽ quên được mối tình đau khổ này, và cô ta sẽ có khởi đầu mới với một người đàn ông tốt hơn.

Có tiếng gõ cửa, Khánh Nam tiện tay liệng luôn tập hồ sơ vào giỏ rác rồi quay ra:

– Vào đi.

Minh Sang bước vào phòng, trên tay là bát chè sen còn nóng. Cô bé tươi cười đặt xuống bàn nói:

– Anh ăn đi này. Em vừa nấu xong đấy. Bà bảo em mang cho anh một bát.

– Cám ơn nhóc.- Anh cười và xoay ghế lại nhìn cô bé.

Minh Sang ngồi xuống giường. Cô bé đã tới ở đây được hai tháng rồi, và lúc này thì đã giống một thành viên thực thụ trong gia đình.

– Anh ăn đi…- Sang giục khi anh cứ nhìn cô mãi làm cô bé đỏ ửng cả mặt.

– À ừ, anh đợi nó nguội đã. Sao em biết anh thích ăn nhất chè sen?

– Bà nội nói thế.

– Hồi còn bé, anh nhớ anh ở trong Tây Nguyên, quanh nhà anh và nhà ông ngoại Phi Long có mấy cái hồ sen liền. Mẹ thường nấu chè sen cho anh ăn từ hồi đó. Qua Hà Lan rồi thói quen đó vẫn không bỏ. Mẹ nói thức ăn phương Tây quá nhiều chất béo sẽ không tốt cho sức khỏe lâu dài của bọn anh nên mẹ hay nấu mấy món ăn Việt Nam cho cả nhà.

Minh Sang nghe anh kể một cách chăm chú, đôi mắt to tròn của cô bé thỉnh thoảng lại liếc nhìn anh.

– Thích nhỉ? Mẹ em nói trong Tây Nguyên nhà anh có một biệt thự trồng toàn hoa rất đẹp, đúng thế không ạ?

– Ừ, nhà đó ba anh mua tặng mẹ anh nhân ngày cưới mà. Nhưng anh chả nhớ nó rõ lắm vì anh rời đó lâu rồi. Nghe thấy bảo giờ khu đó trồng hoa để cung cấp cho nhà máy sản xuất nước hoa của Lotus.

– Bao giờ có thời gian dẫn em về đó xem nhé!- Cô bé thích thú đề nghị.

– OK…nếu em thích.- Anh cười trước cái vẻ đáng yêu đó.- Thôi anh đi tắm cái rồi còn ra ngoài nữa.

– Tối nào anh cũng ra ngoài, anh đi đâu vậy mà chẳng bao giờ cho em đi theo.- Cô bé phụng phịu.

– Không được đâu nhóc. Mấy chỗ đó không dành cho học sinh cấp 3 trở xuống đâu. Ngoan ngoãn ở nhà với bà đi nhé!- Anh đứng dậy, xoa đầu con bé.

– A, cho em mượn máy tính của anh nhé! Máy của em virus đang mang đi bảo hành rồi.

– Mang về phòng em mà dùng.- Anh bước vào nhà tắm, nói vọng ra.

– Thôi, em ngồi ké chút xíu thôi mà.- Cô bé hí hửng ngổi vào ghế.

“Bao giờ thì bố mẹ cô ấy mới về nhỉ?” Khánh Nam suy nghĩ như thế trong lúc tắm “Mình sắp bị con bé làm cho đứng không vững nữa rồi.”

Khánh Nam qua nhà bác Phương đón hai bà chị họ rồi lái xe đến vũ trường M&R như đã hứa bữa trước. Anh không hay đến M&R, nhưng nghe nói đây là một địa điểm “bay” khá nổi tiếng của những kẻ thích cảm giác lạ. Trước đây khi ở Hà Lan, một lần thử theo lũ bạn đi “bay” một đêm và làm những trò điên rồ bệnh hoạn không sao kiểm soát được, anh đã bị ba mẹ nhốt trong phòng 5 ngày liền và tịch thu mất xe cũng như thẻ tín dụng hai tháng. Nếu hồi đó em gái của anh không phải nịnh nọt bố mẹ thay cho anh thì chắc anh còn bị tống luôn vào trường giáo dục những thanh niên hư hỏng.

– Này, nhảy nhót gì thì cứ việc, nhưng nếu định thác loạn hết đêm ở đây thì báo trước để em về đấy nhé!- Anh nói với hai bà chị.

– Thôi đi cậu em hư đốn. Sao cậu cứ phải tỏ ra mình là con ngoan trò giỏi, gương mẫu thế nhỉ?- Mai Anh vỗ vào vai anh cười như điên- Cứ phóng túng một đêm ở đây thì có sao đâu. Bố mẹ chị đi công tác ở Mỹ rồi, hết tuần mới về cơ.

– Thôi cho tôi xin đi. Vui có chừng dừng đúng lúc cho tôi nhờ…- Anh nhắc lại câu của mẹ anh vẫn thường hay dạy.

– Ối giời, bữa nay còn nói chữ nghĩa nữa cơ đấy. Bà chị này biết thừa điểm dừng cuối cùng của cậu lúc nào chả là ở khách sạn với một con bé nào đó.

– Thôi đi, nghĩ ai cũng xấu như hai bà chắc.- Anh gạt- Người ta không bừa bãi như hai bà đâu.

Ngồi xuống ghế chưa nóng chỗ thì đã có ngay một bà chị lân la đến làm quen. Có lẽ đã uống rượu nên mắt cô ta nhìn anh long lanh, khóe miệng hơi cười khêu gợi. Thân hình cô ta bốc lửa, y như bức tượng thần vệ nữ vậy. Chiếc váy đỏ bó sát người, ngắn cũn càng làm cô ta thêm hấp dẫn hơn.

– Này anh trai…- Cô ta đưa tay miết nhẹ lên tay anh, ánh mắt đá đưa- Kiếm chỗ nào mình tâm sự không? Ở đây nóng quá!

– Chào cô… tôi không đi được, còn trông chừng hai cô chủ của tôi đang nhảy ở ngoài kia. Nếu cô nóng tôi sẽ kêu người ta tăng nhiệt độ điều hòa nhé!

– Khỉ gió…- Cô ta đánh nhẹ lên ngực anh- Tôi là tôi kết anh rồi đấy. Anh nói hai cô tiểu thư của tập đoàn Lotus là cô chủ của anh à?

– Phải, tôi phải đợi để chở họ về.

– Ai chứ họ thì còn lâu mới về. Yên tâm, hay mình ra xe của anh ngồi nói chuyện nhé!

“Dai như đ ỉ a.”- Khánh Nam nghĩ và đang tìm cách đuổi cô ta đi mà không phải tỏ ra bất lịch sự nhất.

Nhưng đúng lúc ấy, anh nhìn thấy ngay một gương mặt xinh đẹp khác. Đôi má hồng, chiếc môi đỏ chót, mái tóc dài quăn màu đỏ, chiếc váy hồng xinh xắn, nhưng ánh mắt cô ta lại đang nhìn anh đầy giận dữ. Vờ như không thấy cô ta đang tiến lại, anh đưa tay vòng qua eo cô gái đang ngồi bên cạnh mình, ghé sát mặt cô ta, mỉm cười:

– Nếu cô đợi tôi thêm một chút nữa, tôi sẽ đưa cô đến chỗ nào đó mát mẻ.

– Thật chứ?

Anh không đáp lại mà quay ra nhìn người vừa đến. Cơn giận điên cuồng có lẽ đang muốn bùng nổ ra. Cơn ghen của đàn bà thật kinh khủng.

– Ủa…- Cô gái mặc váy đỏ ngẩng đầu nhìn con búp bê dễ thương đó, không cười nữa.

– Vũ Khánh Nam, anh đang làm cái gì đó?- Cô ta giận dữ hỏi.

– Ơ, chào em…- Anh tỏ ra thản nhiên- Lâu rồi không gặp em nhỉ. Một tuần rồi đúng không?

– Anh nghĩ tôi là đồ chơi của anh à? Con nào đây? Anh chơi chán rồi đi tìm con khác hả? Tôi nói cho mà biết, anh không bỏ tôi dễ như thế được đâu.

– Này em, nóng giận sẽ làm mặt có nếp nhăn đó. Ngồi đây uống cái gì cho mát đi. Snowy nhé!

– Im đi… Giờ anh nói cho tôi một tiếng, anh tính sao chuyện này đây, liệu hồn quỳ xuống đây xin lỗi tôi một tiếng tôi còn cho anh có đường quay lại.

– Ai da, anh có phải thằng con trai đầu tiên của em đâu nhỉ?

Một vài người xung quanh tủm tỉm cười vì cái câu nói bóc mẽ đó của anh. Thế thì khác nào anh đang chửi thẳng vào mặt cô ta rằng cô ta đã chẳng còn gì từ lâu rồi.

Anh tiếp:

– Em cứ coi anh như mấy thằng vừa ngu vừa đần vừa xấu trước đây của em ấy, em đá một phát là xong còn gì.

Lại thêm một câu nói xóc nữa làm cô ta lần này đỏ bừng hết cả mặt.

– Anh dám nói láo…

– Anh đâu có nói láo… Anh có nói là sẽ yêu em và chung thủy với em cả đời đâu. Chúng ta chẳng qua là lợi dụng lẫn nhau thôi mà. Xong thì nên bye bye để lần sau gặp lại cũng còn dễ nói chuyện chứ.

– Đồ Sở Khanh…- Cô ta định giơ tay tát anh, nhưng anh đã nhanh tay chộp lấy bàn tay đó. Anh kéo cô ta lại gần, nói đủ để mình cô ta có thể nghe thấy.

– Hay cô thích trần trụi hơn thì nghe nè, tôi không thích dùng hàng đã bóc tem đâu. Cút đi kiếm thằng khác khi tôi còn đang vui vẻ, nhé!

– Anh…- Con bé giận run lên- Anh cứ nhớ đấy, tôi sẽ làm cho anh phải hối hận.

Và con bé bỏ đi trước cái mỉm cười của anh.

Cô nàng nãy giờ ngồi cạnh anh không nói một tiếng nào. Nhưng rồi cô ta túm lấy tay anh nói:

– Này, mình đi thôi, để con bé ấy gọi người đến thì phiền lắm.

– Yên tâm, con nhỏ đó chẳng dám quay lại đâu.

– Anh không biết nó là ai hay sao mà dám đắc tội với nó?

– Là ai?

– Thiên kim của tập đoàn Vĩnh Lạc đấy.

– Tôi chả biết họ.

– Thảo nào anh dám dây dưa với họ. Nghe nói cô ta có một ông anh nuôi là chủ của một băng xã hội đen đấy.- Cô nàng thì thào.- Giờ này chắc cô ta đang gọi hắn đến để xử lý anh.

– Cô sợ thì tránh đi. Quên là tôi còn hai bà tiểu thư kia chống lưng à?- Anh hất đầu về phía Vân Anh và Mai Anh. Vuốt mặt cũng phải nể mũi chứ, dù gì họ cũng là người của Lotus mà.

– Anh đúng là điên rồi…- Cô nàng lắc đầu ngán ngẩm và lỉnh ngay đi chỗ khác.

Đúng như cô nàng dự đoán, chỉ 15 phút sau, một bọn ngổ ngáo xách toàn gậy gộc và tuýp nước đi vào bên trong. Dẫn đầu chúng là ba người, con búp bê vừa bị anh đá, một thằng to con, mặc áo sát nách, người toàn hình xăm, và kẻ thứ ba, không làm anh ngạc nhiên mấy- Nguyễn Mạnh Trường. Đơn giản vì ngay từ đầu anh biết con búp bê mà anh đá chính là em gái cưng của hắn, và anh muốn chơi xỏ lại hắn cái vụ của Phượng Vũ.

– Anh Hai, anh Ba, chính là hắn. Hắn đã lợi dụng em rồi bây giờ còn dám không chịu trách nhiệm với em.- Con nhỏ khóc bù lu bù loa lên.

Cả sàn nhảy tập trung lại nhìn cảnh này, tiếng của tay quản lý không sao át nổi tiếng nhạc quá lớn.

– Mày… – Thằng anh du côn của cô ta chỉ thẳng vào mặt anh – Lại đây.

– Tại sao? – Anh vẫn thản nhiên ngồi trên ghế, cười khinh khỉnh.

– Quỳ xuống xin lỗi nó nếu không hôm nay là ngày tận số của mày đấy.

– Chưa chắc đâu. – Anh vẫn nhìn thẳng vào chúng. Gì chứ riêng trò đánh đấm anh không ngán.

– Tao bất ngờ khi đó là mày đấy…- Tên Trường lên tiếng, mắt hắn vẫn long lên giận dữ, nhưng khác với thằng anh nuôi của hắn, có lẽ sự giận dữ của hắn xuất phát từ việc hắn hiểu vụ này là hệ quả do hắn gây ra.

– Còn tao thì không… Cảm giác của mày thế nào khi thấy em mày bị phủi tay như thế? Tao ước gì có thể để lại cho cô ta một cái gì đó giống mày, nhưng tao không làm thế được, vì chỉ có giống chó như mày mới làm thế.- Anh đặt cốc rượu cạch xuống bàn.

– Giết nó cho tao.- Thằng đại ca của đám du côn gầm lên, hắn quả nhiên là người nóng tính.- Đứa nào có ý định báo công an cứ nhìn nó mà làm gương. Chịu khó yên thân thì sẽ chẳng việc gì hết.

Khánh Nam nhanh nhẹn nhảy ra khỏi ghế trước khi một thanh kiếm chém tới làm rách toạc lớp da bọc đệm ghế.

Anh giơ chân đá một thằng vừa vung cây gậy gỗ lên.

Bảy thằng xông vào anh không một chút nương tay. Đánh phải đánh trái, đỡ đòn một hồi Khánh Nam cũng thấm mệt. Quả nhiên không cân sức chút nào.

– Này thì đánh trả này…- Thằng đại ca nhảy vào, ánh dao sáng loáng lia tới phía anh.

Một nửa số người đang chứng kiến nhắm mắt lại không dám nhìn.

Hai tiếng hét thật lớn vang lên khi Khánh Nam loạng choạng ngã xuống.

Hai bóng người xô đến trước khi gã côn đồ kịp đâm nhát dao chí mạng lần hai.

“Chết rồi…” Nhìn thấy Mai Anh, Vân Anh, tên Trường toát cả mồ hôi hột.

Hắn quên mất đã từng nghe hai đứa con gái kia giới thiệu thằng đó là em họ chúng.

Con cháu của Lotus.

– Khánh Nam, Khánh Nam, làm ơn ai gọi cấp cứu nhanh lên. Sao chảy nhiều máu thế này?- Mai Anh hét lên.

Khánh Nam nhắm mắt, anh vẫn còn một chút tỉnh táo để cảm nhận mọi chuyện.

“Lần này sẽ chấm hết… Ặc, hai bà cô già này tì vào làm bụng mình càng đau hơn… Làm ơn nhẹ nhẹ tay chút…” Anh nghĩ đến đó liền lịm đi trong tiếng khóc của hai bà chị họ.

*

– Lý nào lại thế.- Bà Liên đập tay xuống bàn giận dữ- Làm con gái người ta có chửa rồi còn chạy à?

– Khánh Nam vì quá bất bình với việc này nên nó mới đắc tội với anh em nhà đó thôi thưa chủ tịch.- Trung đáp lại bà.

– Tạm thời nói với mọi người không ai được báo cho Phong và Nhi biết kẻo tụi nó lại trách ta không trông nom được thằng bé. Mà ta cũng không muốn chúng đưa thằng bé về lại bên đó.

– Tôi hiểu, thưa chủ tịch.

– Liên lạc với chủ tịch của Vĩnh Lạc ngay cho ta, ta muốn ông ta có lời giải thích về hành động của những đứa trẻ vô giáo dục đó, nếu không ta sẽ tự có cách. Chúng dám đụng đến người thừa kế hai tập đoàn lớn thì khác nào đụng đến ta và con trai ta đâu.

– Vâng.

– Còn nữa, đóng băng lại mọi tài khoản của hai con bé Mai Anh và Vân Anh. Ta không ngờ chúng lại hư hỏng đến mức độ đó. Chờ cha mẹ chúng về ta sẽ nói chuyện sau. Khánh Nam mới về đây có hơn ba tháng mà đã bị chúng làm cho ra thế này rồi.

– Vậy tôi đi đây thưa chủ tịch.- Trung gật đầu và rút lui trước khi cơn giận có thể làm bà đưa ra những quyết định nóng nảy hơn nữa.

Vết thương ở bụng dưới làm Nam bất tỉnh cả nửa ngày. Bác sĩ đề nghị anh phải nằm viện thêm vài ngày đề phòng di chuyển sẽ dẫn đến xuất huyết bên trong. Người đầu tiên anh nhìn thấy sau khi tỉnh dậy là Minh Sang. Cô bé đang ngồi ở ghế ngay gần anh, mắt sưng húp vì khóc nhiều. Cô bé khóc vì anh sao?

– Mọi người đâu cả rồi?- Anh cất tiếng hỏi làm cô bé giật mình.

– Anh…anh tỉnh rồi…- Cô bé mừng rỡ nói.

– Tất nhiên rồi, vết thương này có là gì đâu.

Sang nhổm dậy, ôm chầm lấy anh khóc òa lên:

– Vậy mà em sợ anh sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa, không bao giờ về với em nữa… Hu hu…

– Ái ái…- Anh kêu lên yếu ớt- Em làm anh đau nè cô bé.

– Ơ, oái, em xin lỗi…- Minh Sang ngồi phắt dậy, vừa ngượng vừa hoảng hốt.

“Ngốc thế.” Khánh Nam cười thầm.

Thực ra anh có đau đớn gì đâu, cô bé tì vào ngực chứ có động tý nào đến vết thương đâu. Chỉ là anh sợ mình sẽ bị cô bé làm cho thành yếu đuối mất.

“Cô bé ngốc, đừng yêu anh, anh xấu lắm.”

Con gấu trúc đến thăm anh vào một buổi chiều muộn, trước khi anh được cho về nhà một ngày. Có lẽ cái tin anh bị đám con của tập đoàn Vĩnh Lạc tấn công đã được đồn ầm lên ở trường, và cái tin anh là con trai tập đoàn ô tô Silver Wings, cháu trai của chủ tịch tập đoàn Lotus đã được loan ra khắp nơi rồi.

Khi Phượng Vũ đến, chỉ có Sang đang ở đó kể chuyện cho anh nghe về cơn thịnh nộ của bà nội sau vụ việc này, và rằng anh có thể hả hê trước cái mà những đứa kia sẽ phải hứng chịu.

– Anh chưa chết à?- Phượng Vũ nhìn anh nửa thương cảm, nửa tức giận.

– Ai da, sao cứ vừa nhìn thấy tôi là cô đã muốn gây sự thế xấu gái?- Anh cười và ngoắc ngoắc tay gọi cô ta lại gần.

– Hắn có đáng để anh làm vậy không?

– Ai cơ?- Anh giả bộ ngây ngô hỏi.

– Nguyễn Mạnh Trường chứ còn ai nữa.

– Có duyên thì đụng trúng hắn thôi mà. Bộ cô nghĩ tôi vì cô mà phải đem cái thân bèo bọt này ra cho chúng hành hạ hả xấu gái?- Anh bĩu môi.

– Nếu thậm chí không phải như thế thì tự tôi cũng thấy tôi có lỗi với anh.

– Cô dẹp cái bộ mặt đưa đám ấy đi đi. Cả tuần nằm bẹp một chỗ cũng đủ rầu hết cả người rồi đây. Sang ơi, em xuống dưới kia xem có cái gì uống được không kiếm cho bà chị đây đi.

– Dạ…

Minh Sang đi rồi, anh hỏi cô:

– Cô có thấy tôi xấu xa không?

– Làm sao anh lại xấu xa cơ chứ?

– Suy cho cùng tôi có khác gì hắn đâu. Cũng đá con gái nhanh và nhiều như hắn vậy thôi mà.

– Tôi không quan tâm chuyện đó.- Cô ta quay đi nói.

– Nhát dao này, là tự tôi muốn đấy.

– Anh điên à? Anh có thể mất mạng vì cái suy nghĩ ngu xuẩn đó đấy.

– Tôi muốn trả hết những gì tôi đã làm trước kia. Nhát dao đó coi như lấy đi mạng của gã Khánh Nam phong lưu trong quá khứ. Có lẽ từ nay tôi sẽ sống khác đi. Thế nên, cô cũng quên quá khứ đi, sống cho thật vui vào.

– Hắn là mối tình đầu của tôi.- Phượng Vũ thở dài- Dù sao thì cũng không thể nói quên là quên ngay được, dù hắn có phụ bạc thế nào đi nữa.

– Cô chưa nghe câu này sao: Người ta nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất nhưng mối tình cuối cùng mới thực sự là mối tình bất diệt. Tôi chả có lý do gì để bắt cô quên đi những kỉ niệm mà cô cho là khó quên đó cả, nhưng tôi khuyên cô hãy nghĩ đến tương lai chứ đừng ngồi ôm một chỗ mà gặm nhấm quá khứ làm gì.

– Anh làm tôi buồn nôn quá chừng. Sách vở quá đấy.

– Sặc, cô đúng là đồ xấu gái mà, đã xấu người còn xấu cả tính nữa. Người ta đang muốn làm người tốt mà cô làm tôi hết muốn hoàn lương.

– Ha ha…- Phượng Vũ cười- Thôi anh đừng có xúc động quá kẻo tôi lại mang tội ám sát anh đấy. Nghỉ đi, tôi về đây.

– Về hả?- Nam ngơ ngác- Ờ, thôi cô về đi.

– Mà này…- Cô ta nhìn anh nghi ngờ- Người ta nói anh là cháu trai của chủ tịch tập đoàn Lotus, thật sao?

– Tôi buồn ngủ rồi, cô về đi.- Khánh Nam không trả lời mà nhắm mắt lại giả vờ ngủ làm con gấu trúc kia tức điên lên, đá một nhát vào cánh cửa trước khi ra về.

“Từ mai, cô hãy cứ sống như thế này nhé, xấu gái!”

Chương 6: Lời thề dưới gốc hoàng lan.

          Ngôi chùa nhỏ nằm trong một khu phố vắng nên nó càng mang nét thanh tịnh hiếm có giữa chốn thị thành. Một ngày cuối tháng 11, đất trời vẫn chưa thực sự vào đông, cái khí dìu dịu của mùa thu vẫn còn len lỏi vào từng nhịp sống.

Khánh Nam đã khỏe trở lại nhiều ngày nay. Sáng sớm, anh đã thức dậy đưa bà nội và Minh Sang đến chùa này. Minh Sang ở đây cũng đã được bốn tháng, vẫn nhẹ nhàng và tươi tắn như một ngày nắng nhẹ tháng 10 êm dịu. Đôi khi cô bé bộc lộ ra những nỗi buồn vu vơ, đôi khi lại nhõng nhẽo như một đứa trẻ, có lúc hiền thục, đảm đang như một cô vợ nhỏ. Ở Minh Sang có một lực hút mà anh phải gồng mình lên mới cưỡng lại được.

Hôm nay là chủ nhật, người đến chùa thắp hương khá đông. Khánh Nam khá kiên nhẫn ngồi nghe một nhà sư đọc kinh làm lễ giải hạn cho anh. Cũng như trước đây mỗi lần theo lũ bạn đến nhà thờ nghe cha cố giảng kinh, anh chẳng hiểu lắm những hỉ nộ ái ố mà bà anh hay nói. Mẹ dạy anh, Phật ở tại tâm, trong lòng tự tu nghĩa là đã có Phật rồi. Điều đó anh cũng không hiểu nốt.

Tiếng đọc kinh cứ thế dội vào đầu óc anh rồi bật trở lại, vang mãi. Đầu óc anh bị cuốn theo những tiếng trầm bổng ấy, anh chẳng còn nghĩ được gì trong đầu nữa.

Anh đứng dậy, lẳng lặng bước ra ngoài.

Cái không khí thanh tịnh ở đây làm anh cảm thấy thật dễ chịu. Anh bước xuống những bậc đá, đi giữa hai hàng cây nở đầy hoa vàng nhạt, mùi thơm quyện vào tóc và quần áo. Lối đi này dẫn ra một hồ nước rộng. Xung quanh hồ cũng trồng toàn cây hoa màu vàng kia.

Bất giác, anh vươn vai hít một hơi dài đầy sảng khoái.

Mắt anh nhìn quanh và dừng lại ở một gốc cây. Dưới gốc cây có một người, mặc áo trắng giản dị đang ngồi dựa lưng đọc sách. Gương mặt mộc, sáng, hàng mi cong, đôi mắt khép hờ trông thật đẹp, nhưng điều anh ngạc nhiên nhất ở khuôn mặt nhìn nghiêng đó chính là nó rất quen thuộc với anh. Anh ngạc nhiên vì phát hiện ra vẻ mặt đẹp một cách kì lạ của con người đó. Anh đến gần, có lẽ cô quá chăm chú đọc sách nên không để ý đến anh.

Mãi cho đến khi anh gọi, con người đó mới ngẩng đầu lên.

– Xấu gái…

Phượng Vũ ngẩng đầu lên, nhìn anh ngạc nhiên không kém.

– Anh đang làm gì ở đây thế?

Thích thú vì gặp cô ở một nơi đặc biệt thế này, anh đến ngồi xuống cạnh cô, nói:

– Tôi đưa bà nội đến đây thắp hương. Mà cô có nhã hứng đến đây đọc sách cơ đấy?

– Tôi có thói quen này lâu rồi.- Phượng Vũ gập quyển sách lại.

– Thế mà chẳng bao giờ cô rủ tôi đi cùng.- Khánh Nam tỏ vẻ giận hờn.

– Đến chùa là để tu tâm cho tịnh, gạt bỏ tạp niệm, thoát khỏi những dung tục của trần đời chứ đâu phải là nơi để hẹn hò trai gái.

– Ặc…ặc… A di đà phật…- Anh bắt chiếc nhà sư khi nãy anh gặp và phá lên cười- Hẹn hò á? Ý tưởng mới mẻ đó…

Phượng Vũ đưa mắt nhìn anh, định nói gì đó nhưng rồi lại thôi. Thấy cô im lặng, nhìn mãi vào cuốn sách trên tay, Khánh Nam lại hỏi:

– Mà cô đang đọc cái gì vậy?

– Một tập truyện ngắn…- Cô hé tay để anh có thể nhìn rõ tựa đề của cuốn sách.

Tên tập truyện ấy là “Sợi tóc”, một tập truyện ngắn của Thạch Lam. Nhưng Khánh Nam chẳng biết gì về tập truyện cũng như tác giả ấy, vì anh không có cơ hội tiếp xúc nhiều với văn học Việt Nam. Những cuốn sách tiếng Việt mà mẹ hay mua cho hai anh em anh khi ở Hà Lan toàn là truyện thiếu nhi hoặc truyện cổ tích, cốt để hai anh có thể đọc thông viết thạo tiếng nói mẹ đẻ của mình.

– Nhìn mặt anh là tôi biết anh không biết gì về nó rồi.- Phượng Vũ tiếp.

– Cho tôi xem qua chút.

Nam cầm lấy cuốn sách, lật giở ra một vài trang. Khi anh lật đến trang truyện ngắn có tên “Dưới bóng hoàng lan” một bông hoa rơi xuống lòng anh. Bông hoa được ép cẩn thận trong cuốn sách, mùi thơm bay ra làm anh thoáng ngây người. Chính là loại hoa màu vàng ánh lục nở đầy trên đầu hai người lúc này.

Anh nhặt bông hoa đang ép dở lên, đặt nó vào chỗ cũ, ngẩng đầu hỏi Phượng Vũ:

– Hoa này có tên là gì thế xấu gái? Tôi thấy ở đây trồng toàn loại cây hoa này…

– Hoàng lan…- Phượng Vũ ngửa cổ lên nhìn những tán cây lấp ló những chùm hoa vàng đang mùa nở rộ.

– Ồ…- Khánh Nam khẽ thốt lên.- Ngồi đọc “Dưới bóng hoàng lan” dưới những gốc cây này, cô cũng thật hay đó xấu gái. Này, truyện này nói về cái gì thế, kể tôi nghe xem.

– Anh tự đọc đi.- Phượng Vũ lắc đầu, mắt lại nhìn lên những chùm hoa vàng đang đung đưa trong gió.

Một câu chuyện tình. Khánh Nam gập cuốn sách lại sau khi đọc xong truyện ngắn ấy và nhận xét. Anh ngẩng đầu nhìn Phượng Vũ, hàng mi khép hờ trên đôi mắt đen mơ màng, tự nhiên anh có cảm giác xao xuyến đến lạ kì. Anh vội lên tiếng để gạt đi những suy nghĩ không hay ho:

– Cô có nghĩ họ sẽ được bên nhau không?

– Đôi khi chúng ta chỉ có quyền hy vọng.- Phượng Vũ cười- Vì cuộc đời có quá nhiều bi kịch, mà bi kịch thì chẳng đến với riêng ai đó. Nó có thể là bất cứ người nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào…

– Thế thì ta cứ nên tin là họ sẽ có hậu chứ?

– Ừm, Thạch Lam để kết thúc bỏ ngỏ như thế là cốt để cho chúng ta hy vọng mà. Anh có quyền viết cho riêng lòng anh một cái kết khác theo ý anh. Nhưng đôi khi không phải lúc nào cũng nên là một cái kết hoàn hảo.

Và Phượng Vũ lại ngâm nga hát một đoạn ca khúc rất hay mà anh không biết: “Vườn nhà em bát ngát hương hoàng lan tỏa bay….” Anh ngẩn ra nhìn cái dáng vẻ đẹp đầy lãng mạn của Phượng Vũ khi hát đoạn nhạc đó.

Một cảm xúc lạ lẫm hiển hiện thật rõ trong lòng anh.

Phượng Vũ ngừng hát, quay sang nhìn anh, hỏi:

– Anh đang nghĩ gì mà ngây ra thế?

– Cô hát hay lắm…- Anh cười khiến cô bối rối quay đi.

Khánh Nam ngồi dựa vào gốc cây, quay lưng về phía lưng cô, cũng ngẩng đầu nhìn tán cây đầy hoa. Anh nói:

– Nếu tôi là anh chàng Thanh kia (nhân vật chính của “Dưới bóng hoàng lan”) thì nhất định tôi sẽ quay lại tìm cô gái đó. Không nên phụ lòng một người con gái như thế đúng không?

– Quan trọng là dù chưa nói ra nhưng trong lòng họ đã thầm hẹn ước và tự nguyện gắn bó rồi. Nên dù có bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày, tôi nghĩ Nga sẽ đợi anh ta quay về, như Vọng Phu ấy…

– Vọng Phu là gì?- Khánh Nam hỏi, tự cảm thấy xấu hổ vì bản thân mình chẳng hiểu gi về quê hương nơi anh đang sống cả.

– Để tôi hát cho anh nghe nhé!- Phượng Vũ đề nghị- Nhưng tôi không hứa là sẽ hát hết đâu, vì bài hát này buồn lắm.

“Người vọng phu trong lúc gió mưa.

Bế con đã hoài công để đứng chờ,

Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về

Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ

Có đám cây trên đồi gióng trông trong mơ hồ,

Ngày nào tròn trăng lại nhớ đến tích xưa

Khi tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ,

Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ cho đến bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già

Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa,

Nàng đứng ôm con,

Xem chàng về hay chưa? Về hay chưa?

Có ai xuôi vạn lý nhắn đôi câu giúp nàng,

Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng.

Thôi đứng đợi làm chi, thời gian có hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng kỳ

Những người mang mệnh biệt ly.”

Tiếng hát im bặt, Khánh Nam cũng không muốn nghe tiếp nữa, vì nó làm anh cảm thấy khó chịu quá! Những bài hát sôi động hiện nay không thể làm anh có cảm xúc mạnh như lúc này. Cái giọng hát cao vút và buồn não nề của Phượng Vũ vẫn còn vang trong đầu anh.

– Câu chuyện về nàng Tô Thị đấy.- Phượng Vũ nói với anh, anh không biết vẻ mặt của cô lúc này như thế nào, nhưng cầu mong là cô đừng bao giờ nhìn thấy vẻ mặt của anh lúc này.

– Có người dại dột đến thế sao?

– Đó không phải là dại dột. Nó là tình yêu, và là bi kịch nữa.

– Hứa với tôi một câu nhé xấu gái.

– Chuyện gì?

– Cô…đừng bao giờ làm Vọng Phu nhé!

Một sự im lặng thật dài phía sau câu nói đó. Không ai nhìn thấy gương mặt của đối phương lúc đó, nhưng có lẽ cả hai đều đang rất ngượng. Khánh Nam vội chữa cháy cho cái tình huống dở khóc dở cười này bằng một câu nói giống cái giọng điệu hằng ngày của anh:

– Nếu cô mà hóa đá thì tôi biết cãi nhau với ai chứ? Vả lại hóa đá rồi thì suốt ngày chỉ đứng một chỗ nhìn người ta, buồn chết đi được ấy chứ…

Nói dài thành nói dại, Khánh Nam im lặng sau câu nói đó của mình. Phượng Vũ khẽ cười:

– Vì ai đó mà có thể hóa đá để chứng tỏ lòng mình thì cũng đáng đấy chứ. Nhưng chắc tôi sẽ không đủ dũng cảm để chờ đợi như thế đâu… Nên anh đừng có lo…

Khánh Nam mỉm cười.

Hai người cứ ngồi như thế cho đến khi anh nghe thấy tiếng gọi của Minh Sang.

Minh Sang nhìn anh, rồi nhìn sang Phượng Vũ, nói:

– Bà bảo em đi gọi anh về.

– Anh biết rồi.- Khánh Nam gật đầu và đứng dậy.

Trước khi đi, anh hỏi Phượng Vũ:

– Cô có muốn về cùng chúng tôi không?

– Không… tôi ở đây hết ngày mới về.

– Vậy tôi về trước nhé! Hẹn gặp cô ngày mai ở trường.

– Tạm biệt.

Sang kéo tay anh đi. Cô bé ngẩng đầu nhìn những bông hoa vàng, quay lại nhìn Phượng Vũ rồi lại nhìn sang Khánh Nam.

“Vườn nhà em bát ngát hương hoàng lan tỏa bay….” Ngày hôm ấy, câu hát và mùi hương hoàng lan còn theo anh mãi vào trong giấc ngủ.

Chương 7: Tạm biệt Minh Sang.

          Khánh Nam gõ cửa phòng bà nội khi nghe chị giúp việc nói bà muốn gặp anh. Nghe tiếng bà gọi, anh bước vào.

Bà đang ngồi bên bàn uống trà một mình, nhưng có thể là đang đợi anh. Thấy anh bước vào, bà vẫy tay gọi anh lại gần.

Bà nội rất quý và chiều anh, nhất là từ sau khi anh gặp nạn trong vụ ẩu đả ở M&R, bà càng tỏ ra quan tâm anh đặc biệt, kêu vệ sĩ ngày đêm kè kè đi theo anh, còn cách ly hoàn toàn anh với hai bà chị họ.

Từ sau vụ đó, hai vợ chồng bác Phương hình như quản họ chặt lắm, cả hai bị cắt hết viện trợ, suốt ngày bị hộ tống đến trường rồi lại về nhà. Họ không được ra ngoài chơi như bình thường nữa. Khánh Nam thỉnh thoảng muốn đến chơi với họ mà bà nội cũng không cho đi sợ họ lại dụ dỗ anh làm điều xằng bậy.

– Bố mẹ Minh Sang vừa điện cho nội. Hai ngày nữa họ sẽ quay lại Việt Nam. Con bé sẽ quay lại sống với họ.

– Thế ạ?

– Nội muốn hỏi con chuyện này… Con ở cùng con bé một thời gian dài rồi, con thấy nó là người thế nào?

– Dạ thì Sang ngoan ngoãn, dễ thương và nấu ăn rất ngon.

– Vậy thì tốt.- Bà gật đầu cười- Con nghĩ sao nếu bà nói con nên tiến xa hơn với con bé?

– Ơ, dạ, Sang còn đang đi học mà nội.- Anh vội nói vì hiểu ngay ý của bà nội.

– Thì cứ xúc tiến từ bây giờ đi là vừa. Tình cảm nên vun đắp lâu dài. Nội muốn hai đứa sớm lấy nhau, như thế rất có lợi cho tương lai của con sau này.

Thấy anh tỏ ý không hiểu, bà anh giải thích:

– Tập đoàn này của ta rồi sớm muộn gì cũng trao lại cho con. Bác con rồi sẽ già đi, mà ta thì chẳng trông chờ gì vào hai con bé Vân Anh và Mai Anh cả, chỉ mong chúng nó đừng phá tan cái gia đình này là được. Minh Sang nó là con bé ngoan ngoãn, lại là con gái duy nhất của đại sứ Nhật tại Việt Nam, nó không chỉ là hậu phương vững chắc cho con, mà thế lực mà bố con bé có thể mang lại cho con là rất lớn. Con sẽ có một điểm chống lưng lớn ở thị trường Nhật.

Thấy anh có vẻ ngần ngừ, bà hỏi:

– Con còn băn khoăn gì sao?

– Dạ không có gì ạ!- Anh lắc đầu.

– Vậy con sẽ tiến tới với con bé chứ?

– Dạ…

– Tốt lắm…- Bà gật đầu hài lòng- Ngày mai con nên đưa con bé đi chơi ở đâu đó trước khi chia tay nó về với gia đình đi.

– Vâng, con biết thưa nội. Con xin phép về phòng ạ!

Anh trở về phòng, Sang đã ngồi ở đó từ bao giờ, đang đọc một cuốn sách nào đó rất say sưa nên mãi khi anh lên tiếng cô bé mới ngẩng đầu lên.

– Ơ, em xin lỗi, tại quyển sách này hay quá nên em cứ ngồi đây mà không về phòng.

– Không sao.- Anh lắc đầu nhìn cô bé.

Đã có lúc anh cảm thấy không thể kìm nổi lòng mình trước vẻ đẹp của cô bé này, nhưng vì nghĩ đến người lớn, anh đã tự nhủ không được làm gì quá đáng.

Nhưng sao bây giờ khi được bà cho phép rồi, anh lại thấy không còn khao khát điều đó nữa. Cảm xúc khi đó dường như chỉ thoáng đến và thoáng đi trong lòng anh.

– Sang này…- Anh ngập ngừng nói.

– Dạ?- Cô bé ngước đôi mắt to tròn nhìn anh chờ đợi.

– Ngày mai anh đưa em đi đâu đó chơi nhé!

Minh Sang có vẻ ngơ ngác trước lời đề nghị này. Với cô bé, anh là một thế giới đầy hấp dẫn, nhưng luôn khép kín với cô. Cô mỉm cười, gật đầu:

– Dạ…

“Mình đang làm gì đây?”- Khánh Nam nằm vật ra giường sau khi Sang ra khỏi phòng- “Mình đã bị cuốn vào những toan tính của người lớn rồi sao? Mình có thực sự muốn cô ấy hay không?”

Rồi anh thiếp đi, một mùi hương ám ảnh váng vất mãi trong đầu anh. Một câu hát êm dịu đưa anh vào giấc ngủ.

*

Bát Tràng. 7h sáng. Không khí mát mẻ báo hiệu một ngày đi chơi đẹp trời. Minh Sang thắc mắc với anh:

– Tại sao anh lại đến đây thế?

– Nơi này nghe nói rất thú vị mà. Hơn nữa anh muốn em chọn dùm anh mấy món quà. Sắp đến Giáng sinh rồi. Phải có quà gì tặng mọi người chứ?

– Thế em có được chọn quà cho em không?- Cô bé tinh quái hỏi lại.

– Tất nhiên rồi.- Anh cười- Em thích gì cứ chọn đi, anh sẽ mua cho mà.

– Vậy anh hãy nặn cho em một chiếc cốc nhé!

– Hả?- Anh trố mắt- Nă…ặn á?

– Làm gì mà có vẻ kinh hoàng thế. Trò nặn gốm này vui mà.

– Nhưng anh nghĩ là em đã chọn nhầm người rồi.- Khánh Nam xoa tóc cô khi cả hai bước song song vào chợ.

Anh có thể nhận thấy ánh mắt ngưỡng mộ của những người khác khi nhìn anh và Sang sóng bước bên nhau, như một cặp tình nhân hoàn hảo vậy.

Họ còn ngạc nhiên hơn khi thấy anh và cô bé tự tin nói chuyện với những du khách nước ngoài ở đây.

Đi dạo quanh chợ một vòng, Sang kéo anh vào ngay một khu tô tượng mà lúc này toàn trẻ con đang ngồi cãi nhau chí chóe. Cô bé thích thú chọn cho mình một con heo đất và lôi ra bắt đầu tô tô vẽ vẽ.

– Nhìn gì…- Sang lườm anh khi anh cứ trố mắt nhìn bọn trẻ con xung quanh đang tranh cãi nhau xem mũi của chú chó mà chúng đang tô nên là màu đỏ hay màu xanh.- Rảnh thì tô cho em đi.

Anh quay vào nhìn chú heo đất của Sang và phì cười.

Cô bé cũng đang tô lên chú heo đó những mảng màu kì cục, không hề theo quy luật phối màu mà anh vẫn được học. Nhưng cái vẻ bất chấp quy luật đó làm cho bức tượng trở nên hết sức độc đáo.

Anh đưa tay quệt vết màu trên má cô làm cô bé đỏ bừng cả mặt.

“Mình phải dần chấp nhận rằng mình và cô bé rồi sẽ là một đôi.”- Anh thầm nghĩ.

Cuối cùng, Khánh Nam cũng mua đủ quà cho cả nhà trong dịp Giáng sinh này.

Anh mua cho bà nội một bộ đồ uống trà rất đẹp, mua cho mẹ một bình hoa đủ lớn để có thể cắm những cành hoa hướng dương, mua cho ba một chiếc đĩa có chữ “Phúc” để ba có thể để nó trong tủ kính trong bàn làm việc. Anh mua cho em gái anh một chiếc cốc uống nước ngộ nghĩnh mà anh nghĩ con bé sẽ thích.

Quà cho Sang là một chiếc ống đựng bút mà anh đã tỉ mẩn ngồi vẽ lên đó có kèm theo tên anh kí dưới đáy cốc. Dù anh không tự tay nặn ra nó, nhưng Sang có vẻ vui và hạnh phúc vì món quà nhỏ ấy lắm.

Anh thì nghĩ nếu anh và cô bé là một đôi, món quà Giáng sinh chắc chắn sẽ không chỉ có vậy được.

Bữa tiệc chia tay Minh Sang diễn ra ngay tại biệt thự Lotus. Gặp lại bố mẹ nhưng Nam có thể nhận ra là cô bé không vui chút nào. Đôi mắt cô bé có gì đó rất buồn và luyến tiếc.

– Sao gặp bố mẹ mà em có vẻ không vui thế Sang?- Anh hỏi khi cùng cô bé lên phòng mang đồ xuống.

– Đâu có ạ!- Cô bé lắc đầu chối- Em vui đấy chứ…nhưng…

Cô bé cúi đầu nghĩ ngợi, và ngẩng đầu lên nhìn anh, đôi mắt khiến anh cảm thấy chơi vơi:

– Em không muốn xa anh. Một ngày không được thấy anh, nấu cho anh món chè sen mà anh thích, chắc em sẽ rất buồn.- Cô buông chiếc túi xách, ôm lấy anh khóc nấc lên.

– Ơ, thôi nào…- Anh bối rối vỗ về cô bé- Anh em mình vẫn có thể gặp nhau bình thường mà. Lúc nào em muốn gặp anh thì cứ alo cho anh, anh sẽ đến mà.

– Thật chứ?

– Hà Nội đâu có lớn lắm đâu.- Anh cười.

– Thật là lúc nào muốn gặp anh em đều có thể gặp anh chứ?

– Phải…

Sang cười thật tươi. Cô bé buông tay, nhưng lại kiễng chân, bất ngờ hôn lên môi anh, nói nhanh:

– Anh hứa đấy nhé! Em sẽ chờ anh đến.

Và cô bé vội bước đi trước để giấu đi sự ngượng ngùng trước sự táo bạo của mình.

Chương 8: Gia đình thân yêu.

          Một tiếng hét kinh hoàng làm Khánh Nam giật bắn người. Mới sáng sớm mà ai đã làm trò gì thế không biết. Anh chui ra khỏi chăn, ngóc đầu nhìn ra phía cửa. Minh Sang đang đứng ở đó, mặt đỏ bừng lên. Có gì mà cô bé lại có phản ứng kì lạ đến thế chứ?

– Em sao thế? Sao mới sáng sớm đã hét toáng lên thế?

Nhưng chợt nhớ ra, Sang đã không còn ở đây hơn tuần nay rồi, anh lại ngạc nhiên hỏi tiếp:

– Mà sao em lại ở đây?

Cô bé nhìn anh, mắt như sắp khóc đến nơi, và cô bé quay ngoắt người đi ra ngoài, đóng cửa cái rầm khiến anh tỉnh cả ngủ.

– Gì mà ồn ào thế chị Laura?

Một tiếng nói quen thuộc tới mức vừa nghe thấy là Khánh Nam đã giật mình muốn lăn xuống đất. Thì ra nguyên nhân gây ra phản ứng như thế ở Sang chính là một người đang cuộn tròn người trong chăn ngủ ngay cạnh anh, để lộ ra mỗi mái tóc dài.

Khánh Nam dụi mắt cho tỉnh hẳn, nhìn lại vẫn không có gì thay đổi. Anh vội kéo chăn ra khỏi người đó, hét lên, to không thua gì Sang.

– A…Cún…

– Hơ… sao nghe như có giọng của anh Gấu thế nhỉ?- Vẫn là cái tiếng lẩm bẩm rõ ràng là còn chưa tỉnh ấy.

Khựng lại 3 giây, cô bé mở mắt ra, thấy ông anh trai đang nhìn mình đầy kinh dị, cô nhóc xinh xắn tung chăn, ôm chầm lấy ông anh, kêu lên:

– Good morning anh Gấu. Ha ha. Cún nhớ anh Gấu quá đi.

– Cú…ún…- Anh lắp bắp vì bị nghẹt thở trong cái ôm hơi bị “nhiệt tình” và nồng hậu của cô em gái nghịch ngợm.- Trác…Vân… Sao em lại ở đây?

– Thì em về đây với anh Gấu mà.- Cô bé phá ra cười khi nhìn thấy gương mặt nghệt ra của anh mình.

– Nhưng khoan…còn ba mẹ… ba mẹ…

– Ba mẹ cũng về đây mà. Về hồi đêm anh đang ngủ nên không ai gọi anh thôi, muốn làm anh bất ngờ đó.

– Ặc…đúng là bất ngờ thật…- Anh cười như mếu.- Anh còn tưởng hai ngày nữa mọi người mới về?

– Không khí ở đây cũng không khác gì bên ấy mấy anh nhỉ?- Trác Vân nhảy tót xuống giường, nhìn ra ngoài cửa sổ, reo lên thích thú chẳng buồn trả lời câu hỏi của anh.

– Mùa này thôi, chứ mùa hè thì nóng chết đi được.- Anh lại nằm lăn ra giường.

– Anh Gấu dậy đi, dậy đưa em đi ăn phở…

– Hả?- Anh lại bật dậy như lò xo trước cái yêu cầu nghe có vẻ hay ho của cô em gái.- Muốn ăn thì chút anh kêu chị Hoa làm cho mà ăn, ra ngoài ăn làm gì.

– Không… em muốn ra ngoài ăn. Mẹ nói phải ăn ở ngoài mới cảm nhận được hết Hà Nội.

“Hix, mẹ toàn dạy nó cái gì thế này?” Anh méo cả miệng nhìn cô em gái, không biết phải nói cái gì vào lúc này. Anh đứng dậy, nói với con bé trước khi chui vào nhà vệ sinh:

– OK. Vậy đợi anh 30 phút, anh phải tắm cái đã.

– Hi hi. Anh Gấu muôn năm.

Khi Khánh Nam khoác vai cô em gái xuống dưới nhà thì đã thấy bà nội, ba và mẹ anh đang ngồi đó, không thấy Sang đâu. Sau khi chào ba và ôm hôn mẹ, Nam quay sang hỏi bà nội:

– Sang đâu rồi nội?

– Nó về rồi. Chị Hoa bảo nó mang chè sen đến rồi về luôn.

– Sang là đứa con gái lớn của chị Vân phải không mẹ?- Nhi tủm tỉm cười.

– Phải…con bé dễ thương lắm… Mà hai đứa định đi đâu vậy, sao không lại đây ăn sáng?- Bà Liên nhìn hai đứa cháu nội.

– Nội yêu quý- Con bé Vân lại bắt đầu giở trò làm nũng quen thuộc của nó khi nó ôm lấy bà nội mình từ phía sau- Lần đầu con về Việt Nam nên con có rất nhiều chỗ muốn đi thăm. Xin phép nội, xin phép ba mẹ cho anh Gấu đưa con ra ngoài nhé!

– Cái con bé này lại nhõng nhẽo rồi- Nhi lừ mắt nhìn hai đứa con- Mau lại đây ăn sáng đi đã.

– Ba…- Con bé chạy lại nói thì thầm vào tai ba nó câu gì nó- Ba. Ba xin phép mẹ giúp con đi ba.

– Thôi được rồi, con quỷ con này.- Hải Long, dù đã bước sang tuổi 50 nhưng vẫn giữ được nét phong độ và vóc dáng của một người siêng năng chơi thể thao- Qua chào bà nội và mẹ đi rồi hãy đi. Bin, đưa em đi cẩn thận đó…

– Dạ…

– Hu ra, ba tuyệt nhất…- Trác Vân nhảy cẫng lên, chạy qua hôn lên má bà nội và mẹ nó rồi kéo tay ông anh đi ngay ra ngoài.

Trác Vân, vừa qua sinh nhật tuổi 16, đẹp rạng ngời như một đóa hoa lúc bình minh, nó được thừa hưởng cả vẻ đẹp của ba và những nét dịu dàng của mẹ. Cô bé đáng yêu, đôi khi rất tinh nghịch, nhưng khi cần nó có thể diễn vai của một đại tiểu thư lá ngọc cành vàng ngay được. Hai anh em thường ngày rất quấn quýt nhau nên nhiều người lại luôn nghĩ rằng cả hai là một cặp. Và nếu như có một cô gái nào mà con bé không ưa, thì cô gái đó đừng có hòng mà đụng được vào ông anh của nó.

Tan học, Nam đang định lấy xe về nhà thì Trác Vân nhắn tin cho anh, một cái tin ngắn gọn và đủ shock: “Anh Gấu học xong xuống canteen nhé, em đang ngồi đợi anh Gấu ở cateen trường anh nè.”

Nam hoảng hồn, con bé nghịch ngợm này còn dám mò đến tận trường anh chơi bời nữa.

– Này nhóc…- Anh gõ tay vào trán con bé khi thấy nó đang ngồi một mình với trò chơi điện tử cầm tay của nó- Ai cho đến đây? Hỏi ba mẹ chưa không ba mẹ lại rối lên đi tìm đấy?

– Em bắt taxi đến. Em vừa gọi cho ba rồi. Em kêu em đang ngồi với anh nên ba yên tâm không hỏi gì nữa.

– Muốn ăn gì anh Gấu đưa đi?

– Ăn ở đây đi…

– Hả?

– Em thích ăn ở đây…- Con bé hếch mũi nhìn anh, về cái tính ương ngạnh, bướng bỉnh thì nó chả thua anh chút nào.

Khánh Nam lắc đầu rồi dẫn cô em gái ra mua đồ ăn ở cateen. Được cái Trác Vân là đứa dễ ăn dễ nuôi nên thức ăn phương Tây hay Việt Nam nó đều xử lý được tất.

Vừa ngồi xuống bàn, thì Phượng Vũ đi tới. Mỗi lần ăn trưa ở đây anh đều ăn cùng con gấu trúc đó nên đâm ra thành thói quen, chẳng cần mời cũng có thể tự tới.

– Ủa, có thêm ai nữa đây?- Phượng Vũ đặt khay thức ăn xuống bàn hỏi.- Trông cô bé này con nít quá chắc không phải là sinh viên đấy chứ? Mà này, anh đang chơi trò gì thế? Không sợ đi tù à?

– Nhìn lại mặt hàng đi xấu gái.- Anh vặc lại.

Trác Vân đưa mắt nhìn Phượng Vũ tò mò, rồi lại trố mắt nhìn ông anh nó khi nghe ông anh nó gọi người vừa đến bằng cái tên khá kì cục.

– Em gái tôi đấy.

– Ờ, thảo nào…- Phượng Vũ quay sang Vân, cười- Chào em, chị là Vũ, bạn anh trai em. Em mới từ Hà Lan về à?

– Hi, vâng ạ! Ủa mà anh Gấu kì ghê, sao chẳng bao giờ kể với Cún là anh Gấu có bạn gái ở Việt Nam vậy?

Câu nói của con bé làm cả hai đều bị sặc, và ngượng chín người.

– Nhóc đùa à?- Phượng Vũ phá lên cười ngay sau đó vài giây- Chị mà lại thích ông anh của em sao? No way.

– Cô nghĩ tôi thích người thừa hooc môn đàn ông như cô chắc.- Khánh Nam cự lại.

– Hi hi… Hai anh chị rõ ràng là thích nhau mà cứ giả bộ cãi nhau hoài…- Con bé tiếp tục trêu chọc.- Em là Vân, em gái của anh Gấu đó.

– Gấu à?- Phượng Vũ cười nham hiểm- Cái tên sao giống người quá. To xác, vô dụng…

– Cô… cô quên là cô cũng họ nhà gấu à, đồ gấu trúc…

– Tôi là gấu trúc hồi nào?- Phượng Vũ cãi lại.

– Từ cái hồi nảo hồi nào khi tôi mới biết cô cơ.- Nam xì một tiếng.

Tiếng chuông điện thoại của Phượng Vũ cắt ngang cuộc tranh cãi mà không biết khi nào mới có hồi kết. Phượng Vũ chạy đi nghe điện rồi, Vân quay qua nhìn anh cười hồn nhiên:

– Oa, anh Gấu làm Cún ngưỡng mộ quá đi… Mới về Việt Nam mà đã có bạn gái rồi.

– Nhóc đừng nói bừa nữa, chị ấy không phải bạn gái anh đâu.- Anh lừ mắt với con bé.

– Rõ ràng anh Gấu thích chị ấy mà…

– Trẻ con nhiều chuyện.- Anh dí tay vào trán cô em gái láu lỉnh.

– Anh Gấu mới là trẻ con… Mà ba dặn em kêu anh Gấu về sớm đấy. Tối nay nhà mình có hẹn đi ăn với gia đình chú Khánh, cô Linh, gia đình nhà chú Tùng và cả nhà cô My Vân bạn ba mẹ nữa.

– Ờ, anh biết rồi.

Chương 9. Bữa tiệc trùng phùng.

          Nhà hàng Legend – một trong những nhà hàng 5 sao nổi tiếng nhất Hà Nội nằm trong hệ thống nhà hàng nổi tiếng của tập đoàn Lotus trên khắp Việt Nam, với phong cách ẩm thực của đủ 5 châu lục lớn trên thế giới. Nó được chọn là nơi diễn ra bữa tiệc trùng phùng sau nhiều năm không gặp mặt của những người quen cũ, giờ đây đã bước sang tuổi trung niên.

Hải Long đưa mắt nhìn vợ, thắc mắc tại sao đã đến giờ mà hai đứa trẻ vẫn chưa đến. Nhi mỉm cười nói với mọi người rằng hai đứa con của chị còn đang bị kẹt do tắc đường nên sẽ đến trễ. Mọi người đã đến đủ và bắt đầu hỏi thăm nhau.

Khánh và Tú Linh chỉ sinh đúng một cô con gái, vì cả hai đều là con thứ và không bị ràng buộc bởi chữ thừa kế.

Tùng cưới một nữ chánh án cũng vào năm mà Hải Long và Nhi tổ chức lễ cưới, họ có một đứa con trai đang học cấp 3, và một cậu con nuôi vừa tốt nghiệp đại học.

Sau gần 20 năm họ mới gặp lại nhau nên ai nấy cũng đều cười nói rôm rả, nhắc lại những chuyện vui khi xưa.

Đúng lúc đó thì Khánh Nam và Trác Vân đến, hai anh em đang tranh luận một chuyện gì đó vui vẻ lắm.

Nhưng có những sự chuyển động thái độ trên một số con người mà không ai che giấu đi nổi. Khánh Nam đứng sững lại khi nhìn thấy Phượng Vũ đang ngồi cạnh cô Tú Linh và một anh chàng lạ mặt. Phượng Vũ cũng sửng sốt chẳng thua gì anh.

Có nằm mơ anh cũng không dám tin Phượng Vũ lại là con của một trong những người bạn của mình.

Trác Vân thì chưa kịp chào hỏi đã hét toáng lên:

– A… cả chị gấu trúc cũng đến này anh Gấu…

Mọi người cười ồ lên vì sự hồn nhiên của con bé. Thảo Nhi giục hai đứa con ngồi xuống, giới thiệu với Vân từng người để con bé chào hỏi, còn Nam thì không cần vì anh đã gặp họ vài lần rồi.

– Bin…- Khánh vui vẻ nói với anh và chỉ sang Phượng Vũ- Đây là con gái chú, Vũ. Từ hồi học đại học đến giờ nó xin vào ở kí túc để học cách sống tự lập chứ không ở cùng cô chú nữa. Hai đứa giờ mới gặp nhau đúng không?

– Ơ, dạ…

– Không đâu chú…- Trác Vân nhanh nhảu tiếp- Chị gấu trúc là… ư… ư…

Khánh Nam vội bịt mồm con bé lại, cười giải thích:

– À, dạ không có gì đâu ạ. Con với xấu… à… Phượng Vũ học cùng trường nên cũng có quen nhau rồi. Chỉ là con không ngờ em ấy lại là con của cô chú thôi ạ!

– Vậy thì tốt…- Khánh cười.

Nam liếc nhìn Phượng Vũ, lúc này không hiểu sao cô ta lại bơ anh đi và quay qua nói chuyện với anh chàng ngồi cạnh. Hừ, thằng cha đó là ai nhỉ? Mãi sau anh mới biết là con nuôi của chú Tùng, mới đi du học Mỹ về, đang làm tại văn phòng luật của ông bố mình.

“Đồ xấu gái, mọi khi thì mạnh mồm lắm cơ mà, sao hôm nay lại tỏ ra ngoan ngoãn thế? Chắc lại định lừa thằng cha kia chắc.” Anh cau có nghĩ. “Ặc, bữa nay cô ta còn mặc váy nữa chứ. Khùng chắc rồi. Thảo nào cái thằng cha kia săm soi cô ta dữ thế. Đúng là đồ ngốc, kiểu gì cũng lại bị lừa cho coi.”

Nam bực bội quay sang nói chuyện với cô bé Minh Sang, bà nội lại cố tình sắp xếp để hai người ngồi cạnh nhau trong bữa cơm này.

– Sao em không ăn đi. Thức ăn không hợp với em à?

– Không ạ!- Cô bé lắc đầu thỏ thẻ.

– Mà sao hôm trước đến lại về ngay thế?

– Em có việc bận mà.

– Ờ… bữa đó chắc thấy em gái anh ngủ trên giường của anh nên hoảng lắm nhỉ? Anh ngủ mà nó chui vào lúc nào anh cũng không biết nữa.

– Cậu ấy rất dễ thương.- Sang nhìn sang Vân lúc này đang phồng má trợn mắt lên để gặm một con cua biển to đùng mà bà nội vừa tiếp cho nó.

– Em cũng dễ thương mà.

Tuy nói chuyện cùng Sang nhưng mắt anh lại không ngừng liếc chừng về phía Phượng Vũ, cô ta vẫn thản nhiên ăn và nói chuyện với gã bên cạnh, coi anh như vô hình vậy.

– Này con gái ngoan…- Anh gọi Phượng Vũ như thế khi đi theo cô ta ra phía ngoài nhà hàng, cô ta vừa đi nghe điện thoại.

– Anh thôi cái giọng ấy đi.

– Chẳng phải thế sao? Chẳng phải hôm nay cô đang đóng vai con gái ngoan sao? Mặc váy, trang điểm, cô đang cố ghi điểm với thằng cha kia đấy à? Hình như nó đang mê cô đấy.

Phượng Vũ nhìn anh, đôi mắt rưng rưng như sắp khóc, rõ ràng những lời anh nói làm cho cô bị tổn thương nặng nề.

– Tôi ngoan cũng được, tôi hư hỏng cũng được, tránh xa tôi ra…

Cô ta chạy vụt qua anh để đi vào trong.

– Cô…này…tôi không có ý đó…

Nhưng Phượng Vũ đã chẳng còn nghe được những gì anh nói nữa. Khi anh trở lại bữa tiệc, cô ta tỉnh queo, vẫn nói chuyện vui vẻ với anh chàng luật sư kia.

– Phượng Vũ càng lớn càng xinh giống mẹ nhỉ?- Mẹ anh nói như thế sau khi nhìn cô rất lâu.

– Giống mẹ nhưng tính thì lại giống bố nên toàn bị bắt nạt thôi.- Cô Tú Linh cười đáp thay con gái.

“Ặc”- Khánh Nam suýt bị sặc bia khi nghe thấy thế- “Cô ta có bao giờ chịu thua cái gì đâu mà toàn bị bắt nạt chứ.”

– Cháu xin lỗi cả nhà…- Cô ta đột nhiên đứng dậy khiến anh phải ngẩng đầu lên nhìn- Cháu có việc phải về trường rồi, cháu xin phép đi trước ạ!

– Con có cần bố đưa đi không hay tự bắt taxi?

Phượng Vũ chưa kịp đáp thì Huy, anh chàng luật sư con nuôi chú Tùng đứng dậy, nói:

– Dạ để cháu đưa em đi cũng được ạ.

– Ừ, vậy con đưa em về đó rồi quay lại đây nhé!- Chú Tùng gật đầu nói với con.

Sự rời đi của Phượng Vũ làm cho tâm trí Nam cũng chẳng còn ở lại bữa tiệc nữa. Những lời của anh khi nãy đã làm cô bị tổn thương. Phải rồi, có lẽ cô đã nghĩ anh đang lôi cái bí mật trong quá khứ của cô mà chỉ có hai người biết ra để hạ thấp cô? Chỉ có thế cô mới tỏ ra giận dữ như thế.

Buổi tối sau bữa tiệc ấy, mẹ gọi anh đi dạo cùng bà trên con đường quanh bờ Hồ. Lâu lắm rồi anh mới lại có cảm giác đi cùng mẹ mình, khoác lấy đôi vai nhỏ của bà và nói những câu chuyện làm cho bà vui. Nhưng hôm nay bà có một thái độ rất lạ, hình như bà đang suy nghĩ chuyện gì mông lung lắm.

– Con thấy sống ở đây thế nào?- Mẹ anh hỏi khi hai người ngồi xuống một ghế đá.

– Ổn mẹ ạ!- Anh đáp nhưng hoàn toàn không chắc về câu trả lời của mình nữa.

– Vậy con muốn sống ở đây không hay vẫn muốn sang Mỹ học?

– Nếu được thì con vẫn chọn đi Mỹ. Đâu có nghĩa là con sẽ đi hẳn đâu ạ! Con sẽ lại trở về mà.

– Vài năm nữa, ba mẹ sẽ bán tập đoàn và về đây sống, giúp bà nội và bác Phương điều hành Lotus. Con còn quá nhỏ để cáng đáng một sự nghiệp quá lớn như thế.

– Ba định bán Silver Wings thật sao ạ?

– Phải… theo đuổi mãi sự nghiệp cuối cùng cũng chỉ là một nắm đất mà thôi. Ba mẹ muốn về sống với quê hương, với bạn bè cũ, báo hiếu với bà nội. Nhưng nếu hai con thích, ba mẹ cũng không thể ngăn các con bay nhảy.

– Không mẹ à, con nghĩ…con sẽ về đây.

Nam lúng túng quay đi tránh cái nhìn của mẹ anh. Có lẽ bà hiểu những gì đang diễn ra trong lòng anh lúc này.

– Bà nội có ý tán thành cho con và cô bé Sang đó… Ý con thế nào? Bà nói là con rất ưng ý với cô bé đó. Mẹ cũng thấy nó xinh xắn dễ thương… Nhưng quan trọng là cảm xúc thật của con.

– Sang còn bé mà mẹ…

– Đó là lý do sao?- Thảo Nhi tủm tỉm cười với con trai.

– Ơ, thì… Nói chung là con thấy thế nào cũng được ạ!

– Còn Vũ, con thấy sao? Con bé đó cũng xinh xắn đấy chứ, hơn nữa con cũng có vẻ chú ý đến nó. Mẹ thấy con nhìn con bé trong suốt bữa ăn.

– Không đời nào con thích cái con nhỏ xấu xí đó đâu ạ!- Anh vùng vằng đáp lại, vẫn còn tức khi nghĩ đến chuyện cô ta thản nhiên phớt lờ anh mà đi cười cười nói nói với thằng cha luật sư kia.

– Con vẫn còn trẻ con lắm, con trai của mẹ ạ!- Mẹ anh lắc đầu cười.- Dù sao mấy đứa cũng còn trẻ, nên suy nghĩ kĩ càng trước tình cảm của mình, đừng để sau này phải hối tiếc. Ba mẹ không quan trọng chuyện người con chọn có thể mang lại cho con những gì trong sự nghiệp sau này, cái quan trọng là phải đem đến cho con một cảm giác an toàn về hậu phương. Sau này con có chọn một trong hai cô bé này, dù là ai thì mẹ cũng sẽ vui vẻ chào đón.

– Có phải ngày xưa ba mẹ và cô chú Khánh đã có lời hẹn là sau này sẽ làm sui gia với nhau ạ?- Anh ngập ngừng hỏi.

– Người hứa là con chứ có phải ba mẹ đâu.

– Cái gì ạ?

– Ngày con còn bé, chú Khánh có hỏi con có làm con rể chú ấy không, và con đồng ý ngay đấy chứ. Đừng lo chuyện đó, đó chỉ là câu chuyện vui thôi mà. Nếu chọn ai cũng phải báo cho mẹ một câu nhé!

– Con biết mà mẹ yêu.

– Nhớ là làm chuyện gì cũng phải cân nhắc cho kĩ đó. Ba mẹ giờ trông vào sự tự nhận thức và trưởng thành của con mà thôi.

– Hì… mẹ yên tâm đi. Con là con trai lớn của mẹ cơ mà. Thôi mẹ con mình về, mai ba mẹ với Cún còn về Hải Phòng thăm ông bà nữa. Con phải đi học nên không về được. Chắc đến khi vào thăm ông ngoại Phi Long con sẽ đi.

– Ừ… vậy về thôi…- Thảo Nhi đứng dậy gật đầu và chậm rãi bước đi cạnh cậu con trai cao lớn của mình.

Chương 10: “Đừng yêu em…”

          Khánh Nam tìm mãi mới thấy Phượng Vũ đang ngồi ăn với đám bạn ở một bàn tít góc xa. Cô ta đang cười nói cái gì đó rất vui vẻ nữa chứ.

“Xấu gái, qua đây ngồi, tôi có chuyện muốn nói với cô.”

“Tôi đnag ngồi với bạn.”

“Cô có qua đây không thì bảo nào, để tôi qua rước cô.”

“Thần kinh.” Phượng Vũ đáp một câu cụt lủn và cúp máy cái rụp.

Điện thoại đổ chuông lần hai.

“Còn nhớ yêu cầu cô hứa làm cho tôi không hả? Qua đây, yêu cầu đấy.”

Lần thứ hai Phượng Vũ cúp máy, nhưng lần này anh có thấy cô đứng dậy, nói gì đó với lũ bạn rồi bê khay đồ ăn trưa đến bàn quen thuộc của hai người. Đặt cái khay lên bàn đầy thô lỗ làm nước canh sóng cả ra ngoài, Phượng Vũ ngồi phịch xuống, nhìn anh bằng một vẻ đầy cam chịu.

– Làm cái gì mà nhìn tôi như nhìn kẻ thù thế? – Anh trừng mắt nhìn lại cô.

– Tôi qua rồi đây, anh có nói gì nói luôn đi.

– Đợi tôi ăn xong đã. – Khánh Nam nói và cúi đầu ăn tiếp.

“Hôm qua sao mà tươi hơn hớn thế, bây giờ vác cái bộ mặt như âm binh.”

Đặt cái thìa xuống, anh thản nhiên rót nước ngọt ra cốc uống, mặc kệ ánh mắt lạnh lẽo đang nhìn mình.

– Này, tôi đã nói là hôm qua tôi không có ý nói thế cơ mà, sao cứ nhìn tôi thế hả? Ức chế chết đi được. – Anh ngẩng lên, quát.

– Đấy là tất cả những gì anh muốn nói à?

– Tất nhiên là không. Cô cứ nhìn tôi thế kia làm sao tôi nói được.

– Được rồi. – Phượng Vũ quay đi. – Thế này chắc là nói được chứ hả?

– Cô… điên à? – Anh gắt.

Phượng Vũ quay vào trợn mắt nhìn anh định nẹt một câu thì anh tiếp:

– Tôi thích…

Chuông điện thoại đổ làm anh giật mình im bặt.

– Cô không để yên lặng được à? – Anh lại quát.

– Có phải giờ học đâu mà để yên lặng.

Cô ta lườm anh rồi bắt máy. Ba mươi giây sau, cô ta đặt máy xuống, quay vào giục:

– Nào, có gì thì nói nhanh lên, tôi phải đi bây giờ đây.

– Đi đâu?

– Đi đâu là việc của tôi, hỏi làm gì?

– Quan tâm tí mà cũng kiêu. Được rồi, nghe tôi nói đây. Có lẽ là… tôi… thích cô, xấu gái ạ!

Im phăng phắc…

Mười giây…

Hai mươi giây…

Một phút…

Mặt của cả hai cùng đỏ bừng lên dù lúc này chẳng ai nhìn ai cả.

Lần đầu tiên Khánh Nam lại tỏ ra khó khăn khi nói ra một câu tỏ tình kiểu đó.

– Cô nói cái gì đi chứ? – Anh giục.

– Tôi phải đi rồi… – Phượng Vũ luống cuống đứng dậy.

Câu nói không đúng chủ đề đó như một hòn đá tảng rơi trúng đầu Nam làm anh bẹp gí, không còn nói hay làm được gì nữa. Anh cứ ngây ra như phỗng nhìn cô ta đang chạy đi như cố tránh thật xa anh.

Lần đầu biết tỏ tình một cách chân thành và không hời hợt.

Lần đầu biết đến cảm giác thất bại.

Lần đầu biết thế nào là đau. Là vỡ vụn.

*

– Chị ấy có nói là không thích anh Hai đâu mà sao anh ủ rũ thế? – Trác Vân cười nhìn ông anh cứ ngồi ngẩn ngơ từ đầu tối đến giờ.

– Thà cô ta cứ nói không thích anh còn hơn là bỏ đi như thế. – Khánh Nam hậm hực đáp. – Làm anh mấy ngày hôm nay không dám ló mặt xuống căng tin vì ngại đụng phải cô ta.

– Anh Gấu đẹp trai oanh liệt của em mà cũng có ngày lao đao vì một chị nào ấy cơ đấy. – Vân cười lém lỉnh. – Để em tạo điều kiện cho hai người gần nhau nhé!

– Nhóc định làm gì đấy? – Anh cảnh giác hỏi lại.

– Thì phải tạo ra hoàn cảnh chứ… – Vân nháy mắt.

– Thôi cho anh xin, Cún mà mó tay vào là hư bột hư đường hết.

– Anh Gấu cứ tin Cún đi mà.

Giáng sinh, chú Khánh và cô Tú Linh mời cả nhà Khánh Nam đến dùng bữa tối tại nhà riêng của họ. Cô Linh thậm chí còn nhờ anh đến trường đón Phượng Vũ nữa. Ngồi trên xe ô tô, cả hai im như thóc. Cuối cùng, Khánh Nam phải mở nhạc lên cho không khí bớt căng thẳng.

Bữa tối diễn ra đầm ấm và vui vẻ, không ai nhận ra sự khác lạ trong thái độ của hai đứa con lớn, ngoài cô bé Trác Vân thỉnh thoảng lại nhìn ông anh nó cười một cái rất láu cá. Vì đơn giản nó biết ông anh nó sẽ bị sốc bởi cái tin mẹ nó sắp nói ra lắm.

– Vũ này, tuần sau cháu nghỉ Tết rồi đúng không? – Mẹ anh nhìn cô bé dịu dàng hỏi.

– Dạ vâng ạ!

– Hay quá! Tuần sau cả nhà cô vào Đà Lạt ít ngày. Cháu đi cùng cho vui nhé!

– Ơ, dạ… – Phượng Vũ ngập ngừng suy nghĩ.

– Vào thăm nhà cô ở trong đó. Đi cùng anh Nam và em Vân cho vui, cả năm học hành rồi còn gì.

– Mẹ em nói phải đó. – Vân nhanh nhảu chen vào. – Chú Khánh với cô Linh cho chị Gấu trúc đi cùng cả nhà con nhé!

– Có gì mà không được đâu nào… – Khánh cười và nhìn cô con gái. – Con cứ đi cùng gia đình cô chú ấy cho vui. Bảo Lộc đẹp lắm đó…

– Vậy cứ quyết định thế nhé! – Thảo Nhi cười, chị cũng chẳng hiểu tại sao cô con gái của mình lại nằng nặc bảo chị mời Vũ cùng đi, nhưng nó có vẻ vui lắm.

– Vâng ạ!

Khánh Nam đưa mắt nhìn Vân, thấy con bé nháy mắt là anh hiểu ngay ra vấn đề. Hóa ra đây là cái cách mà nhóc Vân nghĩ ra để giúp anh trai nó. Chẳng biết là may mắn hay là xui xẻo nữa.

Trên đường đưa Phượng Vũ trở lại kí túc, anh đưa cho cô ta một cái hộp nói:

– Này, quà của cô đấy.

– Ơ, cám ơn anh. Tôi quên không mua rồi.

– Cô mà nhớ tôi mới ngạc nhiên đấy. Chuyện hôm trước tôi quên rồi, nên cô đừng có tỏ ra như thế nữa, khó nhìn mặt nhau lắm.

– Phải… Dù sao thì anh cũng đừng có dại mà thích tôi…

– Lần đầu tiên có người bảo tôi đừng thích người ta, thú vị thật. – Khánh Nam cười. – Mà thế cũng đúng, nếu cô mà cặp với tôi, cô sẽ khổ lắm đấy.

– Vì anh trăng hoa sao?

– Một phần. Nữa là vì tôi sắp đi rồi.

– Anh đi đâu?

– Mẹ đã đồng ý cho tôi sang Mỹ học…

– Chúc mừng anh…

– Tôi sẽ đi khoảng bốn năm.

– Ừm.

– Thế nên tôi không thể biến cô thành đá Vọng phu được.

– Ha ha, bốn năm mà đã hóa đá được sao? Nhưng đúng là xui xẻo mới yêu anh và đợi anh lâu như thế.

– Bốn năm sau tôi sẽ quay về đây, lúc đó tôi sẽ rất khác bây giờ, có lẽ sẽ bớt bồng bột hơn. Mà tôi quên chưa nói với cô nhỉ, cái cách xuất hiện của cô làm tôi bất ngờ lắm đấy nhé! Không phải lần đầu gặp đâu, mà cái hôm cô đi với bố mẹ cô đấy. Tôi có nằm mơ cũng không dám tin cô là con gái của cô Linh và chú Khánh.

– Thế nên lúc trước tôi mới hỏi anh có phải là cháu của chủ tịch tập đoàn Lotus như mọi người nói hay không? Nhưng anh có trả lời đâu…

– Thế nếu biết rồi thì sao?

– Thì tôi sẽ không bị bất ngờ nữa.

– Cái bài hát lần trước cô hát là bài gì thế? Cái bài có câu gì mà: “vườn nhà em bát ngáy hương hoàng lan tỏa bay” đó. Bài đó rất hay.

– “Đêm thành phố đầy sao”.

– Chẳng bao giờ nhìn thấy ngôi sao nào từ thành phố Hà Nội. – Khánh Nam hạ mui xe xuống và nhìn lên trời.

– Cái chính không phải là những ngôi sao có được nhìn thấy hay không. Anh cứ nghe bài hát rồi sẽ thấy thông điệp của nó.

– Ừ, nhất định tôi sẽ thử. Bao giờ về tôi sẽ hát cho cô nghe nhé!

– Bốn năm nữa cơ đấy, sao không phải bây giờ.

– Tôi đâu có thuộc ngay được. Mà giờ cũng không có hứng học hát nữa.

Đứng nhìn theo đèn xe ô tô nhạt dần vào dòng xe đông đúc ngoài đường, Phượng Vũ nắm chặt hai tay lại. Cô đã tỏ ra mạnh mẽ một cách khó tin trước mặt người con trai ấy. “Đừng yêu em. Em xấu lắm.” Cô thở dài, trái tim vụn vỡ bấy lâu nay của cô còn có thể lành được nữa hay sao? Cô còn cơ hội đến với một người như anh sao? Biết những bí mật của cô mà anh vẫn yêu và chấp nhận cô ư? Hay đó chỉ là trò chơi của anh, như những lần trước đây, rồi sẽ có một ngày game over khi anh chán?

“Không được, mình sẽ không yếu mềm nữa.”

Cô ngước nhìn bầu trời và đi vào trong kí túc xá.

Chương 11: Định mệnh

          Bảo Lộc, với những cánh đồng hoa mênh mông, với những đồi chè bát ngát, màu đất đỏ làm người ta phải ghi nhớ sâu sắc về vùng đất tuyệt diệu này. Khánh Nam tự hào vì mình đã sinh ra và một phần tuổi thơ gắn với vùng đất đầy nắng và gió cao nguyên ấy. Trong trí nhớ mơ hồ của anh, không hề có một chốn thần tiên nào hơn thế.

Ba Giang của anh vẫn ở Đà Lạt điều hành việc kinh doanh. Ba đã lấy vợ và có hai con, một trai một gái. Còn mẹ Diễm Phương thì đã về lại quê mình ở Đắc Lắc sống. Đó là hai người vô cùng quan trọng trong anh, họ đã cùng mẹ nuôi anh lớn lên, yêu chiều anh như con do chính họ sinh ra. Mẹ anh nói rằng, nếu không có họ, thì đã không có anh của ngày hôm nay.

Rời nhà ông ngoại Phi Long, ba người Khánh Nam, Phượng Vũ và Trác Vân đi ngược theo một con đường đất đỏ còn lầy lội do cơn mưa đêm qua. Ông ngoại nói rằng con đường ấy dẫn ra thung lũng hoa đẹp nhất Bảo Lộc này, và cả ba tò mò muốn đến đó chơi.

Khi thung lũng hoa màu vàng trải dài trước mắt ba người, không ai bảo ai, cả ba cùng reo lên đầy thích thú. Một màu vàng bát ngát, thỉnh thoảng điểm chút sắc tím hoặc đỏ. Một thiên đường trên trần thế thì cũng chỉ thế này thôi.

– Anh Hai, giống mấy cái cánh đồng hoa vàng ở Anh quá hén? – Nhóc Vân kêu lên. – Để mai đem máy ảnh tới đây chụp mấy hình, cho bọn bạn em lác mắt hết cả lũ. Kiểu gì chả ùn ùn kéo qua đây chơi. Mình xuống dưới đi anh Hai.

Con bé nói và chạy biến xuống dưới, làm anh không kịp ngăn lại. Con nhóc này ham chơi quá đi mất. Anh quay sang nhìn Phượng Vũ, hỏi:

– Cô có muốn xuống đó không?

– Tất nhiên. – Phượng Vũ quay sang nhìn anh cười, nắng vàng, hoa vàng cũng không rạng rỡ bằng nụ cười của cô lúc này.

– Thế thì đi nào… – Anh chộp lấy tay cô và kéo đi.

Trác Vân chạy trước hai anh chị nó nên nó cố tình lẩn đi một chỗ để cả hai có thời gian đi với nhau. Nó thích thú ngắt một vài bông hoa cầm trên tay và hát véo von một bài dân ca của Hà Lan. Nó phát hiện ra dưới này không chỉ có hoa vàng mà còn cả những loài hoa có màu sắc khác nữa.

Nó cứ nhảy nhót thích chí khắp nơi, đến khi trên tay nó là cả một bó hoa thật lớn, đủ các loại hoa mà nó chẳng biết tên, nó định bụng sẽ đem cho anh nó để tặng cho chị gấu trúc. Nó tìm đường quay lại, không nghĩ rằng cái thung lũng hoa này đủ lớn để làm nó đi lạc. Chẳng thấy bóng dáng anh trai nó đâu, nó cất tiếng gọi, cũng không có tiếng đáp lại.

Nó chạy cuống lên tìm lại con đường cũ, nhưng chỗ nào cũng toàn một màu hoa vàng, làm gì có con đường nào đâu. Nó lo sợ cuống cuồng.

– Á …

Nó hét lên khi giẫm phải một cái gì đó, hay một con gì đó mềm mềm khiến nó ngã sóng soài, rồi nghe bắp chân nhói đau. Người nó cứ thế tê đi, không làm sao mà đứng dậy được nữa. Con rắn sau khi tặng cho nó một nhát cắn chí mạng thì bò đi ngay lập tức.

“Chết rồi … mình chết chắc rồi … ” Nó lo sợ nghĩ. Nó muốn khóc lên thật to để anh nó nghe thấy, nhưng giữa mênh mông không gian này, tiếng của nó sao mà bé quá.

“Soạt.” Một người xuất hiện, kì lạ như một câu chuyện thần thoại, nơi nó thường nghe mẹ kể rằng các vị thần thường bất ngờ xuất hiện để giúp đỡ người bị nạn.

Anh ta không cao lắm, làn da rám nắng, khỏe khoắn, ánh mắt lanh lợi, gương mặt rất hiền. Anh ta mặc một bộ quần áo bằng vải nâu cũ kĩ, hơi sờn rách, lưng đeo một chiếc gùi lớn. Vừa nhìn thấy cô, anh ta dừng lại và hiểu ngay mọi chuyện.

Anh ta không chú ý đến lời cô, cũng không chú ý đến những giọt nước mắt của cô mà chỉ ngồi xuống, nhìn lên bắp chân trần của cô, nơi còn nguyên hai vết máu đỏ. Bỏ cái gùi xuống, không ngần ngại, anh ta nâng bắp chân cô lên, ghé miệng lại hút hết máu độc ra. Một lúc sau, anh ta lấy từ trong người ra một chai thuốc nhỏ, rót vào miệng vết thương một thứ bột màu trắng trong lọ đó và dùng chiếc khăn tay trong gùi thuốc buộc lại cho nó.

Xong xuôi, anh ta đứng dậy, xốc gùi thuốc lên, đi tiếp, vẫn không nói một lời. Còn Trác Vân thì cứ ngẩn ra mãi, chưa kịp nói câu cám ơn thì bóng anh ta đã khuất hẳn rồi.

Một con người kì lạ.

Năm phút sau Khánh Nam tìm ra nó đang tập tễnh bước đi. Thấy miếng vải buộc ở bắp chân cô em gái, anh hỏi:

– Em bị làm sao thế?

– Rắn cắn ạ!

– Hả, rắn cắn? – Khánh Nam nhảy dựng lên. – Rắn gì, Rắn độc à?

– Em biết được chết liền à…

– Không được. Sao lại buộc bằng cái giẻ bẩn thỉu thế kia. Cởi ra để anh hút máu độc cho.

– Hút rồi… cũng bôi thuốc rồi…

– Ai hút… ? Ai bôi… ? – Anh ngơ ngác hỏi lại.

– Một thiên thần. – Trác Vân cười nửa thật nửa đùa.

– Chết rồi… – Nam quay sang Phượng Vũ, miệng méo xệch. – Nó bị mê sảng rồi. Để anh cõng em về, nhanh nào…

– Có người hút máu độc và bôi thuốc cho em rồi mà. Giờ em chỉ thấy hơi ngưa ngứa thôi chứ có làm sao đâu.

– May quá! Nếu làm sao chắc anh nhừ đòn với ba mẹ quá! – Nam giả bộ lau mồ hôi trên trán rồi cốc vào đầu cô em. – Mà ai bảo em chạy xuống đây hại anh tìm mệt muốn chết. Mau cởi cái khăn kia ra, bẩn thế nhiễm trùng thì sao.

Khánh Nam cúi xuống giật chiếc khăn ra và lấy chiếc khăn tay trắng tinh của mình buộc vào cổ chân em gái.

– Ấy, không được vất nó đi. – Trác Vân nhặt lại chiếc khăn đó. – Em còn giữ để trả lại người ra nữa.

– Ôi dào, thôi lên đây để anh cõng về, còn chịu đòn với mẹ nữa đấy.

– Anh Gấu yên tâm mà, Cún sẽ bảo Cún bị ngã nên bị thương, không nói là bị rắn cắn đâu. Hoa này mang về cho mẹ là mẹ vui ngay ấy mà…

Cứ như một sự ám ảnh, Trác Vân luôn tự hỏi lòng về người con trai hôm đó đã cứu nó, và bước chân lại đưa nó đến với thung lũng hoa này một lần nữa. Nó mong sẽ gặp lại người đó, vì sao thì nó chẳng biết.

Sâu trong thung lũng hoa ấy, có một ngôi chùa nhỏ, điều đó làm nó kinh ngạc hết sức. Ngôi chùa không lớn, ngay giữa sân có một phiến đá dạng một đài sen mười cánh, năm cánh bên trong, năm cánh so le bên ngoài, có một bát hương đặt phía trước. Nó cứ đứng ngẩn ra nhìn phiến đá đó, cho đến khi có một nhà sư tiến lại gần, nhìn nó:

– A di đà phật… thí chủ chắc là khách phương xa lạc đường quá độ ghé thăm chùa… ? Bổn chùa có thể giúp gì cho thí chủ chăng?

– Ơ… dạ… – Nó lúng túng, chẳng biết phải xưng hô thế nào cho đúng. – Dạ… con chào thầy… con ở cách đây không xa lắm ạ! Con vô tình đi ngang qua đây nên ghé vào, không biết có làm phiền thầy không ạ?

– Bước chân đến đây nghĩa là có duyên với Phật… Thí chủ rồi sẽ gặp nhiều may mắn… Thí chủ cứ tự nhiên vãn cảnh.

Nó chợt kêu lên khi vị sư định quay người bước đi.

– Ơ thầy ơi, cho con hỏi, tại sao lại thờ một tòa sen đá ở đây ạ?

– Chùa này có tên là chùa Thạch Liên, chỉ thờ một tòa sen đá này thôi.

– Ủa, sao kì vậy ạ?

– Năm xưa đức Phật Bà Quan Âm trên đường độ sinh tái thế đã ghé qua đây, để lại nơi này một tòa sen ngọc. Năm tháng qua đi, tòa sen ngọc ấy hóa thành tòa sen đá này, mưa gió ngàn năm không mòn, rêu phong không phủ được…

– A, thật vậy ạ?

Trác Vân thốt lên rồi tiến lại, chắp tay vái tòa sen như mẹ nó vẫn hay làm mỗi khi đến đền chùa nào đó thắp hương.

– Ngôi chùa này đã có mấy trăm năm nay rồi, nhưng do quá heo hút nên chỉ có mình bần tăng ở đây… Thung lũng này có tên là Thạch Liên, mấy ngọn núi đá quanh đây tương truyền có một loài Hoàng Thạch Liên sinh sống, người nào có duyên ắt sẽ gặp được loài hoa này. Ai hái được nó sẽ đạt được ước nguyện của mình.

– Hoàng Thạch Liên ư? – Trác Vân ngẩn ra. – Trông nó thế nào thưa thầy?

– Bần tăng chưa bao giờ có duyên hội ngộ với loại bảo hoa này. – Nhà sư lắc đầu và đi vào phía trong. – Vì chỉ có kì duyên mới gặp được mà thôi…

– Dạ… con chào thầy…

Nhìn nhữung dãy núi đá bao quanh thung lũng, Trác Vân tự hỏi liệu loài hoa sen đá đó có thật hay không mà vị sư sống ở đây nhiều năm rồi cũng chưa một lần tương kiến? Liệu cô có duyên với nó hay không, và có duyên với chàng trai đã cứu cô lần trước hay không?

Nghĩ đến đây, cô suýt thốt lên khi một người đang đi vào trong chùa. Chính là người con trai ấy. Vẫn bộ quần áo đó, vẫn chiếc gùi lớn đó, nhưng hôm nay toàn là củi lớn sau lưng, trên tay anh ta còn xách theo một xâu măng nữa.

Anh ta cũng nhìn cô, nhưng không có biểu hiện nào cho thấy anh ta nhận ra cô cả, anh ta đi thẳng đến trước cửa chùa. Vị sư khi nãy bước ra. Anh ta lau mồ hôi bằng vạt tay áo và cất tiếng nói với nhà sư:

– Con mang củi đến cho thầy đây ạ! Mẹ con gửi cả măng cho thầy nữa.

– Rau hôm trước mẹ con gửi cho thầy vẫn còn mà… Thôi con mang nó ra sau bếp cho thầy đi.

Anh chàng “dạ” một câu rồi bước ra phía sau, trước con mắt lúc này vẫn trợn tròn lên vì ngạc nhiên của Vân. Hai phút sau anh ta trở lại, vị sư già cầm ra hai gói giấy lớn đã được buộc chặt, đưa cho anh ta và nói:

– Thầy đã phơi xong đống thuốc hôm trước con mang đến rồi, mang về mà sắc cho mẹ con uống này.

– Dạ, con cảm ơn thấy. Mẹ con dạo này đỡ nhiều rồi. Thưa thầy con về.

– Ừ, con về đi.

Trác Vân vội chạy theo khi anh ta đã đi ra đến cổng.

– Này anh, khoan đã. – Nó gọi.

Anh ta dừng lại, đợi nó chạy đến.

– Có chuyện gì vậy? – Anh ta hỏi

– Em đang mong gặp anh để cám ơn anh chuyện hôm trước anh cứu em.

– Cứu người gặp nạn tức là tích công đức cho mình, mẹ tôi đã dạy như thế. Tôi không làm để đợi người ta trả ơn. – Anh ta lắc đầu.

– Nhưng em vẫn muốn. – Nó bướng bỉnh lắc đầu. – Nhà anh ở đâu thế để lúc nào em đến?

– Cách đây hai ngọn núi… – Anh ta chỉ về hướng hôm trước nó đã gặp anh ta.

– Hả, xa dữ vậy. Tên nơi đó là gì?

– Làng Đrăk Bia.

Trắc Vân cố gắng ghi nhớ cái tên lạ lẫm đó vào đầu. Thấy anh chàng đó vẫn rảo bước đi tiếp, nó lại chạy theo:

– Thế tên anh là gì?

– Việt…

Ơ… Việt… Anh Việt… hay anh về nhà em đi, để ba mẹ em cảm ơn anh.

– Tôi đã nói là tôi làm việc đó không cần trả ơn mà. Cô đừng ngại. Muộn rồi, cô nên về nhà đi, ở trong núi một mình nguy hiểm lắm. Có thú dữ đấy.

– Hì, không nghĩ lại gặp anh ở đây thế này, em quên không đem theo cái khăn để trả anh rồi. Anh cầm khăn tay của em vậy nhé!

Nó nói và đặt chiếc khăn tay trắng tinh của mình vào lòng bàn tay còn đầy bụi đất của Việt, chiếc khăn tay có thêu hai chữ T.V mà mẹ đã tặng. Đưa nó cho anh xong, nó cúi đầu chào và chạy biến đi, lẩn khuất sau những vụi hoa vàng ruộm.

Chương 12: Tiếng yêu

          Khánh Nam nằm dài trên giường, nhìn bức ảnh trên màn hình điện thoại, anh đã ngắm nó cả ngày hôm nay mà không biết chán. Bức hình trong điện thoại chụp một cô gái mặc nguyên bộ đồ màu trắng, đứng giữa một biển hoa màu vàng, khiến cô càng thêm nổi bật. Người đó chính là Phượng Vũ, anh đã chụp lén khi hai người xuống đến thung lũng hoa ngày hôm đó.

Nói là không nghĩ đến nữa nhưng tâm trí anh chẳng bao giờ dứt được những suy nghĩ về cô. Càng bị từ chối thì con người ta càng quyết tâm hơn thì phải?

Có tiếng gõ cửa, Khánh Nam tắt phụt màn hình. Cái kiểu gõ cửa lịch sự này chỉ có con gấu trúc đó mà thôi, chứ còn nếu là Vân, con nhóc đã chạy huỳnh huỵch vào rồi. Ba mẹ anh đi Đắc Lắc thăm mẹ Diễm Phương từ sáng sớm. Anh cũng muốn đi nhưng mẹ lại bắt anh ở lại trông coi cô em gái nghịch ngợm.

Anh lên tiếng, Phượng Vũ đẩy cửa bước vào.

– Anh Nam, Vân đi đâu rồi đấy.

– Chắc nó qua nhà ngoại hoặc chạy lăng quăng đâu đó thôi mà. – Anh lại nằm ườn ra lười biếng.

– Hình như không phải. Cô bé mang cả ba lô đi nữa.

– Hả? – Khánh Nam bật dậy như lò xo. – Sao cô biết mà giờ mới nói, nó đi đâu, lâu chưa?

– Làm sao tôi biết được. Tôi vừa qua phòng con bé gọi xuống ăn trưa mà không thấy đồ đạc của nó đâu cả. Chị bếp nói nó ra ngoài từ sáng rồi, nói là đi chụp ảnh nên chị ấy không nghi ngờ gì.

– Đi chụp ảnh, chắc nó lại ra cái thung lũng hoa hôm trước. – Khánh Nam chợt nghĩ ra. – Cái con bé này…

Anh vơ vội cái áo sơ mi và kéo Phượng Vũ ra khỏi phòng.

Không thể đi xe vào trong thung lũng nên Khánh Nam đành để ở ngoài.

– Này, làm gì mà anh đi nhanh thế, đi chậm thôi. – Phượng Vũ kêu lên khi bị anh lôi đi xồng xộc.

Khánh Nam chưa kịp dừng lại thì: “Á…” Phượng Vũ vấp một hòn đá và ngã, rời khỏi tay anh.

– Cô thật là đồ vụng về xấu gái ạ. – Anh chán nản lắc đầu và cúi xuống sờ vào cái cổ chân trắng ngần của cô ta.

Bị đau, Phượng Vũ gạt tay anh ra nhăn nhó.

– Con gái chúa là rắc rối. – Anh thở dài. – Cô có đi nổi không lên đây tôi cõng?

– Anh mà biết cõng người khác hả, đại thiếu gia?

– Con nhỏ Trác Vân có bao giờ là không đòi cõn đâu. Nó còn to hơn cô nhiều, chứ cô có một nhúm thế kia ăn thua gì. Lên đây.

Phượng Vũ hí hửng trèo lên lưng Khánh Nam và mặc cho anh càu nhàu vì cô… nhạ quá, cô ngắt một bông hoa vàng đặt lên tai anh ta.

– Ê này. – Khánh Nam vội kêu lên khi thấy hơi nhột nhột ở tai. – Cô làm cái trò khỉ gì thế hả?

– Làm gì đâu. – Cô xụi lơ và còn thì thầm hát một câu vui vẻ.

– Đi tìm em gái mà còn dẫn theo cô đi, đúng là của nợ mà. – Anh làu bàu.

– Sao anh cứ tỏ ra khó tính như đàn bà thế?

– Cô… Cái gì? Ai đàn bà? Cô nói câu nữa tôi bỏ cô lại ở đây đấy.

– Anh thử bỏ tôi xem… – Cô ôm chặt lấy cổ anh.

– Ặc ặc… cô làm cái trò gì thế đó xấu gái… Bỏ tay ra tôi không thở được.

– Bỏ ra nhỡ anh để tôi lại thì sao?

– Thôi, tôi xin cô, tôi thua rồi, tôi không dám bỏ cô lại đâu ạ! Giờ thì nới lỏng tay giùm tôi cái, khó thở quá! Mà cô đừng giở trò gì trên lưng tôi nữa đi, muốn sụn bà chè vì mệt rồi đây này.

– Mới đây ai còn kêu tôi “một nhúm”. – Phượng Vũ nói bâng quơ.

– Tôi có mắt không tròng, không nhận ra được sự lợi hại của cô, được chưa? – Kánh Nam cáu khỉnh nói.

” Ngày xưa hai đứa trên cánh đồng hoa

Và anh đã hứa sẽ chẳng rời xa .

Tình yêu hai đứa sẽ còn mãi dẫu cho hoa kia tàn. “

Phượng Vũ giơ cành hoa vừa ngắt được lên cao, nghều ngao hát một đoạn ca khúc mà tên của nó là gì cô cũng không nhớ.

” Nào em đâu biết hoa kia mỏng manh

Bồ công anh theo gió bay đi thật nhanh.

Và em cũng thế sao vội vã để anh riêng mình anh. “

Khánh Nam hát nối vào làm Phượng Vũ sửng sốt đến suýt ngã, phải bám vào tay anh để giữ lại.

– Cô làm gì mà có vẻ thậm xưng thế ? Bộ tôi hát giở đến thế hả? – Khánh Nam đỏ mặt cáu khỉnh hỏi.

– A, không phải, tại tôi ngạc nhiên là anh lại biết hát mấy bài nhạc Việt. – Phượng Vũ cười lắc đầu.

– Cái bài này ngày xưa suốt ngày bà Mai Anh của tôi nghe mà. Nghe hoài lên nhớ lời thôi.

– Mà anh đang đi đâu thế ? Cẩn thận không chúng ta lại đi lạc đấy.

Thực ra Khánh Nam đâu có chủ ý đi tìm Trác Vân, con bé đó lanh lợi kiểu gì chả tìm ra đường về, anh chỉ muốn có những khoảnh khắc đáng nhớ ở đây cùng Phượng Vũ, trước khi anh ra nước ngoài. Trước đây anh khao khát đi khỏi đây bấy nhiêu thì bay giờ anh lại lưu luyến bấy nhiêu.

Khánh Nam rẽ vào một bãi đá, nơi có những tán cây rộng. Hai người ngồi xuống một phiến đá phẳng. Khánh Nam ngó xuống chân Vũ, hỏi vẻ quan tâm:

– Chân cô sao rồi?

– Vấp có hòn đá mà cũng tím lên nè. – Phượng Vũ suýt xoa.

– Cũng tại cô vụng về quá cơ. – Anh chặc lưỡi.

– Thôi đi, nếu không phải tại anh đi nhanh thì đâu ra nông nỗi này. – Cô cự lại.

– Con nhóc này không biết chạy chỗ nào nữa. – Kánh Nam ngó xung quanh chép miệng, xụi lơ luôn cái vụ hai người đang tranh cãi.

Cùng lúc đó, trong một hang núi nhỏ, cái mát lạnh của hang giữa trưa nóng nực làm Trác Vân khẽ rùng mình. Người nó mỏi nhừ, không hẳn vì nó đang nằm trên một phiến đá mà là vì nó vừa bị ngã từ trên núi xuống. Lúc đó đang lang thang tìm đường, nó vấp té và lăn xuống một dốc thấp. Có lẽ người nó đã bầm dập hết rồi.

– Cô tỉnh rồi à? – Anh ta nhìn nó, nhẹ nhàng hỏi.

– Em biết thế nào cũng gặp lại anh mà – Nó cười và nói một câu mà dường như cái tình trạng của nó hiện nay chẳng nhằm nhò gì cả.

Việt tròn mắt có vẻ không hiểu. Nó tiếp:

– Em chẳng biết làng mà anh ở nó ở chỗ nào, nên em cứ đi theo hướng mà anh hay đi. Cũng may ngã xuống mới gặp được anh đúng không?

Nếu là Khánh Nam thì người con gái ngồi trước mặt anh sẽ bị đánh giá là thần kinh, nhưng Việt, một chàng trai hiền lành chất phác lớn lên giữa núi rừng thì chỉ nhìn cô bé có vẻ không hiểu mà thôi.

– Tại sao lại đi tìm tôi?

– Vì em rất thích anh nên em muốn đi tìm xem anh ở đâu. – Nó nói không ngần ngại, không vòng vo.

Việt lại tròn mắt tiếp tục nhìn cô bé kì lạ này.

– Thấy chưa, rõ ràng là mình có duyên mà. Nếu không cứ mỗi lần mong gặp anh là em lại gặp được anh ngay.

– Nhà cô ở đâu để tôi đưa cô về. Tôi còn về nhà nữa, sắp tối rồi. – Việt đứng dậy.

Trác Vân nhổm hẳn dậy, một cái ê mình làm nó phải nhăn mặt. Từ hồi nào đến giờ nó đâu có biết bị thương hay bị đau là gì đâu.

– Về nhà anh không được à?

– Cô phải về nhà cô chứ?

– Em thích về nhà anh

Cái tính trẻ con của Trác Vân xưa nay có ai trái lại được đâu.

– Cô không thể về nhà tôi được. Mẹ tôi không thích thế.

– À … thế thôi vậy. Thế anh đưa em về nhà đi, rồi em bảo anh Gấu em lái xe chở anh về nhà.

– Nhà cô ở đâu?

– Không nhớ ở hướng nào. Cạnh nhà ông ngoại Phi Long đó.

– Nông trường Phi Long. Cô là cháu ngoại ông ấy, nhưng nghe nói ông ấy đâu có con gái.

– Mẹ em là con nuôi của ông ngoại. Nhà em ngay gần đó.

– Cô ở biệt thự Hoàng Dương? – Việt nhìn nó nghi ngờ.

– Phải.

– Được. Tôi biết chỗ đó, để tôi đưa cô về.

Việt lại đeo cái gùi lên lưng và tiến lại phía Trác Vân. Cúi xuống, anh không thấy nó đang đỏ mặt bối rối, Việt nâng nó lên trên hay cánh tay khỏe khoắn của mình và bước ra khỏi hang.

Ngước lên nhìn bầu trời xanh ngắt một màu, thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn Việt. Không mang cái vẻ đẹp kiểu đại công tử như anh trai Khánh Nam hay những anh chàng hay theo đuôi nó trước đây, Việt có vẻ đẹp khá mộc, nhẹ nhàng, đậm chất núi rừng. Đôi mắt anh sáng luôn ánh lên những cái nhìn hoang dã. Nó đưa tay lau một giọt mồ hôi vừa chảy xuống cổ Việt, nói:

– Nếu anh mệt thì cứ bỏ em xuống nhé!

Việt lặng im cứ bước thẳng lên phía trước. Thế là trong khi Khánh Nam đang dạo chơi trong thung lũng hoa cùng Phượng Vũ, thì Việt đã đưa Vân về đến biệt thự Hoàng Dương bằng chính đôi tay và đôi chân anh. Bàn chân quen đi rừng leo núi của anh dường như chẳng hề mệt mỏi chút nào.

Thả nó ở cổng, Việt định quay lưng đi, nhưng Vân đã gọi giật lại:

– Anh Việt, khoan đã. Hai ngày nữa em rời khỏi đây cùng ba mẹ rồi. Chiều mai anh đến chùa Thạch Liên nhé!

Việt không đáp, cũng không quay lại. Vân nói với theo:

– Anh mà không đến là em sẽ không về đâu đấy.

Nhưng nó xụ mặt xuống vì thấy Việt đã đi xa lắm rồi.

Nó mong là anh sẽ đến gặp nó.

Chương 13: Tạm biệt dấu yêu

          Tiếng củi cháy lép bép nơi bếp lửa, nơi duy nhất có ánh sáng trong nhà sàn lúc này, một người đàn ông đang thổi bếp, chốc chốc lại liếc chừng về phía cầu thang. Bên ngoài trời đang tối dần, có ánh chớp báo hiệu sẽ có một cơn mưa lớn. Giờ này mà đứa cháu anh vẫn chưa về.

Có tiếng ho khan, người đàn ông lo lắng nhìn về phía đó, nơi có một người phụ nữ đang ho rũ rượi vì căn bệnh lâu năm của mình. Đó là chị dâu của anh. Nồi thuốc vẫn còn đầy nước nên anh chưa thể chắt ra cho chị dâu uống được.

Tiếng lạch cạch ở phía dưới báo cho anh biết đứa cháu của anh đã về đến nơi. Anh cất tiếng hỏi:

– Sao hôm nay về muộn thế?

– Cháu đi hái thêm lá thuốc để sư thầy gói thuốc cho mẹ.- Việt đáp lại- Cháu có bắt được con cá ở dưới suối đây, chú làm cơm giúp cháu, cháu mang thuốc qua cho sư thầy.

– Trời tối rồi, lại sắp mưa nữa, mày đi đường rừng nguy hiểm lắm.- Mẹ anh nói vọng xuống.

– Không sao đâu mẹ, con đi rồi về liền.

Anh nói và lại xốc cái gùi lên lưng và bước đi về phía thung lũng Thạch Liên.

Việt quen sư thầy từ khi biết đi rừng. Sư thầy tốt bụng đã chỉ cho anh bài thuốc nam để chữa bệnh cho mẹ mình. Việt thường hay hái lá thuốc đến nhờ sư thầy gói thành từng thang một để đem về sắc cho mẹ uống. Biết sư thầy ở một mình trong núi này, anh hay đem củi và rau rừng đến cho thầy, đôi khi là củ sắn, cái bắp của nhà trồng.

Việt đến được chùa Thạch Liên thì người anh đã ướt hết. Sư thầy đưa anh đĩa xôi thầy mới cúng xong để anh ăn cho đỡ đói. Thầy khuyên anh nên ở lại chùa hôm sau hãy về, nhưng anh sợ mẹ lo lắng nên ăn xong đĩa xôi, anh đứng dậy xin phép ra về.

Vừa bước chân ra đến cửa thì anh nghe sư thầy nói:

– Có cô bé đến tìm con từ chiều đó. Đợi đến lúc trời mưa, thầy giục về nên đã về rồi.

Việt giật mình nhớ lại lời hẹn của cô bé hôm qua, lời hẹn của con gái chủ nhân ngôi biệt thự Hoàng Dương. Anh ngẩn ra rồi chào sư thầy và bước vào bầu trời lất phất mưa.

Nhưng nghĩ sao, khi ra khỏi cổng chùa, anh lại rẽ sang con đường dẫn về biệt thự Hoàng Dương. Cô bé ngốc đó không biết đã về đến nhà an toàn chưa? Tiểu thư con nhà giàu mà dám lang thang trong núi giữa đêm tối thì thật là đáng kinh ngạc.

Đi đến chân dốc, anh dừng lại vì trong ánh chớp vừa lóe lên, anh nhận ra một thân hình đang nằm trong đám cỏ dại. Người cô bé bê bết bùn đất, có lẽ vì trơn nên đã trượt từ trên dốc xuống. Toàn thân cô lạnh ngắt khiến anh cũng phải thót tim lại. Vội nâng cô lên, anh đi về phía hang núi, nơi mà anh thường nghỉ chân lại khi đi qua đây.

Anh đặt cô bé nằm xuống phiến đá lớn và nhóm cho đám củi khô cũ còn sót lại cháy bùng lên. Lửa làm cho hang trở nên ấm áp hơn.

Anh ngoái lại nhìn cô bé đang nằm đó. Một vẻ mặt xinh đẹp mà anh chưa bao giờ thấy. Con gái trong buôn làng chẳng ai đẹp như thế cả. Gương mặt sáng, mi cong, cô như một nàng công chúa bước ra từ xứ sở thần tiên nào đó. Cái vẻ ngây thơ của tuổi mới lớn vẫn còn đọng lại trên mí mắt, khóe môi.

Trong khi anh đang mải ngắm cô thì cô bé mở mắt ra, ngơ ngác một lúc rồi nhổm ngay dậy, reo lên:

– Ơ, lại là anh…

– Cô không biết đi đường núi mà sao cứ thích đi vậy? Nếu không có tôi thì cô đã chết vì dầm mưa ở ngoài trời hoặc bị thú dữ tấn công rồi.- Việt chất thêm củi vào đống lửa. Quần áo anh nãy giờ đã khô bong.

– Tại sư thầy cứ bảo em về nên em chẳng tiện ở lại. Nhưng em biết thế nào anh cũng đến mà.- Trác Vân lại gần đống lửa, cười.

Việt hơi đỏ mặt khi nhìn vào gương mặt rạng ngời đó. Dưới ánh lửa bập bùng, cô bé còn đẹp hơn bình thường nữa.

– Cô đi như thế này không sợ ba mẹ cô lo lắng sao?

– Có chứ… Em biết sẽ làm ba mẹ và anh Hai em lo lắng, nhưng em không thể rời khỏi nơi này mà không gặp anh một lần.- Trác Vân lắc đầu thật thà đáp.

– Tại sao nhất thiết phải gặp?

– Vì em muốn anh vẫn nhớ đến em cho đến khi em quay lại đây tìm anh.

– Tìm tôi làm gì?

– A… thôi em không nói nữa…- Vân đỏ mặt nói- Dù sao thì những ngày ở đây thật đáng nhớ vì đã gặp được anh. Anh đã cứu em rất nhiều lần, nhiều đến nỗi em không biết làm gì để trả hết được.

– Có vay sẽ có trả, đó là luật nhân quả mà sư thầy thường hay nói với tôi. Có lẽ do tiền kiếp tôi nợ cô nên giờ tôi trả cho cô. Trả hết là mình hết duyên nợ.

– Không, nhất định em sẽ còn quay lại đây tìm anh. Hứa đấy… Hai năm nữa em quay lại đây tìm anh, hy vọng lúc đó anh vẫn không quên em.

Thấy Việt im lặng, nó tiếp:

– Hay anh không tin em, mình ngoắc tay nhé!

– Không cần đâu.- Việt lắc đầu- Vốn dĩ không có sự tồn tại của những lời thề. Đi thôi, tôi đưa cô về, vì tôi còn phải về nhà nữa.

Trác Vân đứng dậy, mỉm cười và bước ra ngoài theo Việt. Không hiểu sao, nhưng ở cạnh người con trai này, nó thấy bình yên đến lạ kì.

Hai người cứ bước cạnh nhau, dưới trời mưa như thế đến tận khi về đến cồng biệt thự Hoàng Dương. Việt ngẩng đầu nhìn ngôi biệt thự rực rỡ ánh đèn, khác xa với căn nhà sàn nghèo nàn chỉ có ánh lửa của mình. Anh cười trong đầu một cái thật mỉa mai khi nghĩ đến sự thiên lệch đến tréo ngoe ấy.

– Tạm biệt anh.- Trác Vân hôn nhẹ lên má anh, khẽ cười và chạy vụt vào nhà để lại một thằng con trai đứng ngơ ngẩn dưới mưa thêm một hồi lâu nữa.

“Tạm biệt em.”- Việt nhìn khung cửa sổ lầu hai vừa sáng đèn và quay người bước đi. Mưa lạnh mà lòng anh sao ấm quá!

*

– Hả, em nói gì?- Khánh Nam ngẩng đầu nhìn Sang khi nghe cô thông báo một tin khiến anh hơi shock.

– Mẹ đã đồng ý cho em đi du học rồi. Em sẽ sang Mỹ với anh.- Minh Sang cười rất duyên.

– Nhưng em còn đang học mà?

– Học xong em sẽ bay. Em sẽ đăng kí học cùng trường với anh! Em chỉ sang sau anh mấy tháng thôi mà. Sao, hay anh không thích em sang đó học cùng anh?

– Dĩ nhiên là không phải.- Khánh Nam lắc đầu dù lời phủ định của anh chẳng thể che nổi những nét biểu cảm trên khuôn mặt anh lúc này.- Anh không nghĩ là cô bé Minh Sang hôm nào anh gặp ngồi ủ rũ một góc vì nhớ mẹ, giờ lại có đủ dũng cảm để bay nhảy như thế.

– Sang đó em còn có anh mà, em có cô đơn đâu. Hì. Hay anh đợi em học xong rồi đi cùng em luôn thể?

– Không được nhóc à…- Khánh Nam lắc đầu- Thủ tục anh đã lo xong hết rồi mà. Ăn Tết xong là anh bay thôi.

– Vâng, thế thì hẹn gặp anh năm tháng sau ở bên đó nhé!

*

– Này, tôi đi rồi cô vui thế à?- Khánh Nam trợn mắt nhìn Phượng Vũ khi hai người ngồi trong quầy cafe ở sân bay, khi cô nghêu ngao hát một câu hát nào đó có vẻ vui lắm.

– Tôi yêu đời thôi mà.- Phượng Vũ cười.

– Tôi đi liền đấy, không về đây đâu. Cô có nhớ tôi thì tranh thủ đi, không đến lúc muốn gặp cũng khó lắm.

– Sặc…- Phượng Vũ phun phì phì vì câu nói đó của anh.

– Đồ xấu gái bất lịch sự.- Khánh Nam nhảy dựng lên vì nước bắn vào tay áo.

– Xin lỗi.- Phượng Vũ ôm bụng cười- Tại câu nói kia của anh làm tôi sợ quá ấy mà. Này, xin lỗi đi, anh đi rồi bớt một kẻ nửa đêm nháy máy khủng bố giấc ngủ của tôi nhé! Cũng chả còn gã dở hơi không biết bơi nào tranh ăn với tôi nữa.

– Thế là không nhớ tôi à?

– Ôi, nhớ tới anh để đêm gặp ác mộng tôi sợ lắm.

– Nhưng tôi sẽ nhớ cô lắm đấy.

– Ha ha, rồi anh sẽ bị những cô em tóc vàng xinh xắn hớp mất hồn thôi, không có thời gian để nhớ đến tôi đâu mà lo.

– Tôi nhớ thật đấy.- Khánh Nam nghiêm mặt nói.

Phượng Vũ ngừng cười, cô lắc lắc mái tóc dài buông xõa:

– Đừng nói trước vì chẳng cái gì nói trước mà bước tới được đâu. 4 năm sẽ qua đi, và sau đó chúng ta thay đổi thế nào chẳng ai biết được cả.

– Hừm… cô chẳng bao giờ nghiêm túc khi tôi nghiêm túc cả.- Khánh Nam lắc đầu vẻ giận- Thôi đến giờ rồi, tôi đi đây.

Anh đứng dậy cầm vé máy bay và hộ chiếu lên. Phượng Vũ đứng dậy và bước theo anh ra đến cửa soát vé. Anh dừng lại, một thoáng lưu luyến làm anh không muốn bước chân qua cánh cổng kia.

– Đi đi…- Phượng Vũ đẩy anh- Sao ủy mị thế?

Khánh Nam cúi nhìn cô, nói nhỏ:

– Tôi đi nhé!

– Chúc mạnh giỏi.

– Đi thật đấy…

– Ơ hay, muốn chúc gì nữa?

– Nhưng tự dưng tôi lại không muốn đi

– Ai da… Có phải đưa tiễn Kinh Kha đâu mà sướt mướt thế.- Phượng Vũ ngoác miệng cười, thực sự thì lòng cô cũng đang hoang mang lắm.

Rất nhanh, Khánh Nam với tay, kéo cô lại sát mình và đặt lên trán cô một nụ hôn, rồi anh nói, giọng nhẹ tênh như gió thoảng:

– Chờ tôi… tôi sẽ không để em thành đá Vọng Phu đâu.

Và anh quay người bước thật nhanh đến cửa soát vé, một tay còn giơ lên như chào. Phía sau anh, Phượng Vũ đưa tay lên trán, nơi nụ hôn ấm áp của anh vẫn còn đọng lại, cô hơi cười rồi cũng quay người ra khỏi sân bay.

4 năm rồi sẽ qua đi.

4 năm chúng ta sẽ cùng nhau phấn đấu.

4 năm, em sẽ đợi anh quay về.

Tạm biệt dấu yêu.

Chương 14: Chỉ cần có tình yêu

          Phượng Vũ ngồi vào chiếc bàn quen thuộc trong Hersey bar, nơi mà cô vẫn ngồi nghe những ca khúc trữ tình với một cốc Capuchino sau khi kết thúc một tuần làm việc dài đầy mỏi mệt. Hersey là nơi mà người ta có thể gửi tặng những bài hát cho người thân yêu nghe, vì thế mà mỗi bài hát ra dù hay hay dở đều đầy cảm xúc và vô cùng ấm áp.

Hôm nay cô hơi khó chịu vì bị gã trưởng phòng trách mắng một cách vô lý, chỉ vì cô đã từ chối hẹn hò cùng hắn, mặc cho hắn theo đuổi lâu nay. Rồi còn mấy bà chị cùng phòng suốt ngày lườm nguýt, nói xấu sau lưng, nói cô làm cao này nọ.

Tiếng nhạc vang lên, một ca khúc trữ tình quen thuộc. Có tiếng của người MC giới thiệu ai đó lên hát. Cô ngồi quay lưng lại với sân khấu nên cũng chẳng tò mò nhìn họ. Sau lời giới thiệu của gã MC là một giọng nam khá trầm vang lên:

– Tôi dành tặng ca khúc này cho một người quan trọng với tôi. Và tôi chỉ muốn nói với cô ấy hai điều. Cám ơn và anh yêu em.

Mọi người trong phòng nhạc ồ lên vỗ tay trước lời tỏ tình táo bạo ấy. Phượng Vũ lắc đầu mỉm cười và nghĩ không biết cô gái nào lại may mắn đến thế. Cô cất tiếng nhè nhẹ hát theo bài hát mà anh ta đang hát.

“Tôi đang nghe tiếng sóng dòng sông

Tôi đang nghe tiếng gió ngày xuân

Nghe bông hoa, như thương ai rạo rực trên cành

Tôi đang nghe tiếng nói của đêm

Như đang nghe tiếng hát của em

Tôi đang nghe, nghe con tim như thủy triều lên ”

Ngày xưa Khánh Nam cũng hứa sẽ hát tặng cô bài này đây. Hai tháng nữa anh sẽ về sau 4 năm đi du học mà không một lần nào về thăm Việt Nam. 4 năm qua đủ để cô đi mọi vết thương trong quá khứ và chuẩn bị đón một tình cảm mới hơn cho mình.

Ngồi thêm một lúc, Phượng Vũ uể oải đứng dậy, chuẩn bị trở về nhà trọ của mình. Tốt nghiệp xong cô cũng không về ở với bố mẹ mà thuê nhà trọ ở riêng một mình. Có lẽ cô đã quen với sự tự do rồi.

– Này xấu gái…

Phượng Vũ đứng khựng lại vì có tiếng gọi rành rọt sau lưng mình. Ở một góc của sân để xe, một anh chàng đang đứng dựa người vào chiếc xe màu trắng bạc hoàn mĩ. Chàng trai mặc áo sơ mi màu ghi, sống mũi cao, miệng hơi cười với cô.

Người đó là Khánh Nam, dù trông anh có chững chạc ra, nhưng cũng không có gì đổi khác lắm. Thấy cô cứ tròn mắt đứng nhìn, anh lại tiếp:

– Bộ quên anh rồi hả xấu gái?

– Anh sao lại ở đây?- Cô trố mắt ngạc nhiên hỏi.

– Không ở đây thì ở đâu?- Khánh Nam hỏi lại.

– Tất nhiên là ở NewYork, bên một con búp bê toc vàng nào đó chứ.- Phượng Vũ lại gần anh, châm chọc.

– À, nhớ con búp bê xấu xí này nên anh không đành lòng ở lại nữa.- Bất chợt anh ôm lấy eo cô kéo sát lại mình- Thế nào, không vui à? Thậm chí anh hát tặng em em còn không thèm vỗ tay hay quay lại nhìn. Hay lén lút hẹn thằng nào rồi nên không thích anh ở đây?

– Có thể lắm chứ.- Phượng Vũ đáp trả, nhìn thẳng vào mắt anh.

– Nói xem nó là thằng nào để anh đến hỏi thăm làm quen…- Anh ghé sát mặt cô hơn nữa, đến mức mái tóc lòa xòa của anh có thể chạm vào trán cô.

– Ai da…- Cô vội đẩy anh ra- Sao vừa mới gặp nhau là đã muốn đánh nhau rồi thế?

– Em là người gây sự trước mà.- Anh lấy ngón tay dí nhẹ lên trán cô cười- Màn chào hỏi nhạt quá làm anh hơi hẫng hụt đấy nhé!

– Ai bảo thích bất ngờ.- Phượng Vũ lườm- Nói hai tháng nữa về mà lén lút về như để bắt quả tang người khác ấy.

– Thì tại sợ em hóa đá mà.- Anh trêu- Nào, mời người đẹp lên xe.

– Còn xe của em?- Cô chỉ về chiếc xe máy của mình.

– Kệ nó đó, mai qua lấy. Anh đưa em về.

– Ừm… Vậy cũng được.

Và họ đã bắt đầu như thế, nhẹ nhàng và không quá ngập ngừng như những đôi mới bắt đầu yêu nhau khác. Khánh Nam, giờ đây trở về và ngồi vào ghế Tổng giám đốc của tập đoàn Lotus. Ba anh đã bán tập đoàn xe hơi Silver Wings và trở về tiếp nhận Lotus cùng bác Phương. Hiện nay thì ba mẹ và em gái anh đang sống ở Đà Lạt. Anh sẽ tiếp nhận ghế Tổng giám đốc khu vực phía Bắc, và tất nhiên lại trở về sống cùng bà nội ở tập đoàn Lotus.

Mặc dù trước nay bà nội rất ưng ý Minh Sang, nhưng bà vẫn chấp nhận Phượng Vũ vì dù sao cô cũng là con của hai người bạn rất thân của con trai và con dâu bà. Trong thâm tâm bà, Phượng Vũ rồi sau này sẽ kế thừa tài sản của ông ngoại mình, như vậy cũng là xứng với cháu trai bà lắm.

Thế nên người ta chỉ còn nghĩ đến một đám cưới nữa là xong.

Nhưng khi mọi người bắt đầu nghĩ đến việc kết hôn của Khánh Nam và Phượng Vũ vào mùa thu, thì có chuyện rắc rối xảy ra với Trác Vân, cô con gái út của gia đình Hải Long. Thực ra nói là rắc rối cũng không đúng, nhưng đó là việc mà ba mẹ cô khó lòng chấp thuận khi cô bé 20 tuổi đầu một mực đòi lấy chàng trai của núi rừng mà cô đã dành trọn tình yêu bốn năm nay, kể từ lần đầu gặp gỡ định mệnh ấy.

– Mẹ anh đang phát ốm lên vì con bé.- Khánh Nam nằm dài ra giường thở dài.- Tự dưng lại đi yêu cái thằng người rừng nào đó, không biết nó có bị bỏ bùa gì không?

– Hình như em đã nghe Vân kể về anh chàng đó rồi…- Phượng Vũ ngồi xuống cạnh anh.

– Nó là người thế nào?- Anh nhổm dậy nhìn cô hỏi.

– Nghe nói anh ta là người tốt bụng lắm. Chính là cái anh chàng đã cứu Vân khi nó bị rắn cắn cái hồi mà em đi cùng gia đình anh lên Bảo Lộc chơi đó. Sau đó còn mấy lần cứu nó khi nó bị ngã xuống núi nữa.

– Thảo nào mà học ở Hà Lan xong nó nằng nặc đòi về Việt Nam học, lại còn thi tận trên Đà Lạt nữa chứ.- Khánh Nam vỗ đùi đánh đét một cái.

– Nếu hai người họ yêu nhau thật thì sao?

– Anh cũng chả rõ, phải gặp nó xem thế nào đã. Nhiều đứa tiếp cận con bé ngốc ấy lắm, mà toàn là lợi dụng thôi.

– Anh sẽ vào đó à?

– Ừ…- Anh cười, lùa bàn tay vào mái tóc của người yêu- Có lẽ anh phải lên đó xem thế nào. Con bé này nó bướng lắm, may ra thì chỉ có anh nó mới nghe lời.

– Bao giờ anh đi?

– Chắc ngày mai anh đi luôn. Anh nói với bà nội rồi, đêm nay anh ở chỗ em rồi sáng mai ra sân bay sớm.

– Anh đi lâu không?

– Sao?- Khánh Nam bật cười kéo cô vào lòng- Không nỡ xa anh thì khăn gói theo anh đi.

– Khỉ gió, đang nói thật mà cứ đùa.- Cô tát nhẹ vào má anh.

– Anh đùa cái gì đâu. Hay không nỡ xa thằng trưởng phòng của em?

– Thôi ạ!- Phượng Vũ bĩu môi- Thằng nào nó cứ nhìn thấy cái mác Tổng giám đốc của anh là nó chạy xa em 50m rồi chứ nói gì đến tán tỉnh.

– Em đâu có cao số thế đâu? Yên tâm, xong xuôi là anh ra mà. Công việc ngoài này bỏ lâu làm sao được, mà rồi còn chuyện của mình nữa chứ. Lo dần đi là vừa. Thôi ngủ đi em, mai anh đi sớm đấy.

Phượng Vũ nhìn người yêu, cô khẽ mỉm cười và đưa tay với công tắc, tắt đèn. 5 phút sau, cả không gian chỉ còn tiếng thở đều đều của Khánh Nam và một tiếng trở mình nhè nhẹ khác.

**********

– Ba…mẹ… Ba mẹ thả con ra… mau thả con ra…- Tiếng gào thét tuyệt vọng của Trác Vân sau cánh cửa làm Khánh Nam thấy nhói lòng. Cô em gái dễ thương tinh nghịch ngày nào của anh bây giờ suốt ngày chỉ gào thét và khóc lóc vì tình yêu sao?

Anh quay sang nhìn mẹ mình, lúc này đã chẳng cầm nổi nước mắt nữa. Bà đang khóc khi bất lực với đứa con gái của mình. Từ bao giờ, nó chẳng còn nghe lời của bà nữa rồi.

– Ba…mẹ…con xin ba mẹ mà… Mau thả con ra…- Vẫn là những tiếng đập cửa ấy- Con yêu anh ấy, con chỉ muốn ở bên anh ấy, tại sao lại cấm con? Mau thả con ra…

– Ba mẹ phải dẹp hết những đồ vật sắc nhọn, cốc chén, bình hoa ra khỏi phòng vì chỉ sợ nó làm liều…- Mẹ anh bưng mặt khóc- Mẹ không biết làm gì với nó bây giờ con à…

– Mẹ…- Khánh Nam nắm lấy vai bà, siết nhẹ- Mẹ về phòng nghỉ đi. Cứ để em cho con.

Dìu mẹ mình về phòng rồi, Khánh Nam quay trở lại phòng em gái mình, tra chìa mở cửa và bước vào.

Vân đang quỳ dưới đất, tóc tai rũ rượi, mặt đẫm nước mắt, quần áo xộc xệch và con bé trông gầy rộc đến thảm thương. Thấy anh, nó vùng dậy, lao vào vòng tay anh, khóc nức nở:

– Anh Nam, anh hãy cho em ra khỏi đây đi. Anh hãy cho em đi tìm anh ấy đi. Em cần anh ấy, em không thể sống nếu không có anh ấy được…

– Vân…- Khánh Nam giữ chặt lấy em gái, tự nhiên anh cũng muốn khóc quá- Anh Hai về với em rồi đây. Bình tĩnh nào. Nghe anh nói đã.

– Không, em không nghe, em không muốn nghe.- Trác Vân ôm lấy đầu, khụy xuống- Em không muốn nghe gì hết, em chỉ muốn gặp anh ấy. Không ai bắt em rời bỏ anh ấy được.

– Anh không khuyên em gì cả. Nhưng bình tĩnh lại và kể anh Hai nghe mọi chuyện xem nào. Anh sẽ khuyên ba mẹ không nhốt em nữa.

Con bé ngẩng đầu nhìn anh, nấc cụt. Đôi mắt nó nhìn hoang mang một cách đáng thương.

“Em gái đáng thương của anh, ai có thể làm cho em trở thành nên thế này được cơ chứ?”- Anh vừa đỡ con bé về giường vừa tự hỏi.

– Anh Nam, anh sẽ khuyên ba mẹ thả em ra đúng không? Chúng em chỉ yêu nhau thôi mà, chúng em có lỗi gì đâu… Tại sao ba mẹ chỉ vin vào cớ anh ấy học ít và nghèo khó mà làm khó chúng em cơ chứ. Người ta học ít nhưng người ta hơn hẳn những kẻ có chữ mà bất lương khác cơ mà.- Con bé nắm lấy tay anh khẩn khoản.

– Em còn khờ lắm ngốc ạ!- Anh xoa tóc con bé thở dài- Em tưởng em có thể sống với cái mơ mộng hão huyền đó sao? Cuộc sống tàn nhẫn lắm, em không thể nhắm mắt mà yêu như thế được.

– Anh cũng giống ba, mẹ đều nói như thế.- Nó đẩy anh ra- Anh với ba mẹ có hiểu gì đâu. Anh ấy không yêu em vì cái gia sản nhà mình. Em có thể từ bỏ cái cuộc sống giàu sang này vì anh ấy.

– Được rồi…- Khánh Nam dỗ ngọt con bé- Nếu em ngoan ngoãn ngồi đây đợi anh thuyết phục ba mẹ thì anh tin ba mẹ sẽ nghĩ cho em. Nhưng em không được khóc nữa, cũng không được bỏ ăn nữa.

– Anh hứa chứ?

– Anh có bao giờ nói dối em chuyện gì không?- Anh mỉm cười nhìn em gái- Anh nói được anh sẽ làm được. Nếu nó thật sự yêu em, thì nó sẽ biết làm gì tốt nhất mà. Nín đi, không khóc nữa. Anh sẽ bảo cô Tâm chuẩn bị cho em cái gì đó để ăn nhé, còn anh sang nói chuyện với ba mẹ.

– Dạ…- Con bé cười, một nụ cười héo hắt cũng khiến anh thấy nhói đau trong lòng.

Anh đứng dậy, bước ra ngoài và khép cửa lại.

Chương 15: Món nợ ân tình

          Khánh Nam gõ cửa phòng làm việc của mẹ ba mình và bước vào. Ông đang ngồi ở bàn uống nước cùng một người nữa. Bấy lâu nay vì việc của Trác Vân mà trông ông già đi nhiều quá! Anh không hiểu tại sao ba anh lại gọi anh đến công ty, thay vì hai ba con trò chuyện tại nhà.

Thấy anh bước vào, người khách ngẩng đầu lên. Anh ta còn trẻ, chắc chỉ hơn anh vài ba tuổi, nước da sạm, mái tóc rối. Anh ta mặc một chiếc áo sơ mi cũ nhưng có vẻ gọn gàng. Rõ ràng anh ta không giống với những đối tác hay bạn bè của ba anh mà anh từng gặp.

Ngoắc tay gọi anh lại gần, ba anh nói với người khách:

– Đây là con trai lớn của chú, kém cháu 4 tuổi.

Người khách đó lại nhìn anh rồi sau đó cúi gằm mặt xuống. Khánh Nam ngồi xuống, mở lời để anh ta tự nhiên hơn:

– Chào anh.

– Đây là con một người bạn cũ của ba, anh Việt.

Ba anh hôm nay có vẻ gì đó rất lạ, không còn giữ thái độ lạnh lùng nghiêm khắc thường ngày nữa. Có vẻ như người bạn cũ mà ba anh nói đến là một người rất đặc biệt, nhưng liệu có thể là ai được nhỉ? Tại sao anh chưa từng biết qua?

– Chắc cháu biết chú mời cháu đến đây vì chuyện gì đúng không?- Ba anh lại hỏi anh chàng đó.

Khác với thái độ rụt rè mà anh cảm nhận được, người thanh niên ấy ngẩng đầu nhìn ba anh, ánh mắt có vẻ cương nghị và thẳng thắn:

– Cháu biết. Nhưng nếu chú bảo cháu hãy từ bỏ thì cháu không thể, vì cháu đã hứa với cô ấy bằng giá nào cũng không bỏ cuộc…

– Chú biết… Chú cũng biết cháu yêu con gái chú là thật, không hề có ý vụ lợi như những đứa con trai khác trước đây. Nhưng cháu phải hiểu chuyện này là không thể được.

“Là anh ta.” Khánh Nam thầm nghĩ. Chính là kẻ đã làm em gái anh sống không ra sống nữa, suốt ngày chỉ khóc lóc kêu gào. Nắm tay anh tự nhiên nắm chặt lại, người anh bắt đầu nóng lên. Nhưng có cái gì đó ngăn không cho anh nổi nóng lúc này.

– Cháu biết. Vì cháu không xứng với cô ấy. Có lẽ không ai nên cưới con trai của một tử tù cả. Nhưng cháu không thể nào rời xa Vân được, cháu rất yêu cô ấy.

– Chú đã quá tuổi để tin vào tình yêu đó rồi.- Hải Long lắc đầu cười nhẹ- Chú có con và chú phải lo xa hơn cho tương lai của chúng nó. Có thể tình yêu hiện tại của hai đứa là thật lòng, có thể vượt qua mọi thứ. Nhưng 10 năm, hai mươi năm sau nhìn lại, có lẽ có thực sự là như thế không? Rồi đánh cãi nhau vì những xung khắc nhỏ. Cháu có chịu nổi hay không?

– Cháu chịu được…- Anh chàng đặt tay lên ngực quả quyết.

– Cháu sẽ không chịu được đâu. Hai đứa sinh ra đã quá khác nhau. Cháu hiểu điều đó. Con gái chú mới 20 tuổi, nó còn chưa hiểu đời là một lẽ, nhưng bản thân cháu đã 28 tuổi đầu, không lẽ những lý thuyết giản đơn về cuộc sống cháu cũng nhắm mắt không nhìn sao?

– Cháu…

– Chú không nhìn đến gia cảnh nhà cháu nhận xét, vì ba cháu và chú, cũng từng một thời là anh em vào sinh ra tử, mặc dù chú chẳng lấy làm tự hào về cái quá khứ “oai hùng” đó. Chú cũng không chấp nhặt chuyện cháu có những gì trong tay, vì cơ bản chú có thừa để cung cấp cho cháu. Nhưng con gái chú thì không? Người đời nhìn vào cũng sẽ không bỏ qua những điều đó. Liệu cháu có dám chắc cháu vượt qua được những lời đàm tiếu của thiên hạ? Cháu có dám tin rằng con gái chú sẽ mãi tin vào cái tình yêu lý tưởng mà hai đứa đang vun đắp?

Lần này thì anh chàng Việt cúi hẳn đầu, không nói gì, dường như là đang đấu tranh dữ dội lắm.

– Cháu hiểu ý chú…- Cuối cùng Việt cũng ngẩng đầu lên đáp- Cháu sẽ suy nghĩ những lời chú vừa nói. Dù sao, những gì ba cháu chưa trả được cho chú, cháu sẽ trả hết.

– Ba cháu không nợ nần gì chú cả. Ba cháu chỉ nợ cháu và mẹ cháu. Chú không lấy mối quan hệ cũ ra để làm khó cháu. Cháu có cuộc sống của cháu, và cháu phải quyết định nó. Có những con đường tưởng chừng là đầy đau khổ và không thể bước qua, nhưng nó còn dễ dàng hơn những con đường êm ái mà không có lối đi tiếp.

– Chú hãy cho cháu gặp cô ấy, cháu sẽ chấm dứt tất cả…

– Cháu có chắc là sẽ chấm dứt được không?

– Chú đã tin cháu đến vậy thì hãy tin cháu thêm lần này nữa.

– Được. Chú sẽ sắp xếp để hai đứa gặp nhau, chú tin cháu sẽ không làm chú thất vọng. Cháu có thể đưa mẹ lên Sài Gòn chữa bệnh hoặc đi bất kì đâu nếu cháu muốn.

– Không, lúc này cháu chỉ muốn gặp cô ấy và dứt hoàn toàn khỏi cuộc sống của cô ấy thôi ạ!- Việt đứng dậy và quả quyết bước đi.

– Khánh Nam, con đưa anh về giúp ba nhé!- Ba anh quay sang đề nghị.

– Dạ, thưa ba.- Anh gật đầu và bước ra theo Việt, chính anh cũng có việc muốn nói với anh ta.

Dừng xe bên một quán cafe nhỏ cạnh phố hoa, Khánh Nam bước xuống và bước vào trước, chọn một bàn ngay bên ngoài. Việt cũng ngồi xuống theo, nhưng dường như anh ta cũng chẳng để tâm lắm đến chuyện anh ta đang ở đâu và với ai lắm.

Gọi hai cafe rồi, Khánh Nam nhìn anh ta, vẻ mặt anh bây giờ giãn hẳn ra chứ không còn cau có như lúc đầu khi nghe anh ta nói nữa. Thì ra con người này cũng có nhiều nối khổ. Anh ta cũng chẳng có lỗi gì trong việc yêu em gái anh, có chăng chỉ là sự trớ trêu của số phận mà thôi.

– Cô ấy khỏe không?- Đột nhiên anh ta hỏi, có lẽ là điều anh ta quan tâm nhất lúc này.

– Không thể nói là khỏe, nhưng ổn.

– Vậy là không sao rồi.

– Anh đã cứu con bé cách đây 4 năm phải không?

– Phải. Lần thứ nhất bị rắn cắn, hai lần sau bị ngã xuống dốc núi.

– Con bé nó hay ấn tượng với những người như thế lắm.

– Chẳng còn quan trọng nữa. Tôi sẽ chấm dứt mọi chuyện, cậu và gia đình đừng lo.

– Lo chứ. Anh nghĩ nó sẽ làm gì sau khi anh chấm dứt với nó?

– Có lẽ là… căm thù tôi chăng?

– Tại sao?

– Vì có lẽ đó là lý do duy nhất tôi nghĩ ra để làm cô ấy ghét tôi.

– Anh đang ở dưới Bảo Lộc mà, tại sao lại ở đây? Vì em gái tôi à?

– Không… mẹ tôi đang cấp cứu ở bệnh viện thành phố.

– Vậy bây giờ bệnh tình của bác sao rồi?

– Vài ngày nữa là có thể về Bảo Lộc được rồi. Lúc đó tôi cũng sẽ kết thúc với cô ấy.

– Cám ơn anh…

– Những gì tôi làm cũng không thể đền được hết ơn của ba cậu khi xưa với gia đình tôi, người phải nói cảm ơn và xin lỗi là tôi mới đúng chứ.

– Ủa, tại sao vậy? Mà ba tôi nói ông ấy và ba anh là bạn, là ai mà sao tôi không biết vậy?

– Ba tôi với ba cậu không hẳn là bạn, vì thực sự có tồn tại thứ tình cảm gọi là bạn bè giữa họ hay không chẳng ai biết được. Cậu có bao giờ nghe ba mình nhắc đến cái tên Năm Đại Bàng không?

– Có… có nghe ba mẹ tôi nhắc đến một vài lần. Tôi cũng nghe những người bạn của ba tôi nhắc đến ông ấy. Hình như là một tay giang hồ…

– Năm Đại Bàng là ba tôi.

– Ủa, vậy hả?- Khánh Nam ngạc nhiên nhìn anh ta.

– Phải, ba tôi chết 15 năm rồi, án tử hình vì tội giết người.

Tách cafe trên tay Khánh Nam đổ nghiêng đi khi anh nghe xong câu nói đó. Ánh mắt của Việt vẫn bình thản, vì những phản ứng như thế với anh là quá bình thường.

– Cơ hội nào cho vợ và con của một tên tử tù?- Anh ta cười cay đắng- Đi đâu cũng bị xa lánh, đi đâu cũng bị xì xào, chửi bới thậm chí xua đuổi. Từ nhỏ tôi và mẹ đã quen sống như thế rồi. Những tội ác mà ba tôi gây ra là quá nhiều!

– Vân biết chuyện này không?

– Có… những gì cần kể tôi đều kể cho cô ấy nghe hết rồi, chỉ có mối quan hệ giữa ba tôi và ba cậu là tôi không nói.

– Ba anh và ba tôi rốt cuộc là quan hệ thế nào?- Anh tò mò hỏi.

– Ba cậu là ân nhân không chỉ của ba tôi, mà còn của tôi và mẹ tôi nữa. Nên ba tôi dùng cả đời của ông ấy để đi theo ba cậu. Trước đây gia đình tôi cũng ở ngoài Bắc, sau đó gia đình cậu định cư trên Bảo Lộc, ba tôi cũng lên đó. Tiếc là sau này ba cậu ra nước ngoài, nên ông ấy mới càng ngày càng lấn sâu vào tội ác.

Việt nhấp một ngụm cafe như để lấy sức vì những gì anh đang kể có vẻ như quá sức chịu đựng của một người.

– Ngày tôi còn bé, ba tôi thường dắt tôi đi qua biệt thự Hoàng Dương, chỉ cho tôi người đã cứu cả nhà tôi, mà nhờ có người đó mới có tôi trên trần gian này. Đó là một người đàn ông khôi ngô, cao lớn, hay kiệu đứa con trai của mình trên vai và đi dạo cùng vợ mình trong cánh đồng trồng hoa hướng dương.

Ba tôi kể rằng, khi mẹ tôi mang thai tôi tháng thứ 8 thì mẹ tôi bị tai nạn và trở dạ. Nhưng bệnh viện yêu cầu phải có ba tôi kí giấy chịu trách nhiệm và đóng tiền viện phí thì họ mới mổ cho mẹ tôi. Trên đường ba tôi đến bệnh viện thì bị bọn giang hồ chặn đường trả thù. Ba tôi một mình chống lại chúng nhưng không nổi, bị thương rất nặng. Đúng lúc đó thì ba của cậu đi tới. Chính chú ấy đã giải vây cho ba tôi, đưa ba tôi đến bệnh viện kịp lúc. Nhờ có thế, không chỉ ba tôi mà cả mẹ tôi và tôi đều được sống sót. Một lần cứu ba mạng, cái ơn đó ba tôi nguyện cả đời đi theo để trả. Nhưng ba cậu lại không coi ba tôi như thuộc hạ của mình, chỉ bất đắc dĩ mới nhờ đến ba tôi. Càng thế món nợ ân tình càng lớn.

– Vậy nghĩa là anh biết ngay từ đầu em gái tôi là ai?- Khánh Nam hỏi

– Dĩ nhiên tôi biết. Tôi đã cố tránh xa cô ấy. Nhưng cô ấy đến tìm tôi. Dần dần thì cái ý chí sắt đá của tôi bị cô ấy làm cho mềm yếu đi, và rồi tôi bị cô ấy làm cho cảm động. Với tôi, Vân là một tâm hồn thanh khiết và thánh thiện như những bông hoa Hoàng Thạch Liên trong truyền thuyết vậy.

Việt nói đến đây bèn chống tay đứng dậy:

– Tôi phải trở lại bệnh viện rồi. Nếu cậu không phiền thì cho tôi quá giang về đó được chứ?

– Tất nhiên rồi.- Khánh Nam gật đầu, tự dưng anh có cảm tình với người thanh niên này quá! Biết đâu nếu không có chuyện của em gái anh, anh sẽ kết bạn và trở thành anh em với anh ta chăng?

Chương 16: Ra đi

          Khánh Nam nhận được điện thoại của Việt bèn vội vàng rời khỏi công ty và đến nơi mà anh ta nhắn cho mình. Đó là một đồi thông đẹp, nhưng anh chẳng có tâm trí đâu mà nghĩ đến cái đẹp bây giờ. Anh phải tìm Vân. Việt đã gặp Vân và nói rõ mọi chuyện, nhưng không yên tâm để con bé lại một mình nên anh ta đã gọi anh đến đây đón nó.

Không khó khăn lắm để Nam có thể tìm ra em gái mình. Nó vẫn còn ngồi nguyên ở ngay đỉnh đồi, dưới một gốc thông lớn. Cái cách nó ngồi co ro ở đó làm anh thấy đau lòng quá! Vân úp mặt vào hai đầu gối, người nó run rẩy vì lạnh, và vì nó đang khóc. Thấy có người bước đến, nó ngẩng đầu lên.

Khánh Nam ngồi xuống trước mặt con bé, cầm lấy tay nó và nói nhỏ:

– Về thôi, đừng để mẹ lo lắng.

Bất ngờ, con bé khóc to lên và vòng tay ôm chặt lấy anh. Nó nói trong tiếng nấc:

– Anh ấy đi rồi. Anh ấy đi rồi…

– Ừ… mình về thôi.- Anh vỗ nhẹ lên tóc nó dỗ dành như ngày nó còn bé.

– Anh ấy nói anh ấy không yêu em. Anh ấy nói anh ấy chỉ muốn trả thù ba… Là nói dối đúng không anh?

– Là sự thật em à! Mình về thôi, không thấy em về mẹ sẽ lo lắng đấy.

Khó khăn lắm anh mới nói hết được câu đó. Đó là câu nói dối khó khăn nhất mà trước nay anh phải nói. Nó sẽ làm em gái anh bị tổn thương ghê gớm, nhưng thà như thế còn hơn cứ dùng dằng mãi, mà rốt cục rồi sẽ chẳng đi đến đâu.

– Tại sao anh ấy lại lừa dối em? Tại sao?- Vân cào lên vai anh- Tại sao? Em yêu anh ấy như thế cơ mà.

– Thôi nào, người như thế em không nên nhớ làm gì. Quên anh ta đi.

Mãi hơn 30 phút sau, Vân mới ngừng khóc và đồng ý theo anh về nhà.

Một tuần sau, thấy em gái mình dù rất buồn nhưng đã có vẻ ổn rồi, anh xin phép ba mẹ và về lại Hà Nội. Xa Phượng Vũ mới nửa tháng mà anh đã rất nhớ cô rồi.

***

Hải Long ngồi vào bàn ăn sáng, nhìn vợ đang ngồi đọc báo, anh hỏi:

– Vân đâu, mọi khi con bé xuống sớm lắm mà?

– Sáng nay nó được nghỉ nên nó xin phép em cho nó ngủ dậy muộn hôm nay.- Thảo Nhi ngẩng đầu nhìn chồng, đôi mắt chị có vẻ phờ phạc- Cô Tâm, cô dọn bữa sáng lên được rồi.

– Ừ… mà sáng nay hai mẹ con rủ nhau đi mua sắm đi.- Anh gợi ý

– Vâng, để chút em lên gọi con. Trưa nay anh phải gặp đối tác đúng không?

– Ừ… anh đang cố sắp xếp việc ở trong này rồi đưa hai mẹ con ra Hà Nội một thời gian. Có lẽ không khí ở ngoài đó sẽ làm hai mẹ con thoải mái hơn.

Thảo Nhi khẽ gật đầu. Chị biết anh đang cố nói tránh đi cái câu chuyện mà bấy lâu nay làm hai người đau đầu. Nhưng như sực nhớ ra, chị hỏi:

– Nhưng còn việc học của nó nữa…

– Em nghĩ sao nếu mình để nó đi du học vài năm?

– Du học ư?- Chị ngập ngừng, đơn giản là chị không muốn xa cô con gái bé bỏng của mình chút nào.

– Nếu em thấy không thích thì thôi. Ở Hà Nội chắc cũng được rồi.

– Nghĩ lại thì em cứ thấy mình sai với bọn nhỏ hay sao ấy…- Chị thở dài.

– Cũng có lúc anh nghĩ vậy. Nhưng đây là cách giải quyết duy nhất. Cậu ta thực sự không thể làm con rể mình được. Cái duy nhất mà cậu ta có thể cho nó lại là cái không bền vững nhất. Tình yêu không thể nuôi sống được con người, mà nuôi được đứa con gái vốn quen được nuông chiều như con gái chúng ta thì càng không. Mặc dù anh rất thích cậu ta vì cậu ta khá hiểu chuyện, nhưng chỉ dừng lại ở đấy thôi.

– Cũng tại em nuông chiều nó quá, chẳng quan tâm đến nó nên mới để tụi nó tiến xa như thế. Yêu nhau những hai năm trời rồi chứ có ít gì đâu.

– Em cứ suy nghĩ chuyện đó hoài.- Anh nắm nhẹ lấy tay chị- Nếu phải nhận lỗi thì anh cũng có một nửa phần trong đó mà.

– Sinh được hai đứa con mà chẳng đứa nào giống đứa nào. Em không lo về thằng Nam, nó lớn rồi, lại hiểu chuyện. Còn con bé này nó hay bốc đồng, làm gì cũng chẳng nghĩ đến hậu quả nữa.- Chị lắc đầu ngán ngẩm.

– Thôi nào bà xã.- Anh cười vỗ về- Em là một người mẹ tuyệt vời lắm rồi đó, anh luôn tự hào vì gia đình mà em đã xây dựng cho anh. Đừng nghĩ nhiều nữa, anh đi làm đây.

– Vâng.- Chị đứng dậy bước theo chồng ra cửa- Tối nhớ về sớm ăn tối với em và con nhé!

– Được rồi.

Nhìn chiếc ô tô của chồng khuất sau những hàng phượng vĩ vàng, một loài hoa đẹp kì lạ ở Đà Lạt, Thảo Nhi chậm rãi ngồi xuống bàn ăn, tiếp tục đọc báo sáng.

8h15, chị ngẩng đầu nhìn lên cầu thang, nơi người giúp việc đang hớt hải chạy xuống, trên tay là một tờ giấy. Chị vừa kêu chị ta lên đánh thức Trác Vân dậy. Linh cảm như có việc gì đó không hay, chị bật dậy, mặt hơi tái đi. Người giúp việc nói nhanh:

– Bà chủ tịch, con bé không có trên phòng, chỉ có tờ giấy này thôi ạ!

Chị run run cầm lấy bức thư, nó không dài, chỉ độ nửa trang giấy. Một trang thư viết vội.

“Ba, mẹ yêu quý!

Con đi đây. Con xin lỗi vì không thể nghe theo lời ba mẹ được. Sâu tận trong trái tim con mách bảo con rằng con không thể sống được nếu không có anh ấy.

Con mặc kệ anh ấy có yêu con hay không. Con mặc kệ rằng anh ấy yêu con chỉ vì muốn trả thù hay lợi dụng con. Con mặc kệ cả việc anh ấy nghèo khổ như thế nào, con chỉ biết là con cần phải gặp anh ấy. Ba mẹ cũng từng yêu, ba mẹ cũng hiểu thế nào là yêu. Con không hiểu tại sao ba mẹ lại không thể chấp nhận chuyện của con và anh ấy.

Con sẽ đi tìm anh ấy, ở bên cạnh anh ấy, nếu có chết con cũng sẽ chết cạnh anh ấy. Ba mẹ đừng tìm con vì con sẽ không về đâu. Con gái bất hiếu xin lỗi ba mẹ, ba mẹ hãy coi như không có đứa con này nữa, hãy nghĩ rằng con chưa bao giờ tồn tại trên cõi đời này.

Con gái kính thư.

V.T.V”

Bức thư trên tay Thảo Nhi rơi xuống. Tiếng người giúp việc hét lên và chị ta vội chạy lại ôm đỡ lấy chị trước khi chị ngã vật xuống.

***

– Sao rồi anh?- Phượng Vũ đặt chiếc túi xách tay nhỏ xuống bàn và lo lắng nhìn Khánh Nam.- Tìm thấy con bé chưa?

– Vẫn chưa?- Khánh Nam lắc đầu thở dài. Anh dựa lưng vào ghế một cách mỏi mệt.

– Đã hai ngày rồi còn gì? Nó có thể đi đâu được chứ?

– Ba vẫn cho người đi tìm khu vực quanh đấy. Người ta nói nó có đến tìm Việt nhưng anh ta cùng với mẹ mình không quay về làng mà đã đi nơi khác. Chẳng ai biết nó đi đâu cả.

– Có khi nào họ hẹn nhau ở một nơi nào đó không?- Cô cầm lấy tay anh siết nhẹ!

– Không đâu. Vì nếu đã hẹn nhau thì nó đã không về làng đó tìm anh ta. Hơn nữa, anh tin Việt, anh nghĩ anh ta không phải là người không biết giữ lời hứa. Có thể anh ta biết nó sẽ trốn về đó tìm anh ta nên anh ta đã không về làng.

Khánh Nam kéo cô tựa vào ngực mình, hôn lên tóc cô rồi nói tiếp:

– Anh thừa nhận là anh không thể hiểu hết được tình yêu. Thật may là chuyện đó không xảy đến với mình, chứ không thật anh chẳng biết thế nào nữa.

– Chắc sẽ tìm được Vân thôi, anh đừng lo lắng quá!

– Không lo sao được. Tính nó thế nào anh quá biết rồi. Chắc anh phải vào đó lại quá! Mẹ anh đang ốm. Từ hồi có chuyện của nó, mẹ anh yếu hẳn. Bà lo nghĩ nhiều quá!

– Khổ thân bác.

– Hơn nữa nếu chuyện của nó không xong thì anh chẳng có tâm trí nào mà lo chuyện của mình nữa cả. Xin lỗi em.

– Sao lại xin lỗi em.- Vân cười nhẹ- Mình cũng đâu cần vội vàng đâu.

– Ừ… Thôi để anh đưa em về.

– Không ở lại chỗ em sao?

– Chắc không được. Anh về công ty sắp xếp lại ít việc. Ngày mai anh bay vô Đà Lạt luôn. Cứ ngồi đây đợi tin anh sốt ruột lắm.

– Vâng. Vậy cũng được…- Cô gật đầu nhìn anh.

Chỉ vài ngày thôi mà trông anh phờ phạc quá! Có lẽ Khánh Nam giống tính mẹ, hay lo nghĩ nhiều. Chuyện gì anh không được tự tay làm là anh không yên tâm. Từ hồi đi du học về, anh chẳng có mấy thời gian nghỉ ngơi, hết lo việc công ty lại đến chuyện gia đình. Cô thương anh mà chẳng biết làm được gì cho anh hơn là cố gắng săn sóc anh một cách chu đáo nhất.

Chương 17: Minh Sang trở về

          Sang ngày thứ 5, người ta tìm thấy Trác Vân đang đi lang thang trong thung lũng Thạch Liên với một trạng thái tinh thần không ổn định. Cô bé ngơ ngác như người mất hồn, quần áo thì bê bết bùn đất, tóc tai rối bù. Miệng cô luôn lẩm bẩm một câu: “Phải tìm thấy hoa, mình sẽ tìm thấy hoa.” Khi được đưa đến bệnh viện, bác sĩ chuẩn đoán rằng cô đang bị rối loạn tâm thần, và có thể sẽ phát điên nếu bị xúc động mạnh.

Mẹ cô, Thảo Nhi, ngất lên ngất xuống khi thấy con mình trở nên đờ đẫn như thế. Chị chỉ khóc lóc và trách bản thân đã làm con mình thành ra như thế. Hải Long cũng như già đi cả chục tuổi. Anh cũng không ngờ rằng cơ sự lại đến mức này, cách anh thương con lại làm hại nó thành ra như thế. Giờ đây con anh như người mất hồn, chẳng biết gì cả, cũng chẳng nhận ra ai cả, chỉ suốt ngày lẩm bẩm những câu rời rạc. Anh chẳng màng đến việc công ty nữa, chỉ suốt ngày ở nhà với vợ và con.

Anh đã đưa hai mẹ con Thảo Nhi ra Hà Nội ngay sau đó, nhưng bệnh tình của Vân vẫn mù mờ một cách không thể giải thích được. Con bé không có biểu hiện của sự nổi loạn, la hét hay gào thét, nhưng mắt nó chẳng còn nhận ra ai nữa. Những bác sĩ hàng đầu của ngành tâm thần học hay tâm lý học đều phải bó tay với nó. Không nỡ để con ở lại bệnh viện, anh đưa nó về nhà, luôn có một y tá bên cạnh coi giữ. Như thế cũng có vẻ không cần thiết vì vợ anh chẳng mấy khi rời khỏi con nửa bước cả.

Với Khánh Nam, việc phải chứng kiến em gái mình điên lên vì tình yêu làm cho anh vô cùng hoảng sợ. Anh thương em gái mình, tìm đủ mọi phương cách để cứu nó nhưng không được. Nó cũng không nhận ra anh, đôi mắt nó trống rỗng, vô hồn và có chút gì đó hoang dại đến đáng sợ. Cô em gái đầy sức sống của anh giờ đây phải thành ra thế này, anh ước gì có thể thay nó chịu đựng điều đó. Tâm trí vốn rối bời của anh giờ càng thêm mất phương hướng.

Đúng lúc ấy, giữa bao rối ren không sao tháo gỡ thì Minh Sang trở về. Anh đã quên mất sự hiện diện của cô trên cõi đời này, cho đến một buổi chiều, khi anh đang loay hoay với đống hợp đồng ở văn phòng thì cô bước vào. Đã mấy tháng nay, từ khi về nước đến giờ, anh không còn nhớ đến cô nữa. Thế nên khi Minh Sang chạy ào đến, víu lấy cổ anh và đặt lên môi anh một nụ hôn, anh đã bị bối rối vô cùng. Vội gỡ cô ra, anh nói dứt khoát:

– Em không nên làm thế. Đây là Việt Nam, những hành động như thế sẽ rất dễ gây hiểu lầm.

– Hiểu lầm gì?- Minh Sang ngạc nhiên- Mình có phải lần đầu thế này đâu.

– Sang, anh đã nói với em rồi. Những chuyện ở Mỹ, sau khi về Việt Nam anh sẽ không nhớ gì nữa đâu.

– Không nhớ gì nữa…- Sang nhìn anh, mặt sa sầm lại- Anh nói thế là sao? Việc chúng ta đã chung sống với nhau 4 năm mà anh coi như không có gì ư? Em tưởng mình đã thống nhất là đợi em về mình sẽ bàn đến chuyện kết hôn?

– Chắc em hiểu lầm rồi. Anh chưa bao giờ hứa sẽ lấy em cả. – Khánh Nam đáp rành rọt.

“Bốp”- Sang giơ tay tát vào mặt anh, môi mím lại đầy giận dữ, trông cô lúc này không còn nét đẹp quyến rũ nữa mà trở nên vô cùng đáng sợ.

– Anh coi tôi như món đồ vất đi của anh sao?- Cô hét lên.

– Anh không hề nghĩ như thế. Ngày đó chính là em tìm đến anh, năn nỉ anh cho em ở cùng vì em không tìm được chỗ. Rồi em nói muốn ở cùng anh… Anh chấp nhận tất cả mọi điều, vì đó là những điều em muốn. Anh chưa bao giờ bắt buộc em làm một chuyện gì, chỉ có em bắt mình làm những chuyện đó.

– Nhưng 4 năm đó tôi đã cho anh những gì, tôi đã săn sóc anh thế nào, anh quên rồi sao?

– Em nghĩ anh thế nào cũng được. Nhưng trước nay anh chưa hề có ý nghĩ là sẽ yêu em hay chịu trách nhiệm những chuyện đó. Chính em cũng nói đó là chuyện bình thường. Chúng ta có thể đến với nhau trên tư cách những người bạn.

– Chẳng lẽ trong 4 năm anh chỉ coi em không hơn gì một người bạn sao. Em đã không bao giờ nhận lời đi chơi với những người khác vì em nghĩ rằng em không có quyền phản bội lại anh. Nhưng anh chỉ đơn giản nghĩ rằng em chỉ là người để cho anh thỏa mãn những thú vui vật chất thôi sao.

– Anh đến với em bằng một tình cảm rất tôn trọng em. Bây giờ cũng vậy. Cứ cho là chúng ta đã yêu nhau 4 năm đi, nhưng tình cảm đâu phải là bền vững đâu. Coi như mình đã chia tay đi.- Anh nhún vai ngồi xuống ghế.- Bây giờ anh đang có rất nhiều chuyện đau đầu, vì thế em đừng làm phiền anh nữa. Hơn nữa, anh cũng chính thức thông báo với em rằng, anh đã có người yêu, em cũng biết cô ấy đấy, bọn anh sẽ cưới trong vài tháng nữa, mong em chúc phúc cho bọn anh.

Minh Sang nhìn anh cười khẩy:

– Anh nói đến Lâm Phượng Vũ phải không? Sau khi bắn một nhát vào tim em, anh lại còn đòi hỏi lời chúc phúc từ em nữa ư? Thật hay ho quá đấy. Anh đừng nằm mơ, không bao giờ anh nhận được lời chúc phúc từ em đâu…

Minh Sang gằn giọng và quay ngoắt trở ra ngoài.

Khánh Nam ngồi phịch xuống ghế, tay day day lên hai sống mũi. Anh chỉ mong sự trở về này của Minh Sang không làm đảo lộn cuộc sống vốn đã lắm rắc rối của anh. Đôi khi anh sợ sự mạnh mẽ của Sang, có cái gì đó khiến anh luôn tự nhủ rằng đừng bao giờ chọc tức đến cô ta. Nhưng anh không thể tránh được những cám dỗ của cô ta. Nếu anh mạnh mẽ hơn không cho cô ta ở chung nhà, rồi mạnh mẽ hơn để kháng lại sự rù quyến của cô ta, có lẽ đã không có lắm chuyện như bây giờ.

Anh chỉ còn có một cách là hy vọng cô ta đừng gây thêm phiền phức nữa. Phượng Vũ không biết sẽ phản ứng thế nào với chuyện này. Cô vốn là một người thoải mái, không bao giờ nghĩ ngợi về quá khứ của anh, nhiều khi còn lôi nó ra làm chuyện bông đùa, nhưng có vẻ như chuyện liên quan đến Minh Sang này lại chẳng giống những câu chuyện khác kia chút nào. Tự nhiên anh sợ, một cảm giác chập chờn cứ ám ảnh mãi tâm trí anh…

Ngay tối hôm sau, Minh Sang đến ăn tối cùng gia đình anh, và có cả Phượng Vũ nữa. Bà anh vẫn rất quý và ưng ý cô ta. Bà luôn miệng khen rằng Sang rất đẹp, rất có cái uy của một bà phu nhân Tổng giám đốc. Bố của Sang hiện nay là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Nhật tại Việt Nam. Sự kết hợp của hai thế lực sẽ làm cho Lotus càng ngày càng vững chân hơn.

Minh Sang không có vẻ gì là muốn nói lại chuyện cũ ra cho mọi người nghe, nhưng ánh mắt cô ta nhìn anh làm cho anh cứ gai gai trong người. Có cái gì đó thật đáng nghi trước cái thái độ nền nã đến kinh ngạc kia. Mẹ anh và ba anh đều có vẻ lơ đãng với bữa tối, trong đầu họ đã có quá nhiều phiền muộn rồi. Em gái anh vẫn chẳng có dấu hiệu khả quan nào của sự hồi phục. Phượng Vũ thì có bao giờ biết đề phòng ai đâu, lúc nào cũng tươi cười với người khác. Thành ra trong cả bữa ăn, chỉ có mình anh là hay để ý đến ánh mắt có phần đắc ý của Sang.

Để tránh thêm nhiều rắc rối, có lẽ nên đẩy nhanh việc kết hôn, còn việc chữa trị cho Vân sẽ tính sau, vì việc đó thực tế mất nhiều thời gian. Khi anh nói việc đó với Vũ, cô có vẻ băn khoăn:

– Nhưng bây giờ bố mẹ anh đang đau đầu như thế, còn tâm trí đâu mà lo cho chúng mình nữa. Hay cứ đợi thêm một thời gian nữa đi anh.

– Anh không thích đợi. Chúng ta có thể tự lo mà. Anh muốn cưới em càng nhanh càng tốt, như thế anh mới yên tâm làm những việc khác. Cứ nhìn Vân bây giờ, anh thấy sợ quá. Chẳng bao giờ nói trước được chuyện gì cả nên cái gì làm được thì cứ làm luôn đi.- Anh quả quyết.

– Vậy cũng được. Nhưng đợi bố mẹ em đi du lịch về đã.

– Du lịch?- Anh ngẩn ra ngạc nhiên.

– Ngày mai bố mẹ em đi Singapore du lịch, hai tuần sau mới về. Lúc đó sẽ mời cả bố mẹ anh và bố mẹ em đến bàn chuyện này…

– Ừ… cứ thế nhé!- Anh khẽ cười mệt mỏi.

– Dạo này nhà anh ai nấy đều phờ phạc cả người.- Cô lắc đầu xót xa- Anh còn việc công ty nữa, phải chú ý giữ gìn sức khỏe đấy.

– Được rồi, bông hoàng lan của anh ạ.- Anh véo má cô và đặt lên đó một nụ hôn.- Chịu khó về làm vợ hiền và chăm sóc anh cho tốt đi là được.

Phượng Vũ cười và ngả vào lòng anh. Cô trân trọng những giây phút này, vì cô luôn có một linh cảm rất lạ về một điều gì đó rất xấu với tương lai. Cô yêu anh nhiệt tình và chân thật và cô thấy hạnh phúc khi mình cũng được đáp lại như thế.

***

Vũ khe khẽ rời khỏi phòng mẹ và bước vào phòng làm việc của bố. Ông vẫn đang ngồi cặm cụi bên bàn làm việc một cách say sưa. Cô ôm lấy cổ bố mình và nói:

– Bố nên đi ngủ đi chứ. Ngày mai đi rồi mà giờ vẫn còn làm việc à?

– Bố đi ngủ ngay đây. Bố đang sắp xếp lại ít lịch hẹn quan trọng ấy mà. Con mới nên đi ngủ sớm đó. Sắp thành cô dâu rồi thì nên giữ gìn sức khỏe chứ.

– Con khỏe lắm mà bố.- Cô ngồi xuống ghế.

– Hai đứa cưới vào lúc này bố thương quá!- Huy Khánh nhìn con gái nén một tiếng thở dài- Con bé Vân thì đang dở điên dở khùng như thế, con về làm dâu lúc này vừa phải chăm sóc mẹ chồng, lại vừa chăm sóc em chồng nữa.

– Cái đó là việc bình thường mà bố. Mẹ anh ấy đâu phải dạng mẹ chồng khó tính đâu. Chú Long và anh Nam thì còn bận việc công ty, cô ấy cần nhất lúc này là một người bầu bạn, chia sẻ mà.

– Con gái bố lớn hẳn rồi nhỉ?- Anh cười- Thế này không lo nữa rồi. Nhớ lại ngày xưa mẹ con lúc mới về làm dâu buồn cười lắm, chẳng biết làm gì cả, cũng may là bố mẹ ở riêng chứ không thì cả ngày mẹ con bận cãi nhau với bà nội mất.

– Con là con gái bố cơ mà.

– Bố thì bố tin ở thằng Nam. Nó là một thằng tử tế, lại hiểu chuyện đời. Nó giống mẹ nó ngày trước, sống nặng về tình cảm, lại thừa hưởng đầu óc nhanh nhạy và quyết đoán của chú Long nên nó sẽ còn tiến xa hơn cả chú ấy trong tương lai. Bố tin tưởng ở nó nhiều lắm.

– Bố nói cứ như người ta mới là con trai bố vậy.- Phượng Vũ bĩu môi hờn giận.- Mai mốt mà anh ta bắt nạt con chắc bố bênh anh ta à?

– Đó, thấy chưa, con lại trẻ con rồi.- Khánh cười phá lên với cô con gái.- Thôi đi ngủ đi. Hai tuần nữa bố mẹ về ta lại nói chuyện tiếp.

Vũ hôn lên má bố mình rồi vui vẻ trở về phòng. Cô không biết rằng đây là lần cuối cùng cô được gặp ông, và cũng là bắt đầu cho những bất hạnh liên tiếp của cuộc đời mình.

Chương 18. Đối mặt với quá khứ

          Khánh Nam nhìn cô y tá ra hiệu rồi ngồi xuống ghế. Cô y tá hiểu ý anh bèn đi ra và đóng cửa lại. Anh nhìn cô em gái đang ngồi trên ghế dựa nhìn ra ngoài cửa sổ với một đôi mắt ngây ngô và nén một tiếng thở dài. Chỉ còn là quá khứ những khoảnh khắc nó nhí nhảnh chạy ào đến ôm lấy cổ anh thì thào những câu chuyện của tuổi ẩm ương. Giờ đây em gái anh chỉ như một cái xác không hồn, suốt ngày nhìn ra ngoài cửa sổ với đôi mắt hoang dại.

Hy vọng duy nhất lúc này cho em gái anh chính là Việt. Anh và ba anh đều cho người tìm anh ta nhưng Việt dường như bốc hơi hoàn toàn khỏi cuộc sống của gia đình anh như chính anh ta đã từng tuyên bố. Anh ta không về nhà ở Bảo Lộc cũng không về quê bố mẹ anh ta ở ngoài Bắc. Mặc dù không chắc anh ta có thể giúp Vân trở lại như trước đây nhưng Nam vẫn cứ nuôi cái hy vọng mong manh ấy. Hơn ai hết, anh tin vào sức mạnh của con tim sẽ làm người ta chiến thắng mọi thứ.

Vân ngoảnh lại nhìn anh, cười ngờ nghệch khiến anh thấy nhói đau trong tim. Nó vốn chẳng còn nhận ra anh, chỉ gọi anh theo cái cách mà anh muốn nó gọi.

– Em có đói không?- Anh hỏi một câu mà nghẹn cả giọng.

Vân lắc lắc mái tóc dài không còn được chăm chút như xưa nữa mà được cô y tá buộc lại một cách sơ sài. Nó vẫn cười, nó hiểu anh nói gì, nhưng nó chẳng bao giờ trả lời anh cả.

– Hoa đâu?- Nó ngơ ngác nhìn ra bàn.

Không hiểu sao từ ngày phát bệnh, Vân rất hay đòi mua hoa và nó thường giữ khư khư những bông hoa ấy. Có lúc nó sẽ ôm cả những đóa hoa đi ngủ, nhưng cũng có lúc nó giận dữ gào thét và đập nát những đóa hoa một cách thô bạo.

Nam chỉ bó hoa sen trắng anh vừa mua được đặt ở trên bàn. Mắt Vân sáng lên, cô nhào xuống ôm lấy bó hoa áp lên má và vuốt ve chúng, miệng lẩm bẩm:

– Mình thấy hoa rồi. Thấy rồi. Anh ấy sẽ về sớm thôi.

Rồi cô ngẩng phắt dậy, nhìn anh rối rít:

– Anh Hai, mau lên, mau lên, anh ấy sắp đến rồi.

– Vậy sao?- Anh mỉm cười chua chát theo sự điên rồ của em gái mình một cách bất lực.

– Em vừa ước rồi. Anh ấy sẽ đến ngay đấy.- Con bé lay tay anh- Anh xuống nhà đi, đi ra cổng đón anh ấy đi, em đi chuẩn bị quần áo…

Những lần lên cơn của em gái anh đều diễn ra y như thế. Sau đó là màn gào thét, xé quần áo và đập nát những bông hoa mỏng manh. Cứ vài ngày thì chuyện này lại xảy ra một lần. Anh đứng dậy, tiến lại chỗ em gái, vuốt mái tóc thô ráp của cô và cố mỉm cười:

– Anh ấy vừa gọi điện cho anh bảo phải đi tìm hoa cho em, ngày mai mới đến được. Anh ấy dặn em phải ăn uống đầy đủ và phải ngoan nữa.

– Thật ạ? Em ngoan mà, em sẽ ngoan mà.

– Ừ…- Nam gật đầu- Ngoan lắm. Anh Hai sẽ bảo anh ấy đến đón em sớm.

Anh ngồi lại dỗ dành cô em gái một lúc rồi ra khỏi phòng. Từ lúc ba mẹ và em gái anh chuyển ra Bắc, anh ít có thời gian cho Phượng Vũ hẳn. Cũng may là cô hiểu và thông cảm cho anh. Nhưng từ lúc Minh Sang chuyển về, cứ có cái gì đó không yên trong lòng Nam. Anh cũng hối hận vì những tháng ngày quá dễ dãi của mình ở Mỹ. Nếu anh không chung sống với Minh Sang thì giờ đây anh chẳng việc gì phải nhượng bộ cô ta nhiều như thế.

Khánh Nam ngồi trên ghế thì thấy mẹ anh đi vào. Dạo này bà trông tiều tụy hẳn, không còn nét tươi trẻ như trước nữa. Bà vừa có việc phải ra ngoài. Thấy mẹ mình hơi tái mặt, anh vội tiến lại hỏi:

– Mẹ…mẹ ốm ạ? Trông mẹ yếu lắm. Con đưa mẹ đi bệnh viện khám nhé!

– Không mẹ không sao.- Mẹ anh xua tay, nhưng anh vẫn không khỏi lo lắng vì anh thấy bà thực sự đang bị kiệt sức.- Chút nữa con lên phòng mẹ nhé, mẹ có chuyện muốn nói với con.

– Vâng…

5 phút sau, Khánh Nam ngập ngừng gõ cửa phòng ngủ của ba mẹ anh. Nghe tiếng mẹ gọi, anh đẩy cửa bước vào. Mẹ anh đang ngồi trên ghế, tay đưa lên day day trán đầy mỏi mệt. Anh ngồi xuống cạnh bà, vồn vã hỏi:

– Mẹ… hay để con đưa mẹ đến viện xem sao đi. Mẹ đừng làm con và ba lo lắng.

– Không sao đâu.- Nhi ngước gương mặt tái nhợt lên nhìn con trai- Con ngồi xuống đây, ngồi cạnh mẹ ấy, mẹ có chuyện muốn nói với con.

Nam ngồi xuống cạnh mẹ mình, anh đoán là có lẽ mẹ anh có chuyện quan trọng lắm đây vì mặc dù mệt nhưng mắt bà có vẻ nghiêm túc lắm. Hiếm khi anh thấy mẹ anh như lúc này. Không rõ bà có chuyện gì muốn nói với anh.

– Con cũng 25 tuổi rồi, trong mắt mẹ thì con đã thực sự trưởng thành lắm rồi.- Mẹ anh nhẹ nhàng nắm lấy tay anh- Dạo này bà con càng ngày càng yếu. Điều mà bà nội muốn thấy lúc này nhất chính là người thừa kế của dòng họ này là con yên bề gia thất.

Khánh Nam định mở lời thông báo về dự định cưới Vũ, nhưng không hiểu sao anh lại không muốn ngắt lời bà.

– Mẹ nghĩ đã đến lúc con lập gia đình và sớm có con cho bà và ba mẹ yên tâm rồi.

– Con cũng định bàn việc này với ba mẹ lâu rồi, con và Vũ định cuối năm nay sẽ cưới ạ!

Đưa đôi mắt đau khổ và đầy tuyệt vọng nhìn con trai, Nhi khẽ lắc đầu:

– Hai con không thể lấy nhau được…

Sau đó chị im bặt vì bàn tay ấm áp của con trai bất ngờ buông lơi bàn tay còn đang run rẩy của chị, Khánh Nam trong một cơn xúc động cực mạnh, bật dậy, mặt cắt không còn hột máu. Đôi mắt con trai chị vừa hoang mang vừa phản đối mãnh liệt làm chị phải sựng lại.

– Mẹ… sao mẹ lại có thể đưa ra một yêu cầu vô lý như thế được ạ?

– Mẹ nghĩ con phải là người hiểu rõ chuyện này nhất chứ.

– Con chẳng hiểu gì cả.- Khánh Nam gắt lên.

Nhìn thấy đôi mắt của mẹ mình chùng xuống vì thất vọng, anh lí nhí tiếp:

– Con xin lỗi, nhưng con không thể làm theo yêu cầu của mẹ được. Chúng con yêu nhau chính đáng và thực sự muốn ở bên nhau…

– Mẹ hiểu điều đó…- Chị vẫn nhỏ nhẹ một cách kiên nhẫn, chị quá hiểu tính của con trai, hay nóng nảy không khác gì chồng mình.- Mẹ vừa đi gặp Sang về…

– Cô ta…- Nam nắm chặt tay lại nghiến răng- Cô ta đã nói gì với mẹ?

– Sau tất cả những gì nó cho con thì con đối với nó như vậy có công bằng không?- Chị nhìn vào đôi mắt giận dữ con trai.

– Vậy sao mẹ không hỏi mẹ làm thế này có công bằng với Vũ hay không?- Anh cãi lại.

– Nếu con là con mẹ, là một người đàn ông thực sự thì con phải có trách nhiệm với những gì con đã làm chứ?

– Con hiểu những gì con đã làm và con đang học cách chịu trách nhiệm những chuyện đó. Con không biết cô ta nói gì với mẹ nhưng con xin nói lại với mẹ là con chẳng hề có tình cảm gì với cô ta cả…

– Vậy tại sao con lại chung sống với nó như vợ chồng khi ở bên Mỹ. Con rũ bỏ mọi trách nhiệm về trinh tiết của nó sao? Nó cho con nhiều như thế mà con có thể dửng dưng phủi tay dễ đến thế sao?- Thảo Nhi lắc đầu nhìn con trai, mắt chị bắt đầu tràn ngập nỗi thất vọng.- Nó đã gặp mẹ và khóc rất nhiều…

– Ôi mẹ của con ơi, mẹ đang sống ở thời đại nào thế ạ? Mẹ nghĩ rằng đám con gái bây giờ còn có nhiều người coi trọng hai chữ “trinh tiết” đến thế sao? Không đâu ạ! Và với người như Sang thì con càng tin là cô ta chẳng hề để tâm đến chuyện đó đâu ạ! Cô ta chủ động đến với con cơ mà, con có ép cô ta làm gì đâu…- Anh than thở và giải thích.

– Mẹ cứ tưởng con đã trưởng thành thật sự… nhưng những gì con vừa nói khiến mẹ thật sự thất vọng quá! Cái nhìn phiến diện của con sẽ làm con phải trá giá đắt đấy.

– Con nhắc lại với mẹ một lần nữa, con sẽ cưới Vũ và con sẽ không bao giờ thay đổi điều đó đâu ạ!

– Tuyệt đối không được…- Thảo Nhi kiên quyết nói.

– Hãy cho con một lý do đi.- Anh cứng đầu cãi lại.- Cô ấy đâu có giống Việt mà ba mẹ có thể dựa vào lý do gia cảnh để phản đối tụi con. Còn nếu ba mẹ muốn con lấy Sang vì cái ghế Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của ba cô ta thì ba mẹ cũng đâu có phải vì hạnh phúc thực sự của con đâu.

– Mẹ nghĩ là con biết rõ hơn ai hết lý do mà mẹ phản đối hai đứa đến với nhau.

Khánh Nam hơi sững lại khi nhìn vào mắt mẹ anh, hình như thông tin mà bà sắp nói ra thật sự rất kinh khủng. Lý do gì mà anh biết đủ để mẹ anh đưa ra một yêu cầu nặng nề như thế? Anh thật sự nghĩ không ra.

– Mẹ thử nói con nghe đi.- Anh đề nghị.

– Con biết Vũ nó không thể sinh được con nữa đúng không?

Câu hỏi của mẹ anh như tiếng sét đánh ngang tai anh lúc này. Đó là thứ anh đã chôn vùi ở trong quá khứ rồi, tại sao mẹ anh lại có thể biết được chứ? Anh đã quên nó lâu rồi nên vào lúc này, khi nghe một người khác là mẹ mình nhắc lại anh cũng phải giật mình.

– Mẹ…sao mẹ…- Anh ấp úng hỏi.

– Trả lời mẹ đi đã, con biết chuyện này phải không?- Mẹ anh nghiêm giọng hỏi.

– Vâng, con biết, nhưng…

– Vậy mà hai đứa cả gan dám giấu người lớn…- Mẹ anh lên giọng cao hơn, có vẻ bà đang nổi giận sau khi đã phải kìm nén rất nhiều.

– Nhưng đó là chuyện của hơn 4 năm trước, bản thân con cũng đâu có để ý chuyện đó.

– Con còn dám nói thế sao?- Chị trừng mắt nhìn sự ngang ngược vô lý của con trai- Dám giấu người lớn một chuyện tày đình như thế sao? Hai đứa định giấu đến khi nào đây? Hay để năm mười năm nữa mới thú nhận với ba mẹ là hai đứa không thể có con. Con nói đi, liệu lúc đó có khác gì con đem dao đâm vào tim ba mẹ hay không?

– Mẹ… chuyện này chỉ con biết mà thôi, Vũ không biết vì con đã giấu cô ấy…

– Lại còn thế nữa sao? Con quên con là ai rồi à? Con là người thừa kế duy nhất của nhà họ Vũ. Mẹ sẽ phải nói gì với ông bà nội, với ba con, với tổ tiên nhà họ Vũ đây nếu tương lai của dòng họ này chấm dứt trong tay con, chỉ vì cái tình yêu mà con cho là cao thượng con đang theo đuổi. Trả lời mẹ đi…

– Con mặc kệ…- Anh đỏ mặt đáp lại một cách gay gắt.- Tại sao cứ phải trói buộc con vào mấy cái trách nhiệm vô lý ấy? Con sống cho bản thân con cơ mà. Tại sao con không được sống theo ý con?

– Chính vì bấy lâu để con sống theo ý mình nên cơ sự mới ra thế này đây. Bốn năm trước khi bà nội đề nghị bắt con và Sang đính hôn, chính mẹ là người đứng ra phản đối để con được tự do đi Mỹ du học và lựa chọn tình yêu cho riêng con. Nhưng những gì con đáp lại bây giờ khiến mẹ thất vọng quá! Mẹ nhắc lại lần cuối, con có thể không chịu trách nhiệm với Sang nhưng con cũng đừng có hòng kết hôn với Vũ. Mẹ không muốn có một cô con dâu đã từng chung chạ với người khác đến nỗi mang thai, rồi sẩy thai mà không thể có con, Như thế là dễ dãi không chấp nhận được.

– Mẹ không được xúc phạm cô ấy như thế…- Mắt anh long lên giận dữ- Con cũng nói với mẹ là con sẽ quyết yêu và lấy cô ấy. Nếu không được thì mẹ cũng nên quên con có mặt trong gia đình này đi là vừa. Con ghét mẹ, con ghét ba, con ghét cả bà nội, cả những cái hủ tục vớ vẩn mà mẹ đang áp đặt lên con. Mẹ nhìn em gái con như thế mà mẹ vẫn còn chưa tỉnh sao. Mẹ cũng muốn con trai của mẹ như thế phải không…?

– Con đứng lại đó.- Nhi quát lên khi thấy Khánh Nam đi ra khỏi phòng- Mẹ cấm con đi gặp nó. Ở nhà ngay cho mẹ.

– Mẹ không ngăn cản được con đâu…- Anh quay ngoắt lại nhìn mẹ mình- Con sẽ đi tìm cô ấy…

Cánh cửa đóng sập lại. Thảo Nhi thấy trong lồng ngực hơi nhói đau, chị đưa tay lên ôm lấy ngực và ngã vật xuống giường bất tỉnh.

Chương 19: Không lối thoát

          Khánh Nam lái xe thẳng đến phòng trọ của Phượng Vũ. Đã hơn 8h tối và theo thường lệ thì giờ này cô đáng lẽ phải đang ở nhà rồi. Nhưng cửa khóa im lìm, điện tối om báo cho anh biết là cô chưa về. Lo lắng đã có chuyện xảy ra, anh gọi điện cho cô nhưng máy tắt, gọi điện đến văn phòng thì không có ai bắt máy.

Gửi xe ở gara mà anh thường gửi mỗi lần nghỉ qua đêm ở đây, anh ngồi đợi cô ở hàng hiên tối cạnh phòng cô. Tim anh đập thình thịch, anh cầu mong cô chưa biết chuyện này. Anh chưa bao giờ nghĩ xem cô sẽ phản ứng thế nào khi biết chuyện này, vì vốn dĩ bản thân anh cũng quên nó lâu rồi.

Phải đến 11h Phượng Vũ mới về. Vừa nhìn thấy anh, cô định quay người bỏ đi, nhưng thấy anh đứng dậy vội vã chạy lại, cô lại mím môi bước tiếp về phía cửa.

– Sao em tắt máy? Em làm anh lo quá!- Anh vội ôm lấy cô.

Phượng Vũ để yên trong vòng tay anh một lúc, rồi cô khẽ lùi lại, nói bằng giọng mệt mỏi khô khốc:

– Em có hẹn nên tắt máy.

Quay đi, cô lui cui tìm chìa khóa phòng, vừa tra chìa vừa nói:

– Anh về nhà đi, em mệt lắm, em muốn nghỉ ngơi.

Nhưng Nam đã lách vào trong trước khi Phượng Vũ mở hẳn cửa ra để dắt xe vào. Bật điện, anh nhìn rõ sắc mặt tái nhợt của cô, đôi mắt đượm buồn và hơi hoảng loạn, hoang mang khiến anh cũng thấy tê tái lòng. Anh vội kéo cô lại, ôm cô vào lòng, cố tìm một câu nào đó giúp cô bình tâm trở lại.

– Có chuyện gì thế? Em đừng làm anh sợ.

Anh cúi xuống, đôi môi tìm đến môi cô. Nhưng rồi anh giật mình vì cô không đáp lại anh dù chỉ một chút, đôi môi lạnh ngắt, trơ trơ khiến anh cũng phải rùng mình. Cô đang phong tỏa bản thân cô trước anh.

Bất ngờ, cô đẩy anh ra xa một cách thô bạo và tiếp:

– Anh về đi. Em không muốn gặp anh nữa.

– Có chuyện gì thế?- Anh cố gắng vớt vát tình hình.

Phượng Vũ rút từ trong túi xách của cô ra một túi hồ sơ gập đôi, quẳng thẳng về phía anh, đáp lại:

– Lý do đó. Vui lòng đi khỏi đây trước khi em có hành động khiếm nhã với anh.

Chỉ cần nhìn liếc qua Khánh Nam cũng thừa biết đó là hồ sơ bệnh án của Phượng Vũ, thứ mà hơn 4 năm trước anh đã quẳng đi rồi. Tại sao nó lại rơi vào tay Phượng Vũ lúc này? Là mẹ anh đưa cho cô chăng? Nhưng làm thế nào mà mẹ anh có được nó?

Một khoảnh khắc trong quá khứ vụt về, và khi nhớ lại, anh mím chặt môi, người run lên vì giận. Vào cái ngày anh bỏ tập hồ sơ này vào thùng rác, Sang đã đến chơi ở phòng anh. Anh đã quá sơ xuất khi không đốt nó đi. Có thể cô ta đã lén xem nó trong khi anh đi tắm và giữ nó để làm vũ khí tấn công anh lúc này. Thì ra đằng sau cái dáng vẻ ngây thơ từ ngày đó vẫn luôn là một người khó đoán biết. Anh đã quá khinh suất mất rồi.

Quẳng nó qua một bên, anh chồm dậy kéo cô ngồi xuống giường, anh ôm chặt lấy cô, giải thích:

– Cho anh xin lỗi. Anh giấu em vì muốn em sống thật vui vẻ. Anh đã nói rõ với mẹ anh rồi, anh không để ý đến những chuyện nhỏ nhặt này chút nào, vì vậy em cũng đừng bận tâm làm gì. Cứ nghe theo anh là được…

– Em đã rất vui… thực sự những tháng ngày qua em rất vui…- Phượng Vũ đáp, cô bắt đầu khóc, tay cô bấu chặt lấy vai anh đau nhói.- Nhưng chỉ đến đây thôi, kết thúc rồi. Đã đến lúc em phải trả giá cho những bồng bột, dại khờ trong quá khứ. Anh về đi. Còn nhiều người cần anh ở bên hơn là em…

– Không…- Anh ghì chặt lấy cô khi cô định đẩy anh ra.- Anh cần em… Anh không thể từ bỏ em được. Anh làm không được đâu…

– Anh về đi.- Phượng Vũ vùng ra khỏi tay anh, cô đứng phắt dậy, ánh mắt nhìn anh kiêu ngạo nhưng có gì đó thật đau đớn- Anh về đi. Mình chia tay…

– Không được… Mẹ anh bắt em phải làm thế đúng không?

– Không… em chưa gặp mẹ anh… Mẹ anh cũng chưa bao giờ yêu cầu em làm thế. Nhưng đây là lựa chọn duy nhất của chúng ta lúc này. Anh mau đi đi. Em mệt rồi, em muốn nghỉ ngơi…

Phượng Vũ đẩy anh ra cửa à vội đóng chặt lại. Mặc cho anh đập cửa và gọi liên tục, cô dựa lưng vào cánh cửa đã khóa trái, cô đã kiệt sức. Phượng Vũ gục xuống cửa và ôm mặt khóc. Chuyện cổ tích kết thúc rồi, cô cũng không đủ tư cách làm một Bạch Tuyết với một kết thúc có hậu. Đơn giản chỉ là cô lại đến một ngã ba nữa, trước mắt cô là một con đường cô đơn. Cô sẽ phải đi trên con đường đó. Một mình.

Khánh Nam về nhà vào lúc 5h sáng, sau khi đã thả mình đắm chìm trong men say tại một quán bar. Khi nhìn thấy chị giúp việc đang loay hoay nấu bếp, anh dừng lại hỏi:

– Sao hôm nay chị nấu bếp sớm thế chị Tâm?

– Ôi trời, cậu chủ…- Chị ta thốt lên- Cậu làm tôi giật cả mình. Cậu đi đâu suốt đêm mà tôi không gọi được vậy?

– Tôi ở công ty.- Anh đi về phía cầu thang- Tôi đi ngủ đây, sáng không phải gọi tôi dậy ăn sáng đâu.

– Cậu không biết sao, bà chủ đang ở trong bệnh viện.

Bước chân anh sững lại ngay khi vừa đặt chân lên bậc cầu thang, anh quay ngoắt lại hỏi:

– Chị nói sao? Mẹ tôi làm sao?

– Bà chủ bị ngất trong phòng. Lúc tôi vào gọi bà xuống ăn tối thì thấy bà đã bất tỉnh rồi. Tôi và ông chủ gọi cho cậu mãi mà không được.

– Bác sĩ bảo sao? Mẹ tôi đang ở đâu?- Anh hét lên.

– Bà chủ bị shock quá thôi ạ! Nhưng ông chủ vẫn bắt bà chủ ở lại viện để theo dõi thêm. Hiện bà chủ đang ở bệnh viện Lotus ạ!

Lotus là hệ thống bệnh viện do Lotus xây dựng, những nhân viên làm cho mọi bộ phận ở Lotus sẽ nhận được sự chăm sóc đặc biệt ưu đãi khi đến đây khám bệnh.

Khánh Nam lao ngay ra xe và lái thẳng xe đến bệnh viện. Chính anh là nguyên nhân khiến mẹ anh ra như thế này sao? Mẹ anh bị ngất vì phản ứng ngỗ ngược của anh sao? Anh đã làm gì với mẹ mình thế này? Anh chưa bao giờ làm bà vui lòng, mà chỉ đem lại cho bà buồn lo, giờ còn hại bà phải nhập viện nữa. Anh thực là một thằng chẳng ra gì.

Khánh Nam ngập ngừng trước cửa phòng bệnh nơi mẹ anh nằm, trời đã tang tảng sáng, anh nghe thấy có cả tiếng nói chuyện của ba và mẹ anh trong phòng. Anh đẩy cửa bước vào. Mẹ anh đang ngồi tựa trên gối, mở một nụ cười nhợt nhạt với ba anh. Thấy anh, cả hai quay ra nhìn, nụ cười vụt tắt. Ba anh nghiêm mặt hỏi:

– Con lớn ngần này rồi còn để ba mẹ lo lắng nữa. Đi đâu thì cũng phải báo một câu chứ, gọi điện thì con tắt máy.

– Thôi mà anh…- Mẹ anh kéo tay ba anh nhỏ nhẹ- Con nó làm việc ở công ty cả đêm cũng mệt lắm rồi.

– Có việc gì quan trọng mà con phải làm việc cả đêm cơ chứ?- Ba anh hừ giọng.

– Con xin lỗi ba mẹ…- Anh cứ đứng mãi nơi ngưỡng cửa, lý nhí đáp

– Trông con kìa…- Mẹ anh trách- Để ý đến bản thân một chút chứ, quần áo xộc xệch thế kia à? Mau về tắm rửa đi.

– Mẹ…mẹ không sao chứ ạ?

– Mẹ không sao. Chút nữa là về nhà được rồi. Để em con ở nhà như thế mẹ không yên tâm.

– Mau đi làm thủ tục ra viện cho mẹ đi.- Ba anh nhắc.

– Vâng, con đi đây ạ!

Khánh Nam lật đật quay trở ra ngoài. Anh luôn bị áp lực khi đứng trước người cha đầy quyền uy của mình. Ông luôn biết cách tạo áp lực lên người khác mà không tốn nhiều công sức lắm. Đó cũng là lý do tại sao anh ít gần gũi ba hơn mẹ mình.

Đưa mẹ mình về đến nhà và đỡ bà vào giường nằm nghỉ xong, anh lúng túng đứng nơi đầu giường nhìn bà, muốn nói một vài câu xin lỗi nhưng anh không sao thốt ra được. Ba anh ngoắc ngoắc tay ra hiệu cho anh ra ngoài, nói:

– Con mau về phòng tắm rửa đi. Sau đó kêu chị Tâm mang cháo lên cho mẹ. 30 phút nữa sang phòng làm việc của ba.

– Vâng ạ!

Ngoài những lần bàn bạc làm ăn, ít khi anh và ba anh có dịp trò truyện riêng với nhau. Và Khánh Nam cũng chưa bao giờ nghĩ được rằng hai người có thể nói với nhau những chuyện gì ngoài mấy việc điều hành công ty, đầu tư này nọ. Ba anh đã biết việc này rồi sao? Trước nay mẹ anh luôn khéo léo tìm cách che đậy giúp anh những lỗi lầm do anh gây ra, nhưng lần này có vẻ như bà không thể giữ lặng thinh mãi được. Anh đã đi quá giới hạn cho phép của mình rồi.

Khi Nam gõ cửa phòng ba mình và bước vào, anh thấy ông đang ngồi trên ghế ở bàn làm việc. Gương mặt ông có vẻ trầm ngâm khi ông ngước lên nhìn anh. Mặc dù không rõ như mẹ anh, nhưng trông ông có vẻ già đi nhiều từ sau chuyện của Trác Vân. Hơn ai hết, có lẽ ông là người day dứt nhất khi mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn với đứa con gái ông vô cùng yêu thương.

– Có chuyện gì vậy ba?- Anh ngồi xuống ghế, nhìn ông.

– Ba con ta chưa khi nào nói chuyện riêng thế này phải không? Ba gọi con vào đây vì muốn nói chuyện với con trên tư cách của một người cha, chứ không phải cấp trên của con. Con không cần phải căng thẳng như thế.

– Vâng…- Anh khẽ gật đầu.

– Dạo này công ty có việc gì hay sao mà con phải làm cả đêm như thế?

– Dạ… không ạ!- Anh ngẩng đầu lên nhìn ông hơi bối rối. Có lẽ như ông không biết đã có chuyện gì xảy ra ngày hôm qua giữa anh và mẹ anh.

– Lần sau con nên chú ý một chút. Không nên tắt máy như thế… Ba đã cố gọi cho con mà không được. Mẹ con nói con làm đêm ở công ty ba mới yên tâm đôi chút. Con lớn rồi, ba hy vọng không phải nhắc lại chuyện này với con thêm một lần nào nữa.

– Vâng ạ! Con xin lỗi ba.

– Dạo này nhà mình cũng nhiều chuyện. Mẹ con giờ lại đổ bệnh nữa. Ba đã làm khổ mẹ con, làm khổ cả em con, ba thấy có lỗi với cả nhà quá! Chỉ vì những tính toán ích kỷ mà mọi chuyện thành ra thế này.

Khánh Nam im lặng, những lời bộc bạch của ba anh làm anh có phần ân hận. Anh là con trai lớn trong nhà, nhưng chính anh lại là người gây ra quá nhiều phiền lo cho mẹ anh, là nguyên nhân trực tiếp làm bà ngã bệnh. Phải chăng anh đã quá ích kỷ?

Nhưng còn Vũ thì sao? Yêu anh bằng cả tâm hồn, trao trọn cho anh mọi thứ. Từ bỏ tại đây sao? Anh có thể dứt bỏ cô sao? Thế thì anh có khác nào thằng đàn ông đã phụ cô năm xưa? Anh cũng khốn nạn không kém hắn nếu như anh phủi tay mọi thứ với cô.

Nhưng sự cố chấp của anh liệu có còn gây ra thêm tai họa gì nữa đây? Chỉ với một cú shock mà mẹ anh đã ốm như thế, liệu rằng bà còn có thể chịu thêm một cú shock nào nữa không?

Giờ đây, anh đang đứng giữa một ngã ba đường, nhưng chẳng có con đường nào là có thể cho anh đi qua cả. Với anh, tất cả bây giờ đều là ngõ cụt…

Chương 20: Con đường duy nhất

          Nam ngẩng đầu lên khi nghe thấy có tiếng bước chân người cùng tiếng cười nói đi đến. Là Vũ, cùng với một anh chàng đồng nghiệp mà anh đã từng gặp. Anh chàng này đã theo đuổi Vũ từ khi cô mới vào làm trong công ty. Họ chưa nhìn thấy anh nên có vẻ vẫn nói chuyện rất vui. Khánh Nam cố nép mình vào bóng tối, tự nhiên anh không muốn ra mặt ngay. Một cảm giác lạ mơ hồ xen vào tâm trí anh. Phượng Vũ nghiêng đầu nhìn gã kia, mắt lấp lánh, và anh nghe cô nói:

– Lâu lắm rồi mới vui như tối nay.

– Anh thấy em nhảy rất đẹp đấy chứ…

Khánh Nam thấy hai tai nóng ran lên khi nhìn rõ thấy gã đang ôm ngang eo Vũ một cách tự nhiên, còn Vũ thì tình tứ đi bên cạnh gã. Anh muốn nhảy xổ ra mà đấm ngay vào mặt gã vì cái tội dám động đến bạn gái của mình. Nhưng càng khao khát điều đó thì anh lại càng nép mình sâu hơn sau những tán lá thưa của cây hoa mẫu đơn trắng nơi góc sân.

– Thì tại trước đây em có bao giờ đi nhảy đâu, chứ em đâu có nói là em không biết nhảy.

– Vậy thì từ nay anh sẽ dẫn em đi thường xuyên hơn nhé!- Anh ta cười.

– Thôi, đến nhà em rồi, anh về đi.

– Sao? Không cho anh ở lại à? Sợ bị thằng bồ cũ của em bắt được à?

Phượng Vũ nghiêm mặt nhìn gã:

– Em đã nói với anh là không còn liên hệ gì giữa em và anh ấy rồi còn gì. Bây giờ em đã nhận lời yêu anh, thì em sẽ toàn tâm toàn ý yêu anh mà. Nếu thích, anh cứ ở lại.

– Thôi được rồi, con bồ câu bé nhỏ của anh ạ!- Gã phá lên cười- Anh về đây. Cũng còn quá sớm để chúng ta có thể đi xa hơn mà. Chúc cưng ngủ ngon nhé!

Và rất tự nhiên, gã cúi xuống, đặt lên môi Vũ một nụ hôn dài.

Đôi mắt Nam bây giờ không còn nhìn thấy gì ngoài hình ảnh khủng khiếp đó nữa. Anh đã bị phản bội, hay nói đúng hơn là bị đá đ í t, nhanh và bất ngờ một cách đau đớn. Anh không còn giữ nổi bình tĩnh nữa. Lao ra khỏi bóng tối nơi anh đang ẩn mình, anh kéo Phượng Vũ ra khỏi vòng tay của gã kia và tống vào mặt gã một cú đấm. Bị bất ngờ, cả hai người kia cùng kêu lên.

Nhìn Vũ bằng đôi mắt nảy lửa, anh tự nhiên bối rối. Nhưng rồi cơn tức giận vốn không thể ngăn lại được đã bùng lên, anh gằn giọng nói với cô:

– Cô đang làm cái quái gì trước mắt tôi thế. Tôi vẫn còn là bạn trai cô cơ mà.

– Em và anh đã kết thúc rồi.- Phượng Vũ mím môi nhìn anh bằng ánh mắt cương quyết rồi tiến đến đỡ gã kia đứng dậy.

Hành động đó càng làm anh cảm thấy bị tổn thương và xúc phạm ghê gớm. Anh trừng mắt nhìn họ đứng cạnh nhau, anh thì cô độc.

– Được rồi. Anh không nghĩ em lại có thể thay lòng nhanh như vậy.- Khánh Nam thở dài, thái độ của anh khác hẳn, chẳng còn nóng giận, chỉ còn sự chán chường và thất vọng- Anh đã quá sai lầm khi tin vào đàn bà rồi. Em được tự do, chúc em vui vẻ với tình yêu mới.

Và anh vượt qua họ, đi thẳng ra phía cổng.

Vũ và anh chàng trưởng phòng của mình quay ra nhìn theo anh mãi cho đến khi anh đi khuất. Vũ quay vào, hỏi:

– Anh không sao chứ? Em xin lỗi, em không nghĩ anh ấy lại giận như thế.

– Người hỏi câu đó là anh mới phải chứ…- Anh ta lắc đầu cười- Trông em run rẩy quá! Chắc đây là một màn kịch khó với em rồi. Nếu muốn khóc thì anh có thể cho em mượn bờ vai anh đây này.

– Anh coi thường em quá, trông em yếu đuối đến thế hay sao?

– OK, nếu em khẳng định là em ổn.- Anh chàng nhún vai- Nhưng anh thấy anh ta yêu em thế, liệu anh ta có tin chuyện này không?

– Chuyện đó anh đừng lo. Sống quá tình cảm và quá tự phụ chính là hai điểm yếu của anh ấy!

– Với một người kinh doanh thì không nên có hai tính đó… Anh không nghĩ anh ta là một người kinh doanh giỏi.

– Thôi, em vào nghỉ đây. Cảm ơn anh vì tất cả nhé!

– Được rồi, em vào nghỉ đi. Chuyện xong rồi, đừng nghĩ ngợi gì nữa nhé!

Chào người đồng nghiệp của mình rồi, Vũ mở cửa và bước vào phòng. Không cần bật đèn, cô bước thẳng đến giường của mình và nằm lăn xuống, thở dốc. Nói là không sao nhưng lúc này đây cô cảm thấy hoàn toàn kiệt sức. Đôi mắt chứa đầy đau đớn vì bị tốn thương của Nam cứ ám ảnh cô mãi. Anh đau, cô cũng chẳng khá hơn. Tại sao chuyện này lại xảy đến với cả hai cơ chứ?

Cách đó một tiếng, khi cô vừa bước vào sân, thì đột nhiên cô nhìn thấy Nam. Anh đang đứng dựa lưng vào cánh cửa phòng cô, đầu hơi cúi xuống. Thế nên anh đã không nhìn thấy cô vội lùi lại và đi ra cổng.

Bước vào quán cafe ở phía bên kia đường, chọn cho mình một chỗ kín đáo có thể nhìn sang phía cổng nơi cô thuê trọ, cô ngồi đợi. Nhưng ba mươi phút trôi qua, cô vẫn không thấy anh đi ra. Không còn cách nào khác, nếu cô không đối diện với anh, thì có lẽ anh sẽ còn ở đó mãi, hoặc sẽ đến tìm cô nhiều lần nữa. Làm sao có thể quên nếu như anh cứ đến liên tục như thế?

Và cô mở máy, gọi cho người đồng nghiệp, cũng là trưởng phòng trực tiếp của mình.

Diễn xong vở kịch cô cũng hoàn toàn kiệt sức. Nhưng còn sự lựa chọn nào khác đâu. Đây là lối thoát duy nhất cho cả hai lúc này. Khánh Nam vì sống quá tình cảm nên cô biết anh sẽ không tài nào chủ động kết thúc được. Cô sẽ phải là người làm chuyện đó. Cả hai sẽ được giải thoát khỏi những mâu thuẫn và dằn vặt trong lòng, và bản thân cô tin rằng anh chắc chắn sẽ được hạnh phúc, dù người bước bên anh sau này có là ai đi nữa.

***

Ngước nhìn bóng những cây hoàng lan đang mùa nở hoa, lòng Nam lại thấy nhói đau trở lại. Những kỉ niệm mà anh đang cố chôn vùi sống lại rõ ràng hơn lúc nào hết. Gương mặt nghiêng nghiêng thanh thoát. Bài hát u hoài về người vợ đợi chồng. Mùi hương đầy ám ảnh của hoa hoàng lan. Cái buổi chiều đầy liêu trai ấy lại hiển hiện trong anh. Anh càng cảm nhận được nỗi đau sâu sắc nơi trái tim mình lúc này.

Nếu không phải đưa mẹ đến đây lễ chùa, chắc anh cũng không biết khi nào bước chân anh mới trở lại chốn này. Ngồi xuống một ghế đá nhìn ra hồ, anh cố vùi dập đi nỗi nhớ Phượng Vũ, lúc này đang cồn cào trong lồng ngực.

Mấy ngày nay, anh không khi nào là không nhớ đến cô, lúc ăn, lúc làm việc, và cả trong giấc mơ nữa. Anh chẳng thiết tha với bất kì cái gì, cứ ra khỏi công ty là anh chạy ngay về nhà, chui vào phòng của Vân, và ngồi nhìn em gái mình. Đôi khi anh nói chuyện với Vân dù biết bây giờ cô chẳng còn hiểu gì nữa.

Tiếng mẹ anh nhẹ nhàng bên cạnh:

– Con ra đây làm gì vậy?

– Xong chưa mẹ?- Anh đứng ngay dậy, hỏi.

– Ừ, đợi chút nữa vào hạ lễ là xong.- Mẹ anh ngồi xuống ghế và vỗ vỗ xuống bên cạnh- Con ngồi xuống đây, mẹ con mình nói chuyện.

Anh biết mẹ anh muốn nói chuyện gì, nhưng anh cũng chẳng còn đủ mạnh mẽ để phản đối nữa.

– Mẹ thực sự cũng không vui vẻ gì khi chuyện này xảy ra với hai đứa. Tình yêu thì không có tội gì, nhưng đôi khi con vẫn phải chọn lựa, và đó là điều khó khăn nhất với mỗi người. Con có thể đủ dũng cảm để đặt bút kí bất kì bản hợp đồng nào, nhưng quyết tâm từ bỏ một ai, và chọn một ai đó thì lại khác…

– Mẹ… con quên chuyện đó rồi. Con sẽ quên cô ấy. Con đã sai khi trách mẹ, trách ba và rũ bỏ hết trách nhiệm của con.

– Con không sai. Con nói đúng nhiều chuyện lắm. Ba mẹ không nên áp đặt mọi thứ cho con. Nhưng việc mẹ phản đối con và Vũ cũng là tốt cho hai đứa. Vả lại, dù không có chuyện đó xảy ra, nếu như cho mẹ chọn giữa Vũ và Sang thì có lẽ mẹ sẽ chọn Sang.

– Tại sao ạ?

– Vì ba và mẹ đã nợ cô My Vân, mẹ con bé ấy quá nhiều mà hết cuộc đời này ba mẹ không thể trả hết được. Đó là một món nợ tình cảm rất lớn.

Nam đưa mắt nhìn mẹ mình một cách tò mò. Anh muốn biết mẹ anh đang nói đến chuyện gì.

Mẹ anh hơi mỉm cười rồi nói tiếp:

– Khi còn trẻ, trước khi ba và mẹ quen nhau, ba con và cô Vân yêu nhau. Mối quan hệ của họ rất tốt, và ba con thật sự rất yêu cô ấy. Sau đó thì cô ấy ra nước ngoài du học. Trong thời gian cô Vân học ở Pháp thì ba và mẹ quen nhau, rồi rất tự nhiên, ba mẹ đến với nhau. Một ngày, cô ấy trở về, và ba con đứng giữa hai lựa chọn. Ba con đã chọn mẹ. Vì một hiểu lầm đáng tiếc mà ba mẹ đã phải xa nhau. Ba con quyết định cưới cô ấy. Nhưng vào ngày thành hôn của hai người họ, ba con đã chọn cách bỏ đi, để bảo vệ tình yêu với mẹ, và phụ lòng cô ấy. So với Sang bây giờ, tình cảnh của cô Vân khi đó còn khổ hơn nhiều. Một cô dâu bị bỏ lại trong đúng ngày vu quy của mình. Mặc dù cô ấy không để tâm, nhưng ba mẹ vẫn cảm thấy có lỗi cho đến tận bây giờ.

Khánh Nam lặng người đi. Anh hiểu câu chuyện của mẹ anh.

– Có những lúc chúng ta phải đối diện với những bước ngoặt quan trọng của đời mình. Cái chính là con phải sáng suốt và để sao cho sau này không hối hận. Minh Sang không phải là con bé xấu bụng, chỉ là tình yêu đã làm cho nó trở nên ích kỷ hơn. Nó chỉ như con nhím, xù lông lên để bảo vệ cái tình yêu mong manh của nó. Con nên cám ơn nó vì nó đã giúp con nói ra điều khó khăn nhất trong lòng con.

– Con hiểu ý mẹ. Con không hứa với mẹ là con sẽ yêu Sang lúc này. Nhưng con hứa với mẹ, con sẽ học cách chấp nhận cô ấy.

– Con quyết định lựa chọn rồi sao?

– Vâng.

– Con không hối hận chứ?

– Con nghĩ là không ạ!

– Được rồi…- Mẹ anh cười hiền từ- Bây giờ ta về thôi, đến giờ về đưa em con đi khám bệnh rồi. Sau đó con nên đến thăm Sang, nó bị ngã xe nên đang ở nhà.

– Vâng.

Một cơn gió ào tới, hương thơm của hoa Hoàng lan càng lan tỏa. Khánh Nam cúi xuống nhìn bông hoa vừa rơi xuống trước mũi giày. Hơi ngần ngừ, nhưng rồi anh đứng thẳng dậy và bước qua. Một nỗi buồn phảng phất trên gương mặt anh. Một niềm vui vừa vụn vỡ, điều quan trọng lúc này là anh sẽ phải dọn những mảnh vụn đó đi và bắt đầu vun đắp cho mình một niềm vui mới.

Chương 21: Vĩnh biệt Hoàng tử

          Chiếc máy bay Boeing 747 của Sing Airlines cất cánh từ sân bay quốc tế Singapore đến sân bay Tân Sơn Nhất lúc 1h sáng giờ Việt Nam đã rơi trên hải phận quốc tế gần lãnh hải Malaysia. Trên máy bay có 98 hành khách, chủ yếu là khách du lịch từ Singapore đến du lịch tại Việt Nam. Toàn bộ phi hành đoàn đã tử nạn. Trong danh sách hành khách đi trên chuyến bay định mệnh đó có tên một cặp vợ chồng người Việt Nam: vợ chồng bác sĩ Lâm Huy Khánh.

Đến tận đầu giờ chiều cùng ngày, gia đình các nạn nhân mới nhận được tin dữ của thân nhân mình. Phượng Vũ cũng được thông báo vào thời điểm đó, và cô ngất đi ngay tại sảnh lớn của công ty khi nghe tin bố mẹ mình qua đời. Cô tỉnh lại lúc nửa đêm, khi đó xác của bố mẹ cô đang trên đường được đưa về Hà Nội bởi những người bạn trong hội đua xe của họ khi xưa.

Người ở bên cô đầu tiên ngay khi cô tỉnh lại là mẹ của Nam. Bà đã ôm cô vào lòng khi cô gào khóc, cô thấy bà cũng khóc, nhưng cuộc đời bà đã trải qua quá nhiều mất mát, đủ để bà mạnh mẽ hơn cô, vượt lên nỗi đau nhanh hơn cô.

Vũ không muốn tin vào sự thật kinh khủng đó. Chỉ qua một đêm, cô mất cả cha lẫn mẹ, hai người thân yêu nhất của cô. Không gian như đặc quánh lại quanh cô làm cô vừa đau, vừa khó thở, cứ như có bàn tay nào đó đang bóp nghẹt lấy trái tim. Cô ngất đi không biết bao nhiêu lần trong suốt đám tang của bố mẹ mình. Luôn luôn có một bác sĩ túc trực bên cạnh cô để chăm sóc theo yêu cầu đặc biệt của chủ tịch tập đoàn Lotus Vũ Hải Long, người đứng ra lo liệu mọi việc của gia đình cô lúc này.

Ai cũng biết tình thân như thủ túc giữa bác sĩ Khánh và chủ tịch Long của tập đoàn Lotus, nên không ai ngạc nhiên khi ông đứng ra lo liệu chu toàn cho đám tang của hai người bạn của mình. Và vì con gái họ luôn ở trong trạng thái tâm lý hoảng loạn nên cần có một người đủ tỉnh táo để sắp xếp mọi chuyện. 10 chiếc xe đua với những vòng hoa lớn hộ tống xe đưa xác hai vợ chồng bác sĩ Khánh đến đài hóa thân. Tro cốt của hai người được đựng vào hai lọ gốm đặc biệt rồi được đưa về ngôi nhà mà họ ở khi còn sống.

Khánh Nam chứng kiến cảnh mất mát này, chính anh cũng cảm thấy chơi vơi và bối rối. Anh mong sao anh có thể đến bên cô, ôm cô vào lòng, an ủi cô, cho cô một chỗ dựa vững chắc. Nhưng anh lại ngần ngại vì anh sợ sự xuất hiện của anh càng làm cho cô thêm đau, thêm rối bời, nên anh chỉ dám đứng xa, lẫn trong đám đông đưa tiễn, nhìn theo cô.

Mẹ anh cũng khóc suốt. Chú Khánh và cô Linh là hai người bạn rất thân của mẹ nên mất đi họ, chắc chắn mẹ anh cũng buồn khổ lắm. Đến ba anh còn phải rơi nước mắt trước cảnh nhìn người ta đưa quan tài của bạn mình vào trong đài hóa thân, chứ nói gì đến mẹ anh hay Vũ.

Sau đám tang, mẹ anh đề nghị Vũ về sống chung với gia đình anh nhưng cô từ chối vì cô muốn quay về nhà mình, ở một mình. Ở ngôi nhà đó còn có một chị giúp việc lâu năm nên ba mẹ anh mới yên tâm đôi chút, nhưng vẫn dặn dò chị ta trông chừng Phượng Vũ vì sợ cô nghĩ quẩn. Một ngày Thảo Nhi đến thăm Vũ một lần và mỗi lần đó đều ở lại cùng cô rất lâu. Bà không cho anh theo cùng, chỉ thông báo là cô vẫn ổn.

Khoảng hơn 10 ngày sau đám tang của Huy Khánh và Tú Linh, khi Nam vừa cùng Sang ra khỏi một cửa hàng quần áo thì một cặp đôi bước qua. Anh nhận ra người đàn ông rất sớm, còn người đó, có lẽ do đang mải nói chuyện với người phụ nữ đi cạnh mà không nhìn ra anh. Họ nắm tay nhau đi rất tình tứ, như một cặp tình nhân vậy.

Khánh Nam mím môi, quay người đuổi theo họ và túm lấy vai của người đàn ông xoay lại. Nhận ra anh, anh ta hơi ngạc nhiên, rồi bối rối nhìn sang người đi cạnh mình.

– Lúc này là lúc cô ấy cần anh ở bên nhất mà anh lại có thể thản nhiên đi cùng một người khác à?- Anh túm lấy cổ áo anh ta, gằn giọng.

Không một chút bối rối như những người bị bắt quả tang khác, anh ta hơi nhếch mép cười rồi gạt tay anh ra, sửa lại cổ áo, thản nhiên nói :

– Câu này phải là tôi nói mới đúng chứ… Anh ngốc hay sao mà không nhận ra tối hôm đó chúng tôi chỉ diễn kịch cho một khán giả duy nhất là anh xem. Người cần ở bên cô ấy lúc này là anh chứ không phải tôi.

Nói xong, bỏ mặc anh đứng ngây ra đó, anh ta kéo tay người tình của mình đi tiếp. Khánh Nam vẫn chôn chân một chỗ, rồi anh ngẩng phắt đầu dậy, định chạy đi thì có bàn tay nhỏ nhắn cầm lấy tay anh. Anh quay lại, Sang đang nhìn anh, đôi mắt hơi rưng rưng:

– Anh… anh đừng đi… Anh đừng đi có được không?

– Xin lỗi em… Lúc này là lúc cô ấy cần anh nhất… Hãy để anh đi.

– Không mà…- Một dòng nước mắt trượt dài trên đôi má hồng hào của cô- Anh đừng đi. Em xin anh đấy. Em biết, nếu anh đi, thì em sẽ mất anh mãi mãi…

Khánh Nam nắm lấy tay cô, hơi siết nhẹ, rồi anh mím môi kiên quyết quay người và bước đi thật nhanh. Câu “Anh xin lỗi.” cuối cùng của anh nhẹ như gió thoảng, và có lẽ, Sang cũng chẳng đủ tỉnh táo để nghe thấy lời xin lỗi đó của anh nữa.

– Cô ấy có ăn chút ít, nhưng cô ấy yếu lắm. Cả ngày cô ấy cứ nhốt mình trong phòng ông bà chủ, rồi thỉnh thoảng khóc. Cô ấy chẳng nói với tôi hay với mẹ cậu câu nào mỗi lần bà ấy đến.

Khánh Nam nghe người giúp việc kể đến đó, anh chạy thẳng lên phòng Vũ. Căn phòng u ám trống không. Anh đi tiếp sang phòng ngủ của hai vợ chồng chú Khánh. Cửa cũng không khóa. Anh mở ra. Phượng Vũ ngồi bó gối ở góc giường, ngước đôi mắt đờ đẫn nhìn anh. Anh thấy sợ, vì anh nhận ra ở cô có nét gì đó hoang tàn giống em gái anh bây giờ vậy. Ánh mắt cô đơn giống như một con thú bị thương lạc đường, thu mình lại với mọi chuyện xung quanh.

Anh ngồi xuống giường, nhìn cô, lòng đau như cắt. Cô thật sự rất gầy và xanh, đôi mắt đờ đẫn của những người thiếu ngủ kinh niên. Anh nắm lấy đôi tay run rẩy và tái xanh của cô, kéo cô lại. Một phản ứng cưỡng lại từ phía Vũ, nhưng khá là yếu ớt vì sự thực cô cũng chẳng còn đủ sức mà cưỡng lại nữa. Anh ôm lấy cô, nhẹ nhàng và đầy dịu dàng như cái tình yêu của hai người trước đây.

– Anh xin lỗi. Anh rất xin lỗi. Anh là một thằng ngốc nên mới để em chịu khổ như thế.

Anh có thể cảm nhận rõ ràng cả người cô đang rung lên trong vòng tay của anh. Phượng Vũ bắt đầu khóc, dữ dội hơn cả những lần anh từng chứng kiến cô khóc, hơn cả ngày mà cô đưa bố mẹ về nơi an nghỉ. Bao buồn đau kìm nén trong lòng bấy lâu giờ đây được giải thoát, tạo nên cơn xúc động không sao cưỡng lại được.

– Đừng khóc nữa em.- Anh cúi xuống hôn nhẹ lên mái tóc cô, thì thầm dỗ dành- Anh đã ở đây với em rồi. Anh đã ôm em đây rồi. Anh sẽ không buông tay ra đâu.

– Em sai rồi… Vì em mà bố mẹ em mới chết… Lỗi tại em cả…- Cô nói trong tiếng nấc nghẹn ngào và vòng tay ôm chặt lấy cổ Nam. Nước mắt cô đã ướt đẫm một bên ngực áo anh.

Khánh Nam chỉ đưa tay vuốt nhẹ mái tóc cô và lặng im.

– Nếu em không khóc khi nói chuyện với mẹ em thì họ đã không quyết định về nước sớm hơn dự định. Vì em mà họ mới lên chuyến bay đó. Tại em… tại em…

Phượng Vũ đấm thùm thụp vào lưng anh. Cơn xúc động của cô càng làm anh thấy khó chịu. Thế mà bao ngày qua anh đã bỏ cô gặm nhấm nỗi đau một mình, bơ vơ không một bờ vai để cô có thể tựa vào và khóc.

Vũ khóc một chặp thì anh dỗ được cô ngủ. Anh bế cô trở về phòng, vì sợ khi tỉnh dậy, nhìn thấy những vật thân thương liên quan đến bố mẹ, cô lại không kiềm chế nổi bản thân và lại khóc nữa.

Mẹ anh lặng thinh khi anh thông báo với bà quyết định của mình. Bà là người rõ hơn ai hết việc Vũ cần anh lúc này. Bà không thể ngăn cản anh được, vì chính bà cũng rất thương Vũ, nhưng lại bất lực vì sự cự tuyệt của cô với tình cảm quan tâm của vợ chồng bà. Chỉ với con trai bà, cô mới không đề phòng gì mà thôi.

– Anh xin lỗi em, Sang à!- Khánh Nam nhìn cô lúc này cũng đang khóc ròng- Anh đã quyết định sẽ ở bên cô ấy rồi.

– Anh lừa em…

– Em nghĩ thế nào anh cũng chấp nhận, vì anh không đáng để em tha thứ.

– Không bao giờ em tha thứ cho anh.

– Cảm ơn em…- Anh nói và đứng dậy.

– Nếu bây giờ anh đi anh sẽ hối hận đấy. Em nói thật đấy.- Minh Sang gọi với theo.

– Dù có chết anh cũng không bao giờ hối tiếc vì đã chọn ở bên cô ấy.- Anh lắc đầu và bước hẳn ra khỏi quán café, hòa vào dòng xe nhộn nhịp cuối chiều tháng 11.

Anh sẽ đưa Vũ rời xa khỏi thành phố đau thương và thị phi này. Anh sẽ đem tình yêu và sự tươi trẻ quay lại nơi cô, bằng mọi giá. Sẽ đi đến một nơi chỉ có hai người, và từ bỏ tất cả, ít nhất là cho đến khi cả hai cùng sẵn sàng quay lại.

***

– Anh đã mua vé máy bay đây rồi. Chúng mình sẽ lên Bảo Lộc sống một thời gian nhé! Anh cũng muốn tìm một chỗ nào đó nghỉ ngơi và xả hơi dài ngày.- Nam đặt vé máy bay lên bàn.

Vũ đã tươi tỉnh hơn, cô chịu nói chuyện và xuống phòng ăn cùng anh và chị giúp việc.

– Em cũng muốn đi khỏi đây một thời gian. Nhưng anh đâu có thể bỏ công ty mà đi được.

– Công ty không có anh thì sẽ có người khác. Ba anh sẽ vẫn vững vàng mà không cần có anh.

– Anh đi cùng em, mẹ anh…- Vũ ngập ngừng- Bác ấy không nói gì sao?

– Đấy, em lại nghĩ lung tung nữa. Anh đã nói rồi, đừng lo, anh xin phép mẹ anh đàng hoàng rồi mà.

– Mẹ anh cho anh đi à?

– Tất nhiên… Thôi cứ quên mọi chuyện đi. Cứ để anh lo tất cho. Bây giờ anh về qua nhà chào mẹ và Vân rồi qua đây đón em ra sân bay. Em cứ ở nhà chuẩn bị đi nhé!

– Vâng… Anh ăn tối ở nhà hay ở đây?

– Anh ăn ở nhà với mẹ rồi đến đây luôn. Em cứ ăn đi nhé!

Nam mỉm cười rồi anh đi ra xe. Anh sẽ về ăn với mẹ bữa cơm cuối này, rồi sẽ cùng Vũ đi thật xa, tránh những tháng ngày đầy đau khổ và phiền lo này.

– Hai đứa sẽ đi thật sao?- Mẹ anh hỏi khi anh ngồi dùng bữa cùng bà. Ba anh lại vắng nhà và Vân thì lại đổ bệnh.

– Vâng. Đêm nay đi luôn ạ!

– Con vẫn quyết tâm ở cùng nó sao?

– Mẹ… đừng nhắc lại chuyện đó nữa. Con muốn ăn một bữa cơm thật vui cùng mẹ thôi mà.

– Ừm… Con nói với ba chưa?

– Con không dám nói, nhưng con nghĩ ba hiểu và thông cảm cho tụi con được.

– Mẹ cũng không nghĩ sẽ ngăn cản được bước chân con.- Mẹ anh thở dài- Chỉ mong là sau này hai đứa đừng khổ mà thôi.

Có tiếng chuông điện thoại bàn. Chị Tâm nghe và hớt hải chạy sang phòng ăn, nơi hai mẹ con đang ngồi, mặt cắt không còn hột máu.

– Có chuyện gì mà trông chị khiếp sợ thế?- Khánh Nam cau mày lo lắng.

– Bà ơi… cậu ơi…- Chị ta run lẩy bẩy khi nói- Cô Sang… cô ấy… cô ấy tự…tự… tử rồi…

– Chị nói sao?- Khánh Nam hét lên, đứng phắt dậy.

– Cô Sang cô ấy uống thuốc ngủ tự tử rồi… Đang cấp cứu trong bệnh viện ạ! Cậu và bà đến ngay cho kẻo không kịp.

– Ối…- Mẹ anh thất sắc đứng dậy, kêu lên đầy kinh hoàng và nếu anh không đỡ ngay lấy thì bà đã ngã xuống.

– Mẹ ở nhà đi, để con đến đó xem thế nào.- Anh nói với bà.

– Không… mẹ phải đến đó… Trời đất, nó dại dột quá! Sao lại làm thế chứ. Đi nào, mau đưa mẹ đến bệnh viện…

Khánh Nam chỉ kịp soạn cho Vũ một cái tin trên đường đến bệnh viện: “Anh rẽ qua bệnh viện một lúc. Sang đang ở trong ấy. Em cứ chuẩn bị đồ rồi gọi taxi ra sân bay đi nhé! Đến giờ sẽ gặp em ở sân bay. Hôn em.”

Tin nhắn báo gửi thành công. Và cũng là tin nhắn báo gửi thành công cuối cùng của anh đến số điện thoại có tên “Darling”.

Chương 22: Lựa chọn của mỗi người

          “Anh Nam. Em cám ơn anh những ngày qua đã ở bên em, cho em thêm niềm tin vào lúc em suy sụp nhất, lúc em đau khổ nhất. Đã có lúc em nghĩ rằng mất đi bố mẹ, mất đi anh thì em chẳng còn lại điều gì có ý nghĩa hơn để sống nữa. Nhưng như thế có lẽ em đã phụ lòng anh, phụ lòng tin yêu và lo lắng của mẹ anh, bố anh và nhiều người khác quan tâm em.

Em không thể giữ anh cho riêng bản thân mình mãi được. Anh không thuộc về em, anh thuộc về những người thân yêu khác của anh, và bây giờ là lúc em trả anh lại cho họ. Em không muốn anh có lúc phải hối hận vì đã rời xa họ.

Em sẽ đi, rời xa những tháng ngày đau khổ này, rời xa cái thành phố mà với em chẳng còn gì để níu kéo được bước chân em. Em không biết ngày nào em mới trở về và bao giờ mới dám đối mặt với anh. Có thể là rất lâu, và cũng có khi là chẳng bao giờ nữa. Anh hãy yêu và chăm sóc Sang như anh đã từng yêu em. Em thành tâm chúc phúc cho hai người.

Cảm ơn anh đã cho em những tháng ngày đẹp nhất của cuộc đời em. Tạm biệt anh, dấu yêu của em.

Phượng Vũ.”

Khánh Nam đọc đi đọc lại lá thư với những nét chữ viết vội của Phượng Vũ và ngồi phịch xuống ghế. Anh nhận được nó một tuần trước, 4 ngày sau khi Phượng Vũ đi mất.

Anh đến sân bay muộn, chuyến bay đi Đà Lạt đã cất cánh trước đó 15 phút. Anh cứ tưởng Phượng Vũ không thấy anh đến sẽ đứng đợi hoặc trở về nhà, vậy mà cô bốc hơi luôn khỏi cuộc sống của anh, đột ngột đến ngỡ ngàng. Danh sách những hành khách lên chuyến bay đi Đà Lạt ngày hôm đó có tên Phượng Vũ, nhưng người mà anh nhờ đón cô ở sân bay Đà Lạt không đón được cô giữa đám hành khách đổ ra khi đó. Và thế là chẳng ai biết cô đã đi đâu.

Minh Sang đã qua cơn nguy hiểm, hiện nay đã trở về nhà anh. Sợ cô lại nghĩ quẩn một lần nữa nên ba mẹ anh bắt anh phải luôn ở cạnh cô, Khánh Nam càng không có cơ hội đi tìm Vũ. Có lẽ số phận đã an bài, người đi bên anh trong quãng đời còn lại là Sang chứ không phải Vũ.

Khánh Nam dựa lưng vào ghế thở dài. Anh vẫn chưa chịu rời khỏi văn phòng dù đã hơn 9h tối. Sang đã dọn hẳn sang nhà anh sống, bà nội và mẹ anh cứ lo lắng săn sóc cho cô khiến anh càng không có lý do gì để từ chối. Anh nhìn ra ngoài bầu trời rực rỡ ánh đèn đêm của Hà Nội, băn khoăn không biết giờ này Vũ đang ở đâu, cô có khỏe không, vì từ hồi chú Khánh, cô Linh mất, cô ốm hẳn đi.

Có tiếng điện thoại, là Sang gọi. Anh ngần ngừ mãi rồi mới bắt máy:

– Có chuyện gì thế Sang?

– Bà hỏi tại sao dạo này anh không về ăn tối với bà và mẹ anh? Anh đang tránh mặt em phải không? Nếu em chướng mắt anh như thế thì anh có thể bảo em đi là được mà. Em không muốn vì em mà anh trở thành người con người cháu vô tâm với gia đình.

– Anh xin lỗi, anh không hề có ý đó.

– Hay anh trách em vì vì em mà chị Vũ bỏ đi?- Sang vẫn nói với giọng ấm ức.

– Không phải… Anh đang suy nghĩ vài chuyện nên anh cần yên tĩnh một mình.

– Anh nói dối.- Sang hét lên trong điện thoại- Rõ ràng anh không muốn gặp em.

– Em mới ốm dậy nên em cần đi ngủ sớm đi.

– Anh không về thì em không ngủ.

– Được rồi. Anh về giờ đây. Em ngoan đi ngủ đi nhé!

– Em đang muốn ăn ô mai Kiwi, anh về mua cho em, ăn xong em mới ngủ được.

– Ừm… thế cũng được. Đợi anh một lát nhé!

Nam cúp máy, nhìn màn hình điện thoại có hình của Vũ, tấm hình mà anh chụp trộm cô trong thung lũng hoa trên Bảo Lộc hơn 4 năm về trước, nụ cười tươi sáng của cô làm anh cảm thấy khá hơn một chút. Chầm chậm rời khỏi chiếc ghế tựa êm ái, lấy chiếc áo vắt trên ghế, anh rời khỏi văn phòng.

***

Phượng Vũ bước chầm chậm trong thung lũng hoa Thạch Liên. Có vẻ như nơi đây luôn ngập tràn ánh sáng và sắc hoa không kể ngày tháng nào trong năm thì phải. Nơi đây cô và Nam đã có những kỉ niệm thật đẹp.

Những kỉ niệm ngày xưa lại hiển hiện trong cô. Cô nhớ như in dáng vẻ cáu kỉnh và nụ cười cao ngạo của anh chàng sinh viên năm xưa. Cô nhớ cả cái cách anh quan tâm đến người khác đầy vụng về nhưng lại rất chân thành. Cô nhớ cả anh của hiện tại, người đàn ông dịu dàng luôn nâng niu, yêu chiều cô và không bao giờ làm cô phải đau.

Cô cũng không hiểu tại sao bước chân lại đưa cô đến đây, sau nhiều ngày lang thang trên cao nguyên Lang Biang lộng gió. Cô đã đi theo bước chân của bố mẹ cô, nơi mà họ đã từng đến. Cô không còn cái dáng vẻ của một cô nàng tiểu thư, mặc những bộ đồ công sở lịch sự và duyên dáng nữa. Hàng ngày cô đeo ba lô, cột tóc cao, đội mũ, đi giầy vải lang thang khắp nơi ở xứ Lang Biang, tìm hiểu cuộc sống nơi cao nguyên hoang dã này.

Cúi xuống một đám hoa dã quỳ, cô đưa máy ảnh lên và chụp. Loài hoa của sự mạnh mẽ và tươi trẻ, mọc khắp nơi trên vùng đất này.

Men theo chân núi đá, cô tìm đường trở lên trên, để có thể chụp được toàn cảnh thung lũng này, nơi không chỉ chứng kiến tình yêu của cô và anh bắt đầu, mà còn là nơi bắt đầu của một mối tình ngang trái khác, của Vân và anh chàng tên Việt.

Đứng trên mép núi đá, cô chụp đến hơn 10 bức ảnh về thung lũng hoa dưới chân. Nhìn từ trên cao, thung lũng giống như một thảm hoa khổng lồ rực rỡ với nhiều màu sắc, nhưng nổi bật nhất vẫn là màu hồng và màu vàng.

Chợt cô hạ máy ảnh, cúi xuống nhìn xuống vách núi dưới chân mình. Nơi lưng chừng núi, cách nơi cô đang đứng khoảng 1m, có một loài thực vật kì lạ đứng đó một mình, và vô cùng nổi bật.

Nó sống đơn độc, ngay trên vách núi nên từ cái dáng vẻ mỏng manh, cô có thể nhìn thấy một nét gì đó vô cùng mạnh mẽ và kiên cường. Nó có 5 hay 6 lá gì đó, hình tròn, nhỏ bằng bàn tay, màu xanh, những gân lá hơi ngả sang màu tím biếc. Nổi bật giữa đám lá đó là một bông hoa màu vàng, hơi giống hoa uất kim hương nhưng phía đầu cánh nhọn như cánh sen.

Cô ngẩn ra hồi lâu khi nhìn thấy nó, cũng chẳng hiểu vì sao lại bị nó cuốn hút đến thế. Rồi cô đặt máy ảnh xuống, quỳ xuống nhìn nó. Độ cao của vách núi làm cô hơi chóng mặt khi nhìn xuống. Cô cúi rạp người xuống, cố rướn người túm lấy bông hoa. Nó chỉ còn cách tay cô có vài centimet mà không sao cô với tới được.

Vũ nhích người, rướn thêm một chút để cố chạm được vào nó. Khi những đầu ngón tay của cô chạm vào nó, cô hơi lỡ đà. Cô hét lên khi thân mình bật hẳn khỏi mép núi.

Nhanh như cắt, một bàn tay chạm vào vai cô và kéo giật lại. Cây hoa vàng bị cô kéo bật ra khỏi nơi nó đang sống, và cô ngã sóng soài về phía sau, đè lên một người khác, chính là người đã nhanh tay kéo cô lại trước khi cô ngã nhào xuống phía dưới.

Cô bối rối nhìn anh ta, đứng thẳng dậy. Anh ta cũng nhanh chóng đứng dậy. Anh ta còn trẻ, mặc một bộ đồ vải màu nâu hơi sờn rách, đi giày vải. Bên hông anh ta đeo một túi đan bằng mây thủ công rất đẹp.

– Anh có sao không?- Cô lên tiếng hỏi.

Cô giật mình khi thấy anh ta cứ nhìn chằm chằm vào cây hoa cô đang cầm trên tay. Ánh mắt anh ta lúc này thật khó mà xét đoán được anh ta đang nghĩ gì.

Rời mắt khỏi bông hoa, anh ta đứng dậy, phủi quần áo và nói với cô:

– Cô nên vui vì cô là một trong số ít ỏi những người trên thế gian này nhìn thấy loại hoa đó.

Cô nhấc cây hoa trong tay lên, hương thơm của nó thật dễ chịu, cô ngạc nhiên hỏi lại:

– Anh nói cây hoa này hả? Tôi thấy nó đẹp nên định hái thôi.

– Phải là có duyên thì mới được tận mắt nhìn thấy nó.

– Thật sao?- Cô há hốc mồm kinh ngạc.

– Tên của nó là Hoàng Thạch Liên, một loài hoa truyền thuyết của vùng thung lũng Thạch Liên này. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời tôi được tận mắt thấy nó.

– Anh không giống khách du lịch như tôi…

– Phải, tôi đi hái thuốc…

– Anh là thầy thuốc à?- Cô trố mắt.

– Ừm.

– Anh chuyên bốc thuốc thật hả?

– Đúng vậy… Với tôi thì Thạch Liên Hoa là một loại thảo dược kì diệu, hơn bất kì loại thảo dược nào có trên sách vở. Công dụng của nó bằng 1000 loài thảo dược khác cộng lại.- Anh ta nói bằng giọng hân hoan.- Nó có thể chữa bách bệnh.

– Ồ…- Cô thốt lên.

– Thôi chào cô, tôi phải đi đây, cô nên cẩn thận đấy, ở khu vực này địa hình rất nguy hiểm.

– Này anh…- Cô gọi với theo khi anh ta vừa quay người đi.

Anh ta dừng bước quay lại nhìn cô.

– Cám ơn anh đã cứu tôi. Cái này, cho anh đấy.- Cô chìa bông hoa về phía anh ta.

– Nó bằng với một điều ước đấy. Cô không nên cho đi vận may của mình.

– Nếu cần vận may tôi sẽ tự tạo ra nó. Nhưng anh không đi tìm vận may, anh đi tìm thuốc cứu người cơ mà. Tôi nghĩ anh cần nó hơn tôi.

Anh chàng kia ngập ngừng giây lát nhưng Vũ đã mạnh dạn tiến đến dúi bông hoa vào tay anh ta và cười. Nhìn cách anh ta nâng niu bông hoa trên tay như một báu vật, cô phì cười. Cô nói tiếp:

– Anh đang đi hái thuốc à? Nhà anh gần đây không?

– Tôi có việc đi qua đây thôi. Tôi không phải ở vùng này. Tôi ở Kon Tum. Tôi đến đây hái cỏ linh chi cho thầy tôi.

– Ơ, thế ra anh lặn lội từ tận Kon Tum đến đây à?

– Đúng thế…

– Thế anh tên gì?

Anh chàng ngập ngừng trong giây lát rồi đáp:

– K’ Brơi.

– Cái tên nghe lạ quá! Tôi là Vũ.

– Cảm ơn cô vì đã tặng lại tôi cây Hoàng Thạch Liên này.- Anh ta nói và cẩn thận đút nó vào chiếc túi mây bên hông.

– Anh cho tôi đi cùng anh với nhé!- Cô đề nghị.

Anh ta lặng thinh hồi lâu rồi nhún vai:

– Nhưng đi núi lấy thuốc vất vả lắm đấy, chỉ sợ cô không chịu được thôi.

– Dù sao thì bây giờ tôi cũng chẳng biết đi đâu nữa mà.- Cô cười.

– Vậy tùy cô thôi.- K’ Brơi nhún vai và quay người bước đi.

– Cảm ơn anh.

Phượng Vũ reo lên và chạy vội theo anh ta, dù sao thì cô cũng nên tìm một người đồng hành cho vui.

Mặt trời khuất dần sau ngọn núi phía Tây, ngọn núi cao nhất trong vùng với cái tên thật kêu- đỉnh Đam San. Thực ra đó không phải là tên thật của nó mà là tên người dân trong vùng bao đời nay vẫn gọi để ca ngợi người anh hùng trong Trường ca Đam San- niềm tự hào của núi rừng Tây Nguyên.

Tương truyền chàng Đam San trên đường đi bắt nữ thần mặt trời đã đi qua ngọn núi cao nhất trong vùng, và mọi người tin rằng đó chính là đỉnh núi Drăck Kơ Mê này, và không biết từ đời nào, nó đã mang tên của người anh hùng huyền thoại ấy.

Bóng tối nhanh chóng bao trùm lên khắp các núi rừng và buôn làng. Thấp thoáng nơi sườn núi, chân núi, giữa rừng cây có ánh sáng bập bùng tỏa ra từ một bếp lửa nào đó trong buôn. Cả núi rừng chìm trong im lặng, nhưng chỉ một chốc nữa lại rộn lên tiếng côn trùng, tiếng vượn gọi bầy, tiếng của những con chim đi ăn đêm. Và trong cái mớ âm thanh hỗn độn ấy, đôi lúc có cả tiếng gầm của đàn voi, của một ông chúa sơn lâm nào đó. Chỉ có cuộc sống của con người ở đây là thưa thớt và tĩnh lặng đến đáng sợ.

Đặt gùi lá nặng trĩu xuống chân bậc thang, K’ Brơi ngồi bệt ngay xuống bên cạnh, thở dốc. Anh nhìn lên trời, sao sáng lấp lánh khắp trời, tựa như một phiến đá nhũ khổng lồ. Gió mát rượi nên mồ hôi nhanh chóng khô hết, cái mệt cũng vì thế mà qua đi rất mau.

Anh ngạc nhiên vì tầm này trong nhà luôn rộn ràng tiếng nói chuyện của Vũ và sư phụ anh, nhưng sao hôm nay im ắng quá. Vũ đã đến ở cùng hai thầy trò anh được hai tháng nay. Cô đã mấy lần định đi nhưng sư phụ anh đều có ý lưu cô lại để chữa cho cô nốt bệnh thương hàn đã quật ngã cô sau một trận mưa rào lang thang trong rừng cách đây hơn một tháng.

K’ Brơi đứng dậy, xách cái gùi và đi lên nhà một cách mệt mỏi. Mùi lá thuốc mới sao xộc lên làm anh thấy dễ chịu hẳn. Bếp lửa vẫn còn nóng, cơm canh trên bếp còn nguyên. Anh nhìn quanh, hình như sư phụ anh đã đi vào trong buôn thăm bệnh cho một ai đó, vì anh không thấy túi vải của bà ở nhà.

Có tiếng soạt ở sau lưng, sau đó là giọng của Vũ:

– Anh về rồi đấy à?

Hình như cô vừa đi tắm về.

– Ừm…

– Anh đi tắm đi rồi tôi dọn cơm cho anh ăn.

– Sư phụ tôi đâu?

– À, cô ấy sang buôn bên cạnh thăm bệnh cho một đứa bé bị lên sài… Có khi mai mới về. Hôm nay có hái được thuốc chứ?

– Có, nhưng không được nhiều lắm. Ngày mai có lẽ tôi sẽ phải đi xa hơn nữa. Cô ăn gì chưa?

– Tôi đợi anh mà.

– Cô cứ ăn trước đi, tôi phải đi tắm đã rồi mới ăn.

– Không sao, tôi đợi anh được mà.- Phượng Vũ nhoẻn miệng cười với anh.

K’ Brơi ngước đôi mắt đen sẫm nhìn cô và khẽ gật đầu. Anh đứng dậy, đi ra phía suối.

K’ Brơi luôn nghĩ mãi về cô gái kì lạ mà anh gặp trong một buổi chiều cũng kì lạ không kém. Bước chân vô tình đưa bước chân anh trở lại chốn đó, và anh đã gặp cô cùng với loài hoa Hoàng Thạch Liên huyền diệu. Nụ cười luôn thường trực trên môi không thể che lấp được những nỗi đau đầy úp trong mắt cô. Chỉ có những người đã đi đến tận cùng nỗi đau của sự mất mát và chia ly như anh mới cảm nhận được điều đau khổ toát ra từ đôi mắt ấy. Bản thân cô có lẽ quá nhỏ bé so với nỗi đau quá lớn mà cô đang mang trong lòng.

Ăn tối xong, anh ra bậc thềm ngồi với Vũ. Cô đang ngồi bó gối ở đó nhìn lên bầu trời một cách cô đơn. Có lẽ lúc này cô cần một người để tâm tình, cũng như anh trước kia, khi anh đau khổ nhất có sư phụ ở bên chia sẻ với anh. Nếu không có người, có lẽ anh cũng không đủ mạnh mẽ để vượt qua nỗi đau đó.

– Anh có tin rằng người chết sẽ hóa thành ngôi sao không?- Phượng Vũ đột ngột hỏi anh.

– Đó là niềm tin của trẻ con. Tôi thì nghĩ là ba mẹ tôi sẽ luôn ở bên tôi chứ chẳng bay lên tít trên cao kia làm gì.

– Ba mẹ anh mất lâu chưa?

– Ba tôi thì mất lâu rồi. Còn mẹ tôi thì mới mất. Bà bị ung thư…

Phượng Vũ tựa cằm lên đầu gối im lặng. Một lúc sau, cô lại thình lình lên tiếng:

– Chúng ta giống nhau thật… Đều chỉ còn một mình, cô đơn…

– Cô không để ý đấy thôi, tôi tin là ba mẹ cô cũng luôn ở bên cô…

– Tôi không chịu được khi nghĩ rằng từ nay đến hết cuộc đời, những người mà tôi yêu nhất sẽ không thể ở bên tôi nữa. Tôi đi không ngừng nghỉ để không có lúc nào có thời gian nghĩ đến chuyện đó. Nhưng… không thể chạy trốn được…- Phượng Vũ lắc đầu buồn bã.

– Khi phải xa người con gái mà tôi yêu tha thiết, rồi người thân cuối cùng là mẹ cũng ra đi, tôi cũng đã từng từ bỏ ý chí muốn sống. Nhưng thầy đã dạy cho tôi hiểu một điều, tôi phải bước tiếp để tìm cho mình những người đồng hành mới. Và cũng có thể bước chân sẽ đưa tôi gặp lại người con gái ấy theo cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời.

– Tôi không mong được gặp lại người mà tôi yêu.

– Tại sao? Cô yêu anh ta mà?

– Tôi không có lý do gì để ở bên anh ấy cả. Tôi chẳng thể đem lại cho anh ấy điều gì ngoài sự khó xử với gia đình. Tôi không muốn có ngày phải chứng kiến việc anh ấy băn khoăn chọn lựa tôi và gia đình.

– Cô sợ anh ta sẽ chọn gia đình và bỏ rơi cô phải không?

Phượng Vũ lặng im. K’ Brơi nói đúng. Đó chính là điều mà cô sợ nhất. Cô sợ rằng Nam sẽ chọn ra đình và rời bỏ cô, nên cô chọn cách chủ động rời xa anh trước, như thế nỗi đau sẽ vơi bớt đi. Không biết giờ này anh ra sao rồi? Hy vọng anh hạnh phúc với tình yêu của Minh Sang dành cho anh.

Như nhớ ra, cô quay sang nói tiếp với người bạn tốt bụng:

– Hai ngày nữa tôi sẽ rời khỏi đây. Tôi đã hỏi rồi, ngày mốt sẽ có xe xuống Sài Gòn.

– Cô định xuống Sài Gòn à?

– Không. Tôi qua đó rồi vào miền Tây.

– Cô sẽ vào miền Tây sao?

– Đó là nơi tôi mong muốn được đến lâu rồi. Biết đâu tôi lại tìm được cơ hội làm lại cuộc đời ở vùng đất đó.

– Cô sẽ đến tỉnh nào?

– Long An, Trà Vinh, Tiền Giang hay Bạc Liêu, cũng chưa dám chắc lắm…- Phượng Vũ nhún vai cười- Còn tùy xem bước chân tôi thích dừng ở nơi nào nữa. Có lẽ sẽ là ở một khu vườn trái cây rộng lớn và làm một cô gái mặc áo bà ba, đội nón lá bán trái cây trên những chợ nổi chăng?

Cả hai cùng bật cười trước ý nghĩ thích thú đó.

– Anh và cô Hoài sẽ đến thăm tôi chứ?

– Tôi sẽ mời sư phụ đi cùng mình. Sư phụ cũng ở vùng rừng núi này quanh năm rồi. Thầy cũng phải đi đâu đó để thay đổi không khí mới được.

– Đến nơi rồi tôi sẽ viết thư cho anh và cô ấy địa chỉ của tôi.- Vũ gật đầu.

Cả hai lại tiếp tục câu chuyện về những kế hoạch trong tương lai đến tận đêm khuya mới chịu đi ngủ.

Hai ngày sau đó, Phượng Vũ rời Kon Tum, lên xe đến bến xe miền Đông rồi tiếp tục bắt xe về miền Tây. Chuyến xe mà cô lên đưa cô về Vĩnh Long, nơi cô sẽ dừng chân đầu tiên trên hành trình đi tìm cho mình một miền đất hứa.

Chương 23: Tìm thầy chữa bệnh

          Minh Sang nhìn đồng hồ rồi lại chống tay vào cằm suy nghĩ một cách trầm ngâm. Đã quá giờ hẹn 15 phút mà Nam chưa đến, anh cũng chẳng điện báo cho cô một câu. Dạo này anh có vẻ bận rộn, cứ đi miết, có hôm còn ở công ty qua đêm. Cô thừa biết tâm trạng của anh lúc này, và đôi khi cô nghĩ có lẽ cô đã làm anh khó xử nhiều lắm.

Cô không biết cô hay Vũ mới là người may mắn hơn? Một người chiếm được trái tim, còn một người có được thể xác. Nam không yêu cô, hoặc đã từng yêu cô mà thôi, nhưng cô lại không muốn buông tay để anh đi, dù anh có tỏ ra hờ hững và tránh né cô bao nhiêu đi nữa. Suy cho cùng, cô yêu anh cũng có thua gì Vũ đâu, có khi còn nhiều hơn ấy chứ, chỉ có điều Nam lại không chọn cô mà thôi.

Gần đây, gia đình hai bên cứ giục hai người kết hôn, nhưng Nam cứ chần chừ mãi với lý do muốn chữa lành bệnh cho Vân đã rồi mới tính đến chuyện riêng. Anh chưa sẵn sàng kết hôn với cô nên mới lấy lý do này. Cô hiểu điều đó, nhưng không ngăn cản ý định của anh. Cô đã liên hệ giúp anh tìm một thầy thuốc đông y giỏi để chữa cho Vân. Chỉ cần anh đồng ý là sẽ đưa Vân đến chỗ thầy lang đó.

Sang khẽ thở dài. Đúng lúc đó thì Nam bước vào, đưa mắt tìm cô và tiến lại. Anh ngồi xuống ghế, đối diện với cô, mỉm cười:

– Xin lỗi, anh đến muộn. Bị tắc đường mà anh lại để quên điện thoại ở công ty. Em đợi anh lâu chưa?

Đấy, dù không hề yêu cô nhưng anh lúc nào cũng cứ đối với cô như thế, khiến cô không tài nào dứt bỏ được. Cô bị xúc động sâu sắc bởi thái độ chân thật của anh khi anh nói lý do đến trễ.

– Em cũng mới đến thôi. Anh uống gì?

– Em ơi, cho anh một café nâu đá nhé!

– Lạnh vậy mà anh còn uống đá.- Sang nhăn mặt.

– Anh quen rồi. Bên châu Âu còn lạnh bằng mấy thế này đấy chứ.- Anh cười – Mà em nói có chuyện gấp là chuyện gì vậy?

– Em đã tìm được cho Vân một thầy lang rồi. Lần này thử chữa đông y xem thế nào anh nhé!

– Anh sợ mấy ông lang vườn lắm. – Nam lắc đầu – Chữa lợn lành thành lợn què thì chết.

– Nhưng bao lâu nay chữa tây y, rồi tâm lý mà có hiệu quả gì đâu. Cứ thử chữa đông y đi. Người này anh yên tâm được. Cô ấy là bạn cũ của mẹ em đấy. Em hỏi mãi mới biết được địa chỉ của cô ấy. Nếu anh đồng ý thì cứ đưa Vân đến chỗ cô ấy xem thế nào.

– Bạn của mẹ em à? Thế cô ấy ở đâu? Gần đây không?

– Cô ấy người gốc Hà Nội, là bạn thân hồi cấp 3 của mẹ em. Sau khi cả chồng và hai đứa con của cô ấy đều qua đời trong một vụ tai nạn ô tô, cô ấy đau buồn quá bỏ vào trong Tây Nguyên sống. Giờ cô ấy đang ở Kon Tum.

Một thoáng ngần ngừ xuất hiện trên mặt Nam.

– Mới đây mẹ em đã liên hệ được với cô ấy rồi…

– Mình mời cô ấy ra đây không được sao?

– Cô ấy nói phải đưa Vân vào chỗ cô ấy, chứ cô ấy không muốn ra đâu. Vả lại cô ấy nói chỉ ở đó mới sẵn thuốc, chứ về đây không có. Anh cứ đưa Vân vào chỗ cô ấy để cô ấy xem qua xem thế nào.- Sang khích lệ anh.

– Anh phải bàn với cả ba và mẹ nữa, mình anh không quyết định được.

– Mẹ anh sẽ đồng ý thôi mà. Cái chính là ở anh thôi.

– Ừm, nếu ba mẹ đồng ý thì anh không có ý kiến gì cả.- Nam gật đầu- Có một chút hy vọng thì cũng nên đặt niềm tin vào nó.

Sang nhoẻn miệng cười gật đầu. Cô mong hơn ai hết việc Vân sẽ lành bệnh, vì nếu như Vân không lành bệnh, thì Nam sẽ chẳng bao giờ nói đến chuyện kết hôn cả.

Một tuần sau, ba mẹ con Khánh Nam cùng Sang bay vào Sài Gòn, sau đó anh lái xe đưa mọi người lên Kon Tum, nơi người thầy thuốc mà cả nhà anh đều đặt hy vọng vào đang ở. Người thầy thuốc này ở trong một vùng núi tương đối xa trung tâm, giữa những buôn làng người Ê đê và Ba na sinh sống.

Thầy lang Hu Knê – tên mà buôn làng trong vùng đặt cho người phụ nữ gốc Bắc ấy là một người khá nổi tiếng khắp vùng rừng núi Tây Nguyên với những bài thuốc nam thần kì. Chị đến với đất này vào một chiều tháng 5 nắng cháy đỏ lá rừng, khi những người dân trong buôn trở về từ những con rẫy xung quanh.

Đầu tiên chị đến ở nhờ nhà một người dân trong buôn., sau đó thì chị thuê người dựng một căn nhà sàn nhỏ để ở. Vừa đến chị đã thổi ngay một làn gió văn minh đến với buôn làng đầy đói nghèo và hủ tục này. Chị dạy họ cách chăm sóc những đứa trẻ, dạy chữ cho họ và hơn hết, chị có thể đuổi con ma bệnh tật hành hạ họ quanh năm suốt tháng. Với người dân nơi đây, chị như một đứa con thực thụ của núi rừng này vậy.

Thấm thoắt cũng đã hơn hai mươi năm kể từ ngày đầu đặt chân đến vùng đất này, chẳng ai nhớ rõ chị bao nhiêu tuổi và tên là gì, mọi người gọi là bà lang Hu Knê và cái tên đó theo chị suốt những năm tháng qua.

Khi ba mẹ con Khánh Nam và Sang đến, thầy lang Hu Knê đang ngồi phơi lá thuốc ngoài sân. Trông chị già và khắc khổ hơn cái tuổi ngũ tuần của mình. Nếu chị và My Vân ngồi cùng nhau, không hai nghĩ họ là bạn bè cùng tuổi cả. Chị nhận ra ngay những vị khách mới đến này là ai, vì không phải lúc nào cũng có những người như thế này đến với buôn làng xa xôi này. Chị đứng dậy, nhìn người phụ nữ còn trẻ, quý phái nhưng giản dị, chị nhìn tiếp đến một cô bé đang níu chặt lấy tay người phụ nữ ấy. Dừng lại ở cô bé vài giây, chị nhìn đến một cô gái nữa, lần này thì chị giật mình vì cô gái này giống bạn chị như đúc. Đây có lẽ chính là cô con gái của bạn chị ngày trước – My Vân. Người bước xuống xe sau cùng là một thanh niên cao lớn và khá khôi ngô, sáng sủa. Chị đoán hết được tất cả những người đang đứng trước mặt mình lúc này vì bạn chị đã nói rõ trong thư khi gửi thư cho chị rồi.

– Cô Hoài ạ?- Minh Sang lên tiếng trước.

– Ừ… Cháu là con gái Vân phải không? Cháu giống mẹ cháu đấy…

– May quá! Tìm được đến chỗ cô xa thật. Đây là cô Thảo Nhi, anh Nam và con gái cô ấy ạ!

Màn chào hỏi diễn ra nhanh chóng, không nồng nhiệt nhưng cũng không lạnh nhạt. Có lẽ mọi tình cảm đối với người phụ nữ này đều chai sạn hết cả rồi. Sự mất mát đã làm chị trở thành một người trầm lặng đến đáng sợ, không bao giờ vồn vã với bất cứ chuyện gì.

Hai mẹ con Khánh Nam và Sang ngồi nhìn người phụ nữ xem bệnh cho Vân với ánh mắt hy vọng xen lẫn sự hồi hộp. Mỗi người đều theo đuổi một suy nghĩ riêng, nhưng ai cũng mong rằng chuyến đi này có kết quả.

– Bệnh của cháu có chữa được không chị?- Thảo Nhi nhìn chị một cách lo lắng hỏi.

Chị ngẩng đầu nhìn người mẹ đáng thương mà có lẽ vì con cái nên dù còn trẻ nhưng mắt đã đầy nếp nhăn và tóc lốm đốm sợi bạc. Nhìn theo cô gái ngây thơ, cười đùa với anh trai mình bằng ánh mắt của một đứa trẻ, chị khẽ nói:

– Cháu bị lâu chưa?

– Nửa năm nay rồi chị ạ! Vợ chồng em tìm hết những thầy thuốc y khoa giỏi nhất rồi mà cháu nó vẫn cứ thế kia. Phận làm cha làm mẹ sao nỡ nhìn con khổ như thế. Chị xem giúp em, bệnh tình của cháu có cơ may khỏi hay không? Tốn kém thế nào vợ chồng em cũng không ngại đâu.

– Chị tìm đến tận đây thì tôi cũng hiểu cảnh của chị rồi. Con gái chị vừa bị rối loạn tâm lý, vừa bị loạn nhịp sinh học, trở về tâm lý khoảng thời gian khi nó còn là một đứa bé. Trường hợp này thuốc Tây không chữa nổi đâu. Tôi hỏi không phải, trước khi bị thế này cháu nó có bị chấn động tâm lý gì đó phải không?

Khánh Nam giật mình đưa mắt nhìn mẹ mình. Mẹ anh khẽ gật đầu, rưng rưng nước mắt:

– Cũng là do vợ chồng em không đúng nên cháu nó mới thành ra thế. Thôi thì nếu chị có lòng thì chị giúp đỡ vợ chồng em với.

– Tôi không dám hứa trước vì nếu như cháu nhà chị không cố gắng tự hồi phục bản thân thì không có cách nào ép được đâu.

– Thế phải làm thế nào hả chị?

– Tạm thời cứ để cháu ở lại đây. Có lẽ không khí ở đây hợp với cháu hơn. Tôi sẽ vừa cho dùng thuốc vừa châm cứu lâm sàng cho cháu, có khi có cơ hội lành bệnh.

– Ở lại đây ạ? Em ở lại cùng cháu được không?

– Cái đó tùy chị. Nhưng thời gian chữa bệnh có thể sẽ rất dài đấy. Nếu chị tin tôi thì cứ để con bé ở đây với tôi. Chị cứ quay trở về Bắc chăm sóc tốt cho gia đình đi. Nếu cháu hồi phục tôi sẽ báo ngay cho anh chị.

– Em sợ một mình chị chăm sóc con bé hơi vất vả.

– Tôi có ở một mình đâu. Chị và hai cháu cứ yên tâm ra về đi. Còn nếu không chấp nhận để cháu ở lại đây thì tôi cũng đành chịu thôi. Tôi nghĩ còn có rất nhiều người có thể giúp đỡ cho chị và cháu.

– Đã đến đây rồi thì thôi trăm sự vợ chồng em nhờ cả ở chị vậy. Em để cháu lại cho chị, mong chị hãy chữa cho cháu trở lại như ngày xưa.

– Nhưng tôi cũng có việc phiền đến chị và hai cháu đấy.

– Vâng, chị có yêu cầu gì thì cứ nói đi ạ!

– Không phải cho tôi. Hiện nay người có thể cứu con gái chị không phải là tôi, mà là học trò của tôi.

– Sao ạ? Học trò của chị ấy ạ?- Thảo Nhi thốt lên hơi ngạc nhiên.

– Tôi chỉ biết cách chữa mà thôi, còn người cứu được con bé phải là người đi lấy thuốc về cho con bé dùng. Đó là đệ tử của tôi. Hiện tại loại thuốc mà tôi cần dùng chỉ có duy nhất mình cậu ta biết chỗ hái.

– Không có ai ngoài cậu ấy sao thưa chị? Vậy nghĩa là em phải gặp cậu ấy và nhờ cậu ấy đi hái thuốc ạ?

– Cậu ta hiền lành lắm, tôi nói gì là cậu ấy làm ngay. Nhưng tiếc là hiện cậu ta đã đi khỏi đây rồi. Tôi chỉ có địa chỉ nơi cậu ta đang ở nên muốn nhờ chị đến đó nhắn cậu ta về đây giúp tôi một tay.

– Cậu ấy đang ở đâu? Em sẽ bảo cháu lớn nhà em đến đón cậu ấy về ngay. – Thảo Nhi vội hỏi.

– Cậu ấy đang ở trong miền Tây. Ở Vĩnh Long. Tôi sẽ ghi lại cho chị địa chỉ, phiền chị đến đó nhắn cậu ta về đây giúp tôi. Khi đi cậu ấy không cho số điện thoại nên tôi mới phải nhờ vả thế này, chứ đợi thư từ thì lâu quá!

– Vâng… vâng… Chị cứ ghi địa chỉ đi ạ…

Thảo Nhi mừng rỡ đến phát khóc khi cuối cùng, ít nhất cũng có một người nói đến tình trạng khả quan của con gái mình. Nếu như con gái chị thực sự lành bệnh, thì có lẽ cả đời này vợ chồng chị cũng không trả được hết nợ cho người phụ nữ này được.

Tạm biệt người phụ nữ sau khi khóc và đành lòng để con gái ở lại, Thảo Nhi cùng con trai và Sang về Sài Gòn. Khánh Nam đưa mẹ ra sân bay, trấn an bà:

– Mẹ đừng lo. Mẹ cứ về trước đi kẻo ba mong, mọi việc còn lại cứ để con lo là được. Con sẽ vào tận Vĩnh Long đón anh chàng người rừng ấy về.

– Gặp người ta rồi đừng có ăn nói như thế. – Chị nhắc nhở – Mẹ về vài ngày rồi mẹ lại vào. Hai đứa bận quá thì đón cậu ấy về Kon Tum xong nhớ bay về Hà Nội đấy.

– Tụi con nhớ rồi mà mẹ. Thôi mẹ ra máy bay đi.

– Ừm… Hai đứa đi cẩn thận đó.

Khánh Nam đợi máy bay cất cánh rồi mới trở ra xe. Minh Sang cầm tờ địa chỉ trên tay, băn khoăn:

– Đi luôn hả anh? Hơn 400 cây số đấy. Mà giờ lại tối rồi. Hay mình về khách sạn nghỉ đã. Anh lái xe suốt thế rồi, em sợ anh sẽ kiệt sức đấy.

– Vậy cũng được.- Khánh Nam ngần ngừ đôi chút rồi cũng gật đầu. Anh đã quen với việc chiều theo ý của Minh Sang mà không phản ứng gì rồi.

Chương 24: Định mệnh

          Đầu giờ trưa ngày hôm sau thì Khánh Nam và Sang cũng về được đến Vĩnh Long. Địa chỉ mà anh chàng Năm Sơn đang ở cách trung tâm thị xã Vĩnh Long đến hơn 40km. Đó là một cù lao lớn có tên là cù lao Mây, hai người phải gửi xe ở ngoài thị trấn Trà Ôn và đi xuồng vào trong cù lao đó.

Nếu không phải trong lòng đang có việc thì chắc Nam cũng bị cảnh những vườn trái cây ở đây làm cho mê mẩn mất. Quanh cù lao vườn tiếp vườn, cây tiếp cây, hoa quả sai trĩu trịt, xòa cả xuống sát mặt nước. Minh Sang thì liên tục thốt lên vì thích thú với cảnh đẹp mắt này.

Chiếc xuồng ghé vào một bờ kênh có lối đi lên, cậu bé lái xuồng nói:

– Đến nhà ông Hai Triều rồi đó anh chị. Giờ này ổng chắc đang ở ngoài vườn này thu hoạch trái đó.

– Cảm ơn nhóc.- Nam móc ví định đưa tiền nhưng đã bắt gặp cái trợn mắt của thằng bé.

– Trời ơi… Người thành phố giàu quá ha… Cho đi nhờ xuồng mà cũng bày đặt tiền bạc. Anh không cất bóp đi là tui đá đít anh xuống kênh đó.

– Ơ… cảm ơn nhóc nhé! – Nam nhảy lên vườn, đưa tay kéo Sang lên rồi hỏi tiếp- Nhóc tên gì thế?

– Tui tên Chiến, nhưng ba má với mọi người hay gọi tui là Tư Nhái. Tui sống cách đây 2 quãng sông… Thui chào nha, tui về nhà đây.

Khánh Nam suýt phì cười vì cái tên sau mà thằng nhóc nói. Nhưng nó đã cho nổ máy và chiếc xuồng khuất hẳn sau khúc cua, để lại những gợn sóng lăn tăn trên dòng kênh xanh biếc.

Khánh Nam không tài nào rời mắt được vườn trái cây rộng mênh mông này. Mọi thứ thật yên bình và như hớp lấy hồn anh. Anh chưa bao giờ biết ở Việt Nam lại có một thiên đường hoa trái tuyệt diệu như vậy.

– Trời, anh nhìn những cây doi kìa…- Sang reo lên chỉ vào những chùm doi trên những cây gần đó. Mỗi quả đều to bằng cái chén lớn, đỏ chót.- Cả xoài nữa kìa… Ôi thích thế…

– Lúc khác mình sẽ quay lại đây. – Anh nhắc cô – Bây giờ chúng ta có việc gấp mà.

– Ối, em quên mất.- Sang thoảng thốt kêu lên – Em xin lỗi, em quên mất.

– Có lỗi gì đâu mà em cứ xin rối rít lên thế.- Anh phá lên cười.

Nhưng câu chuyện của hai người bị cắt ngang ngay bởi một giọng nói phía sau:

– Cô cậu là ai thế?

Khánh Nam quay lại. Người đang hỏi anh là một người đàn ông trạc tuổi ba anh, trông rất khỏe khoắn, có nước da hơi rám nắng của người lao động. Ông nhìn hai người vừa tò mò, vừa ngạc nhiên, nhưng không một chút nghi ngại hay đề phòng gì.

– Cháu chào chú… – Anh tiến lại phía ông.

– Ủa, cậu là người miền ngoài hả?

– Dạ vâng, cháu từ ngoài Hà Nội vào ạ!

– Cậu đến mua trái cây à? Hay muốn kí hợp đồng làm ăn?

– Dạ không chú ạ! Cháu đến tìm một người tên là Năm Sơn. Anh ấy đang ở đây phải không ạ?

– Anh chị tìm thằng Năm có việc chi?- Ông ta nghi hoặc hỏi.

– Dạ, chính anh ấy đã cho cháu địa chỉ này, nhà chú Hai Triều mà. Anh ấy nói nếu cần tìm anh ấy thì cứ đến đây.

– Tui là Hai Triều đây. Hai anh chị quan hệ thế nào với thằng Năm?

– Dạ, thầy của anh Năm nhờ tụi cháu nhắn tin kêu anh ấy về ạ!

– Người đỡ đầu của nó gọi về hả? Ờ, từ hồi ba má nó mất đến giờ thì chỉ có người đó là tốt với nó. Nếu bà ấy gọi nó về thì nó phải về thôi.

– Anh ấy có nhà không chú?

Không đáp lại anh mà người đàn ông quay người, cất tiếng gọi:

– Út Liên đâu?

– Dạ…- Có tiếng đáp lại dõng dạc và lanh lảnh ở đâu đó.

Khoảng 20 giây sau, một cô nhóc chừng 14, 15 tuổi chạy đến, hai bím tóc lúc lắc một cách đáng yêu. Trên tay cô bé là mấy trái vú sữa.

– Dạ ba gọi con?

– Thằng Năm Sơn có nhà không?

– Dạ không thưa ba… Anh Năm với chị Hai đem hoa quả sang bên chùa Pháp Thiên thắp hương rồi.

– Hai đứa nó lại đi với nhau nữa rồi. Thế tụi nó nói chừng nào về?

– Dạ con không rõ đâu ạ!

Cô bé nhìn Khánh Nam cười rõ tươi rồi đỏ mặt chạy vụt đi.

Người đàn ông quay sang nói với anh:

– Hai cô cậu ráng chờ chút xíu, chắc tụi nhỏ về ngay ấy mà.

– Chùa Pháp Thiên có gần đây không chú?- Khánh Nam vội hỏi.

– Không xa lắm. Đi xuồng chừng 30 phút là đến. Nhưng có gấp đến vậy không? Tụi nó chắc về ngay ấy mà.

– Dạ thôi không cần đợi đâu ạ! Cháu sẽ đến đó tìm anh ấy cho nhanh.

– Hai cô cậu chân ướt chân ráo đến đây làm sao biết đường đi mà đòi đi. Thôi nghỉ chút đi. Chút nữa tui kêu con Út đưa hai người qua đó.

– Dạ, cảm ơn chú nhiều.

– Khách sáo chi. Hai cô cậu còn lặn lội đến tận đây báo tin cơ mà. Cũng tại thằng Năm ở vùng núi sâu quá chứ không đánh mỗi cú điện là đến nơi rồi phải không?

– Hay bác làm ơn gọi cho anh ấy giúp cháu được không ạ?

– Ờ… ờ… đợi tôi chút…

Hai Triều như sực nhớ mới rút điện thoại ra, loay hoay bấm gọi đi. Một hồi sau ông quay lại, mặt buồn thiu:

– Con Hai không bắt máy anh ạ! Thôi nếu gấp thế thì cứ để tôi kêu con Út Liên đưa hai người đến đó. Mà hai đứa này kì cục thật, lúc nào cũng cứ nhất định phải đến tận chùa Pháp Thiên mới chịu…

– Vâng, vậy cháu nhờ chú vậy. Xong tụi cháu còn phải trở về Sài Gòn ngay. Nếu không đem được anh ta về lần này thì em gái cháu chết mất.

– Trời đất… Gì mà nghiêm trọng thế?

– Dạ… vì chỉ có anh Năm mới biết cách hái thứ thuốc mà có thể cứu em gái cháu thôi chú ạ!

– Vậy cậu không nói sớm. Út đâu….- Hai Triều lại cất giọng gọi một lần nữa.

– Con đây ba…- Cô bé lại tất tả chạy đến, mồ hôi lấm tấm đầy trên trán.

– Lấy xuồng đưa hai anh chị đây qua chùa Pháp Thiên tìm anh Năm và chị Hai mau.

– Dạ…- Con bé dạ ran rồi chạy biến đi.

Chùa Pháp Thiên đúng như ông Hai Triều nói, nằm bên một quãng sông vắng, cách đến hơn 30 phút đi xuồng. Nếu tính đường chim bay có lẽ cũng ngắn thôi, nhưng vì phải đi theo những khúc sông, rồi kênh rạch quanh co, chằng chịt nên thành ra đường đi khá xa. Cô bé Út Liên luôn miệng nói về những con nước, những vườn trái cây mà ba người đi qua nhưng Khánh Nam không để tâm lắm.

Khi chiếc xuồng cập bờ, Út Liên nói:

– Đến rồi đó. Đây là chùa Pháp Thiên.

– Anh tưởng nó phải là một ngôi chùa lớn lắm chứ?- Khánh Nam ngẩn ra nhìn ngôi chùa nhỏ nằm giữa một khu vườn cây trái lớn.

Út Liên cười khùng khục với một vẻ rất đáng yêu:

– Chùa Pháp Thiên thật đó anh. Nhưng ba má em nói là nó được dựng từ lâu lắc rồi nên thiêng lắm. Ở đây chỉ có mỗi sư cô thôi. Cũng ít người viếng thăm nơi này lắm vì mới dựng một chùa lớn lắm ở trên thị trấn đó.

– Nhóc đi với anh đi, anh đâu biết anh Năm Sơn mặt mũi ra sao đâu.

Con nhóc cột dây xuồng vào gốc cây rồi nhảy tót lên bờ một cách nhanh nhẹn. Nó đi thẳng về phía ngôi chùa.

Chùa có hai gian. Gian trước có lẽ là nơi thờ tự nên vừa đến gần ba người đã ngửi thấy mùi nhang rất thơm. Còn gian sau có lẽ là nơi ở của vị sư cô ở đây. Một người đang quét lá ở trước sân chùa, thấy ba người bước đến bèn ngừng lại, ngẩng đầu nhìn. Đó là một vị sư nữ.

– Dạ con chào sư cô.- Út Liên lên tiếng trước – Con là con gái ông Hai Triều ở bên cù lao Mây đó sư cô. Con đến tìm anh Năm Sơn và chị Hai con.

– Mô phật. Hai vị thí chủ đó đã rời chùa rồi.

– Rời chùa ạ?- Nam thốt lên đầy thất vọng – Đi lâu chưa thưa sư cô?

– Cũng được chừng nửa giờ rồi. Sáng hai vị đó qua đây giúp nhà chùa thu hoạch trái cây xong, vừa lên đường về ngay, nghe nói ở nhà có việc gấp.

– Trời đất. Chắc chị Hai đi đường khác rồi nên tụi con mới không gặp. – Út Liên lắc lắc hai bím tóc.- Mà năm nay thu được nhiều trái cây không sư cô?

– Nhờ Phật độ trì nên năm nay hoa trái nhiều. Các vị có muốn mang lộc chùa về nhà thì xin đợi một chút, tôi kêu Diệu Hư mang cho các vị ít trái cây.

– Dạ, cám ơn sư cô, bọn tôi sẽ ghé qua lần sau, giờ chúng tôi phải quay về vì có việc rồi.- Khánh Nam vội lắc đầu từ chối mặc dù anh bắt đầu dần yêu mến vẻ thanh tịnh của nơi này.

– Thưa sư cô con về.- Út Liên khoanh tay chào rồi vội đuổi theo Khánh Nam và Sang.

Mất thêm nửa giờ nữa ba người mới quay lại được về vườn trái cây của nhà Út Liên. Nhưng vừa về đến nơi đã lại nghe thấy Hai Triều la lên:

– Trời đất đi kiểu gì mà không gặp nhau hoài vậy?

– Anh Năm với chị Hai đâu ba? Tụi con đến thì sư cô nói hai người đã về rồi mà.

Hai Triều nhìn Khánh Nam phân trần:

– Hai người vừa đi thì con Hai điện lại cho tui. Tui nói có việc gấp nên tụi nó nói về ngay. Tui chạy theo gọi hai người lại mà đã đi mất rồi. Lẹ quá!

– Anh Năm Sơn đâu rồi bác?

– Lại không gặp tụi nó phải không? Con Hai vừa theo thằng Năm lên thị trấn bắt xe về Kon Tum rồi.

– Sao ạ?- Nam lại thêm một lần nữa rơi vào hoàn cảnh dở khóc dở cười này.

– Thì tui nói anh đến tìm nó vì có việc nhắn từ Kon Tum nên nó vội đi ngay. Con Hai theo nó lên đó chơi rồi. Tui kêu đợi hai người quay lại mà nó đi ngay cho kịp chuyến xe chiều lên thẳng Kon Tum ở trên phố đó.

– Họ đi lâu chưa chú?

– Nửa giờ trước. Nhưng hai người đi kiếm vô ích thôi. Xe đò đi cách đây 15 rồi.

Khánh Nam hơi lúng túng vì chẳng biết nên làm gì lúc này. Sang cười:

– Thôi anh ta về Kon Tum là được rồi. Mình về lại thị trấn kiếm chỗ nghỉ ngơi rồi mai lên lại đó là được mà.

Thế là cả hai tạm biệt gia đình Hai Triều và quay lại thị trấn để về Sài Gòn ngay, sau khi đã lái xe cả quãng đường rất dài mà kết quả thu được có vẻ như là không được như ý của anh lắm. Rốt cục thì anh vẫn không gặp và đón được Năm Sơn theo đúng ý của mẹ anh.

Chương 25: Tìm lại

          Do bị kẹt trong một cuộc họp ban quản trị phía Nam của Lotus nên mãi hai ngày sau Khánh Nam và Sang mới lên được Kon Tum. Cả hai đều nóng lòng muốn biết liệu cái anh chàng Năm Sơn đó đã về đến nơi hay chưa và tình hình của Vân liệu có hy vọng hơn hay không?

Nhưng theo lời cô Hoài kể thì anh ta đã tức tốc vào rừng ngay sau khi về đến nơi. Khánh Nam thấy cảm động trước tấm lòng đầy nhiệt tâm của anh ta. Suy cho cùng thì em gái anh cũng chỉ là người xa lạ với cả anh ta và cô Hoài, nhưng họ có khi nào suy nghĩ tính toán thiệt hơn đâu. Năm Sơn đi khá lâu mà mãi không có hồi âm gì. Khánh Nam không thể đợi thêm để gặp anh ta nữa, anh phải về lại Hà Nội lo công việc, để mẹ anh trở vào đây chăm sóc cho Vân.

Đêm cuối ở lại Kon Tum, Khánh Nam không thể ngủ được. Đã gần hai giờ sáng, bên góc kia mọi người đã đều ngủ say. Gió núi lùa vào làm anh thấy hơi lạnh. Anh cứ suy nghĩ mãi về những con người kì lạ quanh mình. Phượng Vũ kiêu hãnh và đầy lòng tự tôn. Một anh chàng Việt chấp nhận quên mọi thứ một cách lạnh lùng. Một người thầy thuốc tận tâm đến kì lạ. Cách mà những người đó sống làm anh thấy cuộc sống còn quá nhiều lạ lẫm mà anh chưa bao giờ khám phá hết.

Đến gần ba giờ sáng thì Khánh Nam mới chợp mắt được một chút. Trong giấc ngủ anh mơ thấy một mùi hương thơm nhè nhẹ, dễ chịu, nhưng hình như đó không phải là mùi hương hoa hoàng lan như anh vẫn mơ trong những giấc ngủ êm dịu trước đây…

Sáng hôm sau, không chỉ Nam mà cả Sang và cô Hoài cũng ngạc nhiên khi Vân hớn hở đem khoe một chậu hoa nhỏ được đặt trên bậc thang. Đó là một thứ hoa màu vàng thanh thoát, thân mềm, mùi hương của nó chính là hương thơm đêm qua anh đã ngửi thấy. Có ai đó đã đến đây đêm qua.

– Lại thêm một đóa hoa nữa… – Cô Hoài cứ nhìn mãi chậu hoa mà Vân đang ôm trong lòng đó lẩm bẩm.

– Đó là hoa gì vậy thưa cô? – Khánh Nam tò mò.

– Hoàng Thạch Liên, loài hoa kì bí nhất của vùng Tây Nguyên này.

– Kì bí? Nó không độc hại gì chứ cô?- Khánh Nam nghi ngại hỏi khi nhìn thấy Vân cứ ôm ấp đóa hoa mãi.

– Ngược lại… Nó đem lại mọi sự may mắn cho người có nó. Tôi thực sự cho rằng em gái cậu là người may mắn đấy. Đây là một cây thuốc có thể chữa bách bệnh.

– Thật ạ? – Anh thốt lên.

– Tôi được nhìn thấy nó lần này là lần thứ hai đấy. Lần trước học trò của tôi đã đem về một cây, và tôi đã chế nó thành thuốc chữa bệnh rồi. Có lẽ em cậu sẽ khỏi sớm thôi.

– Ai đã mang cây này đến ạ, nếu nó đã quý và hiếm như thế?

– Phải là người có duyên hoặc là người thực sự đang cần một may mắn thì mới có thể gặp được loại hoa này. Có lẽ cậu ta mang nó về đây, tôi vừa thấy trên cái sàng phía sau nhà có rất nhiều lá thuốc.

– Vậy anh ta đi đâu rồi ạ?

– Cậu ấy như cánh chim lớn của đại ngàn ấy mà, chẳng bao giờ tôi biết cậu ta đi đâu và khi nào trở về.

Khánh Nam thần người ra trong vài giây để nghĩ đến con người kì lạ kia. Anh ta có vẻ bí ẩn một cách lạ lùng. Rốt cục thì đó là con người như thế nào nhỉ?

Khánh Nam và Sang trở về Hà Nội với một niềm tin cực kì lớn là Vân sẽ mau chóng bình phục trở lại. Công việc lại cuốn hai người về lại với vòng quay của cuộc sống, với những lo toan và bộn bề cảm xúc. Lúc này bà nội Nam trở nên yếu hẳn và bà lúc nào cũng giục anh và Sang nhanh chóng kết hôn.

Khánh Nam đã không thể chần chừ lâu hơn được nữa, khi mà sức ép từ mọi người ngày càng gia tăng, và quan trọng hơn cả là tình hình bệnh của Vân tiến triển khá nhanh và tốt. Mẹ anh đã ở trong đó nhiều ngày để chăm sóc cho con gái. Bà dự định sẽ trở ra cùng Vân trong vòng một hoặc hai tháng tới.

Ngày Vân lành bệnh, không chỉ anh mà cả ba anh cũng lên Kon Tum để đón mẹ và em gái anh trở ra Bắc. Niềm vui đoàn tụ cùng với niềm vui tìm lại được đứa con gái yêu quý làm cho Hải Long không cầm nổi những giọt nước mắt hạnh phúc.

Buôn làng ở đây đã quá quen với Vân đến nỗi, ngày cô đi, mọi người đến chào rất đông. Vân đã lành bệnh, nhưng chẳng còn vô tư hồn nhiên như ngày xưa nữa. Cô trông hiền hơn, trầm lặng hơn, và trưởng thành hơn.

– Cô Hoài. – Khánh Nam nói với người thầy lang tốt bụng một mực từ chối lời đề nghị trở ra Bắc của bố mẹ anh – Cháu rất cảm ơn cô. Cháu rất tiếc là cô không muốn ra Hà Nội. Sắp tới chúng cháu sẽ kết hôn, cô không thể phá lệ được ạ?

– Ồ, tôi thì có công trạng gì đâu. Hai cô cậu kết hôn tôi nhất định sẽ gửi quà mừng. Còn ra Hà Nội thì có lẽ là không được rồi.

– Vậy còn Năm Sơn? Cô biết anh ấy ở đâu chứ?

– Tôi vẫn chưa có tin gì của cậu ta cả.

– Cậu ta hả?- Người già làng lên tiếng- Cậu ta vào miền Tây rồi.

– Sao cụ biết ạ?- Cô Hoài tỏ ra ngạc nhiên.

– Dạo trước chính cậu ta nói thế mà. Đi cùng một cô gái đẹp lắm, vào miền Tây rồi.

– Cụ có gặp cậu ta ư ? Khi nào vậy?

– Dăm tháng trước đó. Một đêm cả nhà ta đang ngủ thì cậu ta cùng cô gái đến, xin ở nhờ. Cậu ta bị thương ở chân. Ta hỏi sao cậu ta không về nhà thì cậu ta không nói. Nghe nói cậu ta bị ngã từ trên núi xuống khi đi hái thuốc. Ở với ta được hai tuần lễ thì cậu ta đi cùng cô gái kia.

– Nó bị thương ư? – Cô Hoài lẩm bẩm rồi khẽ tự trấn an mình – Thôi, chắc chẳng sao đâu. Anh chị với các cháu lên đường đi kẻo muộn.

Sau những cái ôm hôn chia tay giữa những người phụ nữ, cả nhà Khánh Nam lên đường trở về. Sau bao nhiêu sóng gió thì bây giờ có vẻ như mọi chuyện đã bình yên hơn.

– Anh làm gì mà ngồi thất thần thế? – Sang ngồi xuống cạnh anh, mắt vẫn không rời cuốn tạp chí thời trang giới thiệu những bộ thiết kế cho mùa cưới này.

– À… Em chưa ngủ sao? Sáng mai phải lên máy bay về Hà Nội rồi đấy.

– Anh cũng có ngủ đâu.- Cô ngẩng đầu nhìn anh bướng bỉnh đáp.

– Anh cứ nghĩ mãi về Năm Sơn. Anh ta kì lạ quá!

– Em cũng thấy thế. Hay sáng mai đưa ba mẹ anh ra sân bay xong mình lại về miền Tây lần nữa đi. Em thấy thích nơi đó lắm. Về đó tìm và cảm ơn anh ta một câu.

– Ừ… – Anh gật đầu cười, Sang nghĩ thật giống anh.

Anh cần một người con gái chu toàn như thế làm hậu phương cho mình. Khánh Nam tự trấn an mình như thế coi như là một lý do để chấp nhận cô. Lễ cưới của hai người sẽ tiến hành không bao lâu nữa.

Điều làm anh bất ngờ nhất chính là việc ba mẹ anh đề nghị anh đưa Vân đi theo cho vui. Con bé cần được chăm chút hơn, và với Vân, Khánh Nam là một người cực kì quan trọng.

Phản ứng của Vân cũng không khác gì Sang khi lần đầu tiên đến với miền cù lao này. Cô cứ liên tục há hốc mồm, rồi rối rít chỉ những chùm chôm chôm hay những trái xoài vàng mọng lòa xòa xuống mặt nước.

Xuồng cập bến chỗ nhà Hai Triều, đúng cái chỗ mà ngày trước cậu bé Tư Nhái cho Nam và Sang lên bờ. Vân thích thú nhảy lên bờ, reo hò như một đứa bé đứng giữa vương quốc kẹo ngọt. Người đầu tiên mà cả ba gặp lúc này không phải là chú Hai Triều hay Út Liên, mà là một cô gái tuổi chừng mười tám, đôi mươi, má hồng, da trắng đang ngồi đọc sách dưới một gốc cây chôm chôm.

Thấy ba người, cô gái ngẩng đầu nhìn, ngạc nhiên lắm. Cô ta có lẽ cũng là con gái của Hai Triều vì trông khá giống Út Liên. Rồi gập sách lại, cô ta đứng dậy tiến lại hỏi:

– Anh chị tìm ai vậy?

– Chào cô, chúng tôi đến tìm anh Năm Sơn.- Khánh Nam mở lời trước.

– Anh Năm không có nhà, có chuyện gì không?

– Ồ, chúng tôi chỉ đến để gặp anh ấy cảm ơn một vài chuyện thôi. Anh ấy sắp về chứ ạ?

– Chắc vậy. Anh chị vô nhà đi.

Cô gái quay người dẫn đường cho cả ba.

Vừa ngồi được một chốc thì có tiếng nói từ ngoài sân:

– Chú Hai đi đâu rồi Lan ơi?

Giọng nói đó vừa cất lên, không chỉ Khánh Nam nhảy dựng lên mà Vân cũng đánh rơi cả chén nước đang đưa ngang lên miệng.

Người bước vào là Việt.

Hai bên nhìn nhau trân trân, không ai nói gì. Chỉ có Sang và cô gái kia là không hiểu gì.

– Anh Năm về hả? – Cô gái chạy lại túm lấy cánh tay anh- Sao toàn mồ hôi vậy? Lại giúp sư cô chuyện gì phải không? Có khách đến tìm anh đó.

Nhưng Việt – hay chính là Năm Sơn cũng như là Khánh Nam và Vân, lúc này đều đang hóa đá vì sự xuất hiện đường đột của đối phương.

Khánh Nam chưa bao giờ dám nghĩ rằng lại gặp lại Việt trong hoàn cảnh này.

Không phải ai khác, anh ta lại chính là ân nhân của gia đình anh.

Là định mệnh?

Hay là sự sắp đặt trớ trêu của ông trời?

Những người yêu nhau chân thành dù có cách trở bao lâu rồi cũng tìm lại được về bên nhau.

– Anh…- Vân đứng dậy lắp bắp, vừa mừng vừa kinh ngạc – Đúng là anh rồi…

Và cô chạy vù đến, gạt Hai Liên ra, ôm chầm lấy người yêu.

– Em tìm thấy anh rồi.

Việt, ở cái tuổi ngoài 30, trông khác hơn một chút so với ngày xưa. Anh trông đen hơn, già hơn và mắt buồn hơn cả ngày xưa.

Một nét đau đớn thất vọng vụt qua trên gương mặt Hai Liên, và cô gái quay người chạy ra ngoài.

Việt chết đứng trong vòng tay của Vân. Anh nghe rõ trái tim đang đập nhanh thế nào. Và anh cảm nhận được cả những giọt nước mắt nóng hổi của Vân thấm trên ngực mình. Người con gái anh yêu bằng cả tính mạng của mình giờ đây lại đứng trước mặt anh, như một phép màu, và cũng như một trò đùa kì lạ của số phận.

– Xin lỗi.- Việt cuối cùng cũng nhẹ nhàng lên tiếng và gỡ vòng tay của Vân ra.- Không ngờ là lại gặp mọi người ở đây.

– Hóa ra người đó là anh. – Khánh Nam vẫn có vẻ như không chấp nhận được cái sự thật rằng người đứng trước mặt anh bây giờ chính là Việt.

– Phải… Chỉ là tôi không muốn có thêm rắc rối nên…

– Sao anh lại bỏ đi chứ?- Vân vẫn đứng chắn trước mặt anh, hỏi dồn- Em là gánh nặng của anh sao? Em đã nói có chuyện gì thì cũng phải cùng nhau giải quyết mà.

– Anh xin lỗi, Trác Vân…

– Được rồi.- Khánh Nam đứng dậy- Tôi có chuyện muốn nói với anh. Vân, em để anh Hai nói chuyện với anh ấy chút. Yên tâm đi, anh sẽ không để anh ấy chạy mất đâu. Em ở lại với Sang nhé!

Hai người, Khánh Nam và Việt đi ra phía vườn cây và ngồi xuống một bàn uống trà đã được kê sẵn. Khánh Nam im lặng nhìn anh ta pha trà, rót nước, hồi lâu sau anh mới lên tiếng:

– Tại sao anh phải chạy trốn như thế chứ?

– Xin lỗi, nhưng tôi không còn cách nào khác.

– Chính anh đã cứu nó. Anh định giấu cả điều này sao?

– Vì tôi mà cô ấy thành ra như thế…

– Không phải vì anh đâu. Em tôi bị như thế, chuyện của hai người đứt đoạn là vì sự ích kỷ của gia đình chúng tôi. Bây giờ anh nên quay trở lại đi.

– Tôi không thể!

– Sau tất cả những gì anh đã làm, anh yêu nó hơn cả mạng sống của mình, anh nghĩ rằng chúng tôi còn đủ nhẫn tâm để chia rẽ hai người hay sao? Anh bị thương vì nó. Yêu nó nhưng chỉ dám lén lút về thăm nó mỗi đêm. Những điều đó anh còn muốn giấu sao?

– Tôi sợ lại làm tổn thương cô ấy một lần nữa. Cuộc sống của tôi ở đây rất tốt.

– Anh vẫn còn chưa hiểu à? Hành động vừa rồi của em gái tôi mà anh còn cố tình làm ngơ sao? Anh thấy nó yêu anh đến phát điên rồi cơ mà. Anh từ bỏ được sao?

Khánh Nam đứng dậy, quả quyết:

– Bây giờ tôi đi gọi điện về cho ba mẹ tôi. Biết tin này tôi nghĩ họ sẽ cảm động lắm. Anh lo đi tìm Vân và xin lỗi nó đi.

Nam nói và đi ra một chỗ để gọi điện thoại về cho ba mẹ, nói rõ mọi chuyện. Nói chuyện xong, định quay trở vào nhà thì anh bỗng nghe thấy tiếng khóc đâu đó.

Ngồi thu lu dưới gốc cây chính là Hai Liên, lúc này mặt đã nhòe nhoẹt nước. Anh ngồi xuống đối diện với cô ta, nói:

– Cô nên chúc mừng cho họ chứ.

– Tôi không thể? Tôi yêu anh ấy, tôi đã nghĩ là chúng tôi sẽ cưới nhau…

– Cô biết thừa là trong tim anh ấy không có cô mà.

– Tôi biết. Ngay từ lúc anh ấy xuất hiện ở đây tôi đã biết chuyện đó. Tôi cứ nghĩ rằng không thuyết phục được chị Diệu Hư thì anh ấy sẽ bỏ cuộc và chấp nhận tôi. Hóa ra người anh ấy yêu là cô ấy chứ không phải chị Diệu Hư…

– Diệu Hư?- Khánh Nam cau mày, hình như anh đã nghe thấy cái tên này ở đâu đó.

– Là bạn của anh ấy. Mỗi ngày họ đều gặp nhau, tôi cứ ngỡ chị ấy là người anh ấy yêu…

– Em gái tôi và Năm Sơn đã qua rất nhiều đau khổ, đã đến lúc cho họ một cái kết có hậu. Cô đã từng theo anh ta lên Kon Tum dạo trước đúng không?

– Đúng vậy…

– Cô đã chứng kiến anh ta bất chấp nguy hiểm thế nào để tìm thuốc cứu chữa cho người con gái mà anh ta yêu. Đến tôi còn bị cảm động nữa là…- Khánh Nam lắc đầu thở dài.- Cô nên quên chuyện này đi. Cô còn trẻ, mà lại đẹp nữa, sẽ còn rất nhiều người muốn theo đuổi cô mà.

– Tôi hiểu.

– Hôm nay chúng tôi phiền gia đình một bữa cơm nhé!- Anh nhoẻn miệng cười đứng dậy.

– Anh đừng ngại. Ba tôi biết nhà có khách sẽ về ngay thôi. Tôi đi chợ mua rau làm cơm, mọi người cứ ở lại nghỉ ngơi đi nha.

Hai Liên chầm chậm bước về phía buộc dây xuồng của gia đình, ánh mắt thực sự buồn, nhưng có lẽ cô sẽ quên nhanh thôi.

Chương 26: Cõi tu hành

          Không phải dễ để có thể thuyết phục Việt ra Hà Nội chuyến này cùng ba người vì những tổn thương và định kiến dành cho anh trong quá khứ, có lẽ Việt không bao giờ quên được. Tình cảm của Vân dành cho anh cuối cùng cũng lay động được trái tim vốn đã chai sạn của anh. Việt đồng ý ra Hà Nội để gặp bố mẹ cô thêm một lần nữa, thêm một lần thuyết phục họ hãy tin và giao Vân cho anh.

Hai Triều cũng thất vọng lắm vì đôi khi ông đã hy vọng rằng con trai của bạn ông – Năm Đại Bàng sẽ kết hôn với con gái lớn của ông như hai người đã hẹn năm xưa. Nhưng khi nghe kể về câu chuyện của Việt và Vân, ông đã cảm động đến độ phải nắm tay và chúc phúc cho họ. Ông nghĩ rằng như vậy là quá đủ đau khổ cho một đời người rồi.

Bữa cơm trưa trước khi bốn người lên xe về Sài Gòn đang diễn ra đầm ấm và đầy vui vẻ thì Út Liên đi xuồng về. Nó đã đi từ sáng sớm và giờ mới về. Vừa ngồi vào mâm nó đã liến thoắng:

– Con với Tư Nhái vừa từ chùa Pháp Thiên về ba ạ! Chị Diệu Hư gửi lời chào anh đó anh Năm, sao anh không đến chào chị ấy một câu.

Nó chợt im bặt khi nhìn thấy cái lừ mắt của ba và nó len lén nhìn phản ứng của Việt cũng như của Vân.

– Diệu Hư là ai vậy anh? – Vân tò mò hỏi.

– Một người bạn của anh. – Việt đáp gọn lỏn.

– Đó là lý do anh Năm hay qua chùa Pháp Thiên mà. Anh ấy qua đó để chơi với chị Diệu Hư… – Út Liên lại nhanh nhảu chen ngang.

– Bạn của anh là một ni cô hả? – Vân tròn mắt vẻ ngạc nhiên.

– Chưa? Cô ấy chưa xuống tóc. Cô ấy vẫn đang trong thời gian chờ được xuống tóc.- Việt càng lúc càng tỏ ra bối rối hơn.

– Thế thì anh cũng nên đến chào chị ấy một tiếng trước khi đi chứ? – Vân nhắc.

– Ừ, chút anh qua đó chào cả sư cô Diệu Thanh và Diệu Hư luôn.

– Cho em đi với nhé! – Vân cười.

– Ừ.

– Anh Hai đi không anh Hai?- Vân quay qua hỏi Khánh Nam.

– Không. Anh ở đây đợi hai người. Đi nhanh rồi về để còn về thành phố nữa.

– Lần trước mình có hứa với sư cô ở đó sẽ ghé lại thăm mà. Hay cứ đến đó chào họ một câu di anh.- Sang nhắc.

Khánh Nam khẽ ngần ngừ rồi ừ hữ:

– Ừm, vậy cũng được.

Việt sẽ không bao giờ quên được người con gái có tên Diệu Hư mà trước đây anh từng biết đến qua một cái tên khác nữa: Phượng Vũ. Đó thực sự là một người gặp một lần là không thể quên.

Khi nhận được thư của cô báo là cô đã đến miền Tây và đã tìm được một chỗ thực sự thích hợp cho mình, anh cảm thấy mừng cho cô. Nhưng rồi khi bước chân vào ngôi chùa đó, anh mới thực sự hiểu ý định của cô. Phượng Vũ muốn dứt bỏ hồng trần mà đi tu tại chốn yên bình này.

Cô đã gặp sư cô Diệu Thanh khi cô lang thang đến đây. Lúc đầu cô chỉ có ý định vào để thắp hương cho bố mẹ cô. Nhưng đến nhiều lần, nghe được những bài kinh của sư cô, Phượng Vũ đâm ra cảm thấy đây thực sự là nơi thích hợp với mình. Cô có thể ngày ngày đọc kinh, nguyện cầu cho bố mẹ cô, cho đứa bé năm xưa chết trong bụng cô và cho những người cô yêu thương. Nơi đây cô sẽ không phải bận tâm đến hỉ, nộ, ái, ố. Cô xin sư cô cho được xuống tóc tại chùa, nhưng sư cô nói cô cần phải ở một thời gian, xua bỏ mọi tạp niệm trong người rồi mới có thể cho cô xuống tóc được. Sư cô đặt cho cô pháp danh là Diệu Hư.

Tính ra Phượng Vũ đã ở lại đây được hơn 4 tháng rồi, đã thấm đủ kinh Phật rồi, tâm đã tĩnh lắm rồi. Trong thời gian đó, Việt liên tục đến tìm cô, trò chuyện với cô, thuyết phục cô hãy suy nghĩ thật kĩ trước khi quyết định. Anh thậm chí còn sống hẳn tại miền Tây với hy vọng một ngày nào đó cô sẽ thay đổi ý định. Nhưng bốn tháng qua đi, mọi sự cố gắng của anh trong việc thuyết phục cô đều trở nên vô nghĩa.

Khi đoàn bao gồm Khánh Nam, Sang, Việt, Vân và Lan đến chùa thì trời đã chuyển sang chiều. Nắng chiếu loang loáng trên những phiến lá còn ướt của trận mưa cách đó một giờ đồng hồ. Sư cô Diệu Thanh đang quét lá ngoài sân, y hệt cảnh tượng lần đầu khi Khánh Nam và Sang đến đây tìm Việt hai tháng trước.

Chậm rãi nhìn cả nhóm, sư cô chắp tay cúi chào. Nhìn lại thì vị sư cô này thực sự còn trẻ chứ chưa hề già. Sư cô mặc nguyên bộ quần áo nâu cũ kĩ, trên đầu đội nón vải nên trông già đi nhiều. Nhìn kĩ, ai cũng nhận ra làn da trắng, đôi mắt đen huyền tròn và to, đôi môi nhỏ xinh và vầng trán cao. Ngay cả khi trong bộ đồ tu hành, Khánh Nam cũng nhận thấy vị sư cô này quả thật là rất đẹp.

– Tôi đến chào sư cô và Diệu Hư, chút nữa tôi về Sài Gòn rồi.- Việt lên tiếng trước.

– A di đà Phật, chúc thí chủ và những người bạn đồng hành lên đường thượng lộ bình an. Hy vọng sẽ có ngày thí chủ quay lại thăm chùa.- Sư cô cúi đầu hành lễ.

– Tôi muốn gặp Diệu Hư một chút có được không sư cô? – Việt đề nghị.

– Diệu Hư đã về chùa chính theo sư bác ở bên đó rồi.

– Cô ấy đã xuống tóc rồi sao? – Việt tái mặt hỏi.

– Người có duyên thì đi bao xa cuối cùng cũng dừng chân nơi cửa Phật. A di đà Phật.

Một chút buồn, một chút thất vọng và một chút bối rối hiện lên trên vẻ mặt của Việt lúc này.

– Vậy tôi sẽ quay lại sau. Diệu Hư sẽ quay về đây chứ sư cô?

– Tuần sau sẽ quay lại.

– Vậy thôi, đã làm phiền sư cô rồi. Chúng tôi phải đi đây. Chào sư cô, sư cô cho tôi gửi lời chào đến Diệu Hư vậy.

Sư cô Diệu Thanh chắp tay cúi đầu chào một lần nữa trước khi cả nhóm của Khánh Nam quay người đi ra phía buộc xuồng.

Việt ngẩng đầu nhìn những tán lá thở dài: “Có lẽ định mệnh của cô ấy là gắn bó với nơi này. Chúc cô bình an, Diệu Hư.”

Hai tuần sau, cả gia đình Khánh Nam bắt đầu bận rộn chuẩn bị cho lễ cưới của anh và Sang. Mọi người đã chấp nhận Việt như một thành viên trong gia đình. Và chỉ đợi Vân học xong là cả hai sẽ kết hôn. Việt được sắp xếp cho đi học một lớp học đông y vì anh thực sự có khiếu trong nghề đó.

Chương 27: Lối mòn của quá khứ

          Khánh Nam dừng xe trước ngôi nhà của Vũ – ngôi nhà mà cô đã từng lớn lên. Cô đi rồi, nhưng bước chân anh vẫn đều đặn đến đây, để thắp hương cho cha mẹ cô hàng tháng. Anh tự cho đó là một trách nhiệm mà bản thân anh phải làm cho tốt. Anh đặt bó hoa lên bàn thờ và bắt đầu thắp hương rồi cắm lên hai bát hương bên trên.

– Chú Khánh- Anh lẩm bẩm- Cháu không thể chăm sóc cho cô ấy như đã hứa với cô chú rồi. Cháu cũng không ngăn được bước chân cô ấy rời xa cháu. Cháu xin lỗi.

Anh đứng tần ngần mãi trước hai tấm di ảnh đó như một đứa trẻ đang đứng hối lỗi, rồi anh nói với Việt- người anh đã kéo đi cùng đến đây.

– Cô chú ấy là bạn thân của ba mẹ tôi. Tôi và con gái họ từng yêu nhau… Đó là quãng thòi gian đẹp nhất mà tôi từng sống.

– Hóa ra cậu chính là người đó à?- Việt nói một câu khiến anh phải giật mình quay lại.

Phía sau anh, Việt vẫn đang nhìn chằm chằm vào hai tấm di ảnh, mặt anh ta hơi tái đi.

– Anh bị sao thế? Trông mặt anh sợ quá!- Nam lo lắng hỏi.

– Trái đất quả là tròn. Thì ra người đó chính là cậu.

– Người nào?

– Cậu chính là người mà Diệu Hư hay nhớ tới, chính là cậu?

– Diệu Hư?- Khánh Nam giật mình, đôi lông mày của anh giờ đã cau tít lại.- Khoan đã, anh nói rõ hơn được không? Tôi chẳng hiểu gì cả.

– Hai người này giống hệt với hai người trong bức ảnh mà Diệu Hư đặt ở chùa. Cô ấy nói họ là ba mẹ của cô ấy, đã qua đời vì tai nạn. Cô ấy muốn vào chùa để đọc kinh cầu khấn cho họ nhanh được đầu thai sang kiếp khác.

– Sao?- Khánh Nam nói như hét, và anh túm chặt lấy vai Việt- Anh nói gì? Anh nói Vũ chính là cô Diệu Hư đang tu ở chùa Pháp Thiên đó sao?

– Cô ấy tên là Phượng Vũ.

Một cái gì đó đau điếng rớt cả lên người Nam khiến anh ngạt thở. Anh loạng choạng lùi lại phía sau vài bước và rồi tì người hẳn vào thành một ngôi mộ khác.Tim anh đập loạn lên trong lồng ngực. Tại sao số phận cứ đùa với anh như vậy? Tại sao anh không thể gặp cô dù đã ở rất gần cô?

Việt kể cho anh nghe anh ta đã gặp và quen cô như thế nào, rồi cô đến chùa Pháp Thiên ra sao, càng kể anh càng thấy đau, càng muốn hét thật lớn lên, chứ không lồng ngực của anh sẽ vỡ ra mất.

Anh, cuối cùng, đã tìm được cô, nhưng theo cái cách mà anh không bao giờ dám nghĩ đến. Cô rồi sẽ ở ngay trước mặt anh đó, nhưng mà xa vời đến mức anh có nằm mơ cũng không bao giờ thấy được. Anh nhớ như in hình ảnh của sư cô Diệu Thanh, và rồi sẽ có cả hình ảnh của một Diệu Hư y như thế.

– Giờ thì muộn rồi.- Việt lắc đầu thở dài- Chính tai cậu cũng nghe sư cô nói rằng Diệu Hư đã chính thức vào cửa Phật. Còn cậu thì ngày mai đã cưới rồi. Hai người cũng đã kí tên vào tờ đăng kí kết hôn, cậu không thể thay đổi được gì đâu. Có lẽ cũng là số phận, rõ rang cậu đến đó hai lần mà không gặp được cô ấy.

– Được rồi… Tôi hiểu ý anh…- Nam chậm rãi đáp- Ý anh là tôi không cần phải chạy ngay vào đó chứ gì? Thôi đi về đã…

– Cậu không sao đấy chứ?- Việt giật mình hỏi.

– Tất nhiên là tôi không sao.- Nam nhún vai một cách bình thường nhất.- Nhưng giờ tôi cần một ly rượu. Anh muốn đi uống với tôi chứ?

– Tôi phải về đưa Vân và mẹ cậu đi đến vài chỗ.- Việt lắc đầu.

– Không sao. Tôi sẽ đi một mình.

Khánh Nam biến mất từ phút đó. Bữa tiệc tối hôm ấy anh vắng mặt. Ba mẹ anh phải cáo lỗi với mọi người vì lý do anh có chút bận không thể đến được. Chỉ có họ, Việt và Sang biết anh không hề bận gì cả vì anh thậm chí đã tắt máy và để xe ô tô ở nhà.

Người tìm ra anh là chú Trung, người chú, người bạn, người đồng hành tốt bụng luôn theo sát bước chân anh bấy lâu nay, khi anh đang ngồi thu lu trong một góc tối ở quán cafe Jimmy. Hiện quán đang trong thời gian sửa chữa nên không ai nghĩ rằng anh sẽ đến đây.

– Ngày mai lấy vợ rồi mà giờ còn ngồi đây à chàng trai?- Chú vỗ vai anh một cách thân mật.

Khánh Nam ngước mắt lên, đôi mắt lờ đờ, bên cạnh anh, ba chai whisky giờ chỉ còn lại vỏ rỗng. Anh nấc lên một tiếng rồi cười đầy vẻ chua chát và mệt mỏi:

– Bữa tiệc xong rồi à chú?

– Ừ, nhân vật chính không có mặt thì tiệc cũng nhanh tàn thôi.- Chú ngồi bệt ra, duỗi chân một cách thoải mái cạnh anh.

– Cháu xin lỗi.

– Vì chuyện gì?

– Cháu hèn quá!

– Đó không phải là hèn. Đó là mù quáng. Cháu có thể là người đàn ông dày dạn trên thương trường, nhưng trong tình cảm cháu lại quá non nớt nên mới để bị nó chi phối nhiều đến thế.

– Nói đúng hơn cháu là một thằng thất bại trong tình trường đúng không chú?

– Dùng từ đó chú nghĩ là quá nặng.- Trung lắc đầu nhìn chàng thanh niên mà anh đã coi như con đẻ của mình bao năm nay.

– Chú uống không?

– Không… Và chú nghĩ cháu uống như thế cũng đủ rồi.

– Thế mà cháu chẳng say được… Chẳng quên được chú ạ!

– Cháu uống giỏi như ba cháu đấy.- Trung cười nửa đùa nửa thật.

– Cháu còn kém ba cháu nhiều lắm chú ạ! Thực sự thì đó là một khoảng cách rất xa.

– Mặc dù cháu giống ba cháu, nhưng tính tình cháu lại giống mẹ cháu nhiều hơn, nên cháu dễ gần hơn ba cháu khi xưa.

– Ngày xưa ba cháu yêu cô My Vân hả chú? Họ đã suýt cưới nhau à?

– À, nói lại chuyện cũ, có một chuyện thật trùng hợp là ngày đó, cũng vào buổi tối trước ngày thành hôn của ba cháu với cô Vân, ba cháu cũng biến mất như thế này này. Chú cũng đi tìm anh ấy, rồi bọn chú uống rượu với nhau, nói chuyện với nhau đến tận sáng.

– Rồi sao nữa ạ?- Khánh Nam buông cốc rượu xuống vẻ chăm chú.

– Ba cháu rời khỏi quán rượu trước khi chú tỉnh lại và khi chú nhận được tin thì ba cháu đã ở tận bên Anh rồi.

– Nhưng cháu không thể làm thế đúng không chú? Cháu không thể làm thế với Sang đúng không ạ?

– Ừ, nếu cháu thực sự là một người đàn ông thì có lẽ cháu không nên làm như thế. Nhưng khi đó ba cháu làm vậy là đúng. Còn bây giờ mọi chuyện khác xưa rồi. Cháu với Vũ xa nhau không phải do hiểu lầm mà là thực sự có quá nhiều rào cản.

– Cháu biết Vũ đang ở đâu chú ạ!

Trung ngẩng đầu nhìn Nam, nơi khóe mắt lúc này đã long lanh một giọt nước mắt.

– Thôi nào chàng trai…- Chú Trung vỗ nhẹ lên vai anh- Mạnh mẽ lên nào. Chẳng lẽ cháu không vui khi thấy con bé vẫn đang sống bình an sao?

– Cô ấy đã vào chùa rồi chú ạ!

Một khoảng lặng thật dài sau câu nói đó của Nam. Mãi sau anh mới nghe chú Trung nói khẽ:

– Nếu đó là số phận…

– Cháu không muốn như thế! Thà cô ấy cứ yêu rồi lấy một ai khác thì còn dễ chịu hơn với cháu. Từ lúc biết tin này lúc nào cháu cũng thấy bức bối trong người. Cháu không chịu được…

– Muốn khóc mà không khóc nổi phải không?

– Không hẳn. Cứ như tim đang bị nhốt trong một cái lồng đầy gai, chỉ cần khẽ đập là lại đau, đau lắm chú ạ! Cháu đau đến nỗi không muốn nó đập tiếp nữa.

Khánh Nam nắm tay đấm mạnh liên tục vào lồng ngực. Rồi anh bật khóc, dễ dàng như một cô gái lúc yếu đuối nhất.

Chú Trung ngồi im lặng cạnh anh, không nói gì hay làm gì. Mãi sau, khi anh chậm rãi đứng dậy, chú mới ngẩng đầu lên hỏi:

– Cháu đi đâu đấy?

– Về nhà chú ạ! Tất nhiên là cháu chưa say đến nỗi nghĩ về những chuyện nực cười như bỏ đi đâu!

– Nếu cháu bỏ đi thì cũng không phải chuyện nực cười đâu. Nhưng cháu nghĩ được thông suốt như thế thì tốt rồi…

– Cháu phải nghỉ ngơi chút kẻo đến lúc lễ cưới diễn ra lại lăn đùng ra vì mệt thì mất mặt lắm.

– Cho chú hỏi một câu nữa nhé? Cháu có yêu Sang không?

– Chú biết rõ câu trả lời quá ấy chứ ạ!

– Vậy sao cháu vẫn lấy nó?

– Vì nếu không phải Phượng Vũ thì cháu lấy ai cũng vậy thôi. Hơn nữa, chú không thấy Sang thích hợp nhất với cái ghế phu nhân chủ tịch tập đoàn Lotus trong tương lai à?- Khánh Nam đáp nửa đùa nửa thật rồi chầm chậm tìm lối ra ngoài.

Bên ngoài, một bóng người vừa kịp rời đi rất nhanh trước khi anh bước ra. Bóng đen đó chạy núp vào một góc tối và chỉ trở ra khi anh và chú Trung đã lên xe đi mất.

Sang vừa cho bộ quần áo cuối cùng vào va li thì mẹ cô bước vào. Thấy cô, bà nhoẻn miệng cười:

– Mai là cô dâu rồi mà còn chưa ngủ sao?

– Vậy sao mẹ chưa ngủ?

– Mẹ ngủ làm sao được khi ngày mai con gái của mẹ thành con dâu nhà người khác mất rồi… Chiyoko, con sao thế? Con vừa khóc đấy à?

Buông đống hành lý còn đang soạn dở, cô ôm lấy mẹ mình, nói:

– Mẹ, con không muốn kết hôn nữa.

– Con bị làm sao thế? Thằng Nam nó làm gì con phải không?

– Không phải anh ấy mẹ ạ!- Minh Sang lắc đầu.

– Vậy tại sao con lại không muốn cưới?

– Con không đủ tự tin sẽ làm cho anh ấy yêu con được mẹ ạ. Con nghĩ con nên dừng lại trước khi bản thân con không thể rút lui được nữa.

– Con có biết giờ con mà rút lui sẽ ảnh hưởng thế nào đến bố con, đến mẹ, đến gia đình thằng Nam và tập đoàn của họ không?

– Con biết… Nhưng chẳng lẽ con cứ phải vì những chuyện đó mà đánh đổi lấy hạnh phúc ảo sao? Anh Nam vì những điều đó mà chấp nhận con, còn con thì lại không thể từ bỏ vì những điều đó sao?

– Mẹ thương con, nhưng con hãy suy nghĩ cho kĩ đi. Hạnh phúc có thể vun đắp dần dần được mà.

– Mẹ biết không, chị Vũ, người mà anh ấy yêu trước đây ấy, chị ấy đã đi tu rồi mẹ ạ?

– Sao bảo nó bỏ đi đâu rồi mà?- Mẹ cô sửng sốt thốt lên.

– Chị ấy đã vào chùa đi tu rồi. Con không muốn thua chị ấy, không dám từ bỏ vì quá yếu đuối.

– Mẹ con ta đúng là khác nhau mà lại thật giống. Năm xưa mẹ vì không muốn thua một người con gái mà đã ép một người đàn ông lấy mình. Còn con giờ đây lại vì không muốn thua một cô gái khác mà chấp nhận rời xa một người đàn ông.

– Con làm đúng đúng không mẹ?

– Ừ…

– Con sẽ đi đâu đó một thời gian. Sau đó nếu có cơ hội con sẽ về Nhật sống với ông bà nội.

– Con quyết tâm rồi sao?

– Con vừa gọi điện đặt mua vé máy bay rồi. 5h sáng con đi. Mẹ đừng nói gì với bố nhé! Chừng nào máy bay hạ cánh con sẽ gọi điện xin lỗi bố.

– Thôi đành vậy. – My Vân thở dài- Nếu con đã quyết thì mẹ không cản bước chân con nữa. Hy vọng là sau này con đừng hối hận.

– Mẹ ngủ lại với con đêm nay nhé!

– Được rồi. Con dọn nốt đồ đi. Mẹ về nói với bố là mẹ ngủ ở đây với con, rồi mẹ quay lại.

Cánh cửa phòng khép lại rồi, Minh Sang hít một hơi thật dài để lấy dũng cảm rồi tiếp tục cái công việc đang bỏ dở của mình.

Chương 28: Gặp lại

          Tháng 11, nắng vẫn hanh hao vàng ruộm trên khắp các khu vườn rộng lớn nơi cù lao Mây như bất kì một ngày nào khác của năm. Những vườn trái cây ở đây, cũng như bao khu vườn khác trên khắp miền Tây, không mùa nào vắng mùi hương của trái chín. Những cơn mưa chợt đến rồi chợt tạnh làm cho không khí ở đây dịu dàng và đằm thắm đến kì lạ, khác xa hẳn với cái nắng ồn ào nơi thành thị.

Một buổi sáng, người dân ấp An Hòa xôn xao vì có tin sắp có một công ty xuất nhập khẩu trái cây được xây dựng ngay nơi này. Trước nay, người dân trồng và bán trái cây cho các công ty hay các nhà buôn lớn trên thành phố với giá thấp hơn rất nhiều so với giá ngoài thị trường. Trái cây đến kì không thu hoạch cũng sẽ hỏng, mà thu hoạch rồi không bán ngay cũng không được nên nhiều khi bị ép giá, các chủ vườn vẫn phải cắn răng bán rẻ cho nhà buôn. Nay tự nhiên có một công ty đến xây dựng và thu mua ngay tại đây, niêm yết giá mua khá cao nên ai cũng phấn khởi mừng thầm. Từ nay có lẽ họ sẽ không cần phải chạy đôn chạy đáo tìm một nhà thu mua có uy tín cho mình nữa.

Công ty Xuất nhập khẩu Thiên Thanh nằm tọa lạc ngay trên một khu đất mua lại của một chủ vườn, người vốn đã bỏ cù lao này ra thành phố sinh sống nhiều năm. Khu đất nằm ngay ven sông, đối diện chính là chùa Pháp Thiên- ngôi chùa nhỏ vốn chỉ có người đến thắp hương vào những ngày rằm, mùng một.

Trước ngày làm lễ động thổ, người đại diện của công ty có đến chùa Pháp Thiên thắp hương, xin phép được xây dựng công ty ở vùng đất bên kia sông. Đến ngày làm lễ động thổ xây dựng, giám đốc của công ty mới xuất hiện.

Mấy cô gái của vùng miệt vườn đỏ mặt đùn đẩy nhau khi được cử lên tặng hoa cho người giám đốc trẻ đẹp ấy. Gương mặt anh luôn phảng phất một nét u buồn không thể nói thành lời. Và anh có vẻ lơ đãng trong suốt lễ động thổ, trước ánh mắt và những lời tán tụng của người dân nơi đây, chốc chốc anh lại đưa mắt sang bên kia sông, nơi vẫn văng vẳng đến tiếng gõ mõ đều đều nhưng có thể làm tâm hồn của anh rối bời.

Người hãnh diện nhất là Hai Triều khi ông thông báo rằng người giám đốc này đã xin ở nhờ nhà ông cho đến khi công ty được khánh thành. Người ta còn kháo nhau rằng chẳng mấy chốc mà vị giám đốc trẻ tuổi ấy sẽ bị nét đẹp của cô con gái lớn của Hai Triều đánh gục. Hai Liên vốn là cô gái đẹp và ngoan nổi tiếng của cù lao này. Chỉ từ khi có một cô gái đến chùa Pháp Thiên và được gọi bằng cái tên Diệu Hư, người ta mới thôi không ca ngợi Hai Liên nhiều như trước.

Với người dân ở đây, Diệu Hư giống như một người đến từ một thế giới cổ tích nào đó. Không phải đẹp nghiêng nước nghiêng thành, cô gái ấy có những nét dung dị và hài hòa trên gương mặt trắng hồng, đôi mắt to đầy bi ai. Hơn nữa cô là một người thông tuệ và nói chuyện khá cuốn hút. Có không ít anh chàng trong vùng ngày nào cũng đưa trái cây đến chùa hay đến đây giúp sư cô thu hoạch trái cây, cốt để được nhìn và nói chuyện với Diệu Hư.

Như cháu của Hai Triều là một ví dụ điển hình. Hầu như ngày nào người dân quanh đây cũng thấy anh ta lặn lội đến đây để gặp Diệu Hư. Họ có vẻ thân nhau lắm, vì ít khi họ thấy Diệu Hư cười với ai, nhưng cô lại cười với Năm Sơn- tên người cháu của Hai Triều, ở trên tận Tây Nguyên về đây chơi. Mãi đến ngày mà Năm Sơn trở lại, tay trong tay với một cô gái xinh xắn khác, họ mới biết rằng thì ra anh ta chỉ là bạn của Diệu Hư mà thôi.

Một tuần sau khi bị bỏ lại giữa đám cưới dở dang, Khánh Nam nhận được một bức thư từ châu Phi của Sang. Cô gửi cho anh đơn ly dị đã có sẵn chữ kí của mình, kèm theo một bức thư thật dài với những lời chúc phúc chân thành và nồng nhiệt nhất.

Không phải là Khánh Nam không nhẹ người hơn sau sự ra đi ấy, nhưng anh luôn có cảm giác hối lỗi rằng chính anh đã gây ra cho Sang biết bao đau khổ và nỗi đau. Chính sự ra đi của cô cũng làm anh cảm thấy một phần hẫng hụt. Anh đã yêu Sang sao? Anh đã bị cảm động bởi sự quan tâm và tình yêu đầy nhiệt tình của cô sao?

Thế nên hơn ba tháng sau sự ra đi đột ngột ấy, anh mới đủ dũng cảm để bước tiếp, tiến về phía người con gái mà anh đã yêu và nguyện gắn bó suốt đời. Xây dựng công ty Thiên Thanh là ý của anh, để anh có cơ hội vừa được ở gần Vũ, cũng là tạo nên một bước đà để sau này Việt và Vân tiếp quản thay anh sẽ dễ hơn. Cánh tay của Lotus sẽ vươn ra hết miền Tây trù phú này. Xuất nhập khẩu hoa quả là một ngành có lẽ phải dựa vào may rủi nhiều hơn, và phải là người luôn trong tâm thế chấp nhận rủi ro mới dám làm.

Gần đây cũng có nhiều chuyện xảy ra nên anh cảm thấy uể oải hết cả người. Bà nội anh càng ngày càng yếu đi sau đám cưới không thành của anh, và gần đây nhất chính là việc Mai Anh- bà chị họ của anh tự vẫn không thành vì nghe tin bố mình, người bác của anh có vợ lẽ và có một cậu con riêng. Với gia đình anh, đó là một tin shock, nhưng riêng với bản thân Khánh Nam, anh cảm thấy nhẹ nhàng hẳn vì từ nay anh không còn lo việc một mình anh phải chịu trách nhiệm với cả gia tộc họ Vũ và cả tập đoàn Lotus nữa.

– Giám đốc Nam…- Hai Liên bước khấp khểnh trên những mô đất nham nhở vì đào xới.- Ba tôi mời anh về ăn tối.

– Tôi đã dặn cả nhà không phải đợi cơm tôi mà.- Anh quay lại nhìn cô gái.

– Ba bảo tôi đến đón anh về.

Mùi nhang từ bên kia bờ sông thoảng sang làm Khánh Nam cồn cào cả người. Một ngày rồi nhưng anh vẫn không đủ dũng cảm để bước sang bên kia để gặp Vũ. Anh sẽ đối mặt với cô thế nào, khi mà giờ đây cô không còn là cô của ngày xưa nữa?

– Chùa Pháp Thiên ở bên đó. Cả sư cô và chị Diệu Hư ở bên đó tôi đều quen cả. Anh có muốn qua đó dạo chơi không?

– Ừm… thôi để khi khác tôi qua.- Khánh Nam lắc đầu.- Ta về thôi.

Anh dợm bước về phía xuồng mà không nhìn sang bên kia sông thêm một lần nào nữa.

Rồi cũng đến ngày Khánh Nam quyết tâm sang bên kia sông để gặp Phượng Vũ, bây giờ đã mang một cái tên đầy tu hành- Diệu Hư. Đó là một buổi sáng, khi công việc ở công trường đã đi vào ổn định và anh chẳng còn việc gì khác để làm. Anh lấy xuồng và tự sang sông một mình. Sống ở đây ít lâu nên anh cũng đã thành thạo đôi chút việc chèo xuồng rồi.

Tiếng gõ mõ đều đều vang lên khiến anh hơi chùn bước khi đặt chân lên con đường dẫn vào chùa. Tâm của Vũ có lẽ đã tịnh, liệu rằng sự xuất hiện của anh có làm cô thấy xao động hay không?

Một cái dáng cao cao quen thuộc đứng quay lưng về phía anh, cây chổi trên tay cô đung đưa nhè nhẹ quét những chiếc lá rơi trên sân. Những hành động đó của cô nhịp nhàng, chậm rãi và thanh thoát. Dường như không phải cô đang quét lá, mà quét những buồn lo ra khỏi cuộc sống của mình. Cô mặc bộ quần áo vải màu nâu dành cho những người tu hành, nhưng điều khiến anh ngạc nhiên nhất là mái tóc của cô vẫn dài, thẳng và mượt. Một chiếc kẹp được thắt ngang dưới tóc làm nó gọn gàng hơn.

Vì một lý do gì đó mà đến giờ cô vẫn còn chưa xuống tóc?

Phượng Vũ dừng lại vì hình như cô nghe thấy tiếng kêu sửng sốt của anh. Cô quay người lại, anh chẳng còn đủ thời gian để núp vào một đâu đó nữa.

Hai ánh mắt giao nhau.Một bối rối và đau đớn. Một u buồn nhưng bình thản. Bình thản đến dửng dưng. Khánh Nam muốn khụy xuống trước ánh mắt xa lạ đó. Đó không phải Phượng Vũ của anh. Cô ấy chỉ là Diệu Hư- thực mà không thực.

– A di đà Phật…- Phượng Vũ khẽ cúi đầu hành lễ với anh như một người đi tu thực thụ.

– Chào em.- Khánh Nam nghe thấy giọng mình nhẹ bẫng và có chút mênh mang.

– Thí chủ ghé thăm chùa ắt có việc gì? Sư cô ở trong kia, mời thí chủ bước vào.

– Anh đến để gặp em mà.

Rồi anh bước nhanh đến, chộp lấy tay cô, anh giật mình, tay cô ướt đầm mồ hôi. Thế mà còn cố tỏ ra lạnh lùng xa lạ với anh.

Khánh Nam gạt cây chổi đi, kéo cô về phía vườn cây rộng lớn của chùa.Đến dưới một gốc cây chôm chôm lớn, anh dừng lại. Phượng Vũ giật tay ra khỏi tay anh, luống cuống:

– Xin thí chủ tự trọng. Tôi là người của chùa này rồi… Nếu không có việc gì thì thí chủ xin về cho.

– Buông tay em ra ư?- Khánh Nam lại chộp lấy tay cô- Anh đã nắm được lại rồi thì sẽ không buông ra đâu.

– Thí chủ xin về cho.- Phượng Vũ nghiêm nghị nhắc.

– Nếu đồng ý gọi anh như ngày trước thì anh sẽ buông tay ra, em chọn đi. Em quá hiểu anh để biết rằng anh không khi nào nói đùa mà.

Phượng Vũ im lặng. Tay cô vẫn run lên trong bàn tay anh. Khánh Nam thấy cô như vậy, không đành lòng bèn buông tay cô ra.

– Em tuyệt tình vậy sao?

– Dĩ vãng đã xưa lắm rồi. Mọi ân oán tình thù, hỉ nộ ái ố đều sẽ trở thành hư không khi đứng trước mặt đức Phật. Nếu như thí chủ tin vào kiếp luân hồi, thì xin hẹn được đáp lại mối ân tình này vào kiếp sau.

– Kiếp sau?- Khánh Nam cười đau khổ- Em đi tu chỉ để nói với anh một câu đó thôi sao?

Phượng Vũ quay lưng lại phía anh, có lẽ cô cũng đang bối rối lắm.

– Bây giờ em đã là người của cửa Phật… Anh có nói gì cũng vô ích thôi. Anh về đi, đừng chạy theo những điều hư ảo nữa.

– Nhưng em đâu phải là hư ảo. Em đang đứng trước mặt anh, thật như chưa bao giờ thật hơn. Em biết anh muốn làm gì lúc này không?- Khánh Nam xoay người cô lại, đối diện với mình.

– Đây là nơi thanh tịnh…- Phượng Vũ gạt tay anh ra nghiêm nghị.

Khánh Nam chưa kịp làm gì thì có tiếng gọi ở phía sau:

– Anh Nam…

Cả hai quay lại và nhận ra Hai Liên. Đôi mắt anh lập tức sầm lại đầy khó chịu.

– Anh về ăn cơm… Các công nhân đang đợi anh…

– Được rồi. Tôi về liền.

– Chị Diệu Hư…- Hai Liên chào Vũ bằng một nụ cười thật tươi.

Diệu Hư khẽ cúi đầu chào lại cô gái ngoan này rồi nói tiếp:

– Cám ơn thí chủ đã ghé thăm chùa.

Khánh Nam mím môi tức giận và bước qua cô, không nói thêm một câu nào nữa. Anh khoát tay nói với Hai Liên:

– Về thôi. Tôi đói rồi.

Hai Liên lật đật chạy theo anh. Còn lại mình Diệu Hư đứng dưới gốc cây chôm chôm. Cô run rẩy ngồi phịch xuống gốc cây, tựa lưng vào đó và ngước mắt nhìn lên. Bầu trời qua vòm lá một màu trong vắt. Nhưng sao lòng cô lại như đầy giông tố. Tại sao cô lại cứ bị mất tự chủ như thế khi đứng trước mặt người đàn ông đó. Chẳng lẽ sư cô nói đúng, cô chưa thể hóa duyên vì nợ hồng trần chưa dứt thật hay sao?

Chốn này với cô những tháng ngày qua giống như một nơi bình yên khiến tâm hồn cô thanh thản nhất. Cô nghe kinh sư cô tụng hàng ngày, ăn cơm chay, đọc sách, dường như bụi trần không bén nổi đến vạt áo mình. Nhưng anh vừa xuất hiện mà tâm trí cô đã bị hoảng loạn. Ánh mắt da diết của anh làm cô thấy yêu và nhớ anh da diết. Mọi cảm xúc như trực trào ra nếu như không phải Hai Liên xuất hiện lúc đó.

– Em ngủ đấy ư, Diệu Hư?

Diệu Hư giật mình thức giấc bởi giọng nói nhẹ nhàng của sư cô Diệu Thanh.

– Sư cô?

– Em đã gặp người đàn ông đó phải không?

– Sao sư cô biết?- Diệu Hư thốt lên ngạc nhiên.

– Ta đã nghe Năm Sơn nói về chuyện của em rồi.

– Sao anh ấy biết?- Cô càng kinh ngạc hơn- Lần đến mới đây anh ấy có nói gì với em đâu.

– Mọi chuyện đều là một chữ duyên. Duyên chưa dứt thì có muốn gỡ ra cũng không được. Duyên của em với người đàn ông đó vẫn còn, nên ta không thể để em vào cửa Phật được. Chúng ta không có quyền lừa dối chính bản thân mình, càng không thể lừa dối Đức Phật.

– Nhưng em thực tâm muốn tu hành…

– Nếu có tâm thì tu ở đâu cũng có thể thành chính quả. Cái gốc của Đức Phật chính là hành thiện tích đức. Chùa không thể là nơi để em giấu mình hay trốn tránh được…

– Nhưng sư cô cũng giống em. Sư cô vào đây cũng chẳng phải vì một chữ tình hay sao?

– A di đà phật. Đời là bể khổ. Ta không muốn nhìn thấy em năm mười năm sau vẫn không dứt khỏi mối dây tình oan nghiệt mà em đã giăng ra khắp trái tim em.

– Sư cô vẫn không quên chuyện cũ đúng không?

– Ta đã lừa dối Đức Thánh Ca Mâu Ni, ta luôn luôn đóng cửa sám hối nhưng tội nghiệt của ta chẳng bao giờ hết được, vốn dĩ vì tâm ta không sạch. Ta không muốn em bước lên sai lầm của ta.

– Thầy cho rằng em nên quay lại với anh ấy sao?

– Tình là dây oan. Không không sắc sắc, sắc sắc không không…- Sư cô Diệu Thanh đáp lại và cầm tràng hạt, quay trở bước về phía chùa.

Nhìn theo bóng sư cô, Vũ khẽ thở dài. Thì ra, bao năm qua, sư cô cũng chưa bao giờ dứt được cái tình của mình. Câu chuyện của sư cô giống như một tiểu thuyết tình yêu không có hậu, nó đã khiến sư cô chôn vùi cả tuổi thanh xuân nơi cửa Phật, chỉ để quên đi một người đàn ông.

Câu chuyện ấy cứ ám ảnh tâm trí Vũ, khiến cô phải suy nghĩ nhiều điều về những người đàn bà, tưởng như tầm thường nhưng lại vô cùng đáng trọng.

Sư cô Diệu Thanh quê gốc ở Tây Ninh, tên thật là Miền, một cô gái lớn lên ở vùng quê nghèo, vô cùng chất phác, lương thiện. 18 tuổi, cô lên Sài Gòn tìm việc như bao cô gái quê khác, với mong muốn có một cuộc sống tốt hơn. Cô gặp và yêu một người đàn ông tại công ty nơi cô đang làm công nhân. Cô không ngờ rằng người đàn ông giản dị đó lại là con trai của ông chủ mình. Đó là một mối tình ngang trái, hai người gặp phải vô vàn ngăn trở từ phía gia đình người yêu cô. Họ không chấp nhận một cô con dâu ít học, lại không môn đăng hộ đối, không tiền bạc, họ cho rằng cô đã dùng sắc đẹp trời cho để rù quyến con trai họ.

Miền khi đó phải chống trả lại vô vàn những phản đối của gia đình người yêu. Họ đuổi việc, làm mọi cách không cho cô có cơ hội tìm được việc khác ở thành phố, buộc cô phải trở lại miền quê nghèo của mình. Không thể chống lại được thế lực to lớn ấy, trong khi người yêu cô cũng bị gia đình bắt ra nước ngoài học tập, Miền bỏ về Trà Vinh làm công nhân hái trái cây thuê.

Một thời gian sau, không hiểu vì sao người yêu cô tìm được cô và hai người bàn nhau trốn đi nơi khác làm ăn. Họ chấp nhận sống nghèo khó một chút, bắt đầu với hai bàn tay trắng, miễn là được ở bên nhau. Hai người đưa nhau về Đồng Tháp, với chút vốn nho nhỏ tích cóp được, họ mua được một ngôi nhà, cả hai mở cửa hàng ăn. Miền nấu ăn rất ngon, nhất là các món thủy sản nên quán ăn của vợ chồng cô nhanh chóng có tiếng ở trong vùng.

Thời gian cứ êm đềm trôi qua, khi cả hai bắt đầu có một chút của ăn của để, họ bèn nghĩ đến chuyện sinh con. Nhưng trời vừa được cho họ như ý, họ chưa kịp hạnh phúc thì một vụ tai nạn đã cướp đi cả chồng và đứa con ba tháng trong bụng Miền. Cô chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần sau đó, mỗi lần đều nhờ hàng xóm phát hiện sớm và đưa đi cấp cứu kịp thời.

Trong lòng nguội lạnh, Miền bán hết cơ ngơi mà hai vợ chồng đã gây dựng được, cô về lại Trà Vinh, chấp nhận cuộc sống khổ cực trước đây. Cô không muốn hàng ngày sống một mình trong ngôi nhà đã từng là một mái ấm hạnh phúc, cô muốn đầy đọa bản thân mình để ép bản thân quên đi nỗi đau không nguôi đó. Duyên số đưa cô đến ngôi chùa này, khi đó cô mới 25 tuổi. Lúc đó ở chùa cũng chỉ có một vị sư bác. Sư bác đã cưu mang cô, cho phép cô nương náu tại chùa để hằng ngày tụng kinh niệm phật siêu độ cho chồng và con mình.

Thấm thoắt, sư cô Diệu Thanh ở tại chùa Pháp Thiên đã được hơn 10 năm. Giờ đây, sư cô lại như sư bác khi xưa, cưu mang một người phụ nữ muốn tìm quên hồng trần nơi cửa Phật. Nhưng sư cô nhận ra rằng, nữ đệ tử Diệu Hư của mình còn nhiều duyên phận với cuộc đời, không thể từ bỏ được. Sư cô cũng không muốn Diệu Hư 10 năm sau như mình, luôn tiếc nuối quá khứ. Sư cô Diệu Thanh đã hàng ngàn lần quỳ sám hối dưới tượng đức Phật nhưng cũng không gạt đi được những tạp niệm trong lòng.

Có lẽ, số phận đã an bài như thế, nên sư cô không muốn tiếp tục để Diệu Hư trốn chạy quá khứ bằng cách của mình khi xưa.

Chương 29: Không hối tiếc

          Khánh Nam định rời công trường sang bên chùa Pháp Thiên thì có tiếng điện thoại gọi từ Tổng công ty ở Sài Gòn. Từ ngày biết được Phượng Vũ vẫn chưa xuống tóc, cái ý nghĩ đưa cô về bên mình càng nung nấu trong anh. Ngày nào anh cũng sang đó, dù cô có lạnh lùng xa cách mấy nhưng anh tin có ngày anh lay chuyển được người con gái đó. Người con gái mà anh yêu.

Cúp máy, Khánh Nam bực bội giơ chân đá một hòn sỏi nhỏ dưới chân làm nó rơi bõm xuống dòng kênh. Đang bận thi công mà còn triệu anh về Sài Gòn để giải quyết mấy vụ vớ vẩn. Chẳng lẽ anh về thì sẽ giải quyết ngay được những khủng hoảng đang diễn ra ở công ty hay sao?

Anh gọi cho Hai Liên, giờ đây được coi như thư kí sai vặt của anh ở vùng sông nước này. Cô bé ngày nào cũng đưa anh đến đây và đón anh về nhà cô vào lúc chiều. Đã mấy lần anh tỏ ý sẽ đến đây ở cùng đám công nhân nhưng Hai Triều cứ nằng nặc giữ anh lại nên anh không tiện từ chối nữa.

– Em qua công trường đưa anh lên thị trấn được không?

– Anh lên thị trấn có việc gì ạ?- Hai Liên ngạc nhiên hỏi lại.

– Ừm… anh về Sài Gòn có chút công chuyện.

– Chừng nào anh quay lại đây?

– Chắc ba hoặc bốn ngày sau. Em qua ngay nha.

– Dạ… Anh đợi em chút nha, em qua liền đây.

Khánh Nam vừa dặn dò, bàn giao công trường cho đám kĩ sư xong thì Hai Liên chạy xuồng đến, mồ hôi nhễ nhại trên cổ. Cô cười nói:

– Xong chưa giám đốc?

– Anh xong đây rồi.

Vừa bước xuống xuồng, như chợt nhớ ra, anh nói với cô:

– Cho anh qua bên chùa chút.

– Anh muốn ghé đó ạ?

– Ừ… nhanh thôi mà.

Xuồng vừa ghé bờ là anh đã nhảy phóc lên. Anh quay lại nói với Liên khi cô đang lúi húi buộc dây xuồng định lên bờ theo anh.

– Anh ra liền, em không cần lên đâu.

Anh gặp sư cô Diệu Thanh khi vừa mới bước chân vào sân.

– Chào sư cô… Tôi muốn gặp Diệu Hư…

– Đã nhiều ngày như vậy rồi mà anh không bỏ cuộc sao?

– Tôi không có thói quen đó. Nhất là từ bỏ người đàn bà của mình thì tôi càng không thể… Xin lỗi đã quấy rầy chốn tu hành của sư cô những ngày qua. Tôi sẽ sớm đưa cô ấy đi khỏi đây thôi. Cô ấy đâu?

– Diệu Hư ở ngoài vườn đọc sách.

– Cảm ơn sư cô.

Khánh Nam vẫy tay và chạy biến đi. Anh biết rõ Vũ hay ngồi đọc sách ở chỗ nào.

Khi anh chạy tới nơi, Vũ đang nằm trên chiếc võng vải, cuốn sách đặt trên ngực. Cô đang ngủ. Anh bước đến, ngắm nhìn cô một cách thích thú. Rồi anh khẽ cúi xuống, đặt một nụ hôn lên trán cô khi cô vẫn đang say trong giấc ngủ. Cái hôn làm cô cựa mình. Anh đứng thẳng dậy, cười đầy dịu dàng.

Chứng kiến cảnh đó từ phía sau một gốc cây, Hai Liên như muốn khụy xuống. Người mà bao ngày qua cô thầm yêu trộm nhớ thì ra lại yêu người con gái bí ẩn kia. Cuộc đời cô yêu thầm hai người đàn ông, một thứ tình yêu say đắm gần như tôn thờ, thì cả hai người đàn ông đó đều liên quan đến cô gái tên Diệu Hư ấy. Cô ngồi thụp xuống, hai tay ôm lấy mặt khóc thầm.

Khánh Nam quay trở lại xuồng thì Hai Liên đã ngồi đợi sẵn ở đó. Anh cười với cô:

– Sorry, anh ra trễ quá! Đi thôi em.

Hai Liên hơi gật đầu, cô lúi húi tháo dây xuồng, cố không để anh thấy vẻ mặt thảm hại của mình lúc này. Suy cho cùng, anh là một người giàu có và thành đạt, nếu như không có chị Diệu Hư ấy thì có lẽ anh cũng không bao giờ để ý đến một đứa con gái quê như cô.

Xuồng nổ máy ầm ầm và lao vút đi, sóng nước bắn tung tóe phía sau.

Một tiếng sau, Diệu Hư chợt tỉnh giấc. Cô vừa mơ một giấc mơ đẹp. Cô thấy Nam đến với cô, anh hôn lên trán cô, và hình như dư vị của nụ hôn đó vẫn chưa tan. Cô sờ tay lên trán, xoa nhẹ và đưa mắt sang bên kia sông. Sao hôm nay anh không sang nhỉ? Hay anh đã chán ngán với thái độ của cô nhiều ngày qua rồi? Cô gần như đã bị anh làm cho mềm lòng, nhưng lòng tự tôn cao vời vợi làm cho cô không thể xuống nước ngay với anh được. Nếu anh yêu cô, thì cô có thử thách hơn thế, anh cũng sẽ không bỏ cuộc. Gần đây, được sự khuyến khích và khuyên nhủ của sư cô, lại thêm lòng kiên trì sắt đá của anh, cô đã nghĩ tích cực lên rất nhiều.

Cùng lúc đó, tiếng còi xe cấp cứu hú inh ỏi nơi thị trấn, và người dân hai bên sông còn đang bàn tán về vụ tai nạn kinh hoàng giữa chiếc xuồng chở một ông giám đốc nào đó lớn và giàu có lắm, với một chiếc ghe chở gỗ từ tận U Minh Hạ lên. Kết quả của vụ tai nạn đó là ông giám đốc vì che chở cho cô gái chèo xuồng đã bị cả đống gỗ đè lên, chiếc xuồng bị lật và họ ngã nhào xuống dòng kênh.

Tin giám đốc trẻ của công ty Thiên Thanh gặp nạn chẳng mấy chốc lan khắp cù lao Mây và anh đột nhiên trở thành anh hùng trong mắt những người dân nơi đây khi đã không tiếc thân mình cứu cô gái quê của miền sông nước này. Khánh Nam được đưa từ bệnh viện huyện bằng trực thăng lên thẳng Sài Gòn nên họ không có cơ hội đến để thăm anh nữa.

Bệnh viện Lotus II, bệnh viện hiện đại bậc nhất của tập đoàn Lotus tại Sài Gòn một ngày cuối tháng 1, nghĩa là chỉ còn vài ngày nữa là đến Tết Nguyên Đán, có một cô gái mặc nguyên bộ đồ tu hành, tóc để xõa, người đầy bụi đường bước thấp bước cao chạy vào với vẻ mặt nhợt nhạt. Cô gần như ngất xỉu khi nghe tin Khánh Nam bị tai nạn. Bao nhiêu cao ngạo, bao nhiêu quyết tâm, bao nhiêu quy tắc chẳng thể ràng buộc cô thêm được nữa. Cô sẽ chẳng còn lại gì nếu như cô mất anh. Cô hiểu điều đó hơn ai hết, và chỉ kịp chào sư cô một tiếng, cô vội vàng rời khỏi chùa Pháp Thiên, nơi mà nhiều tháng ngày qua chẳng khi nào cô chịu rời chân đi. Cô phải đi tìm anh.

Nhìn cô gái ăn mặc lạ lùng, người đen sạm lại vì dính bụi đường do đi không ngừng nghỉ nên đám vệ sĩ của gia đình Khánh Nam nhất định không cho cô vào. Không có cách nào để xin họ cho vào, Phượng Vũ thất vọng ra ngồi trên một ghế đá. Cô muốn gặp anh, đó là điều duy nhất cô nghĩ được vào lúc này. Chỉ cần được nhìn thấy anh bình yên thì trả bao nhiêu giá cô cũng chịu.

Cô đứng dậy, quyết tâm tiến lại chỗ họ một lần nữa. Đúng lúc cô định bước đi thì có hai người đi ngang qua cô. Là Vân, và người đi cạnh cô bé lúc này còn làm cô kinh ngạc hơn nữa- chính là Năm Sơn. Họ cũng dừng lại khi nhìn ra cô, và họ cũng kinh ngạc không kém.

– Chị Vũ…

– Diệu Hư…

Cả Việt và Vân cùng đồng thanh thốt lên khi nhìn thấy cô.

– Hai người biết nhau sao?- Cô ngẩn ra hỏi lại.

– Chị đến thăm anh Nam phải không?- Vân nắm lấy tay cô xúc động hỏi.

– Ừ… anh ấy sao rồi em? Chị đến nhưng đám vệ sĩ không cho vào.

– Chị theo em…

Vân kéo cô đi theo mình, không để cô kịp hỏi quan hệ giữa cô bé và người bạn cô quen trên Tây Nguyên dạo trước, người đã luôn lo lắng và chăm sóc cho cô khi cô bị ốm, đã luôn khuyên nhủ cô không tiếc lời khi cô quyết tâm đi tu. Và hình như Vân đã hoàn toàn lành bệnh rồi. Ai đã chữa cho cô bé? Không lẽ…

– Anh Việt…Anh bảo đám vệ sĩ này cứ về đi.- Vân vừa cất tiếng gọi thì cô đã hiểu ngay ra vấn đề.

Trái đất quả nhiên là nhỏ bé! Đi lòng vòng mãi rồi mới nhận ra số phận quả là trớ trêu.

– Chị vào đi.- Vân rẽ đám vệ sĩ và bước vào.

Mẹ của Khánh Nam đang ngồi ở trong phòng, còn anh thì nằm trên giường, khắp mình mẩy toàn băng trắng. Trông anh giống một cái xác ướp hơn là người đang sống.

Mẹ anh nhìn cô, vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ. Nhưng trong mắt Phượng Vũ lúc này, cô chẳng thấy ai nữa ngoài người đang nằm trên giường lúc này cả. Cô nhào đến, ngã vào lòng anh, gần như xỉu đi vì mừng rỡ, và vì kiệt sức.

Đây mới là thế giới của cô.

Đây mới là người mà cô cần nhất.

Và đây chính là điều mà trái tim cô khao khát bấy lâu nay.

Được trở về bên anh.

Việt vừa đặt gốc cây thuốc mà anh mới ươm được xuống đất thì Vân hét lên và bổ nhào đến:

– Sinh đôi, sinh đôi…

Cô ôm lấy anh, hôn chụt một cái lên má anh và lại reo lên ầm ĩ:

– Chị Vũ giỏi quá! Một chuyến sinh đôi luôn. Hu ra… Một trai một gái nữa chứ.

– Em làm gì mà chạy nhảy nhót ghê thế? Đừng quên em cũng sắp làm mẹ đấy nhé!- Việt cau mày nhắc nhở.

– Í, em quên mất… Ủa, cây Hoàng Thạch Liên hả?

– Ừ…

– Nhờ nó mà em khỏi bệnh, cũng nhờ nó mà chị Vũ lại sinh được em bé trở lại. Cây này là thần dược chắc?

– Thực ra nó là một cây thuốc cực quý hiếm, vốn là bài thuốc đã thất truyền trong sách đông y cổ.- Việt ngồi xuống nhìn cây non yếu ớt.- Hoa của nó nở trong 30 ngày. Hương hoa có thể giúp cho tinh thần minh mẫn, thần kinh trở nên ổn định hơn. Còn rễ của nó có thể chữa những bệnh liên quan đến vô sinh. Hồi đó khi Vũ bị thương hàn, thầy anh cũng đã nhìn ra bệnh của cô ấy. Thầy mới thử cho Vũ uống nước sắc từ rễ cây này, cũng vốn là một bài thuốc quý mà thầy học được từ một thầy lang trên Lang Biang. Không ngờ nó có tác dụng thật.

– Cô Hoài giỏi hén…- Vân trầm trồ.

– Vũ sinh một trai một gái hả?

– Dạ, mẹ nói anh chị ấy đặt một đứa là Thanh Hư, một đứa là Diệu Hư.

– Hai cái tên có ý nghĩa đấy chứ?- Việt ôm lấy vai vợ đỡ cô dậy.

– Ừ…

– Anh đưa em đi dạo nhé! Ghé qua nhà ông ngoại Phi Long thăm ông bà chút nhỉ?

– Ừ…

– Tối nay em thích ăn gì, anh nấu cho?

– Lá chè non nấu canh chua nhé!

– Ừ…

HẾT PHẦN 2

 

BA NGÔI MỘT THỂ

40364398
Loại “ba ngôi một thể” dương tính
“Chỉ có kẻ đọc sách mới biết được cái quý báu và hiểu biết, mới biết lích sử và pháp luật, cũng chỉ có hạng này mới biết dùng chữ đặt câu khéo léo trong đơn từ thưa kiện, chỉ một chữ là đủ giết người rồi. Bọn người đọc sách ở Trung Quốc cùng những nhân vật đồng loại, đã cấu tạo nên một giới gọi là thân hào, còn gọi là “bọn ủng rách”. Nếu ta lấy cây cối là ví dụ thì bọn này là ký sinh trùng; loại sâu này thường không tốn công sức gì mà leo đến ngọn cây cao nhất, tất cả mọi “cây si” ở Trung Quốc đều bị bọn ký sinh trùng này bao vây. Nói cách khác, bọn chúng có thể leo lên tới cây, ghé tai nói những câu hàm ơn hộ chất màu của đất đai, rồi lấy lợi. Quá hơn nữa, bọn chúng còn làm việc hút màu đất thay cho cây nữa. Tình trạng đó được gọi là lối “bao thuế” hay chuyên lợi. Lối này một mặt đã làm tan vỡ nền tảng kinh tế của nhân dân, một mặt xâm lấn làm hại thuế khóa của quốc gia. Sự độc quyền làm phân thu thu thuế là một nguồn lợi đẻ ra cơm áo gạo tiền của bọn thổ hào kỳ mục; tội ác này từ khi lập dân quốc đã được cảnh báo nhiều lần.
….Giống ký sinh trùng này, đã ăn sâu, bám chắc vào từng địa phương, bất cứ một chính quyền cai trị nào mới lên cũng phải nương tựa vào bọn nó, rồi cùng hợp tác hay chia việc giao cho chúng nó làm. Bọn chúng phân phối nhau “làm thịt” thuế khóa, lấy thuế mãi dâm, lấy thuế sòng bạc. Nhận xét việc đầu tư này của của bọn chúng dĩ nhiên là mong được đền đáp rất lớn. Điều mong ước được đền đáp rất lớn đó đủ để chứng minh nhân dân sẽ bị tệ hại thế nào. Bọn chúng tham nhũng không có hạn chế gì cả, bởi từ ngữ “rất lớn” không có phạm vi được xác định. Rồi bọn này lại dùng trí thức chuyên môn, hay nghĩ ra sắc thuế mới. Mỗi vi quan lớn khi đến nhậm chức ở một phủ huyện nào đó, trong nha môn của họ đều đã có sẵn kẻ liên hệ với bọn “thân hào” rồi. Rồi bọn đó nếu đã được diện kiến đại lão gia (quan lớn) một lần là về sau, không cứ có việc công hay không, bọn chúng cứ tự tiện vào nha môn để giữ cảm tình. Một lần nào đó chúng vào nha môn thăm hỏi sức khỏe đại lão gia, trong lúc được ngồi hầu uống trà nói chuyện cổ kim đây đó, bọn chùng thường thừa dịp rồi tắc lưỡi mà nói: “chà”! thưa cứ nghĩ, mỗi huyện ít nhất cũng có một vạn rưỡi máng nuôi heo, mười huyện có đến mười lăm vạn cái, giả thử mỗi cái máng chỉ đánh thuế một đông thôi, số tiền cũng đã lớn lắm”, nói đến chỗ cốt yếu lại tợp một hớp trà long Tĩnh. Trước những cám thán và những kiến thức được trình bày đó, đại lão gia đã dễ dàng học thêm được vài lối “lóc mỡ dân, thịt dân”. Vị lão gia này rất cảm kích và tự thẹn rằng mình không có được kiến thức đó. Rồi trên đường đời ông sẽ dần dần học được đủ ngón. Sau việc thu thuế máng nuôi heo, bọn văn nhân “thân hào” này lại nghĩ ra cách thu thuế quan tài, thu thuế kiệu hoa…
… Ở thành thị Trung quốc bao giờ cũng có tình trạng “ba ngôi một thể” dương tính là các viên tri huyện (tham quan ô lại) bọn thân hào (văn nhân tồi bại) bọn phú ông trong vùng (thổ hào) liên kết với nhau để làm việc.
… ngày nay ở các vùng quê lại nảy ra 4 loại thế lực liên kết với nhau, tức ngoài 3 loại đã nói ở trên còn có thêm một loại có thể gọi là “yêu ma” thâu nạp vào nữa”
Loại “ba ngôi một thể” âm tính
“Bởi quan niệm bình đẳng có giai cấp và chủ nghĩa danh phận trong xã hội, nên một số quy luật về hành vi xã hội phát sinh ra. Nó là 3 định luật quan trọng không bao giờ thay đổi trong hệ thống tư tưởng kinh nghiệm của người Trung Quốc, tính chất bất biến của những định luật đó còn cố định hơn cả giáo điều của thiên chúa giáo ở La Mã, oai quyền còn lớn hơn hiến pháp của Liên bang Hợp chủng quốc ở Mỹ châu. Có thể coi ba định luật đó như ba nữ thần cai trị Trung quốc, oai quyền hơn cả tướng quân Tưởng Giới Thạch, hay Uông Tinh Vệ tiên sinh. Ba định luật đó là sự THỂ DIỆN, VẬN MỆNH và ƠN HUỆ . Ba chị em nữ thần thống trị Trung Quốc từ lâu và đến nay vẫn vậy. Chỉ có cuộc cách mạng nào phản kháng được ba nữ thần này mới kể là chân chính và đáng làm. Điều khó khăn này là ba nàng đều rất hiểu lòng người, mà cũng có tài làm người ta say mê nữa. Các nàng đã hủ hóa tăng lữ, nịnh hót giai cấp thông trị, bảo hộ cho quyền thế, lôi cuốn kẻ giàu có, thôi miên anh nhà nghèo, riêng cô em út thường có dã tâm làm ung thối các đoàn thể cách mạng. Các nàng lại có tài làm mê mẩn giới tư pháp, khiến mọi điều luật không còn hiệu lực gì nữa, mỉm cười khinh bỉ cái dân chủ, coi chơi mọi điều lệ, lấy quyền lợi nhân dân làm trò cười, phá hoại mọi luật lệ giao thông cùng chương trình câu lạc bộ, tùy ý dày xéo phá hoại vườn hoa riêng của mọi nhà. Nếu chúng là một ông vua chuyên chế, hay chúng xấu xa không ai ưa thì thế lực của chúng hẳn không bền vững được như vậy; trái lại thanh điệu của chúng rất êm đềm dễ nghe, dáng điệu rất khả ái, chúng bước lên chỗ pháp đình êm ái không tiếng động, ngón tay nhẹ nhàng làm đảo lộn cả cơ quan tư pháp, cùng lúc đó chúng xoa đầu, vuốt má các pháp quan. Thần êm ái biết bao nhiêu khi được sùng ái bọn tà thần ấy. Thế lực thông trị của chúng vì thế mà còn mãi mãi ở Trung Quốc, không dễ gì chốc lát mà tiêu diệt đươc”.
Trích trong tác phẩm “Trung Hoa đất nước con người”
của bác sỹ Lâm Ngữ Đường (1938)

Mãi mãi tuổi hai mươi


Nguyễn Văn Thạc

Mãi mãi tuổi hai mươi

Nhật kí liệt sĩ Nguyễn văn Thạc

Lời tựa của nhà thơ Đặng Vương Hưng

Tiểu Sử liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc

Đó là người đã đoạt giải Nhất cuộc thi học sinh giỏi Văn lớp 10 toàn miền Bắc năm học 1969-1970. Nguyên là sinh viên xuất sắc của khoa Toán – Cơ, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, anh nhập ngũ cuối năm 1971, hy sinh tại chiến trường Quảng Trị năm 1972, khi chưa đầy 10 tháng tuổi quân và 20 tuổi đời…

Người ấy là Nguyễn Văn Thạc!

Trong khi sưu tầm “Những lá thư và nhật ký thời chiến Việt Nam” để phục vụ cho việc biên soạn bộ sách cùng tên, tôi bất ngờ nhận được một tư liệu qúy do ông Nguyễn Văn Thục – người anh trai của liệt sĩ, thay mặt gia đình chuyển đến. Đó là hàng trăm lá thư, cùng cuốn nhật ký dày 240 trang chép tay, của tác giả Nguyễn Văn Thạc mang tên “Chuyện đời” (trước khi kính chuyển bản thảo tới Nhà xuất bản Thanh Niên, tôi đã đề nghị với gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đổi tên là “Mãi mãi tuổi hai mươi”).

Điều khiến ta không khỏi kinh ngạc là trong một số lá thư viết năm 1971 gởi cho bạn gái, Nguyễn Văn Thạc đã tiên cảm được ngày 30-4-1975.

Đọc những trang tư liệu trên, cuộc đời ngắn ngủi, nhưng đầy bi tráng của một trong những thanh niên ưu tú nhất Hà Nội đã dần được hé mở…

Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ công. Cha mẹ có xưởng dệt nhỏ, thuê người dệt áo len và áo sợi. Khi Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, cha mẹ cậu bé phải bán rẻ hết nhà cửa, xưởng máy, để sơ tán về quê tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Hợp tác xã không có việc làm, nhà lại đông con (Thạc là con thứ 10 trong 14 anh em) tài sản gia đình nhanh chóng khánh kiệt. Bà mẹ Thạc phải đi cắt cỏ bán lấy tiền ăn.

Nhà nghèo, nên chú bé Thạc vừa đi học, vừa phải đi làm thêm giúp đỡ bố mẹ nuôi sống gia đình. Bù lại, Thạc học rất giỏi. Suốt 10 năm học phổ thông, cậu bé đều đạt loại học sinh A I (giỏi toàn diện). Năm lớp 7, Thạc đạt giải Nhì (không có giả Nhất) học sinh giỏi Văn thành phố Hà Nội.

Khi gia đình đã sơ tán về quê ở Cổ Nhuế, Thạc học cấp III tại trường Yên Hoà B. Hằng ngày, anh phải đi bộ 4 cây số đến trường học; ngày nghỉ, thì đi bộ hàng chục cây số đến tận Thư viện Hà Nội để đọc sách. Vất vả, nhưng Thạc thông minh nên giỏi đều tất cả các môn, anh đặc biệt có năng khiếu về môn văn.

Năm lớp 10 (niên học 1969-1970), Nguyễn Văn Thạc đã đạt giải nhất cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc.

Với thành tích học tập kể trên, Thạc đã được Ban Tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện đi đào tạo tại Liên Xô. Nhưng theo chủ trương chung, phần lớn những nam học sinh xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội.

Trong khi chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào Khoa Toán – Cơ của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, anh vừa tự học thêm để hoàn thành chương trình năm thứ 2 và được nhà trường đồng ý cho lên học thẳng năm thứ 3…

Nhưng đó cũng là thời gian cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn mới. Chiến trường miền Nam ngày càng gay go và ác liệt. Hàng ngàn SV các trường đại học phải tạm ngừng việc học tập để bổ sung lực lượng chiến đấu cho quân đội. Nguyễn Văn Thạc đã nhập ngũ ngày 6-9-1971…

Trong một lá thư gởi cho gia đình đề ngày 19-9, Thạc viết “Đơn vị của con toàn sinh viên và cán bộ giảng dạy. Hình như có cả một sư đoàn sinh viên Trường Tổng hợp đi hơn 300 người, chia thành 3 đại đội. Con nghe nói sắp lấy thêm một số nữa (khoảng 3 trung đội) ở trường và tháng 11-1971 lại tiếp tục thêm một đợt nữa…”.

(Một chi tiết thú vị là: trong số 300 sinh viên của trường Tổng hợp Hà Nội cùng nhập ngũ một đợt với Thạc có nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm. Sau này, trong nhật ký của mình, nhiều đoạn Nguyễn Văn Thạc có ghi chép và nhắc đến tác giả “Xúc xắc mùa thu”, với một tình cảm đặc biệt).

Họ được cấp tốc đưa đi huấn luyện chiến sĩ mới… Đây là một đoạn thư Thạc viết cho bố mẹ kể về gia đình người chủ nhà anh đã đóng quân tại xã Tân Trung, huyện Tân Yên, tỉnh Hà Bắc cũ (nay thuộc tỉnh Bắc Giang):

“Sáu đứa chúng con được phân vào một nhà. Gia đình chỉ có hai vợ chồng và bốn đứa con nhỏ. Cháu lớn mới 7 tuổi. Khi chúng con vào nhà, các cháu đã ngủ yên, anh chị ra đón và tất bật suốt đêm dọn chỗ. Sáng ra, anh chị ở nhà dọn xuống nhà dưới, dành nhà trên, ba gian, cho sáu đứa chúng con.

Chị chủ còn trẻ, 28 tuổi. Rất tốt vì thương chúng con. Chị cho 2 nải chuối và rất nhiều lạc để ăn sáng. Con cũng không ngờ nổi rằng gia đình lại phóng khoáng đến như vậy. Chúng con nhận luôn, và bảo nhau là: Sẽ trả tiền bằng phương pháp riêng của bộ đội!

 

Anh chủ khoảng 32 gì đó, là giáo viên cấp I. Ở đây có điều đặc biệt là không uống chè, toàn nước đun sôi, giản dị và lành mạnh. Anh không biết hút thuốc. Không có bàn thờ. Không kiêng cấm gì cả. Chúng con rất thích thú.”.

Tháng 4-1972, đơn vị của Thạc cùng lên đoàn tàu quân sự vào chiến trường. Trong một trang nhật ký của mình, anh viết:

“Vừa ao ước thế, vừa buồn vì mình đang ngồi ở đây, dưới trời mưa thanh thản, rồi sắp lên tàu đến Mỏ Trạng, Yên Thế diễn tập. Nhưng ra ga, thì lính ồ lên phấn khởi, đầu tàu hướng về phía Hà Nội – “Đi” rồi! Thế là nhất định vào trong ấy. Vội vàng viết thư – Tàu qua Cửa Nam những cánh thư trắng bay ào ạt xuống đường – Gửi hộ nhé, gửi hộ nhé – Báo cho những người thân của chúng tôi rằng chúng tôi đã xa Hà Nội, lúc ấy là 12 giờ trưa 9.4.1972”

Trang thư viết vội khi Thạc ngồi trên chuyến tàu tròng trành lắc lư trên đường hành quân ra trận hôm đó đã được một người dân Thủ đô nhật được, nhiệt tình chuyển đến tận gia đình của Thạc.

Là người giỏi Văn, nên Thạc viết thư cũng rất hay. Nhiều trang thư của anh thực sự là những đoạn văn với những cảm nhận tinh tế về cuộc sống “Chân bước trên rơm thơm, khó ai định liệu được mình còn ao ước cuộc sống nào hơn thế nữa. Mặc dù hạnh phúc ấy mỏng manh như chính số người nhận ra cảm xúc ấy là hạnh phúc của cuộc đời…”. Và “Cuộc sống của đất nước còn lam lũ lắm. Đầu tắt mặt tối mà nào đâu có đủ miếng ăn. Rồi mất cắp. Rồi đánh chửi nhau. Rồi thiên tai, địch hoạ. Cơm độn ngô rồi còn độn sắn. Vậy mà những chiếc lá tre kia vẫn dịu dàng, vẫn đưa ta vào cõi êm ả của tâm hồn. Thật lạ biết bao!”

Thạc cũng là người viết rất nhiều thư. Anh tiết lộ, đã có thời gian “…Phải nhờ bạn học cùng lớp viết thư trả lời. Có ngày tới 16 cái! Một kỷ lục chưa có ai phá nổi. Có lẽ chỉ có Lépnít, nhà bác học cả đời viết hàng vạn bức thư mới là địch thủ(!)”. Chỉ riêng một người bạn gái, trong 4 tháng anh viết cho cô tới… 500 trang thư, có thư dày tới… 54 trang!

Đọc thư của Nguyễn Văn Thạc, ta không chỉ cảm nhận và khám phá được nhiều điều thú vị về cuộc sống và xã hội miền Bắc nước ta những năm 1966-1972; mà còn hiểu được đời sống, tâm tư, tình cảm của thế hệ thanh niên – chiến sĩ thời đó. Hình như anh viết thư không chỉ là thông tin tình cảm riêng cho bố mẹ, cho anh trai, hay cho bạn bè… mà còn ấp ủ những tư tưởng và mơ ước lớn hơn nhiều. “Em muốn những trang thư là những dòng suy nghĩ về đời, về người, về cuộc sống, về những chân lý mà bất kỳ ai sống có trách nhiệm cũng phải suy nghĩ đến…” – Trong một lá thư gửi anh trai của mình, Thạc đã viết như thế.

Đặc biệt, trong một lá thư gởi người bạn gái thân thiết, Nguyễn Văn Thạc có dự cảm kỳ lạ: “Bất kỳ một sự vinh quang nào cũng cần phải trả bằng một giá. Và khó khăn gian khổ càng nhiều và thử thách càng nhiều, sự vinh quang đó còn trở nên rực rỡ. Chúng ta đừng đi tìm những chân lý sâu xa đơn thuần qua những áng văn và những bài thơ và bài toán.

30-4-1975, T. sẽ trả lời cho P. câu: Hạnh phúc là gì?”… Bây giời, thì hầu hết người dân Việt Nam và nhiều người khác trên thế giới mỗi khi nhắc đến ngày 30 – 4 – 1975 đều hiểu đó là ngày gì! Nhưng xin qúi độc giả nhớ cho: Nguễn Văn Thạc viết lá thư này từ ngày 18-9-1971, nghĩa là gần 4 năm sau mới tới ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30-4-1975… Nhờ đâu mà lời hẹn với người bạn gái của anh như một sự tiên cảm kỳ diệu vậy?

Đọc lại những lá thư Nguyễn Văn Thạc viết cho người bạn gái, ta phát hiện ra một điều thú vị: không chỉ một lần anh nhắc đến ngày 30-4-1975. Thậm chí, trong một lá thư đề ngày 4-9-1971, Thạc còn “đính chính”: “Anh nhớ nhầm rồi, Lan (tức Thạc – mật danh quy ước giữa hai người – Đ.V.H) bảo ngày 30-4-1975 mới trả lời câu “hạnh phúc là gì” cơ mà, chứ có phải ngày 11-4-1975 đâu?”.

Ngày 2-10-1971, nghĩa là 28 ngày sau khi nhập ngũ, Nguyễn Văn Thạc đã ghi những dòng nhật ký đầu tiên: “Nhiều lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã đến đây. Không ngờ rằng trên mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến với mình tự nhiên quá, bình thản quá và cũng đột ngột quá”.

Cho đến cuối tháng 5-1972, nghĩa là sau gần 7 tháng trời, vừa huấn luyện, vừa hành quân vào mặt trận; mặc dù phải đi xa, đeo nặng, nhưng tranh thủ những giờ nghỉ, ngày nghỉ, thức khuya, dậy sớm… anh đã viết được 240 trang sổ tay.

Vậy Nguyễn Văn Thạc đã viết những gì trong cuốn số nêu trên?

Đây quan niệm của anh về việc ghi nhật ký:

“Nếu như người viết Nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình đọc thì cuốn Nhật ký đó sẽ chân thật nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất – Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà sự thực họ có. Nhưng nếu cuốn Nhật ký mà có thể có người xem nữa thì nó sẽ khác và khác nhiều – Họ không dám nói thật, nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày, không dám nói hết và đúng những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén trong lòng họ. Mà đó chính là điều tối kỵ khi viết Nhật ký – Nó sẽ dậy cho người viết tự lừa dối ngòi bút của mình, tự lừa dối lương tâm của mình – Tóm lại, tạo ra 2 con người.

Người viết Nhật ký có rất nhiều phương pháp – Và mỗi người tuỳ theo ý thức và sự quen thuộc của mình mà ghi chép. Có người chỉ thích viết ý nghĩ, có người hoàn toàn ghi những sự kiện nhỏ nhặt hàng ngày – Còn mình, mình không biết thế nào, có lẽ vừa ghi những sự kiện, vừa ghi những suy nghĩ – Nhiều lúc cũng khó mà phân biệt đâu là suy nghĩ, đâu là sự kiện – Và sự trộn lẫn ấy – là một điều rất qúi (…) Việc rút ra những ý nghĩa từ trong hiện tượng ngay tức khắc có một tác dụng rất lớn lao – nó cho phép người ta tìm thấy và nắm chắc bản chất sự vật và không sa vào cái vụn vặt, không bị choáng trước những hình thức màu mè ở bên ngoài.

… Vấn đề chủ yếu vẫn là anh viết Nhật ký để làm gì? Anh có lấy Nhật ký làm người bạn đường nghiêm khắc và tốt bụng để đưa đường cho anh? Hay là anh lấy Nhật ký làm đồ trang sức, làm một cái gì đó để khoe khoang. Hay tệ hơn, làm một cái bồ để trút vào đó những lời than thở, những suy nghĩ giả tạo, nhằm đắp điếm cho một con người giả tạo, sống rất tồi, rất nghèo nàn mà cứ tưởng mình phong phú và bận rộn lắm với công việc hằng ngày…”.

Và Nguyễn Văn Thạc đã ghi chép rất kỹ những điều mắt thấy, tai nghe và cả những điều anh cảm nhận được. Đó là chuyện về gia đình những người dân nơi anh đóng quân, chuyện về những anh lính cùng đơn vị, về những cán bộ chỉ huy tiểu đội, trung đội, trung đoàn… Có rất nhiều chuyện vui, nhưng cũng có cả những chuyện buồn. “Không ai muốn cuộc đời mình phải buồn bã cả, nhưng rất ít người trên đời này đạt được điều mình mong muốn. Mất mát nhiều, nhưng cố gắng làm sao cho mình khỏi thất vọng, khỏi phải mất nghị lực luôn hun cháy lòng mình. Đó mới là điều quan trọng” – Trong một trang sổ tay, Thạc đã viết như thế.

Là người học sinh giỏi văn, nên không hiếm những đoạn Thạc ghi nhật ký mà như làm văn, với những cảm nhận tinh tế: “Mùa đông chưa về đến đây. Mình yêu cái chuyển tiếp giữa hai mùa này, xốn xang trong lòng nhiều kỷ niệm. Cây sầu đông chưa nở ra những mối sầu cho mình an ủi. Chùm quả chín vàng lấm tấm trên tà áo xanh của bầu trời, nhắc mình nhớ vể cái ngõ hẹp vào nhà. Ao cô Tơ còn mọc trên làn nước chùm hoa lau cho tụi con trai đánh trận hay không? Mấy cây hồng bì, cây nhãn bên sân hàng xóm có còn hay không, ngày trước, đấy là nơi tụi trẻ bán hàng và đám cưới; cái dù vàng che cô dâu, chú rể, giờ tơi tả khắp bốn phương.

Kỷ niệm càng dâng lên và trào ra như nước mắt. Sáng lạnh nhiều sương, gió táp, cây trên đồi chắc là buốt lắm, nằm nghĩ về những người thân yêu mà se thắt trái tim”.

Về tác giả của “Xúc xắc mùa thu” nổi tiếng sau này, Nguyễn Văn Thạc có những nhận xét thú vị, dự báo về một nhà thơ tài hoa trong tương lai:

“Cầm (tức Hoàng Nhuận Cầm – Đ.V.H) viết được nhiều, quả thực ở nó có tài năng, hay ít ra đó cũng là một khả năng tốt. Khanh bảo Cầm nó chăm lắm, mặc dù sức khoẻ yếu. Mình nhớ dạo mới đi bộ đội, hay gặp Cầm lang thang trong đêm. Có lần đi gác, Cầm nó ngủ ngay trên cái cầu xi măng bắc qua sông Tô Lịch. Nó bảo nó nằm nhớ lại dĩ vãng xa xưa của nó ở Kinh đô, đôi guốc mộc và cái quần chùng, hàn huyên với các sư huynh bên quán nước.

Kể cũng lạ, ở nó có gì đáng học đâu, ngoài những ý sáng tạo trong thơ. Cách sống của nó hơi ngang tàng và thiếu nghiêm túc. Nhưng vì sao nó nắm bắt mạch thơ đúng thế. Tưởng như lời nào của nó cũng là thơ (!).

Giới thiệu bài hát, nó bảo: mười con chim sơn ca nuôi trong cổ họng xin ca nhạc phẩm “Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây” nhạc của (…), lời Phạm Tiến Duật. Nhạc Việt Nam được trộn pha ácjangtin … liến thoắng như cái máy mà hấp dẫn. Lúc ấy, nó thật đáng yêu, và con người nó hoàn toàn là của nghệ thuật.

Có điều là những cái nó viết ra xanh xao lắm, và hơi trừu tượng, nó đèm đẹp và trơn tru, nhẵn nhụi; Nó thiếu một sức ấm nóng lan toả. Có lẽ điều đó không phải không đáng ngại.

Mình không muốn và không được đi theo con đường ấy – Cứ kiên trì, bình tĩnh và tích cực, mình sẽ làm được hết”…

Không chỉ có vậy, ở một trang khác, Nguyễn Văn Thạc đã thốt lên:

“Không thể nào tin được Hoàng Nhuận Cầm lại có thể viết tốt hơn thế được. Nếu như Cầm nó không thay đổi cuộc sống của nó – Thời gian lơ lửng trên hè phố của nó quá nhiều, nó “trầm tư trên mái phố” quá nhiều đã tàn phá của nó khá nhiều thiên tư văn học. Cầu mong đất nước đừng để rơi một khả năng đáng quí – Nó sẽ chẳng bao giờ còn bê tha ở chợ Nhã Nam, mà cống hiến những tháng ngày còn lại cho thơ”.

Đan xen với những nhận xét giữa người và việc, là rất nhiều đoạn tự sự. Đó là những trang viết mà Nguyễn Văn Thạc tự nhận xét và đánh giá chính bản thân mình. Có những đoạn anh tự phê bình gay gắt: “Không nên yếu đuối, không nên chùn bước, hãy cố gắng lên, nhất định sẽ vượt qua”.

Ảnh hưởng chung của tập nhật ký là tinh thần lạc quan, sẵn sàng ra trận, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc của một thanh niên trí thức. Nhưng không thể không nhắc đến điều này: Nếu ta đặt cương vị mình vào Nguyễn Văn Thạc – một thủ khoa của cuộc thi học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc, mới thấy sức ép tâm lý luôn đè nặng và ghê gớm tới mức nào! Không chỉ một lần anh lo lắng tự hỏi: “Liệu mình có thể làm được gì, đóng góp được gì cho Văn học chống Mỹ hay không? Biết bắt đầu từ đâu và đi theo con đường nào? Làm sao có được một bàn tay dẫn dắt của người đi trước?”

Nguyễn Văn Thạc luôn mơ ước khi ra trận mình sẽ làm được như Bôrit Pêlôvôi – một nhà văn Liên Xô nổi tiếng với những tác phẩm viết về chiến tranh. Anh sẽ thu thập thật nhiều vốn sống, để viết văn, làm thơ, ca ngợi những con người đã hy sinh những gì quí giá nhất của riêng mình cho giai cấp, cho dân tộc.

Có thể không nói quá rằng: Thần tượng của Nguyễn Văn Thạc trước khi ra trận chính là nhà thơ trẻ Phạm Tiến Duật trên tuyến đường Trường Sơn. Thạc luôn mơ ước mình cũng sẽ làm được như thế và hơn thế! Nhưng giữa mơ ước và hiện thực luôn là một khoảng cách rất xa, mà không phải ai cũng có thể vượt qua!

Bởi thế, đã có những lúc thạc bi quan: “Kể ra, bây giờ giờ mà chết thì chật đáng tiếc. Những ngày còn bé, những lúc đi học chẳng bao giờ phải phiền toái đến chuyện đó cả, chỉ miên man với tương lai anh sẽ làm gì và sống ra sao. Nhưng bây giờ, những ý nghĩ đó mọc ra.

Khó gì đâu – cái chết – chỉ một viện đạn lạc hay một hơi bom. – Sự thật bi đát đó không trừ một ai cả” Thậm chí, đã có những giây phút, Thạc lâm vào trạng thái rời rã, chán nản và thất vọng đến cùng cực. Có một trang sổ tay Thạc viết bằng bút chì.Viết xong, anh liền gạch chéo và xóa đi. Đọc lại, ta có thể cảm nhận được tâm trạng rối bời, khổ đau đến tột độ của người viết:

“Phải hết sức trấn tĩnh, tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và lung tung. Còn tôi, rời rã tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức đang ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đời là một điều xấu xa và không thể nào tưởng tượng được – Người đã chửi rủa biết bao lần những thanh niên như thế – Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn – Con đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông cạn đang rúc nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông. Không, chẳng có ai có thể đem lại cho tôi được chút gì niềm an ủi hay vui sướng cả. Mọi người không hiểu được tôi, mọi người gắt gỏng với tôi. Trời ơi, giá lúc này tôi có chế chết ngay đi được. Có thể quên hết nỗi phiền muộn và sầu não ngập tràn cả hồn tôi thì sung sướng biết bao…”

Nhưng đó chính là suy nghĩ rất thật của một chàng trai sống thiên về nội tâm, luôn nhạy cảm. Xin đừng ai vội kết tội anh là hèn nhát, là xấu xa. Bởi anh cũng là một con người, với bao cảm xúc buồn vui và tình yêu không bao giờ vơi cạn. Điều quan trọng là anh đã biết vượt lên, đã tiếp tục chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng và hy sinh ngay tại mặt trận!

Xin hãy đọc kỹ đoạn cuối củng của cuốn sổ nêu trên, mới thấy hết được tâm trạng vừa hồi hộp, háo hức vừa trống trải và bí ẩn của người lính trẻ khi biết mình sắp bước vào cõi chết mà vẫn bình thản đến bi hùng:

“Và bây giờ, tạm biệt cuốn Nhật ký đầu tiên của đời lính. Không kịp xem lại một lần. Không kịp chữa những âm bằng âm trắc trong cấu trúc một câu văn vội vàng và bụi bặm…

Ngày mai, ngày kia… Phải để lại tất cả ở đằng sau. Tôi không thể để cho ai đọc những dòng suy nghĩ này. Trừ khi tôi không còn sống mà gìn giữ nữa…

…Kẻ thù không cho tôi ở lại. Phải đi. Tôi sẽ gửi về cuốn nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn nhật ký thân yêu của đời lính.

Ừ, nếu như tôi không trở lại, ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này? Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.

Một ngày cuối tháng 5-1972, Hà Tĩnh

Anh lính binh nhì”

Có thể coi những trang nhật ký “Chuyện đời” là một cuộc trải nghiệm thực tiễn vô cùng gian khổ, nhiều hy sinh, nhưng lại đầy mê say và hấp dẫn của một thanh niên trí thức Hà Nội, trong những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước.

Trong nhật ký của mình, Nguyễn Văn Thạc đã nhiều lần nhắc đến những cái tên viết tắt: P., N.A, hoặc N. Anh… Tất cả đều chỉ chung một người: Phạm Thị Như Anh – cô bạn gái thân thiết nhất của anh. Đây là “nhân vật” xuất hiện nhiều nhất, được tác giả viết bằng một tình cảm đặc biệt và thường được coi như cái cớ, như nguồn cảm hứng bất tận để anh bộc bạch mọi buồn vui. (Trong cuốn sách này, chúng tôi giữ nguyên tắc: Tôn trọng tối đa văn bản chính.Từ cách diễn đạt và câu chữ thường dùng của người viết đến những từ ngữ địa phương, thậm chí cả cách viết tắt, thói quen dùng dấu gạch nối (-), hay gạch chéo (/), hoặc chấm (.) giữa các chữ số khi đề ngày tháng trong nhật ký,… đều cố gắng giữ nguyên. Riêng các chừ N.A, A., N.Anh, NA – được sự đồng ý của TS. Phạm Thị Như Anh và để thuận tiện cho bạn đọc tiếp cận cuốn sách, chúng tôi viết rõ thành Như Anh – Ghi chú của NXB)

Vậy Phạm Thị Như Anh là ai? Chị là con gái của luật sư nổi tiếng Phạm Thành Vinh (nguyên chủ tịch Hội Sinh viên Đông Dương, nguyên Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng); cháu ngoại của cụ Hồ Đắc Điềm (nguyên Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch đầu tiên của Uỷ ban Hành chính Thủ đô Hà Nội, anh ruột của GS.TS Hồ Đắc Di).

Phạm Thị Như Anh kém Nguyễn Văn Thạc một tuổi, học sau một lớp cùng trường cấp III Yên Hòa B và cùng là học sinh giỏi Văn của Hà Nội. Họ quen nhau trong một buổi liên hoan họp mặt các học sinh giỏi Văn của Thủ đô vào tháng 4-1971. Đôi lần hẹn gặp tại phòng đọc của Thư viện Hà Nội. Hai người đều thích cuốn sách “Bàn về hạnh phúc thanh niên” của Nguy Nguy. Ngay trong trang đầu tiên của cuốn sách này, (hiện gia đình còn lưu giữ được), có bút tích của Thạc viết: “Bạn Phạm Như Anh, có nhớ ngày 30-4- 1971?”.

Đó là ngày họ gặp nhau, với kỷ niệm đẹp và lời hẹn ước không quên: Bốn năm sau sẽ trả lời chính xác câu “hạnh phúc là gì” Trong đêm chia tay trước ngày đi xa, (Thạc vào bộ đội, ra trận, còn Như Anh đi du học tại Liên Xô) hai người cùng đạp xe lên dạo tại Hồ Tây…Theo chị Như Anh nhớ lại thì trong khoảng 4 tháng trời quen biết, tổng cộng thời gian anh chị gặp nhau 5 lần, với khoảng 20 giờ đồng hồ. Nhưng chừng đó cũng đủ để hình bóng họ không bao giờ phai mờ trong nhau.

Trong thư và nhật ký, khi nhớ tới Như Anh, Thạc thường nhắc nhiều và ấn tượng nhất là chiếc áo màu xanh da trời chị hay mặc. (Trời xanh thì ai nhìn cũng thấy, ngỡ như rất gần mà không thể nào với tới được!). Thạc cũng có một chiếc áo màu xanh y như thế. Sau này, anh đã đề nghị chị Như Anh hãy cất giữ chiếc áo đó làm kỷ niệm, để nhớ mãi những ngày xa nhau…

Ngồi kể lại cho tôi nghe những kỷ niệm của hơn 30 năm về trước, chị Như Anh đã không cầm được nước mắt. Đó là những giọt lệ hiếm hoi của một người phụ nữ đã ngoài năm mươi, từng trải và cứng rắn. Hiện TS. Phạm Thị Như Anh đang cùng gia đình định cư tại nước ngoài. Là một doanh nhân thành đạt, chủ một công viên mang tên “Chín con rồng” nổi tiếng của người Việt Nam tại vùng Hannover của CHLB Đức, chị đã từng được báo Lao Động dành cả trang giới thiệu trong số Tết Nguyên Đán Ất Dậu, với bài “Hồn Việt giữa lòng châu âu”.

– Với tôi, những kỷ niệm về Nguyên Văn Thạc gắn liền với tuổi trẻ trong sáng, lãng mạn và quãng đời đẹp nhất của thời con gái – TS. Phạm Thị Như Anh tâm sự – Đã có cả một thế hệ thanh niên sinh viên Hà Nội, những người con ưu tú nhất của Thủ đô ngày ấy, từ trường đại học cầm súng bước thẳng ra mặt trận, nhiều người đã ngã xuống và không trở về.

Có lẽ bởi thế, TS. Phạm Thị Như Anh luôn coi gần một ngàn trang thư mà Nguyên Văn Thạc đã viết cho chị, cùng cuốn sổ ghi nhật ký bìa bọc ni-lông màu xanh da trời như những kỷ vật vô giá. Những trang giấy mỏng manh đã ố vàng vì thời gian ấy, càng trở nên thiêng liêng hơn kể từ sau ngày chị nhận được tin anh hy sinh tại chiến trường Quảng Trị…

Trong một trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc đã bị trọng thương, mảnh pháo đã cắt ngang đùi trái. Sau này, một đồng đội của anh kể lại: Mặc dù đã được ga rô và băng bó, nhưng mất máu quá nhiều, nên sắc mặt Thạc tái dần đi. Tuy nhiên, anh lại rất tỉnh. Đồng đội vừa cấp cứu, vừa động viên Thạc. Nhưng anh nói: “Mình tỉnh thế này tức là sắp chết rồi… Chỉ tiếc là không còn chiến đấu được nữa… bao dự định còn dang dở”. Sau đó, Thạc tắt thở trong vòng tay của đồng đội. Như nhiều người lính ngã xuống ngoài chiến trường, thi hài của anh được đồng đội bọc trong một tấm tăng ni-lông và chôn cất ngay tại nơi hy sinh, gần mặt trận.

Khi còn sống, Thạc vốn là người con hiếu thảo chăm chỉ, nên được mọi người yêu quý và đã là niềm tự hào trông đợi của cả gia đình. Nhà đông anh em nhưng Thạc hay tâm sự với người anh cả là Nguyễn Văn Thục. Giữa họ, hình như không chỉ có tình thân thiết ruột thịt, mà còn như một đôi bạn tri kỷ. Thạc gửi gắm nhiều tâm tư vào người anh cả. Vì vậy, nhiều trang viết riêng tư và thư của bạn gái thân thiết phải để lại nhà khi ra trận, Thạc chỉ muốn riêng anh cả giữ và đọc, có gì cần thiết thì nói cho bố mẹ và gia đình biết.

Kể từ lá thư cuối cùng ghi ngày 21 -7- 1972, Thạc gửi về gia đình báo tin đã đi chiến trường, gia đình không nhận được tin tức gì của anh nữa nên rất bồn chồn, lo lắng và linh cảm có chuyện chẳng lành. Tháng 5- 1 973, khi gia đình chưa nhận được giấy báo tử, thì một đồng đội thân thiết của Thạc báo tin anh đã hy sinh.

Thư viết rất rõ: “Mộ của Thạc ở thôn Đầu Kênh, xã Triệu Long, quận Triệu Phong, Quảng Trị (tiếp giáp thôn Hà Mi, Phương Ngạn, gần lộ 4). Một được đặt ở thửa ruộng khá cao, cùng hai ngôi mộ khác, Thạc đặt đầu tiên”.

Nhận được hung tin, cả gia đình Thạc buồn đau và thương tiếc. Đặc biệt là cha mẹ Thạc đã già yếu, lại càng đau ốm hơn. Vừa thương tiếc người em trai tình nghĩa, vừa xót thương cha mẹ buồn khổ, ông Nguyên Văn Thục đã quyết tâm đi tìm mộ em trai, để cha mẹ và gia đình được an lòng.

May mắn thay, cuối năm 1976, Công ty 16 – Bộ Giao thông Vận tải vừa hoàn thành việc thi công khôi phục đường Hiền Lương – Dốc Miếu, ông Thục với cương vị là Phó chủ nhiệm Công ty (như chức Phó giám đốc hiện nay) được giao nhiệm vụ chỉ đạo vận chuyển vật tư, thiết bị thi công ra Hà Nội. Nhân cơ hội này, ông báo cáo giám đốc giúp đỡ, kết hợp tìm mộ em trai.

Hồi đó, miền Nam vừa giải phóng, mộ liệt sĩ còn nằm rải rác khắp nơi, chưa được quy tập về nghĩa trang như bây giờ, nên việc tìm kiếm gặp không ít khó khăn. Nhưng được giám đốc Công ty 16 cũng như lãnh đạo và nhân dân địa phương giúp đỡ, ông Thục đã thực hiện được nguyện ước là đưa hài cốt người em trai về Hà Nội vào giáp Tết Đinh Tỵ (1977)…

Bây giờ, ngôi mộ của anh lính binh nhì Nguyễn Văn Thạc – người giỏi Văn nhất miền Bắc một thời, người đã có dự cảm về ngày 30-4- 1 975 trước gần 4 năm, tác giả của tập nhật ký mang tên “Mãi mãi tuổi hai mươi” mà bạn đọc có trên tay đang nằm trong nghĩa trang của huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Hà Nội, tháng 4-2005

 

Đ.V.H

 

Tiểu sử của liệt Sĩ Nguyễn Văn Thạc

 

Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc

VỀ VIỆC XUẤT BẢN CUỐN NHẬT KÝ

CỦA LIỆT SĨ NGUYỄN VĂN THẠC

Kính gửi: Nhà xuất bản Thanh Niên

 

Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14-10-1952, là sinh viên trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tham gia Quân đội từ ngày 6-9-1971, hy sinh tại chiến trường Quảng Trị ngày 30-7-1972, lúc đó chưa đầy 20 tuổi.

Cuộc đời tuy không dài, nhưng đã để lại nhiều tiếc thương cho gia đình, cho đồng đội, bạn bè và đất nước về một con người trung hiếu, học giỏi, cuộc sống giản dị, chân thực, luôn với ý thức phấn đấu để cống hiến thật nhiều cho Tổ quốc và nhân dân.

Mặc dù chỉ có 10 tháng tuổi quân, nhưng dọc đường hành quân ra trận, khắc phục biết bao gian khổ, hy sinh, Thạc vẫn làm tốt nhiệm vụ của người chiến sĩ, vùa tích cực ghi chép những sự kiện, những cảm nghĩ về Đời, về Người trong những năm tháng hào hùng của cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước đang trong giai đoạn ác liệt tiến đến thắng lợi hoàn toàn. Ngoài 16 tập thơ và một số ghi chép bị thất lạc ngoài mặt trận khi hy sinh, Thạc còn để lại 240 trang Nhật ký “Chuyện đời” và hàng trăm bức thư…

Thạc không muốn ai đọc những ghi chép của Thạc khi còn sống; Nhưng nếu không trở lại, Thạc mong ai sẽ thay mình viết tiếp những dòng sau này, “chỉ ao ước rằng, ngày mai những trang giấy còn lại đằng sau toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc…”

Chiến tranh đến nay đã lùi xa 30 năm. Sau khi gia đình đọc lại những ghi chép này, đặc biệt là cuốn Nhật ký thì thấy rất đáng quý, nó có thể góp phần phản ánh cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân ta, đồng thời phản ánh một thế hệ thanh niên giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, gia đình chúng tôi mong muốn Nhà xuất bản Thanh Niên nghiên cứu cho xuất bản cuốn Nhật ký này, góp phần để bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc trẻ có thể tự hào về một thế hệ thanh niên đi trước mà vững bước hướng tới tương lai. Đó cũng là tâm nguyện mà liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hằng ấp ủ mà chưa thể thực hiện được.

Xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản!

Hà Nội, ngày 7 tháng 4 năm 2005

Thay mặt gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc

Anh ruột: Nguyễn Văn Thục

***

2-10-1971

Nhiều lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã đến đây. Không ngờ rằng trên mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến với mình tự nhiên quá, bình thản quá và cũng đột ngột quá.

Thế là thế nào? Cách đây ít lâu, mình còn là sinh viên. Bây giờ thì xa vời lắm rồi những ngày cắp sách lên giảng đường, nghe thầy Đường, thầy Đạo… Không biết bao giờ mình sẽ trở lại những ngày như thế. Hay chẳng còn bao giờ nữa! Có thể lắm. Mình đã lớn rồi. Học bao lâu mà đã làm được gì đâu, đã sống được gì đâu? Chỉ còm cõi vì trang sách, gầy xác đi vì mộng mị hão huyền.

Hai mươi tám ngày trong quân ngũ mình hiểu được nhiều điều có ích. Sống được nhiều ngày có ý nghĩa. Dọc đường hành quân, có dịp xem lại lòng mình, soát lại lòng mình.

Mình bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào? Có lẽ từ 9-3-1971, tháng ba của hoa nhãn ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng nước.

Những người bạn thân yêu của mình đã lần lượt đi học xa hết cả rồi. Mỗi người một phương. Các bạn đã đi lên phương Bắc. Còn mình, sẽ đi về phương Nam…

Đêm Hà Bắc thật thanh bình. Thèm quá, nghe một tiếng thì thào của cánh gió trên đồi bạch đàn… Mình đã sống trên 20 ngày bên hồ cá Yên Duyên, Yên Sở. Ở đó có những đường cây đẹp tuyệt. Mình đã chụp tấm ảnh bộ đội đầu tiên dưới một gốc dừa, sau lưng là hồ cá. Hoàng hôn thong thả thay màu nước. Và ngôi sao Hôm trầm tư, kiêu hãnh đã mọc trên trời. Cuộc đời bộ đội đâu dễ dàng như thế. Mình đã khóc, nước mắt giàn giụa, khi các bạn tiễn mình đi, khi buổi lễ kết thúc, khi bài Quốc ca rung bầu không khí trong lành trên Trường Tổng hợp. Bản nhạc này đây, bao lần mình đã nghe, đã cúi đầu suy nghĩ. Nhưng hôm nay mới thực hiểu, thực cảm một điều giản dị: Bài Quốc ca của ta, của ta!

Khóc, không phải vì hèn yếu, không phải vì buồn bã, mà vì xúc động. Vì buổi chia tay này thiêng liêng quá. Những người bạn thân yêu nhất của mình không thể tiễn mình đi được. Và bàn tay ấy, và đôi mắt ấy, giọng nói ấy… Lên xe rồi, xe nổ máy. Xe VN sản xuất, tiếng động cơ như tiếng tim mình vậy. Nghẹn thắt vì một cảm giác khó tả, mình ngước nhìn lần cuối cùng cánh cửa sổ, nơi hằng ngày mình bò ra, nhìn xuống lòng đường. Khoảng trời nhỏ của riêng mình đó. Một hôm nào, những hôm nào mình mong chờ nhìn thấy bạn của mình đạp xe qua, để mình gọi… Bây giờ, là chia tay, xe lăn bánh, êm ru, xe đi êm, mà bọn mình xô vào nhau, chen nhau thò tay ra cửa. Ngoài kia, những khuôn mặt gần gũi, tuy có người chẳng bao giờ mình trò chuyện, chẳng bao giờ mình nghĩ rằng có họ sống trên đời… ở đâu, khuôn mặt thân yêu ấy? Bạn đi, mình không gặp được.

Đêm 26.7 chỉ là những gương mặt xa lạ, đầy vẻ háo hức và tự mãn. Rối loạn, và thoảng một thứ mùi khó chịu. Mình không dám đứng lâu và đành chịu một nỗi ân hận giày vò… Mình đi, khi bạn đang bước vào năm học mới. Bước lên giảng đường, bạn có nhớ tới mình không?… Đừng, hãy để tâm hồn trọn vẹn thanh thản, mà đón một mùa xuân của lòng mình. Trang đầu của cuộc đời sinh viên, đừng để rơi một giọt mực, đừng để loang lổ một vết ố vàng…

Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh xuân của mình…

Hơn cả khi trên tay phập phồng tờ quyết định. Vui sướng, tự hào, cảm động làm sao khi trên người ta là bộ quân phục xanh màu lá. Anh sinh viên quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời tháng nắng… Mình trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hi vọng. Màu xanh bất diệt của sự sống.

Trên mũ là ngôi sao. Ta lặng ngắm ngôi sao, như hồi nào ta chỉ cho bạn: Kia là sao Hôm yêu dấu… Nhưng khác hơn một chút. Bây giờ, ta đọc trong ngôi sao ấy, ánh lửa cầu vòng của trận công đồn, màu đỏ của lửa, của máu…

Ta thấy trong màu kỳ diệu ấy, có cả hồng cầu của trái tim ta….

Ai ra đi cũng với lòng say lý tưởng, và nhẹ nhàng bên trong là chút ước mơ. Buổi gác đầu tiên là đêm trăng sáng, là bài thơ, là một trang nhật ký… Sung sướng và hãnh diện biết bao, ơi xóm làng yêu qúi, ngủ yên, ngủ yên, có anh bộ đội thức canh trời. Những mái nhà nghiêng như mí mắt thân thương, nhắm ngủ ngon lành… Ta bước nhẹ, lâng lâng một mùi hương quen thuộc. Bưởi đã cuối mùa, ổi đã cuối mùa… Cây lá đang dồn nhựa để trổ ra một mùa quả chín…

Đồng đội đọc cho ta nghe những vần thơ trong trẻo:

“Gậy Trường Sơn đưa ta lên đường đánh Mỹ.

Nồi cơm Thạch Sanh xưa là chuyện ước mơ.

Nay là lòng dân với người chiến sỹ”.

Ta đã đọc ở đây những cái tên lần đầu ta đọc, lần đầu ta biết. Cái tên ấy, những cái tên ấy là một nốt sol điềm tĩnh, nốt la nhí nhảnh… là 7 cung bậc của bản đại hợp xướng mà dân tộc ta đang cất lên tiếng hát…

…”Bộ đội đi rồi, chỉ khổ dân, lại nhớ mãi thôi…”

Ai đã nói với mình điều ấy, khi trời đã rạng sáng? 9g30 phải vào màn, nhưng ta thức trọn một đêm, với bốn bề đang rạng sáng, mặt trời mọc, và em bé đã ríu rít ở hàng ô rô xén gọn. Một tiếng võng kêu, một vệt nắng kẻ ở ngoài hiên, một con nhện giăng tơ trên cành ổi… Có gì khác với nơi ta ở, nơi ta gửi gắm tuổi thơ. Sông Tô Lịch đen ngòm chảy rụt rè trong thành phố, tới đây, vẫn rụt rè như cây trinh nữ… “Mắc cỡ gì mà khép cánh ư em?”

Ta đã bao lần đi bên sông Tô Lịch, trước kia ta khó chịu vì mùi bùn oi nồng… Ta đã mấy lần hành quân bên sông Tô Lịch, ta yêu sông vì bọt tăm sủi, vì màu xanh non, tươi trẻ có công vun đắp của dòng sông. Có phải lòng sông đã quên mình nhơ bẩn, đã chịu lòng mình mang mùi vị ấy để đem cho đời những cọng rau muống tươi kỳ lạ, để đem màu hồng tươi cho thành phố. Sông Tô ơi, mai trở về, ta khơi lại dòng sông, cho tuổi thơ vẫy vùng, cho con thuyền anh chở em đi, đi vòng quanh thành phố…

Hôm nay, đi bên sông, dưới cái nắng chang chang, trên vai là balô con cóc của Trường Sơn. Không thể nói là nhẹ được. Quai đeo thít vào vai, ép lồng ngực lại. Đau và bỏng rát, khó thở. Đè lên hông, ép vào lưng, ướt đầm đìa là mồ hôi ta đấy. Ta đặt balô, và cười luôn được. Ừ, cuộc đời ta là thế. Phải cười và phải vui. Bài hát ta yêu là Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây… Con đường gánh gạo không có muỗi, nhưng không phải là nhẹ nhõm. Vai sinh viên, mặc dù tâm hồn luôn bay bổng, nhưng nên thơ hơn cả những vần thơ là cái nghiến điếng người trên vai, là cái nắng bàng hoàng, dữ dội.

Yên Sở ơi, ta yêu Yên Sở như làng quê ta vậy. Nơi trú quân đầu tiên của đời ta. Nơi ta gọi bạn của mình là đồng chí. Nơi em thơ gọi ta là chú bộ đội, và những cô gái làng gọi ta: Chào các anh bộ đội.

Em đừng cười anh vì bộ quân phục thùng thình. Mẹ ta nghèo, rau cháo nuôi ta, đau khổ bốn nghìn năm, chắt chiu từng hạt gạo nuôi ta. Để bây giờ ta lớn. Phải lớn lên, phải to ra cho kịp tầm cao của lịch sử. Cánh tay này sẽ bóp nghẹt cổ quân thù.

Đêm đầy sao, chi chít những sao, như lòng mẹ, như lòng em đứng ở bên đường. Hồ nước trong kỳ lạ. Sao mẹ kể, những cái hồ ấy là nước mắt? Đau khổ nghìn năm, những tròng mắt nào đã đầm đìa để tích tụ thành hồ… Mà hôm nay đời vui như thế? Con cá dưới hồ cũng quẫy, cũng đớp ánh trăng và chào anh bộ đội… Cá, cá ơi, đừng cười anh nhé, đừng kể cho những cô gái trong làng, chuyện bọn anh sợ đ*********, khi các cô ngồi bên bờ này nhắc đến các anh… Quên làm sao vườn nhãn um tùm, nơi ngày đầu ta ngồi yên nghe giảng bài chính trị… Đầm ấm quá thôi, trên là cây lá, xanh xanh, lấp lánh ngôi sao trên mũ, lung linh những vì sao trên cổ áo, đỏ như lửa là quân hàm, bùng cháy những ngọn đuốc là cháy tim ta… Ê a, ê a là lời em thơ tập đọc. Cô gái nào mà dáng thanh thanh giống người ấy thế… Kỷ niệm lắng sâu, theo ta vào trận đánh…

Những ngày hôm nay, hôm nay sao khỏi bồi hồi. Nồi nước mẹ đun sao thơm kỳ lạ. Có phải đắng cay cả một đời, nên bát nước mẹ đưa ngọt ngào đến thế? Chia tay với con mà mẹ vẫn cười, âu yếm…

Hành quân từ 5 giờ chiều đến 9 giờ đêm, đẹp lắm. Trăng đầu tháng còn đỏ quạch, cứ gợi cho ta nhớ một cánh buồm. Đấy, cánh buồm đỏ thắm, đựng đầy gió, gió cuốn những ngôi sao đêm, ùa vào lòng thuyền và đẩy thuyền trôi trong tâm tưởng… Ngủ bên bờ một dòng sông, có những đường dừa thật đẹp.

Trời trong quá, dây điện chăng như những dòng kẻ của một trang vở học trò. Đừng bấm đèn trêu họ, cứ để họ nói chuyện với nhau. Anh con trai sắp xa người bạn của mình. Cô ta lại về trường học tiếp. Chỉ còn vài tiếng nữa thôi là còi tàu, là chuyển bánh. Anh dặn gì cô ấy, có lẽ chẳng dặn gì đâu, và chỉ mỉm cười… Cậu nào đã cất tiếng hò:

“Tiếng ai như tiếng chuông vàng

Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh…”

Còn tiếng này thì đúng là giọng anh Châu rồi, anh “Mộng Châu”:

“Anh yêu em lắm em ơi,

Nhưng anh chẳng dám ngỏ lời với em…”

Lính khoái, cười khúc khích… Những vì sao dưới sông cũng va vào nhau… Những cánh dừa cũng nắm tay nhau tinh nghịch bay qua bầu trời thanh bình. Tiếng động cơ như xay lúa.

Đêm đẹp vô cùng, ta lắng nghe đất thở. Anh bạn nằm bên rọi đèn pin tìm gì, có phải anh tìm con dế đang cần cù dạo bản nhạc đêm của Pritsvin? Không cưỡng nổi, ta lấy giấy và viết thư cho Như Anh…

“12 giờ đêm 28/9/1971”

Như Anh có thích đọc những dòng này hay không? T. viết cho Như Anh khi đang nằm trên bờ một con sông. Sông đẹp lắm. Đêm rất khuya. Vành trăng đỏ quạch sắp lặn xuống chân trời.

Đồng đội của T. người thì đang ngủ, người đang nói chuyện. Dưới cuốn sách mà T. kê, có 2 lá thư sắp gửi cho Như Anh. Sương ướt đẫm vải nhựa. Không một ngọn đèn. Chỉ những vì sao, soi cho T. viết những dòng này.

Bắt đầu cuộc đời bộ đội là thế này đây. Tối quá, nhưng cứ viết. T. thích thế. Rồi đây, sẽ có nhiều lúc T. viết thế này. Chắc xấu như ma lem.

(Hành quân đây – Chào Như Anh nhé – Thật tiếc)…

Đến ga rồi, ga Văn Điển. Nhưng nào có tàu. Mệt quá, lại phải gánh nồi quân dụng.Chẳng chịu được nữa, mình ngồi bệt xuống đất, dựa vào ba lô mà ngủ. Suỵt, nói giấu các “o văn công” chứ, thật đúng với câu: “Má văn công, mông bộ đội”!. Những chuyến tàu đêm chạy từ Hà Nội đến, cánh cửa, ô cửa đầy thương nhớ. Tàu phì ra những cuộn khói, những đám mây nhân tạo. Mặc kệ, tớ còn ngủ. Đợi một chuyến đi xa…

Sau cùng thì xếp được ba lô lên tàu. Tàu T. Q, khá rộng. Mình chẳng có chỗ đứng, đành đứng trước chỗ đi giải. Thật bất tiện. Nhưng chẳng sao hết.

Đêm âm u quá, cánh đồng vắng lặng, chỉ nghe tiếng gió, tiếng con tàu thở phì phì. Kia rồi, Hà Nội, là phố Nguyễn Du lấp lánh sau bức tường của ga Hàng Cỏ. Thôi, chào Hà Nội, 3 hoặc 4 tháng sau ta lại về, ta lại hành hương trên các đường phố vắng gắn bó với cuộc đời ta…

Sông Hồng ban đêm, mùa nước, cầu phao dập dềnh, ta nhận ra cầu vì ánh điện. những con mắt chói ngời kia bảo ta, đó là bờ… Chao ôi, dòng sông Ănggara xa xôi chảy qua thành Iêkut, đêm nào có giống đêm nay? Ta như gặp lại khuôn mặt thân yêu ấy. Giói đừng thổi mà tóc lại bay rối, lại phải lấy lược chải hoài… Gió đừng thổi, hơi lành lạnh đấy, mà áo thì mỏng về nhà lại ốm…

Bắt đầu xuất hiện bạch đàn dọc theo đường tàu chạy. Cây bạch đàn ta yêu, ta quí. Cây bạch đàn chép lại cho ta một thời thơ ấu đầy chất thơ, và say nồng mùi cỏ mật. Bạch đàn ơi, chạy theo anh nhé, chạy theo tàu của anh và sống mãi với anh. Khi nào anh nằm xuống, bạch đàn hãy rủ lá, run rẩy và ru cho anh ngủ. Cây bạch đàn cứ cao lớn với đời, cứ hát cho đời bài ca về thầy giáo Đuy Sen và cô học trò giỏi Altưnai, bài ca về cây phong lá đỏ. Mặt trời mọc rồi, các ô cửa của toa tàu xanh màu quân phục. Em nhỏ trên đồi đi học đấy ư, mà sao khăn quàng bay và bàn tay nhỏ cứ vẫy các anh… Ta bỗng nhớ một đoạn thơ T.H:

“Các em ơi, đã học chưa

Các anh dựng cho em trường mới nữa.

Chúng nó chẳng còn mong giội lửa

Trường của em đứng giữa đồi quang

Tiếng các em thánh thót quanh làng…”

Ta đã đi qua vùng đồi trung du của Bắc Thái, dấu vết của chiến tranh, của lụt lội còn hằn rõ ở đây. Ta đã nghĩ gì khi nhìn và lặng người bên hố bom thù đào sâu gần khu luyện gang thép. Mẹ ơi, ở đây con đã hiểu chiều sâu của đất. Cuộc sống thanh bình chỉ cho ta giá trị chiều rộng, chiều dài của mảnh sân con thường đùa nghịch, của mảnh vườn tháng 10, mía đang ngọt dần lên ngọn, của ngôi nhà ấm cúng con ngồi viết bài thơ ca ngợi đất. Chưa biết rằng, đất có chiều sâu, mà hôm nay vế bom thù đã khơi dậy cho con.

 

Ga Lương Sơn hay ga gì đó, xuống tàu và vào bãi cỏ rộng nghỉ. Khoảng 9 giờ rồi, cỏ may, cô gái nào xưa níu bước chân chàng trai trẻ, nay gài vào quần các anh bộ đội. Cô muốn thêu gì lưu niệm? Đêm nay, bên bếp lửa nơi trú quân, nhặt cỏ may và chắc có anh chàng mơ mộng lại nghĩ hoài một người bạn gái, giỏi nghề may vá… “Em khâu gì vào chiếc áo của anh?”…

Và cả cây mắc cỡ, cô gái ngây thơ, khẽ chạm vào là nép mình xấu hổ, các anh lính trẻ lại cứ trêu hoài…

Chuyển tàu, lính xô nhau lên chiếm chỗ gần cửa sổ. Ừ thế mà Vũ Đình Minh lại viết: “Người bốn phương nhìn nhau qua ánh mắt/ Một chỗ ngồi cũng nhường nhịn cho nhau”!

Tớ khoái không để đâu cho hết, vì được ngồi bên cửa sổ. Tàu chạy rồi, gió thốc vào mát lạnh. Từ đây, rừng rậm rạp hơn, đồi kề ngay đường tàu chạy. Người kiếm củi trên đồi cứ vẫy…

3.10.1971

(Suốt đêm qua không ngủ được. Cứ thức hoài vì những cảm giác nôn nao, rạo rực. 1 giờ sáng, khuya quá rồi. Phải vào màn ngủ. Ừ, cuộc sống bên trong của con người thật kì lạ, cứ nhớ, cứ nhớ… Nhớ ai, nào biết… mà sao không ngủ được).

Rừng chẳng nên thơ như ta tưởng tượng. Cây cao, xù xì nom rờn rợn. Vực sâu, dây leo chằng chịt, chứa đựng biết bao điều bí ẩn. Cuộc sống của ta sẽ kéo dài ở đó.

Dân tộc ở đây là gì? Mán hay Thổ? Ta chỉ mong nhìn thấy một cô gái Sán Dìu, quần đỏ, giữa mênh mông đồi cây. Bỗng nhớ một câu thơ có vần: Gà đánh trống…/ Khỉ leo thang/ Có những cô nàng/ Váy đỏ yếm trắng… ” Sao lại nhớ đến câu ấy? Bạn hỏi vậy. Mình chẳng biết nữa. Hình như màu sắc, âm thanh, hình khối hoà trộn trong đó phù hợp phần nào với những cảnh mà mình đang chứng kiến.

Ai đã xây nên những đường hầm xuyên núi, bàn tay của ai đã lần lữa trên những mặt đá này. Ngồi bên cửa tàu chạy nhanh, gió thốc vào lành lạnh, cả hơi đất, hơi đá ẩm ướt, âm u. Toa tàu tối om. Không ai hé răng. Vì sợ hay vì lạ. Còn mình thì lạ, cứ thò đầu qua cửa, nhìn về phía cửa hầm. Bụi than bám đen cả mặt. Con tàu phóng thanh rung lên bần bật. Ánh nắng đây rồi, hối hả trên từng khuôn mặt. Ngoảnh lại phía sau, là ngọn đồi con tàu vừa chui qua. Vẫn cây lá ấy, bình thản vô tư lự… “Chuồn chuồn kim thân dài, cánh đỏ/ Em khâu gì trong áo xám của đồi cây… “

Có lẽ là như vậy. Yên lặng, bình thản trên đó, để dưới đáy sâu của nó, có con tàu băng băng chở đi một nguồn sinh lực mới…

Tàu ơi, cứ chạy đi, chạy nhanh đến những vùng đất nước xa xăm. Kìa là cây vào, cây bương, khác với lùm tre quen thuộc. Cái cây gì mà cao lạ lùng, trong suốt cả cuộc đời nó đã tiễn mấy chuyến tàu qua…

Bạn thì thào bên tai: Suối đấy, trong lắm. Nhưng đừng vội tắm… Ờ, dòng suối trong vắt, róc rách chảy dưới chân đồi. Những viên sỏi xanh đỏ tím vàng óng ánh đâu rồi? Mà chỉ thấy những chiếc lá úa vàng xoáy tròn và chìm nghỉm… Đám mây ơi, mây trôi về đâu? Nhắn giùm ta tới người bạn ấy, rằng: ta nhớ lắm, nhớ bồi hồi. Ta gục đầu xuống bàn… Rồi sau đó thì sao, P. không biết nữa, P. không muốn biết nữa, vì khi đó, T. gần quá, đến nỗi không thể chấp nhận được câu trả lời ấy…

Anh câu gì bên dòng suối ấy? Tôi nhìn rõ lắm sợi cước trong trong như một tia nắng cong queo trên mặt nước. Cuộc sống thanh bình biết mấy, trong một dáng văng cần, trong một bóng mát của vành mũ lá…

Lính ào qua cửa sổ, sỏi dưới chân cũng mang màu đỏ quạch của núi đồi. Nắng gắt, choang choáng. Ga này cũng không biết tên nữa. Chỉ có bưởi, quả bưởi trên rừng nhỏ như nắm tay và khô. Dùng tạm vậy. Tất nhiên là phải có tiền. Mệt, nhưng mọi người đều hồ hởi và hể hả. Khoan khoái ngồi trong bóng của ngôi nhà lợp nứa. Chẳng có nước. Trời nắng – giở bánh mì ra ăn, nghẹn lại nơi cổ họng… Tạm biệt, con tàu màu xanh, đi đi… Xa hơn nữa là Bố Hạ, cam Bố Hạ… là sông Thương… Còn ở đây, khét cháy…

Được lệnh hành quân vào rừng. Chỉ 7km thôi.

Con đường rừng đầu tiên ta đi, vai nặng ba lô mồ hôi ướt đẫm ngực, vai và sau lưng áo. Con đường dài và mất hút”.. Quay lại phía sau, cũng con đường… Con đường xa lạ và gập ghềnh…

Khiếp, ba lô chứa gì mà nặng thế, oằn cả lưng anh bộ đội. Mảnh đồi ơi, ta chưa từng quen biết, nhưng hôm nay mồ hôi ta đã nhỏ xuống đất này.

Nắng cứ chang chang, con chim gì cứ kêu làm rối lòng người. Đường dốc ngược lên trời.

Những ngọn đồi này đây, gần một thế kỷ nay, là nghĩa quân của Hùm thiêng Yên Thế. Bà mế ơi, cây súng kíp này có phải của bố ngày xưa đóng khố theo cụ Đề đánh Pháp. Gian nhà trống trải trơ trọi trên đồi. Nước ở đây ít lắm. Nhòm xuống giếng cứ hun hút. Em có soi gương thì đi ra suối. Cái gương giếng nhà làm chóng mặt em…

Cụ chủ già lắm rồi, mái tóc bạc trắng, da mặt hằn nếp thời gian. Cụ cởi trần trùng trục, quấn quanh mình một mảnh vải thô, hai bàn chân khoằm khoằm, đi vòng kiềng mà thật vững.

Em gái học lớp 9 trên huyện, vắng nhà… Anh biết vậy vì áo hoa xanh của em không phơi trước cửa, mà gấp ở đầu giường. Núi rừng ơi, Yên Thế… Ta yêu người vì cây chò chỉ, cây lát, cây lim sừng sững, như bộ ngực của nghĩa quân…

Ta nằm ngửa mặt cho những giọt nắng đỏ lanh tanh chạy từ kẽ lá. Gốc đa rừng, cái dốc của rừng, bàn chân nào đặt bước đầu tiên trên con đường hỏm hẻm luồn sâu trong lá để bây giờ đến lượt ta đi…

Đường dài đến thế, ta đi mãi, mải miết trèo… Chỉ thấy ba lô nặng trên vai, chỉ thấy mây trắng cuốn về phương Bắc, thấy trời xanh ngút ngàn, và rậm rì là cây, là cỏ…

Đã cuối mùa sim. Quả sim tím sẫm, ngòn ngọt. Có phải rừng chiều ta nên kéo dài mùa sim tím cho lính. Miệng cậu nào cũng lép nhép những sim. Xóm làng đây thưa thớt, mái nhà như một đốm nhỏ chìm giữa lá cây…

Rải chiếu giữa trời là cây giàng giàng. Đừng bước vội hái hoa rừng mà gai đùm đũm doạ đấy. Ta đút vội vào ngực áo những chiếc lá rừng mà ta chưa biết gọi tên. Lá héo, mà thơm, phảng phất từ đâu đấy. Bạn có biết ta yêu rừng không vậy… Ôi, cái nắng trong rừng, rưng rưng nhựa. Ai đã viết những câu thơ để bây giờ ta đọc:

“Da bàn tay thường chạm với da cây,

Khuôn mặt người chạm vào mặt lá

Rừng già ơi, rừng già kỳ lạ quá.

Không có những ngày này hồ dễ đã quen nhau…”

4.10.1971

“Anh hẹn em cuối tuần/Chờ nhau nơi cuối phố/Biết anh thích màu trời/Em đã bồi hồi, chọn màu áo xanh/Sáng chủ nhật trời trong/Nhưng trong lòng dâng sóng/Chẳng thấy bóng anh sang/Đêm thứ hai thu vàng/Đêm thứ ba thu tàn/Mùa đông thứ tư sang…”

Bạn, đừng hát nữa, mà làm nao lòng bộ đội. Ta bước trên đồi bạch đàn, dưới chân là đá sỏi… Chao ôi, bầu trời xanh quá, màu áo thân yêu của ta đã xếp lại nơi nhà…

Bạn, đừng hát nữa, mà làm nao lòng bộ đội. Ta bước trên đồi bạch đàn, dưới chân là đá sỏi… Chao ôi, bầu trời xanh quá, màu áo thân yêu của ta đã xếp lại nơi nhà… Bao giờ hai đứa hẹn nhau, hẹn ở đầu phố.. . ơi cái phố thẳng tắp những cây, những ngôi nhà. Chắc phố buồn lắm đấy, vì vắng bóng lũ trẻ đá cầu, đi câu con cá trắng… Vắng một giọng cười…

Ao ước lắm, một lần gặp bạn, một lần nữa thôi cũng được ta sẽ nói hết, ta sẽ nói hết. Phố đừng cười nhé, dặn thế rồi mà lá cứ reo reo…

Sao khi ở gần với phố, chẳng yêu phố nhiều hơn nữa, để bây giờ hối tiếc… ừ, thời gian… Bảy ngày là đủ một tuần. Không phải 7 ngày chờ mong nữa, mà dằng dặc…

Đồi bạch đàn vẫn thong thả đồng ca bài hát cổ xưa của mình. Bạch đàn ơi, bỡ ngỡ gì mà em xoè lá? Hương bạch đàn, nhựa bạch đàn gợi điều mơ mộng quá… Em ở đâu chẳng về, anh dắt tay em… Qua đồi này, là tới đồi sim, tới đồi hạt dẻ. Sim cuối mùa, đừng bắt đền, làm môi em tím. Tím lưng đồi là màu tím hoa mua, không, chẳng phải đâu đấy là màu tím Huế, màu tím của em…

Chao ôi, là nhớ… Mình tưởng tượng thấy bóng dáng yêu dấu đang nép sau thân bạch đàn ứ nhựa. Đừng giận gì nữa hết, xa nhau lâu rồi, còn có điều gì để giận… Hay P. giận vì lá thư cuối tháng 6 không được trả lởi? Không viết nổi P. ạ, không sao viết nổi, vì nỗi thương cảm sâu sa bóp nghẹt trái tim T…

Khuôn mặt dịu dàng ấy, sao hôm nay im lặng thế, xôn xao trong lòng ta, là vần thơ của nhà thơ nào, lâu lắm không nhớ rõ, cứ lan lan…

“Em đã nói biết bao lời,

Với cha, với mẹ, với người xung quanh

Với biển cả với cây xanh

Sao em không nói với anh một lời?…”

Ôi, giọng nói ấy, cứ làm ta rạo rực, giọng nói đánh thức trong ta những niềm xao xuyến đã chết lặng và làm cho hồn ta, trái tim ta tràn đầy hạnh phúc. Suốt từ hôm ấy… Hơi thở ấy đã phả vào từng sợi tóc, bàn tay thân yêu ấy đã xoa dịu cho ta nhưng vết thương. Ta tưởng chừng có thể tan biến đi, “thân cát bụi lại trở về cát bụi”… Ta muốn sụp xuống trước trái tim trong sáng ấy… ơi, thần tượng của ước mơ ta…

Luôn luôn ta mơ ước, ta khao khát, một buổi sáng đẹp trời, nhớ một màu xanh kỳ dị, ta thức giấc trong hạnh phúc. Một người đang chờ ta, đang đợi ta. Đó là P., đó là P. yêu dấu…

Ta khao khát một sớm mùa hạ, cùng nắm tay P. trong phòng đọc sách… Mùi sách quyến rũ hay gì mà làm ta xao xuyến thế?

Ta thường mơ, một mùa nào đó, dẫu là mùa đông ướt át và nhầy nhụa… Ta đứng trên sân ga lắng nghe tiếng mưa đuổi nhau trên bức tường rêu xám. Lòng ta đâu có thế, ta đứng chờ…

Và kia, P. yêu dấu của ta, từ trên tàu bước xuống, P. ùa vào lòng ta hay ta chạy đến dụi đầu vào gò má ấy, mấy năm trời còn gì nữa. P. hé miệng cười, nhưng ta đọc trong đôi mắt một màu ươn ướt. P. đưa ta về ngôi nhà 72, mới một lần ta hững hờ đến. Và P. sẽ kể cho ta vô vàn chuyện trên đất nước xa xôi.

Còn ta, sẽ kể cho P., về chuyện đời, vê những đồi phi lao Hà Bắc, mà mỗi bóng áo đều gợi nhớ tới P., sẽ kể cho P. những “mảnh liềm trăng cong một nỗi nhớ nhau”…

Ta sẽ kể cho P. rằng: P. ơi, một buổi họp trong đình, đình cũ kỹ, ống máng han rỉ, ta thèm được tay cầm khẩu súng loáng ngời ánh thép. Đạn vuốt nòng lắm, ta yêu khẩu AK này như yêu người nào ấy, khẩu súng ơi, súng sẽ gắn bó với đời ta, cùng sống chết với ta…

Khi ấy, chắc chắn ta sẽ lại nói với P. rằng, cả cuộc đời ta, cuộc sống riêng tư của ta thuộc về P. vĩnh viễn. Từ lâu rồi, cuộc sống tâm hồn của ta tan biến đi trong tình cảm nồng nàn của P., cái lò lửa rực hồng ấy.

Tới đây, ta mới hiểu thế nào là sự sợ hãi khi phải vĩnh viễn xa P. Đừng, lạy chúa, viễn cảnh ấy đừng bao giờ xảy ra cả, đừng, mà ta sống với ai, sống trơ trọi và cô đơn thế, ta làm sao sống nổi.

Khổ vô cùng là nói thật chỗ yếu của lòng mình. Ta đâu muốn thế. P. bảo: “Thích thư T. lắm!” Chẳng phải thế đâu P. ạ, rồi sau này nhiều năm, quay nhìn về dĩ vãng P. sẽ cười và lúc đó hết cả “thích thư T. lắm”. Lúc đó, những lá thư mà T. viết bằng những trưa không ngủ, bằng đêm khuya yên lặng trên trường Tổng hợp, trên mỏm đồi xa xôi này, viết bằng cả tâm hồn, bằng tất cả nỗi xao xuyến của trái tim – chỉ là một mớ giấy tầm thường, cần phải vứt đi.

Nhưng cũng chẳng sao, và cũng phải thôi. Vì ta chỉ thú nhận điều đó với riêng P., với một mình P. thôi. Ai chưa gặp ta cũng đều bảo ta ngớ ngẩn. Ai mới gặp ta cũng bảo rằng: Mình quý, mình thương. Ai ở với ta một thời gian cũng trỏ vào mặt ta mà bảo: Dở người!…

Còn ta, chỉ cười, chỉ khóc. Ta bay trên mây, dưới gió. Ta đã gặp ai đâu, ngoài người ta yêu quý, mà có một lần ta đã xoa tay vĩnh biệt! Rồi đây, người ấy có tự xa rời ta không, không biết. Có phải đời ta là cầm AK đánh giặc. Đứng trên đồi phun lửa vào kẻ thù, dạn dày, thầm lặng… chẳng cần ai biết đến đâu. Rồi lúc nào ta chết, chỉ cầu xin một điều, trên nấm mồ của ta là cây bạch đàn; cây bạch đàn mảnh dẻ…

Nằm trong lòng đất, giá còn được nghĩ, ta sẽ làm thơ, ừ, làm thơ, làm toán… Chà, lập dị, lập dị, ngớ ngẩn đến thế nữa cơ.

Sao bây giờ ghét đời sinh viên đến thế. Thõng thẹo và ọp ẹp. Phải sống khỏe mạnh, dữ dội trong lửa đạn.

Dân quý anh bộ đội. Bọn mình đi xin tre về làm nhà ở. Tre đấy, ngoài vườn, anh cứ ra mà chặt. Tre đực, tre cái, tre bánh tẻ đan lóng đôi, lóng mốt, đan sọt đeo đá sau lưng. Cây tre VN, lòng bà mẹ VN, có phải bây giờ ta mới hiểu đâu. Nhưng bây giờ ta mới được nhìn, được thấy…

24.10.1971

Nằm mãi mà không ngủ được. Đêm nay là đêm thứ bao nhiêu rồi, mình thức dậy. Đồng hồ chỉ 11 giờ kém 15, Kisinhốp là mấy giờ rồi?

Lâu lắm, 20 ngày đã qua, bận bịu và mệt mỏi, mình bỏ quên trang nhật ký, nhưng có lúc nào quên được Như Anh. Tháng mười, tháng sinh nhật – Tuần lễ sinh nhật đi qua. Ừ, trời cũng trong xanh hơn và lòng ta cũng mở ra đón gió. Tuổi 19, 20…

Như Anh ở đâu, nắm lấy bàn tay T., gió rét về thổi tím ngọn bàng, đâu rồi hơi ấm của ta?

Ai bảo những ngày này không đẹp, không thơ?

25.10.1971

Tháng 11 sắp đến rồi… Và như vậy, tháng 8 đã trôi qua…

Buổi sáng đến chậm chạp.

14.11.1971

Đã 10 giờ đêm, chủ nhật. Đang buổi tiếng thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam. Khi còn ở nhà, những buổi tiếng thơ này, mình ngồi bên bờ ao hay bên một cái giao thông hào ngập nước, nghe những giọng ngâm quen thuộc. Thế mà hôm nay, ở đây, ở cái đất Hà Bắc này, mình ngồi viết, vừa lắng tai nghe… Kim Cúc đấy, với giọng hơi mượt mà, chải chuốt, Kim Dung, Trần Thị Tuyết. Nghe quen như giọng người hàng xóm.

Buổi trưa, vừa gửi thư cho P. Có lẽ đó là cái thư cuối cùng ở đất Hà Bắc. Từ ngày mai, không được ra khỏi chỗ đóng quân nữa. Không biết đi lúc nào – Lo lắm, liệu P. có hiểu và thông cảm cho không – Biết làm sao được, khi bản thân mình không thể chủ động trong chuyện đó.

Gặp Dũng, bạn học từ lớp 8 – Dũng học Đại học Y khoa, và bây giờ ở C.17. Dũng cũng tốt đấy, hiểu mình và rất quấn quít. Vẫn gặp trên sân bóng, xung quanh là phi lao, có con đường chui qua, đỏ bụi. Dũng hỏi thăm hết bạn bè. Xuyên đi Bungari rồi. Châu đi Cuba, Dung đi Tiệp hay Đức gì đó… Thường thôi… đừng coi trọng họ, đi nước ngoài thì người ta thích, nhưng ít ai thích người đi nước ngoài, có cái gì hơi là lạ…

Dũng nhắc cho mình chuyện lớp, trường, chuyện thằng Khang, Nhữ Đình Huân, cái tụi nghịch như quỉ sứ – Ngô Bình nữa, nó đang đóng ở Quảng Bình, bị thương và đã được kết nạp Đảng hay sao ấy… Nhanh quá, mới đó mà nay mỗi đứa một phương trời. Mình nhớ mấy câu thơ tặng Bình khi tiễn Bình đi bộ đội hồi cuối lớp 10…

Dũng hỏi mình về chuyện đi nước ngoài. Khơi dậy làm gì chuyện ấy. Nó khiến mình buồn bã suốt một thời gian dài. Thật hèn hạ và xấu xa.

Mình kể cho Dũng cuộc sống từ khi hết lớp 10. Dũng cũng đồng ý với mình và tỏ ra hài lòng với cách sống ấy. Kể cũng lạ, sao Dũng dễ dàng đồng ý với ý kiến của mình thế.

Dũng bảo mình cần đoàn kết sâu, rộng với bạn bè hơn nữa. Dũng bảo: “Hãy biết liên kết với các bạn bằng những mặt tốt của họ. Nên triệt để nối mình với các bạn bằng cái tốt đó”. Kể cũng hay. Mình sẽ cố gắng.

Đá bóng với B1. Gió mạnh. Dạo còn ở trường, mình với Thanh hay ở cùng một bên, bây giờ Thanh ở B1, còn mình lại sang B2. Đá bóng mà nhớ trường, nhớ kỷ niệm đến thế – ơi, Yên Hoà B… đâu rồi?

Buổi tối ba má và anh của Minh lên chơi. Còn mình thì chẳng có ai lên cả – Buồn và nhớ gia đình vô cùng. Nhưng mình không tán thành chuyện lên thăm đó. Mình ngồi nghe rất lâu chuyện hai bác và anh Bằng nói. Chẳng có gì mà phải lên tận đây cả – Nhớ Minh ư, mà sao có vẻ thờ ơ tệ. Không giống trong tưởng tượng của mình chút nào? Hay là tại mình không ở trong tình trạng đó nên mình không biết, không cảm hiểu?

Không, rõ ràng không. Gia đình đi từ 5h30 sáng mãi trưa mới đến nơi. Mang cả cơm nắm và thức ăn định ăn ở Bắc Giang, nhưng không hiểu sao lại về tận đây ăn. Buổi trưa, bọn mình ăn cơm, phải sang chỗ anh Hinh ăn tập trung. Mình chào gia đình và Minh cũng đi ăn – ở nhà còn ba má và anh Bằng – Sao hai bác và anh không gọi Minh ở lại ăn cùng.

Không hiểu ra sao cả – Lạ thật – Gia đình mình thì nhất định không thế rồi.

Nói chung, mình chưa hiểu rõ lắm về Minh và gia đình cậu ta. Biết chung chung, đại khái.

Tối nay, liên hoan tiểu đoàn, ăn cơm muộn nên được phép nghỉ. Mình nói chuyện với bà.

Bà kể chuyện “Duyên Tiên”, chuyện “Trương Chi”,v.v… làm mình như trở lại trẻ con. Thương anh Đổng Vĩnh ra gốc cây đề và khóc, ngóng lên trời tìm nàng Bảy.

Nàng tiên ơi, tấm lụa trắng đâu rồi, và gốc cây đề ấy ở đâu trong rừng sâu kia?

“Mùa xuân hoa nở, thiếp về

Mời chàng ra gốc cây đề nhận con…”

Bà bảo mình đọc “Bầm ơi”, mình đọc, gió lành lạnh và mình thương mẹ quá, mẹ ơi…

Bà đã 60 tuổi – Bà bảo, năm nay là “năm tuổi”, mẹ mình đã qua tuổi 49 và 53 rồi, không bị làm sao là mừng lắm. Lạy trời cho mẹ sống lâu, sống mãi và đừng ốm đau gì cả. Thương mẹ lắm mà không biết làm gì. Thù thằng Mỹ quá, phải giết hết nó đi.

15.11.1971

Thằng Mỹ, nó là cái gì mà mơ hồ như thế? Đi bộ đội, mình cảm thấy hơi mông lung trong việc nhìn nhận kẻ thù. Hố bom còn toác ra ở trên đồi. Và cảnh làng xóm tiêu điều, bị tàn phá ngày 29-2-1968, ta đâu có quên. Mặt mũi thằng Mỹ thế nào? Hẳn đó cũng là khuôn mặt người bị bóp méo xộc xệch. Hẳn đó là bộ mặt nhăn nhúm trước ánh sáng mặt trời.

Đêm ấy, thật đau lòng. Hồi chiều, bị ném 40 quả bom. Điện bị đứt lung tung. Làng xóm chìm trong tang tóc và bóng đêm. Ở ngay trước ngõ là một bát hương hiu hiu khói. Anh Phúc bị bom tiện đứt cả chân tay, nằm trong chiếc quan tài đỏ, ngọn đuốc nứa thổi phừng phừng, cái xe bò lăn lộc cộc… Sao giống “chiếc quan tài” như thế.

Không, suốt đời ta không quên, ta không quên cảnh em bé miền Nam đập tay lên vũng máu. Dưới tay em lẽ ra là chậu nước trong mát – cái biển mênh mông của tuổi thơ hồn nhiên, nhí nhảnh…

Thằng Mỹ, nó thế nào? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta – cái day dứt trong ta là khi nào được vào miền Nam, vào Huế, Sài Gòn – xọc lê vào thỏi tim đen đủi của quân thù.

Ta ngồi đây, thanh bình như thế. Nhưng ở cuối trời Tổ quốc, bao nhiêu người con ưu tú của dân tộc đang đổ máu, đang giập gãy từng khúc xương, đang bị kẻ thù đày đọa và các đồng chí của ta, anh giải phóng quân kiên cường đang nín thở đợi giờ xung trận, đang đói rét và đau nhói vết thương trên một cánh rừng già.

Vậy mà, lại đến giờ đi ngủ. Những cơn gió liu riu trên cành tre đưa ta vào cơn mơ – Ta lại trở về với cái ngõ nhỏ của mình… Lạc lõng ư? Có lẽ nào!

Ta biết giấu mặt vào đâu, vào gấu quần hay gấu áo, khi đường Trường Sơn không có dấu chân ta? Khi cả cuộc đời ta chưa có cái niềm vui mãnh liệt của người chiến thắng, cắm cờ Tổ quốc trên cả nước thân yêu.

Phạm Tiến Duật, Triệu Bôn… Các anh đêm nay ở đâu trên Tổ quốc? Các anh có viết những bài thơ, những truyện ngắn vào giờ này? Ôi, những nhà thơ, nhà văn – chiến sỹ, ta gặp nhau trên cùng một ước mơ làm nhiều cho Tổ quốc. Chúng ta có mặt trên trận tuyến ác liệt nhất, khi đất nước đánh thù, có gì tự hào hơn nữa.

Ta bỗng nhớ câu thơ của Hồng Chính Hiền:

“Thương nhau, thương nhau nên hoá gần nhau

Nghe cả tiếng hiệp đồng qua hơi thở…”

Các anh có nghe tiếng tôi? Tiếng của đứa trẻ bước chập chững vào đời với bao thôi thúc, bao niềm tin, hy vọng?

20.11.1971

Đại đội trưởng cũng đi rồi. Quân đội đúng là một đại gia đình, và đi đâu cũng người nhà cả mà thôi.

Chẳng cần tiễn đưa gì cả. Cắt cho Đại đội trưởng cái đầu mới toe – Kỉ niệm, thế là đủ rồi. Mà kể cũng lạ, biết đâu lần này chính là lần gặp cuối cùng trong đời! Thế mà thật bình tĩnh, thật thanh thản. Nhưng, riêng mình vẫn không thể bình thường được.

Hôm nay Quốc tế hiến chương các nhà giáo đấy. Mình định viết thư cho thi sĩ, nhưng rồi lại bận quá. Không viết được.

Càng nhớ thầy, càng nhớ bạn, càng lo lắng về công việc của mình. Tuần lễ cứ trôi qua, ngoảnh lại, chưa làm được việc gì ra hồn cả. Cả thói quen ghi chép cũng không rèn luyện được. Thật đáng lo.

Khi còn phổ thông, ước mơ khá lớn, khá lâu dài là được đi xa và nhiều, và rảnh rỗi mà viết lách. Bây giờ, thoải mái, không phải suy nghĩ gì về bài học cả. Thế mà từ khi đi bộ đội đến giờ, mình đã viết được gì đâu.

Cầm viết được nhiều, quả thực ở nó có tài năng, hay ít ra, đó cũng là một khả năng tốt. Khanh bảo Cầm nó chăm lắm, mặc dù sức khoẻ yếu. Mình nhớ dạo mới đi bộ đội, hay gặp Cầm lang thang trong đêm. Có lần đi gác, Cầm nằm ngủ ngay trên cái cầu xi măng bắc qua sông Tô Lịch. Nó bảo nó nằm nhớ lại dĩ vãng xa xưa của nó ở Kinh đô, đôi guốc mộc và cái quần chùng, hàn huyên với các sư huynh bên quán nước.

Kể cũng lạ, ở nó có gì đáng học đâu, ngoài những ý sáng tạo trong thơ. Cách sống của nó hơi ngang tàng và thiếu nghiêm túc. Nhưng vì sao nó nắm bắt mạch thơ đúng thế. Tưởng như lời nào của nó cũng là thơ(!)

Giới thiệu bài hát, nó bảo: Mười con chim sơn ca nuôi trong cổ họng xin ca nhạc phẩm “Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây” nhạc của (…), lời Phạm Tiến Duật. Nhạc Việt Nam được trộn pha ácjăngtin… liến thoắng như cái máy mà hấp dẫn. Lúc ấy, nó thật đáng yêu, và con người nó hoàn toàn là của nghệ thuật.

Có điều là những cái nó viết ra xanh xao lắm, và hơi trừi tượng, nó đèm đẹp và trơn tru, nhẵn nhụi; Nó thiếu một sức ấm nóng lan toả. Có lẽ điều đó không phải không đáng ngại.

Mình không muốn và không được đi theo con đường ấy. Cứ kiên trì, bình tĩnh và tích cực, mình sẽ làm được hết.

Có điều thơ là gì mình cũng chịu. Thơ không cần chi tiết mà cần hình tượng. Hình tượng thơ phản ánh tâm hồn con người. Đó là điều quan trọng trong thơ.

Cuộc sống này, mình rất yêu, rất đắm mình vào. Nhưng sao ngòi bút cứ tắc, cứ ngắc ngoải? Có phải vì mình không có khả năng? Dám thế lắm.

Càng ngày mình càng hiểu: Không dễ dàng gì đâu. Dẫu anh có đi nhiều, biết nhiều, nhưng cũng cần phải có phương pháp tốt.

Trước kia, còn viện cớ này nọ. Nào dò đường, nhận đường, nào tự tìm mình, tự xác định dấu vết… Nhưng chẳng lẽ mình cứ hão huyền thế mãi. Cứ lí luận suông thế mãi hay sao?

Mình đã sống thật hay chưa? Chưa, chưa nghiêm túc sống. Trong cả sinh hoạt, trong cả rèn luyện và trong cả danh dự, lương tâm của người cầm bút tự giác.

Ao ước quá, nếu như được đi trên tuyến đường Quyết Thắng, được đi trên đỉnh Trường Sơn, gặp nhà thơ trẻ P. T. Duật… Mình không biết sẽ hỏi gì, nhưng chắc chắn cuộc gặp gỡ đó sẽ thú vị biết bao.

Bao nhiêu điều muốn hỏi. Bao nhiêu băn khoăn thắc mắc: Thế nào là đề tài, chủ đề thơ? Thế nào là cấu tứ một bài thơ? Nhưng quan trọng hơn cả là nhìn cuộc sống ra sao để có thể đưa vào thơ, vào truyện những vấn đề nóng hỏi của cuộc sống.

Mình bắt đầu ghét những cảm xúc mòn, xáo về một đêm hành quân, một đêm gác khuya, một buổi gặp gỡ hoặc chia tay trong cái ngõ nhỏ thơ thơ. Không phải là Lý Bạch để có thể quên “Hoàng hạc lâu” mà sáng tác. Cứ hành quân, là trong đầu lại thơ, lại những bài thơ về hành quân mà mình đã đọc. Vậy là chịu, không thể có một ý gì mới mẻ nữa.

Chẳng có lẽ bầu trời kia không dành riêng ta một ngôi sao xanh, một ngôi sao đỏ làm nên cái lấp lánh của bài thơ?

Mình đi lạc đường chăng? Đâu là “Đường vào thơ”? Càng nghĩ, mình càng bị day dứt và dằn vặt. Mình hiểu rằng không thể rời bỏ được thơ, được văn. Nhưng viết ra thì không đủ độ chín. Chí nghĩ trong đầu đã đủ thấy nó xèm xẹp, chỉ muốn dập tắt cái cảm xúc ấy đi. Không hiểu nhà thơ nào đã nói: Ai đến với cuộc đời chiến đấu để làm thơ thì khó mà làm nên hồn một bài thơ. Hãy bắt đầu từ cuộc sống, và từ đó sẽ nẩy ra thơ.

Mình đến từ đâu? Mình mong làm được thơ, làm được nhiều thơ hay để làm gì? Thú thực, chưa rõ ràng gì cả. Có lúc, mình muốn làm thơ chỉ vì được đọc một bài thơ hay đến xuýt xoa! Có lúc lại muốn làm thơ để có tên mình trên sách báo “Lưu truyền hậu thế” hay sao? Tư tưởng này rõ ràng là xấu, không xuất phát từ quan điểm đúng đắn: Phục vụ nhân dân. Hãy bắt đâu bằng người lính.

Bao nhiêu cơn mơ, chỉ còn lại những cơn mơ hữu ích. Nhưng đêm tháng 7… “Tháng 6 qua rồi T. nhỉ, bây giờ là tháng 7”… – “Tháng 7 là gì?” – “Tháng 7, mùa thu, lá phong đỏ…” Cô gái nhỏ ấy ư, trong “ngõ cụt của tâm hồn”…

Mùa thu trải dài như vô tận, cái màu xanh da trời như một niềm thương nhớ khôn nguôi…

Nhưng còn mùa xuân, mùa xuân, mùa vạn vật sinh sôi của trăm ngàn hoa thơm quả ngọt… “Thế là P. đã ở đây với những mùa đông lạnh lẽo và hoa tuyết thờ ơ, bình thản này… Biết bao giờ ta mới gặp nhau? Bỗng nhiên lòng buồn vô hạn. Hay là không bao giờ nữa? Và mùa xuân của cuộc đời P. là như thế đấy…”

Không phải là như thế! Mùa xuân sẽ về, sẽ đẹp tuyệt vời nhờ sức lực của chính mình.

Tự nhiên, mình cảm thấy và rất rõ ràng, mình có trách nhiệm với cuộc sống của P.. P. như một cái gì, như trái tim mình, như một phần thân thể mình. P. có khoẻ không, có nhức đầu và mệt mỏi hay không? Những đêm khuya như thế này, P. đã đi ngủ hay chưa? Bài chắc nhiều và khó, có lúc nào P. phải nhíu mày, tập trung suy nghĩ về một bài toán? Ước gì giúp được cho P. phần nào, đỡ cho P. một phần khó khăn trong học tập…

Nhưng xa nhau rồi… Kisinhốp, một thành phố nhỏ li ti trong cả liên bang Xô Viết, xa lạ, xa lạ… Còn ngày mai, mình sẽ ở đâu, mình sẽ đi đâu, không thể biết được. Chẳng bao lâu nữa là hai đứa hoàn toàn bặt vô âm tín… Rồi sau đó sẽ ra sao? P. sẽ sống ra sao giữa Thủ đô của bình yên và sung túc, của vật lý hiện đại?

Và chính cả mình nữa, mình sẽ sống ra sao?

Cơn gió thổi từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường… Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những vòng sóng hình tròn toả rộng xung quanh… Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt nắng hình quả trứng lăn nghiêng?

“Dĩ vãng thì đã xa xăm. Mà cuộc sống thì luôn cất tiếng gọi trở về” – Altưnai đấy – Có phải đấy là lời tự bào chữa. Song, chắc Đuy Sen cũng rất hài lòng về chuyện đó – Như vậy đúng hơn và hợp lô-gich hơn!

Bắt đầu là bộ đội. Rồi sau là thầy giáo. Sau nữa là Đuy Sen. Tập đó là Anh – và cuối cùng, là Người, là ông già đưa thư âm thầm, lặng lẽ… Đuy Sen sao khéo chôn kỷ niệm của mình mà sống. Đâu phải dễ dàng vì hai cây phong còn đó, vì ngọn đồi Đuy Sen còn đó và mùa thu trở lại, lá phong đỏ lại rơi, tơi bời trong chòm râu bạc… Con người đó đáng kính phục lắm, lý tưởng lắm. Đã có ai trên đời này lấy Đuy Sen thay cho Carơsaghin? Cuộc sống này thi vị biết bao và cần nghị lực biết bao!

Tại sao Đuy Sen lại tự im lặng, tự ôm lấy con tim mình cho nó khóc? Vì hạnh phúc của Altưnai ư? Vì quyền lợi của học trò ư? Vì ước mơ cao cả của cả thầy và trò, của dân làng vùng Kadắc, thèm khát vươn tới đỉnh cao của khoa học…

Còn nhiều nữa và tin rằng, tất cả là sự thật. Nếu như Altưnai và Đuy Sen lại ở bên nhau như hai cây phong tuyệt diệu như vậy, thì ông già Đuy Sen cũng là một cái “tôi” to tướng…

Ta biết vậy, ta biết vậy… Và con đường cũng mở cho ta hai nhánh lớn. Đuy Sen ơi, Người là ngọn lửa, là ngọn lửa hồng giữa đêm thâu giá buốt. Ta ước mong gì hơn nữa, được làm, được sống như Đuy Sen, được đau khổ và sung sướng như Đuy Sen…

Ôi, tiếng nói nghẹn thắt của Người thầy đầu tiên khi con tàu chuyển bánh, cái tiếng thất thanh của con tim ứ tràn niềm xao xuyến… Altưnai… Altưnai… Cái tiếng thân yêu ấy bánh sắt của con tàu đã lăn qua – Hay trái tim giầu xúc cảm và lòng nhân đạo, lòng cao thượng ấy bị bẹp nát trên đường xe lửa?

Cuộc sống tuyệt vời biết bao, trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời. Bao giờ để niềm vui về cùng hạnh phúc, để những đôi bạn bình yên dạo trong rừng bạch đàn, có ánh nắng xanh dịu và những đàn chim câu trắng muốt điểm sáng của rừng?

Phải đấy, rừng không nên thơ như ta tưởng. Và để ngày mai tuyệt diệu ấy, hôm nay, có bao người cầm súng, có bao người gửi gắm vào thiên nhiên xanh tươi, vào cánh rừng gai góc âm u tất cả thời thanh xuân của mình.

Ai đấy, khi nắm tay người bạn thân yêu của mình, khi cánh buồm xanh đi về, cánh cửa trời rộng mở, chớ quên dưới chân mình là cát sỏi, là hòn đất đượm mồ hôi, thấm máu của bao thế hệ, mà cuộc sống của họ đã xa xôi…

Ai đấy, khi khoác vai người bạn yêu quí của mình, chỉ cho bạn, kia là ngôi sao Hôm – ngôi sao Mai. .. Ngôi sao ban chiều và ngôi sao của bình minh. Chớ quên rằng, có buổi sáng nào, sao Mai, mang màu đỏ, màu máu và màu lửa! Chớ quên rằng, để đêm trăng có những ngôi sao tình tự, để con người tự do mơ ước vươn tới những đỉnh cao xa; có những trái tim đầy khát vọng phải xếp vào ba lô mọi mơ ước dịu hiền nhất, mọi tương lai cá nhân quen thuộc nhất. Mà đánh giặc.

Có lúc nào anh tự hỏi mình: Đâu là chiến hào đánh Mỹ? Đâu là dây cung để bật những mũi tên căm uất? Còn tôi. Từ rất lâu rồi, tôi đã tìm ra đâu là chỗ đi và chỗ đến của mình…

 

 

Tập 2

 

22.11.1971

Không có ai cầu nguyện cho mình cả. Những ngọn nến nhấp nháy trên sườn đồi là lô cốt địch. Còn những bảng đen ngòm kia là thằng Mỹ – Hãy cho chúng no đòn. Đồng đã đi qua mùa gặt. Hương lúa chia đều khắp các nhà và trăng lên sớm cho sân kho nhộn nhịp. Rơm còn phơi đầy trên ruộng, rơm gác lên đống rạ, mềm đi vì sương sớm… Dạo mới đến đây, rừng thả hạt dẻ lăn lách tách trên đồi. Còn bây giờ, lại mùa hoa dẻ. Hoa dẻ rừng trắng pha vàng như hoa nhãn, như hoa hồng bì.. . Cả rừng như mở ra cho vô vàn mùi hương lạ lùng thì thào cùng anh bộ đội.

Đàn dê đi lẫn trong vạt cây thấp, cây mua lá xanh mềm như nhung, cây khế rừng lá tím… Tiếng chuông thơ ngây trên cổ lũ dê rung lên bỡ ngỡ, tưởng chừng như giọt nhựa ứ ra và cuộn thành giọt, rơi từ tốn. Đó là những ống đếm thời gian của rừng già…

Đêm rủ bức màn lốm đốm sáng, đồi chìm vào chân mây, đất và trời bị xoá nhoà ranh giới… Còn anh bộ đội thì hồi hộp đợi chờ. Lần bắn thứ hai trong đời lính. Anh hãy nghĩ: Kia đúng là thằng Mỹ, là kẻ thù và ghìm súng vào ngực nó. Đừng lo bắn vào quả tim người, chúng nó chẳng có tim đâu!

Anh hãy nghĩ: Cuộc sống yên lành và ngân nga như lời thơ kia bị cào xé bởi ánh lửa ghê tởm trước mắt anh.

Hãy đứng trong chiến hào của đời mà bắn!

Sương dày nên đạn chưa căng. Tiếng nổ không chát chúa mà âm âm. Đèn vỡ tung, đạn xuyên qua phao dầu, đạn phá rách toang bia. Phải như thế, mới hả căm thù!

Thủ trưởng bảo: Ta bắn giỏi không phải như anh chàng trong “Hoa diếp dại”. Đạo đức cách mạng của người Việt Nam khác thế.

Tự hào lắm, khi được lang thang trên mảnh đất Mẹ hiền này và bảo vệ nó. Còn ai hạnh phúc hơn ta nữa. Trang sách của cuộc đời chưa mở cho ta, nhưng mới ghé mắt nhìn, ta đã ngây ngất cả người…

Tiếc thay, đã mấy ai nhận thấy?

23.11.1971

Sắp từ biệt đây rồi… Một ngày lặng gió, nhưng lá bạch đàn vẫn líu ríu ở đầu cây. Ôi, Tân Yên, vùng đồi trung du của dân ca quan họ, của tấm lòng cởi mở chân tình…

Tới đây từ 1.10, thế mà đã gần 2 tháng. Hai tháng đi qua cái cửa tre quen thuộc, cái thanh tre chống khung cửa dước dốc, cái hàng rào dứa khi mình đến, còn lưu lại vài qủa chín vàng, thơm lựng…

Ta muốn thăm lại thị trấn Nhã Nam, quả bàng chín rụng, thăm hòm thư của bưu điện giấu một niềm tâm sự, một lời thủ thỉ… Ta muốn lại ngồi trong quán nước, gặp bà hàng nhai trầu bỏm bẻm, muốn đi qua sân bóng, muốn vào thăm mái lều san sát của bãi chợ ồn ào…

Ta muốn vào thăm nhà bên kia đồi, có cái xe bò và có anh chàng canh đồi dẻ, thăm cụ già mù bật ngón trên cái kèn đưa người ra ruộng… Muốn đi trên cái dốc “hết ý” của ngày gánh lúa giúp dân…

Ta muốn mãi ngồi trên “đồi mặt trời” để sớm sương tan, mặt trời tròn đỏ ôm lấy ta mà bay lên… Muốn mãi ngồi trong bếp của bà, nghe bà kể chuyện. Cháu đun nước cho bà, bà khen cháu ngoan đi…

Nhớ lắm, nơi này, những con người ở đây… Ta cúi chào tất cả. Từ biệt Tân Yên, núi đồi và bạch đàn…

Đất này, tuyệt đẹp. Núi sông này vây bọc lấy đồng bằng đâu phải tôi bom cho quân thù trút lửa! Và con đò mộc đi trong lời thơ đâu phải mục tiêu cho kẻ thù bắn phá.

Hãy khoan đến ngửa tay cầu trời ban cho một bông tuyết trắng. Đêm buông yên lặng cho đôi chim tình tự, cho cây cỏ bình yên trỗi dậy và cho cả anh bộ đội chuẩn bị lên đường

Cháu Oanh và cháu Quế đã ngủ rồi. Bà và chị Nhàn cũng ngủ… ôi. ta xa rời ngôi nhà ấm cúng còn phảng phất khói hương này. Mười năm sau sẽ có biết bao thay đổi. Ta có được trở về thăm lại gốc chè xanh của bà, thăm luỹ tre vừa gieo mầm trong tháng… Lúc đó, sẽ khác nhiều và cuộc đời chắc đẹp, chắc thơ gấp bội.

Tháng 2, bà trở lại Thái Bình. Cháu lại đi với mối thù thằng Tây mũi lõ, thằng Tây quấn thừng đã làm một đời bà khổ. Khi thắng lợi trở về chắc bà không còn nữa. Song, đời bà đã mấy mươi lần tiễn các con đi… Chị Nhàn vất vả mà vui, ấy, người phụ nữ đảm đang có chồng là liệt sĩ. Khuya thế này chị còn đi đâu, ánh đèn bão lung linh sau hàng dâm bụt… Ừ, như thế, những tâm hồn cao thượng đang nằm nghỉ, ngày mai, họ lại viết tiếp lịch sử của loài người.

Ta bỗng nhớ xa xôi đến đỉnh màn thân yêu, mùa hè thì nóng, mùa đông thì lạnh. Nhớ vườn mía mùa này ngọn gió cũng mang vị ngọt…

Ta nhớ bạn, nhớ Lăng, Hậu, Hải, nhớ từ thằng Kiểm đến dáng người xa lạ ta gặp ở bến xe… Đêm nay có phải là đêm chuẩn bị hành quân vào trong ấy, mà kỷ niệm thức dậy. Ngồi trầm tư trước ngọn đèn…

Mai, Minh đi tiền trạm. Tế vẫn đau bụng rồi hành quân ra sao. Củi không hiểu đã đủ chưa, sáng mai đi lấy gạo. Cải nhổ được rồi đấy, cân cho nhà bếp là vừa… Lỉnh kỉnh lắm, nhưng gọn biết bao, chỉ day dứt là cái lòng anh Đất này, Tân Yên…

Em đừng khóc, các anh đi rồi lại trở về mà. Lau nước mắt đi em. Ta là người Việt Nam, sống trên đất nước Việt Nam…

“Đất nước của những người con gái con trai

Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép

Lúc chia tay không hề rơi nước mắt

Nước mắt chỉ dành cho ngày gặp mặt… ”

Rồi cuộc đời ta sẽ quen với những lần chia tay, những giờ bịn rịn, nhưng lúc này, ta lại nhớ đến P. . Buồn biết bao, khi đi xa không có P. ở bên, không có người thân yêu nhất của mình.

Sương xuống lạnh buốt, phải mặc áo rét vào và đi tất. Cái lạnh… Chao ôi…

P . đang làm gì ở nơi xa xôi ấy? Ta lại phải chia tay, lủi thủi một mình, đơn chiếc, ánh mắt kia đâu phải của người ta yêu quí, và gốc cây này, của các bạn thôi…

12 giờ đêm 23.11.1971…

…Vẫn chỉ là tấm ảnh… “Những ngày cuối cùng ở Hà Nội. Sau một đêm thức trắng đấy! A. 2.7.1971″. Đôi mắt vừa âu yếm, vừa buồn bã. Đôi môi cười ư? Không phải. Chỉ biết cứ nhìn…Ta cúi xuống và hôn…

Lại thế nữa cơ, nhưng chả là như vậy. Nhớ lắm P. ơi, và đừng nỡ trách… Buồn biết bao nhiêu khi để lại trên môi hơi lạnh của mùa đông… Ta chỉ còn tấm ảnh, ta trò chuyện cùng tấm ảnh, ta thổi vào tấm ảnh một linh hồn…

26-11-1971

Thế là tạm biệt Tân Yên, tạm biệt đồi bạch đàn thân yêu. Cái lô cốt trên đồi chắc đã nhắm mắt và chui vào lòng đất sương mù lại choàng khăn trắng ở lưng đồi. Đang mùa dẻ ra hoa. Hoa dẻ hăng hăng, mảnh mịn và nhỏ li ti, nhưng gần gũi và thân thiết biết bao…

Ba giờ chiều rồi, bà đang làm gì? Nồi nước đun dở đã sôi chưa? Hai bà cháu đun nồi nước cuối cùng vào 4 giờ đáng 25.11, vòi ấm chưa phì ra hơi nước, cháu đã khoác ba lô lên vai rồi… Thôi, thế là mãi mãi không còn gặp bà nữa. Bà cô đơn suốt cuộc đời nên có bao nhiêu con là bộ đội.

Những chân rạ, hồ cá, cửa tre, giếng nước… Bà, chị và hai cháu… Các bà mẹ, các cô gái, các bạn nhỏ trên đồi… hãy ở lại yên lành và hạnh phúc. Hãy trông nom đồi bạch đàn cho cao lớn…

Chia tay trong sương mù. Ban đêm, rạng sáng, những hạt đen nhỏ li ti giấu hộ dân làng nỗi xúc động oà ra nơi loé mắt… Dẫu thế nào, ta vẫn là thiếu thốn…

Cột cây số chỉ Bắc Giang 22km. Tiến về phía đó… 600 con người gò lưng và bước. 30kg trên lưng, đường bụi… Phải, lần nào hành quân cũng vậy. Không còn nghĩ ngợi được gì nữa. Thiên nhiên thu hẹp bằng nắp vung dưới gót chân người đi trước. Không gian như co, như dồn, như ép, ép mạnh vào khắp cơ thể, vào cổ, vào vai, vào lưng, vào chân. Mệt lắm, nặng lắm. Sự thật gồ ghề biết chừng nào.

Ta như lần tay trên cạnh sắc lạnh của cuộc đời, và nhớ da diết đến P.; dường như đối lập với cái khô khỏng và dữ dội ấy là hạnh phúc êm đềm khi đứng bên P.. Ôi, đôi vai tròn, nhỏ nhắn, gò má và đôi mắt mềm đằm thắm biết chừng nào… Nhìn mãi, nhìn mãi mà không thấy P. đâu. Chỉ thấy bụi, cát, ồn ào và nặng nề, mỏi mệt. Chỉ thấy gánh nặng của đời đè gí hai vai. Hình như đâu đây có tiếng nghiến răng, tiếng ồ ồ từ lòng đất như một lời cảnh báo: Mày muốn xa rời đất này ư? Muốn đi đến thế giới huyền ảo ư? Thì đấy, hãy chôn chân mày, dán chân mày xuống đất và cúi gằm xuống đất này mà đọc lời nguyền rủa!

Đúng lắm, mình có lỗi lắm. Thần Prômêtê bị xiềng trên bờ biển vì đánh cắp lửa cho những trái tim. Còn mình, muốn trốn trách nhiệm hay sao?

Chỉ nghĩ được thế thôi, và trong phút giây nào dám ngước nhìn ra xung quanh, có chút tự hào về đất nước, về những con đường dành cho những người đầy nghị lực, không sợ chông gai.

Phía xa là sân bay Kép, từng biên đội đang cất cánh, nhìn rõ cả mũ và buồng lái. D ĩ nhiên phải có màu xanh giản dị và trùng điệp ở dưới này…

Nặng quá và xa lắm. Được nghỉ là ngã luôn xuống vệ đường, không đủ sức tháo người ra khỏi balô nữa. Nếu như có P. ở đây, P. sẽ nghĩ gì ? Có thương mình không nhỉ? P. sẽ nghĩ gì khi người bạn của riêng P. nằm há hốc mồm mà thở, rời rã chân tay và ngủ thiếp đi trên cánh đồng khô đầy bụi và chang chang nắng… Nhưng nếu có P. ở đây có lẽ mình cũng không nằm thế và sẽ đi bắt chuồn chuồn!

Đằng kia là núi Yên Tử – Trường Sơn thu nhỏ và đang chờ đợi.

Đi đông là niềm tự hào lớn lao của anh bộ đội. Người nào cũng nhận ra trung đoàn quân ấy một chút thân thể của mình và đều thương anh bộ đội. Còn mình, cũng tự hào là 1 phần tử nhỏ trong sợi dây xích màu xanh.

Em nhỏ bảo đây là Ngọc Lý, đã sang huyện Việt Yên. Lại Yên! YênSở, Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên… chữ “huyện” ở đây đây gọi là “sểnh” thì phải, nghe là lạ…

Đến Sen Hồ vào 11 giờ trưa, tên “Sen Hồ” thì mát, thế mà Sen Hồ vừa bụi vừa bức bối, Sen Hồ cách Nhã Nam 18km… Lần đầu tiên trong đời đi bộ được quãng đường xa như thế, với 30kg trên vai! Kỳ công thật!

Thị trấn của Việt Yên, qua cái dốc và kia, đường nhựa. Ôi đường nhựa. Ôi Hà Nội… Bộ đội ùa ra và dẫm chân lên đường nhựa mà reo… Con đường thân yêu trải dài trước mắt. Hãy đặt ba lô và xoa tay trên mặt đường…

Nhưng, chỉ 1 loáng, chiều rộng của con đường chỉ đủ cho anh lính đi trong giây lát… Ta lại đi ngang những cuộc đời bận rộn của thị trấn. Cô thợ cắt tóc, cửa hàng chữa đồng hồ. Bà già bán ớt, bán cam, chanh, đủ cả chua, cay, mặn, chát, ngọt, bùi. Như là chính cuộc đời của bà…

Ga Sen Hồ, có tiếng còi xe lửa. Kia là quốc lộ số 1, một ngả về Hà Nội và một ngả đi Lạng Sơn, đi về phương Nam và đi lên phương Dắc… Đất nước làm thức dậy trong ta những kỉ niệm còn tươi và những kỉ niệm bị lãng quên tù rất lâu rồi. Ta thấy trái tim như nghẹn lại. Nước mắt đã khô trên gò má, nhưng quả tim thì khó lòng mà kìm lại được… Nhất là đường xe lửa với cột đèn tín hiệu, với tiếng còi tàu gợi một chuyến đi xa… Như Anh ơi, T. khổ biết chừng nào…

Bắt đầu đến trạm dừng chân, làng nằm ven đường quốc lộ 1A, bộ đội lê chân vào sâu trong xóm. 2 giờ chiều rồi, bụng đói, mệt và đau. Chân phồng rát như phải bỏng và cứng đờ.

Thôn xóm không nguyên lành. Dân ở đây sơ tán vừa về một vài gia đình nhà cửa bị bom Mỹ phá sập, đang dần hồi phục. Mùi xoan ngâm quen thuộc, không dễ ngửi mà đi sâu vào lòng người. Gia đình có cụ già làm thuốc. Cây thuốc mọc quanh nhà, đầy vườn và cả bên giếng nữa. Một chái nhà còn trống hoác và hở ra cả một khoảng trời trong vắt. Lạ, năm nay trời xanh rất lâu…

Cây na, quả chín nẫu, tím sẫm trên trời.

Gia đình có cô gái học ở Kháccốp… Nói chung, mọi sự đều như thế. Bom rơi trên mái nhà và người ta vẫn đi cho mai sau. Bao nhiêu ý nghĩ trên đời này đều hướng tới tương lai, nhưng bàn tay họ thì chạm vào hiện tại. Nhất là những người mặc áo nâu hở cúc này.

Ở đây vẫn thuộc Việt Yên. Ngủ đêm trên cái chõng nan lạch phạch. Bốn đứa co quắp và ngủ thiếp đi. Cái chân đau rát khi chiều đã dịu và hơi tê tê do ngâm nước muối. Ta vẫn bắt gặp vành trăng quen thuộc trên vòng tròn của miệng giếng và mánh trăng sáng trắng vỡ tung.

Như mọi lúc ta tự hỏi: giờ này, Như anh đang làrn gì? Kìa, mái tóc rơi vào trang sách rồi- Cẩn thận kẻo nhoè mất chữ. Còn ở đây chỉ nghe tiếng vỏ cây nứt, tiếng chó sủa và tắc kè ran ở xung quanh.

3 giờ sáng đã dậy, nấu cơm và lên đường. Vốc nước rửa mặt, nhớ câu thơ của ai đó “Quân đi lòng mẹ bùi ngùi/ Tiếng hò kéo pháo bên đồi vọng sang”… Đúng lắm, và hay lắm. Câu thơ hay vì bước ra từ một đêm dừng chân như đêm nay.

Thị trấn còn ngủ, cành bàng xoè che những mái nhà êm ấm. Ta đứng trầm tư trên đường sắt và nhìn về phương Bắc – Chân trời phía xa mù tịt, gió lạnh thổi buốt giá mặt mũi và chân tay… Tìm mãi, đâu rồi khoảng không gian mà Như Anh chiếm chỗ, khi con tàu đưa người ta yêu quí đi xa. Lúc Như Anh đến trên cùng một mặt cắt với T. ở đường xe lửa này, dáng người yêu dấu ấy là đâu?

Lúc qua đây, Như Anh nhìn về bên trái hay bên phải? Chắc là bên phải, phía đường quốc lộ, vì T. đang đi trên con đường này… Không hiểu có phải thế không?

Ta gặp nhau ở giữa Thủ đô và ở cả trên mọi nẻo đường đất nước… Ta gặp nhau và sẽ mãi mãi bên nhau…

Đến Đáp Cầu, sông Cầu, ngày nào ta đọc bài thơ của Chế Lan Viên: “Có gì đâu, sông Cầu/ Có gì đâu, gì đâu…” hôm nay đã đến – Cầu bị lật sang bên đường, nhưng xe lửa còn đi được. Nãy, một đoàn bộ đội trên tàu đi ngược lên phía Bắc và vẫy mãi, lính gặp lính mà.

Phố bên kia già nua và cũ kỹ lắm rồi. Dường như nó lật áo cho bộ đội xem vết thương của chiến tranh. Than đen đầy trên bến, lam lũ lắm. Bụi than bám đen cả mặt mũi, cả trên vai và ba lô. Vùng này bị lụt nước sông Hồng dâng cao, ngày 31.8.1971, nước ngập quá mặt đê 30cm.

Còn bây giờ, sông Cầu đang rút nước. Nhưng mặt sông còn mênh mông lắm. Thuyền câu, thuyền đánh cá miên man với làn nước biếc. Buồm trắng, buồm nâu se từng sợi gió và lấp dần vào khúc ngoặt của dòng sông. Những chiếc xà lan nông nổi vẫn ngược dòng chở đá. Tiếng chuông nhà thờ thành kính gọi mây trời… Sang đất đạo rồi! Loáng thoáng thấy gác chuông và cây thập giá. Qua ống nhòm, thấy cả chúa Giêsu giang tay chịu cực hình, và con đường được nhận ra bởi hàng cây rất xanh…

Bộ đội nằm ngổn ngang ở sườn đê. Thịnh ngó vào mắt mình và thét lên: “Mày hết cả lãng mạn rồi?” Khổ thế, mắt mình có gì mà lãng mạn. Đôi mắt chết ấy, có lẽ là lãng mạng thì đúng hơn! Nhưng vùng này quả là đẹp, như trong tưởng tượng của mình về đồng quê, cánh cò trắng muốt vỗ nhịp vào ra trong lời mẹ hát. Càng gần Bắc Ninh, xứ sở của dân ca, phong cảnh càng êm dịu, càng quen thuộc và mênh mông như bài quan họ “Trên rừng 36 thứ chim”…

Dẫu rằng đất này vừa bị lụt, đồng còn nâu bạc, cỏ cũng úa vàng, và người làm đồng thì thưa thớt, rơm rạ còn mắc đầy trên dây điện và bốn bề có mùi cá tanh tanh…

Nhưng vùng quê vẫn đậm đà phong vị dân tộc ở tà áo, nét cười, dáng tất tưởi; Ở bầu trời xanh màu Tổ quốc và dãy xoan, lốm đốm chùm hoa đỏ, nhất là luỹ tre le te, lúc lắc, rì rào, tâm hồn của nông thôn Việt Nam…

Xã trú quân là Đại Xuân, thôn Xuân Hoà – Quế Võ. Xã công giáo và từ rất lâu, bộ đội không đóng quân ở đấy. Phức tạp lắm… Bọn mình rất lo và yên lặng tiến vào. Nhà cửa đổ sụp sau lần bị lụt được tạm bợ dựng lên, tường còn vô vàn lỗ thủng cho gió lùa vào. Chuông nhà thờ từ cõi sâu tịch mịch vẳng ra… Phải đấy, đấy là phía quân tiến vào.

Tiền trạm cho biết, tình hình rất căng. Hoạt động chính trị còn nhiều việc cần giải quyết. Chỉ những người trong chi bộ mới biết ai là đảng viên. Bà Trùm, khi chết, cả xã mới ngã ngửa người vì lúc ấy mới rõ, bà là đảng viên từ năm 1958.

Nhưng dân công giáo cũng không khác gì mọi người. Đều quí và thương anh bộ đội. Đón bọn mình ở đình làng, cửa tam quan bị sụp, trống huếch, trống hoác, nhưng các mẹ ở hội Mẹ chiến sĩ nhiệt tình lắm, và rất vui khi thấy bọn mình khoẻ trẻ, sung sức, chỉnh tề.

Mình vào nhà anh Cương, 35 tuổi và có 6 con, chủ nhiệm HTX. Chị vợ vừa sinh cháu được một tháng, đúng vào vụ lụt. Nhà cửa đổ hết, mà anh đi họp, đi công tác suốt ngày. Bà mẹ đã già và rất yếu, ngồi ăn cơm ngô trệu trạo, nhìn mà rớt nước mắt.

Nước ngập lên hết tường, ngập lưng thân mía. Thóc, lúa bị tàn phá nặng. Song cũng giống ở Sen Hồ, nhân dân vẫn lạc quan, tin tưởng, và sớm chiều, nhà thờ vẫn thong thả gióng hồi chuông gọi con chiên đi cầu chúa…

Vùng đất của nhà chung khá rộng. Cây cối nhiều, nhất là mía, ăn thả cửa. Nhà nào cũng theo Đạo, và trong nhà treo đầy ảnh chúa.

Nhà thờ khá rộng và đồ sộ. Mình dừng chân ở bậc đá khi trời vừa sụp tối, ánh sáng nhờ nhờ của buổi hoàng hôn tăng vẻ huyền bí, giọng cầu kinh âm rung trên vòm cong của nhà thờ, nghe rờn rợn quá. Trong nhà treo lá cờ đen, có hai khúc xương bắt chéo đỡ lấy bộ xương đầu. À, hôm nay là tháng 11, đọc kinh cầu hồn cho người quá cố. Cụ trùm trưởng già, đầu nhẵn thín, khoác bộ quần áo đen như một linh mục. Tiếng cầu kinh như rên rỉ, than vãn nhưng mạnh mẽ, dồn dập và không khi nào ngừng. Nó thổi vào lòng người một sự cuồng tín, tin tưởng ở một sức lực siêu phàm. Nó đè bẹp mọi ý nghĩ phản kháng, và bao trùm lên tất cả những bài ca đều đều, buồn ỉu ấy là sự phục tùng, nhịn nhục…

29-11-1971

Nói chung, mỗi địa phương, mỗi thị trấn nhỏ, một ngôi nhà khiêm tốn nép ở bên đường đều nói với khách bộ hành một lời nào đó rất riêng và rất chung. Khiến người ta không sao quên được.

Ví như trường cấp 3 Tân Yên, trường cấp 3 Quế Võ, các em nhỏ đang ngồi trong lớp học. Còn cô giáo đứng ở ngoài cửa, chờ tiếng kẻng mở tâm hồn…

Những khuôn mặt hồn nhiên và tự tin hết sức. Ngày mai, đó sẽ là những người con quí giá của Tổ quốc. Có điều các em có nhận ra điều ấy hay không?

Qua Phố Mới, phố không còn mới nữa. Nhưng Phố Mới cứ gợi cho mình thị trấn Bố Hạ mà mình đã đến chơi, khi ra bến Sỏi. Chợ Bố Hạ mùa này chưa có cam, nhưng khách đã dập dìu.

Hà Bắc có mấy thị trấn nhỏ thì đều quét vôi lại và cũng khá vui. Phố Mới giống như ô Cầu Giấy, cũng có chi nhánh ngân hàng và cửa hàng Bách hoá.. . Ở đâu, cũng gặp quá khứ, cũng gặp tương lai.

Đi trên cánh đồng Xuân Hoà, ta dừng chân nghỉ bên cạnh nghĩa trang liệt sĩ. Lạ lùng thay, trên những tấm bia đá đơn sơ trầm mặc, có cả tên ta. Cùng họ, cùng tên đệm và cùng tên. Người đó già hay trẻ, chỉ biết hy sinh ngày 9.10.1952, 5 ngày trước khi mình cất tiếng khóc chào đời.

Vậy mà đêm trước, mình không biết. Thế là qua một đêm, “người kiếp trước” của mình sống cô độc dưới nấm mồ. Nhưng không dừng lại lâu được. Ta chỉ yên lặng, bỏ mũ và thầm hứa theo bước người.

Mười mấy năm trời sống dưới bầu không khí thanh bình, mình chưa từng biết rằng, mình đã sống một đời cho cách mạng. Có phải “tiền kiếp của mình chưa trao vào tay mình nhiệm vụ còn bỏ dở, để mình lớn lên, lớn lên cho kịp với yêu cầu của cách mạng. Và mãi bây giờ, vào buổi bình minh, mặt trời cháy đỏ từ 99 đỉnh của núi Neo, vào lúc cả đơn vị hành quân, mới thức dậy và tin cẩn trao vào trái tim ta.

Hỡi “người kiếp trước” đang yên nghỉ trong sự yêu thương của dân làng, hãy yên tâm vì con cháu. Không có sự mất đi vĩnh viễn trong cuộc sống của những con người hết lòng vì dân tộc, vì giai cấp, vì Tổ quốc thân yêu.

Với ý nghĩ đó, ba lô trên vai cũng bớt nặng đi nhiều. Lại sang đường nhựa. Đây là đường 18, cột cây số chỉ cho biết cách Bắc Ninh 19km.

Ở đây vẫn là vùng bị lụt. Mênh mông ở xung quanh là màu đất phù sa, chỉ lác đác, trơ trọi màu vàng úa của cây cỏ… Và càng như thế, luỹ tre làng xa kia càng trở nên xanh, như tâm hồn và ý chí của người dân ở đất ngọt ngào.

Các em nhỏ, các cụ già dừng lại bên đường vẫy chào anh bộ đội. Mình trở thành người độc đáo nhất tiểu đoàn vì đi chân đất. Hôm trước phồng rát cả gan bàn chân, bây giờ vỡ ra, không thể đi giày, đi dép được. Vả lại. đi chân không trên đường nhựa thì cũng không có gì đáng sợ cho lắm. Thế là phăm phăm bước theo ngón tay chỉ và nụ cười rất đáng yêu của các em nhỏ bên làng.

Đường 18 đi đâu, về đâu? Không cần biết, đọc trên cột mốc, chỉ thấy Phả Lại… Chỉ cần nhìn vết xích xe sắt băm nát mặt đường là đủ rồi, là đủ tự hào, tự tin, đủ hứng thú và nghị lực đi lên.

Mà cũng phải, chẳng lẽ lại dừng chân khi cả đoàn quân đang vượt lên phía trước. Khi xóm làng còn xơ xác vì trận lụt, khi lối vào nghênh ngang tấm biển: “Có dịch lợn”. Mọi cái, đều giục anh, đều nhắc nhở trong lòng anh: Đi nhanh, đi nhanh chóng về nhà, quê hương đang chờ anh xây dựng.

Đất nước thật nên thơ, nhưng phải nhói trong lòng anh xót xa vì cảnh tiêu điều, xơ xác, anh mới thật sự yêu thương, thật sự cảm biết đấy là máu thịt của anh, đấy là cuộc sống của anh.

Cảm ơn hôm nay, cảm ơn viền xanh của ruộng bậc thang và cảm ơn cánh cò trắng thuỷ chung đem về cho lòng ta mềm yêu tha thiết và gắn bó với đất nước, với những con người đang lam lũ làm ăn.

Trong tình yêu Tổ quốc, lại càng thêm nhớ Như Anh. Nhớ người bạn đang ở đầu kia của Trái đất. Không được đi trên con đường mà mình đang cất bước. Không được thấy cảm giác mát lạnh và nóng bức, không được đi chân đất mà miết xuống lòng đường, lòng đất Tổ quốc.

Chắc ở nơi xa xôi ấy, Như Anh nhớ lắm, quê hương. Chắc Như Anh không quên được những con đường đỏ bụi, những đường cây, những buổi hoàng hôn thong thả và những chiếc lá khô lười biếng lăn trên mặt đường. Nhất là con người và kỷ niệm.

3 năm, 6 năm xa Tổ quốc, Như Anh có trở nên xa lạ với những người ngày đêm lầm bụi của cuộc đời?

3 năm, 6 năm xa đất nước, Như Anh có thêm yêu Tổ quốc, thêm gắn bó với mảnh đất đã sinh và nuôi Như Anh lớn?

Ở đó lạnh lắm, băng giá và mùa đông. Nhưng chớ để lòng mình nguội lạnh.

Mình mong mỏi và rất tin Như Anh sẽ giữ được những tình cảm đẹp đẽ và trong sáng đó của mình vĩnh viễn.

Mới đó đã 4 tháng trời, 26.7, còn ở bên Như Anh, 1 giờ sáng 28.7, con tàu đưa Như Anh đi xa… Bốn tháng, biết mấy mấy thương yêu, buồn khổ và nhớ nhung. Niềm vui chỉ là lòng yêu đất nước và những lá thư âu yếm của Như Anh. Niềm sung sướng chỉ là được Như Anh nhớ nhung, chỉ là những giờ phút nghĩ về dáng người mà ta yêu quí.

Còn tất cả. Đều khó khăn, đều sầu muộn. Thiên nhiên và con người. Suy tưởng và thực tại. Mơ ước và làm việc. Tất cả cứ rối bung, rối mù.

Chân cứ bước trong xa xăm, và con đường thì dài mãi. Và để người ta khoan khoái nói được câu: “Rồi cuối cùng cũng đến nơi!” thì bao nhiêu mồ hôi đã đổ, và bao nhiêu đôi chân tê dại.

Có phải cuộc đời cũng chính là như thế? Càng ở lâu trong quân đội càng hay nhớ đến Paven, nhớ Phạm Hồng Sơn. Nghị lực, chưa có trong con người ta!

Gặp một tiểu đoàn đi ngược lại. Lính cũ rồi, họ chuẩn bị đi B, quân phục và cả những gương mặt đều mới, đều hồ hởi – Bắt tay. bắt tay, thân thiết biết bao. Các anh đi trước nhé. Trên ngực áo người nào cũng lấp lánh huy hiệu của Đoàn Thanh niên giải phóng – Bọn mình lính mới cứ nhìn mà thèm.

Tiểu đoàn bạn đông thế mà không gặp lấy một người quen. Bọn bạn mình đi đâu hết cả? Thế mới biết quân đội mình đông lắm, nhiều lắm và trùng điệp vô cùng. Giọng Nghệ An, Thanh Hoá, Khu tư nằng nặng, giọng Thái Bình, Hà Nội… Cái giọng Việt Nam ấy, dễ gần lắm. Ngày mai họ đã là quân giải phóng rồi. Sướng mê đi!

Bộ đội sắp đi B có khác, ba lô nặng trĩu và lính thì to khoẻ. Tự hào vô cùng về chúng ta. Chúng nó rồi sẽ chết, các anh nhỉ. Tạm biệt, hẹn gặp nhau ở chiến trường…

Có lẽ đấy là cảm xúc hào hứng và phấn khởi cuối cùng của đợt hành quân.

Bộ đội nghỉ ở chân một con đê. Có đê thật, nhưng nhìn cả hai bên đê thì chẳng thấy sông đâu cả. Các bạn bảo xung quanh đây rất nhiều sông. Và sông Thương thì gần hơn cả. Trời trưa, nắng dữ dội hơn và nhìn ra xa chỉ thấy cát, đường đê đầy bụi, đồi trọc và trời xanh thăm thẳm.

Lác đác có bộ đội từ trong làng đi ra. Bọn mình sẽ vào đóng quân thay họ đây. Hỏi thăm, họ bảo: “Gần thôi!”. Nhưng vẫn chưa thấy tiền trạm đâu cả. Tiền trạm luôn đứng đón cách chỗ trú quân 3km. Tức là chỗ này còn phải đi hơn 3km nữa! Sợ thật!

Đường từ đây không còn cây nữa, cây chỉ có phi lao ở xa xa phía bãi cát trắng trông nhức mắt. Nắng buổi trưa bức bối vô cùng – Có tiếng máy bay ta, ngửa cổ nhìn lên, chỉ gặp màu xanh da trời đến tận cùng. Một tí gió cũng không có, một tẹo gió cũng không có. Càng hay, có gió chắc thổi tung cát mù mịt. Lẻ tẻ, có người tụt giại phía sau – không có quyền tụt. Không có quyền rời bỏ hàng ngũ. Và vẫy gọi ở phía trước là đôi mắt âu yếm, khích lệ của người mà ta yêu quí. Như Anh: T. cố lên, cố lên tí nữa, con chim đầu đàn của Như Anh!

Lúp xúp dưới chân đồi là những mái nhà, mái rạ lèo tèo ở đây cũng có rừng bạch đàn, rậm hơn ở Tân Yên, nhưng thấp hơn và thân cong queo nom rối mắt. Xấu lắm. Ở dưới lại toàn cát, bao nhiêu là dấu chân, bao nhiêu câu chuyện ở đất này.

Mình sẽ ở đây ư, mình rời bỏ vùng đồi Tân Yên rất thơ và đến với vùng cát trắng này (nhưng không phải bãi cát rất đẹp của biển!).

Thỉnh thoảng, bắt gặp một chiếc xe vận tải quân sự nằm lăn lóc ở vệ đường, thùng xăng, đầu xe, dầu mỡ, sắt rỉ…

Bắt đầu vào làng, chỗ này là Đông Du thì phải. Dân thưa thớt và bộ đội thì đông hơn dân nhiều. Có người tính tỉ lệ 9/10. Kể thì hơi ngoa. Nhưng cũng có lý đấy. Tiểu đoàn trưởng đứng đợi dưới một gốc tre. Cán bộ của mình cũng chẳng khác gì chiến sĩ, cũng balô, cũng gạo và súng. Chỉ khác, các đồng chí đó đi thẳng người và bước vững vàng hơn lính nhiều. Cũng phải thôi, đánh Pháp rồi đánh Mỹ, bao nhiêu năm đi trên con đường lửa, con đường lớn của dân tộc.

Sao con đường dài thế, dài mãi.

Sao con đường dài thế, dài mãi. Mất hết cảm giác về vai và chân bước hoàn toàn theo cảm tính. Ai có đi bộ đội mới thông cảm với người lính chiến. Tự dưng, mình thầm cảm phục nhưng ngươi đi trước. Đáng phục lắm. “Trâu bò” không không ăn thua đâu. Chủ yếu là nghị lực, căn bản là nghị lực.

Đến ngã ba, chưa gặp giao liên, bộ đội ùn lại và cúi gập người cho balô đỡ siết vào vai. Khát quá, nhưng chỉ có nước ao. Biđông chưa được phát. Dường như cấp trên cố ý tạo ra tình huống này – “Rèn”! Chao ôi, cái chữ đáng ghét thế!

Thôi, đây rồi, tụi quỉ, tiền trạm gì mà “hậu” thế! Mãi bây giờ mới gặp. Và thế là “chỉ còn 3km”. Quên đi, cái balô ác nghiệt trên vai, cái nắng trên đầu, cái nóng, cái mệt trong người và hãy nghĩ đến cái dịu dàng, thắm thiết của đôi mắt N. Anh, của đôi vai N. Anh, của hai bàn tay thấm mát hơi xuân…

Đỉnh dốc là chỗ ở, vậy mà 2/3 quân số nằm lăn ở chân đồi, cúi mãi, cúi mãi, tưởng như muốn đi bằng cả hai tay và hai chân. Bò lên, bò lên!

Nhưng, thế còn sung sướng lắm. Thế mới chỉ là cái vất vả, cái gian khổ về cơ thể, về vật chất. Còn cái khổ hơn, cái đau đớn về tinh thần là sự thờ ơ của bà con trong xóm đồi.

Thấp thoáng trong nhà lưng chừng dốc là những cặp mắt nghi ngờ, hơi xa lạ. Ta tự hỏi: Họ là ai, có phải là bà mẹ Việt Nam từ ngàn đời thương anh bộ đội? Có phải các cháu nhỏ, các em thơ ríu rít quấn lấy tay anh? Mà sao bàng quan thế, dửng dưng thế… Ôi chao là buồn…

Họ nhìn quanh, lạnh lẽo và thụt vội vào nhà trong, cánh cửa tre hạ xuống, chó sủa ran…

Thật tệ hơn cả “cô giáo vùng cao”

Bọn mình mệt quá rồi, không đủ sức đứng dậy vào nhà nữa và nằm lăn dưới bóng tre mà nghỉ và kiếm cách vào nhà.

Không gian im ắng quá. Và chẳng thấy lũ trẻ chơi trong ngõ nhỏ. Xung quanh chỉ toàn cây, tre, chay, cây đen, cây mít. Cây um tùm như an ủi, phải, cây lá này vẫn cây lá quê hương. Nó đâu lạnh lùng với anh bộ đội…

Nghỉ chán, bọn mình chia nhau vào các gia đình vận động. Bẩn quá, bẩn quá, nhà cửa có một thứ mùi chua, mốc, mùi thời gian quá dài chưa quét dọn. Nét đặc trưng là lắm ruồi và nhiều “tàu há mồm” quá. Nhà nào ít nhất cũng năm đứa trẻ dưới 10 tuổi! Ồn ào và luộm thuộm, chứng tỏ mức độ giác ngộ của dân chưa cao lắm.

Vào nhà nào họ cũng đuổi. Lắm lý do đến thế, nào là : Đợi ông ấy về… Tệ hơn, có gia đình không thèm tiếp và trả lời: Gia đình tôi chưa có ai đi bộ đội nên không biết đối xử với các chú như thế nào!

Bọn mình không biết nói sao nữa. Ra ư, thì chỉ có bụi tre và đỉnh đồi thôi. Phải bám vào dân mà sống! Bám lấy dân.

Thế là chưa được cơm cháo gì, bụng đói, mệt, bọn mình vào nhà, giúp gia đình quét dọn, gánh nước, xe tơ. Nhà ở trên đồi nên nước hiếm hoi. Phải xuống chân dốc và ở đó có cái giếng chung của cả làng.

Vừa làm vừa trò chuyện, vừa xin vào ở một góc nhà đặt balô thôi. Mãi đến chiều họ mới cho vào nhà, cho giường chiếu hẳn hoi và giục “các chú nấu cơm ăn”.

Khi đó mới biết đơn vị trước ở đây làm mất uy tín ghê quá, toàn đánh nhau, cãi nhau, đánh cắp của nhau. 3/4 số xoong quân dụng bị mất, rồi quân trang, quân dụng mất lung tung. Tệ quá.

Bậy bạ thế thì thôi. Nhưng hậu quả lại dồn lên đầu bọn mình. Ngay đêm, đại đội họp cấp tốc trên thửa ruộng còn trơ chân rạ. Phải gấp rút khôi phục uy tín của quân đội.

Gia đình mình ở có chín người. Bác chủ nhà 55 tuổi rồi và ngày ngày vác thuyền nan đi đánh lưới trên sông. Tụi nhóc còn nhỏ, cô gái thứ hai tên là Thà, 17 tuổi, đi làm suốt ngày và ban đêm cũng chẳng về. Nhưng nếu cô ta về thì cả nhà biết ngay vì cái mồm to và liến thoắng của cô. Cái giọng chan chát nghe đến chói tai. Khổ cho anh chàng nào vớ phải cô ấy suốt đời có lẽ chẳng được nghe cô ấy thì thầm (!).

Còn tụi nhóc thì bẩn, bẩn lắm. Chân tay bọc một lớp đất đen như da cóc. Toàn uống nước lã và không bao giờ rửa tay cả. Đêm đi ngủ thì tót lên giường, sáng dậy lấy khăn mặt còn ướt của người lớn lau cuống quít và thế là mở đầu một ngày!

Mình rất không thích cái tò mò, cái ưa lục lọi của tụi nhóc ấy. Đặt balô xuống là sà đến và nắn cái nọ, sờ cái kia, chẳng ra làm sao cả. Nhất là thằng Hành, học vỡ lòng, hư lắm.

Tế bảo: “Phải rèn bọn này mới được”. Bỏ một buổi rủ chúng nó đi chơi và dặn dò: “Các chú để súng đạn trong balô, đừng đụng gì đến nó nổ”…

Thế là ổn. Còn phải vệ sinh vệ sống cho các ngài nữa chứ. Rõ khổ.

Nhưng cũng thấy thương gia đình và các cháu. Lỗi ấy đâu phải vì bố mẹ hay vì bản thân chúng. Mà vì thằng đế quốc, vì lụt lội. Vì kẻ thù của dân tộc ở bên kia bờ Thái Bình Dương…

Đêm ngủ, mình lại mơ thấy hôm ở Xuân Hoà, ngồi ăn mía với anh Cương. Anh kể chuyện về Chúa, về bà Maria. Mình hỏi rất thật thà: “Thế anh có tin rằng những điều đó là sự thật không?” Bỗng dưng, anh Cương nhíu mày, thẳng cánh ném con dao nhọn vào mặt mình… Giật thót người và tỉnh dậy, Tế gọi, mồ hôi vã ra như tắm. Mình nghĩ đến một điều: Trong công tác dân vận cần thận trọng, hết sức thận trọng. Đấy, cái gia đình mình đang sống…

 

Tập 3

30.11. 971

Cuối tháng rồi, cuối tháng… Thời gian đi nhanh quá. Mới hôm nào nhập ngũ, hôm nay đã đến 3 tháng rồi.

Đêm nay, trời sáng trăng mà lất phất mưa. Ngồi dưới ngọn đèn ba dây tù mù và suy nghĩ miên man. Sáng mai, chia tay với Tế, Châu, Hùng, Thắng, Minh – họ đi Phòng không – Không quân. Chia tay rồi, lại tiếp tục chia tay…

Đêm qua, tiễn anh Tặng trong ánh trăng bịn rịn. Người trung đội trưởng thân mến của B lặng đi trong lời thơ tiễn biệt:

“Đất nước mình rộng lắm, anh Tặng ơi,

Mới gặp nhau, nay từ biệt nhau rồi

Cầm tay nhau và hẹn ngày gặp mặt

Điếu thuốc anh đưa đốt đỏ trời…”

Ngồi bên anh rất khuya, nghe anh kể ngày về thăm quê sau 6 năm ở chiến trường. Vào 2 giờ sáng, một ngày của năm 1968, anh gõ cửa nhà chị ruột:

– Chị ơi, mở cửa cho em…

– Ai đấy?

– Em đây!

– Em là ai?

– Em là em chứ còn ai nữa! (Cười)

– Cậu Ty à?

– Không!

– Cậu Châu à?

– Không!

– Cậu Thế à?

– Không!

– Thế thì là ai? Không nói tôi kêu lên đấy!

– Ừ, chị kêu đi xem nào, em đây mà!

– Thôi, nói thật đi, em là ai?

– Em đây, Tặng đây!

Chị mở tung cửa và nhận ra ra đứa em 6 năm trời xa cách, tưởng đã chết ở chiến trường rồi. Thế là ôm choàng lấy em mà khóc…

6 năm, biết mấy đổi thay trong cuộc sống và con người. Mẹ anh yên chí rằng anh đã nằm lại ở một vùng đất xa xôi nào của miền Nam, thì anh lại về, lại về thị xã Phủ Lý giữa những ngày giặc điên cuồng bắn phá. Hạnh phúc biết bao nhiêu, và sung sướng cảm động biết bao nhiêu…

Chị đã quên tên đứa em của mình, bởi luôn tâm niệm rằng em không còn nữa… Đau đớn biết bao và càng đau đớn ngày gặp mặt càng cảm động càng hạnh phúc…

Anh lại chia tay, và đi vào chiến trường trước những người lính mới. Cuộc đời của anh đẹp đẽ xiết bao.

Anh đi rồi, ngày mai lại đến các anh lý 3 tạm biệt đơn vị sang đơn vị mới. Lại chia tay, lại chia tay…

Tạm biệt anh Châu, người bạn thân thiết của mình những ngày đầu cuộc đời bộ đội: hai đứa dắt nhau lên đồi rất cao và nhìn ra bốn phía. Gió mạnh đẩy người nghiêng ngả, mình và anh Châu nằm bên sườn nam, im gió. Dưới chân đồi là bãi bạch đàn thì thào không ngớt. Không ai muốn nói câu nào…

Mai, chúng mình xa nhau, và có lẽ chẳng biết bao giờ được gặp lại, anh Châu đang làm giở luận án tốt nghiệp của tổ chất rắn, và rời trường ra đi…

Anh nằm đây, buồn lắm và rạo rực lắm. Anh nhắc lại cho mình câu ngạn ngữ Anh: Không sức mạnh nào có thêm ngăn cản được những trái tim đầy khát vọng. Đúng như vậy đấy. Không có sức mạnh nào…

Số phận anh hơi giống mình và cũng có những niềm ao ước, chờ đợi như mình. Bạn anh, cô Phương Lan đang đi học Dệt tổng hợp ở Đức. Anh băn khoăn vì khi bạn đi anh không ra tiễn, bởi lúc đó, anh bị giữ lại do tình hình chính trị Tiệp. Anh ao ước, 6 năm sau được ra đón bạn, mặc dù lúc đó cuộc sống sẽ có nhiều thay đổi, khó xử cho anh.

Nhưng, cả ao ước nho nhỏ đó, anh cũng không thực hiện được nữa rồi… Đừng thở dài, từ trên cao nhìn ra xa thấy màu tím phơi đầy trên mặt nước, trên đỉnh núi và những cánh đồng…

Mình hỏi: “Anh có yêu chị Lan không?” Anh gật đầu: “Có, mình yêu Lan, tình yêu con người và không phải là tình yêu trai gái”.

Tình yêu con người… Chắc chị Lan chưa một lần mình gặp mặt cũng là người rất say mê khoa học và một lòng phụng sự lý tưởng phục vụ nhân dân. Bởi vì, chị là người mà anh Châu đã gặp, đã yêu.

Dưới chân hai đứa là thung lũng, có bóng người cuốc đất và những cơn gió êm đềm nô đùa cùng cỏ may mọc thấp… Gió hơi lành lạnh thổi dạt áo quần, đi ngược chiều và mỗi người nhặt được một con chuồn chuồn đỏ, chắc nó chết khô vì gió. Mà cả trên ngọn đồi ấy chỉ có độc 2 con chuồn chuồn ấy, tìm mãi cũng không thấy thêm con nào. Con của mình nhỏ hơn một chút và chưa rách cánh. Thế đấy, ngọn đồi kỷ niệm cho ta. Và từ nay ngọn đồi mang tên “Đồi chuồn chuồn đỏ”…

Càng đi với anh, càng nhớ Anh… Anh ở đâu rồi nhỉ, xa nhau, nhưng có lúc nào mình không nhớ tới Anh, bạn yêu dấu nhất trên đời…

Cũng vậy, mình mong sao có một ngày đón Như Anh ở ga Hàng Cỏ, nhưng rồi có lẽ ngày đó không bao giờ đến cả. Bước chân xuống sân ga, Như Anh có nhớ tới mình hay không…

Nhìn màu xanh bất diệt của cây cỏ, và vù vù bên tai là ngọn gió ngoan cường, thấy trỗi dậy trong lòng một sức sống bất diệt trẻ trung. Tin tưởng ở tương lai tươi sáng.

2-12-1971

Tháng 12 đấy. Mới hôm nào Như Anh viết thư cho mình bắt đầu bằng: Tháng 8 đến rồi, tháng 8 kỳ diệu với bao điều hứa hẹn, nhưng lại là tháng của chia ly… Giờ đã 4 tháng đi qua…

Thời gian trôi không bao giờ ngoảnh lại. Dĩ vãng dầy lên, nhưng tương lai thì vẫn còn vô tận. Dẫu sao cuộc sống của mình cũng bị dồn lại mỏng hơn, ngắn hơn và sự hối tiếc cũng nhiều hơn.

Mấy hôm nay chờ công tác, suốt ngày chỉ leo đồi vào nhà dân chơi và chia tay. Buồn lắm. Trưa nay Ngôn đi rồi, các bạn cũng đi nhiều, còn mình vẫn nằm dài. Tiểu đội đi non nửa, chỉ còn 7 người, phải dồn nhà ở cho tập trung.

Nếu cuộc đời nhàn rỗi thế này mãi thì buồn nhỉ, từ hôm đến đây, chỉ đi lấy gạo có một lần, còn thì toàn chơi bời. “Nhàn cư vi bất thiện”, tụi quỉ đem AK lên đồi đì đọp suốt ngày, không hiểu chúng nó lấy đạn ở đâu. Tiếng súng dội vào vách đá, nghe ì ầm rất lâu – Mặt trận còn xa lắm…

Mùa đông chưa về đến đây. Mình yêu cái chuyển tiếp giữa hai mùa này, xốn xang trong lòng nhiều kỷ niệm. Cây sầu đông chưa mở ra những mối sầu cho mình an ủi. Chùm quả chín vàng lấm tấm trên tà áo xanh của bầu trời, nhắc mình nhớ về cái ngõ hẹp vào nhà. Ao cô Tơ còn mọc trên làn nước chùm hoa lau cho tụi con trai đánh trận hay không? Mấy cây hồng bì, cây nhãn bên sân hàng xóm có còn hay không, ngày trước đấy là nơi tụi trẻ bán hàng và bày trò đám cưới; Cái dù vàng che cô dâu, chú rể, giờ tơi tả khắp bốn phương.

Kỷ niệm càng dâng lên và trào ra như nước mắt. Sáng lạnh nhiều sương, và gió táp, cây trên đồi chắc là buốt lắm, nằm nghĩ về những người thân yêu mà se thắt trái tim.

Chưa bao giờ mình xa nhà lâu như thế này, chưa bao giờ nhớ cha mẹ, anh em và bè bạn như bây giờ,… Giá như có phép màu, trở lại 1 ngày của thời thơ ấu, có đủ mọi người thân yêu,… Chao ôi, ngày đó… vĩnh viễn mất rồi.

Bọn nó trốn về nhiều, có lẽ vì không chịu được cái cảnh nhớ nhung đáng sợ này. Từ đây ra đường 18 chỉ có một khoảng đồng. Ở xa này, nhìn ôtô, xe đạp lăn từ tốn qua các thân cây mà muốn chạy vù xuống đó. Rồi Hà Nội, gia đình, đường Nguyễn Ái Quốc và phố Nguyễn Du… Bao nhiêu điều hứa hẹn còn bỏ dở, bản nhạc dừng lại ở âm da diết nhất… N. Anh, giữ ngón tay yêu dấu ấy ở phím đàn và đừng buông ra, đừng buông, nghe thấy không, N. Anh, đừng mỏi mệt…

Không ai muốn cuộc đời mình phải buồn bã cả, nhưng rất ít người trên đời này đạt được điều mình mong muốn. Mất mát nhiều, nhưng cố gắng làm sao cho mình khỏi thất vọng, khỏi mất nghị lực luôn hun cháy lòng mình. Đó mới là điều quan trọng.

Hôm qua, nhận được thư Phong. Nó sắp đi chiến trường và viết cho mình cảm xúc của “người lính trước giờ ra trận”. Phong chín chắn và điềm minh, tự tin. Vậy mà cũng chưa vững vàng gì cho lắm. Có điều gì hơi bàng hoàng, hơi “từ biệt” một chút. Và âm hưởng của lá thư khiến mình muốn ôm choàng lấy nó, giữ nó lại bên mình, thằng bé còn non trẻ quá…

Phong viết: “Mình rất biết ơn T., biết ơn các bạn bè thân thiết của mình. Những người bạn sống say sưa, yêu đời và luôn tiến về phía trước. Nhưng, những cái mà mình đã thu lượm được, những điều mà các bạn đem đến cho mình chưa đủ để mình tin rằng sẽ đem đến một kết quả tốt đẹp.

(…) Dẫu Sao, đây cũng là những phút cuối cùng. Bận rộn quá, mình cũng không kịp đảo về thăm nhà nữa. Mình tiếc rằng thời gian qua, bọn mình liên lạc với nhau chưa thường xuyên lắm, T. biết hơi ít về cuộc sống của mình… Rồi ngày mai, chưa biết ra sao, chỉ chắc chắn (trong cuộc chiến đấu này, tang tóc và đau thương sẽ đến với con người)” (Câu trong ngoặc bằng Nga văn).

Chiến tranh, đương nhiên là như thế. Nhận ra điều đó là dĩ nhiên thôi. Nhưng, mình nghĩ, đâu là cái chủ yếu mình phải nhìn nhận. Có lẽ đó là cái tự hào về vị trí mũi nhọn của mình, về trách nhiệm lớn lao của mình trước lịch sử và dân tộc.

Thư cho Phong, mình viết: “Còn nhớ không Phong, dạo lớp 10, Phong đọc trước lớp bài Đường chúng ta đi khiến hai đứa mình cảm động. Ở cái cành ổi đã nhẵn bóng vết tay mình, Phong với mình ao ước được sống những giờ phút như thế. Giờ phút Phong bảo con người với đất nước là một và người lính trở thành con người lý tưởng của thời đại”.

Mình gửi cùng lá thư là những đoạn Đường chúng ta đi học thuộc từ hồi đi học. Phong có nhận được không, qua Trường Sơn, qua dốc Bà Định, dốc Nguyễn Chí Thanh, qua chặng đường quyết thắng. Và trong bom đạn, Phong có trả lời câu hỏi mà cuộc sống đặt ra…

Hồi còn đi học, một nhận định còn chưa được cách mạng là “Người đi thì nhiều. Và người đến thì ít”. Hãy suy nghĩ trên khía cạnh trừu tượng. Chẳng lẽ chính mình và Phong luôn ao ước được sống như vậy, nhưng ở nhưng giờ phút đó, thì suy nghĩ cá nhân lại trấn áp hết cả hay sao? Và chẳng lẽ chính Phong lại là người mà mình không tán thành cách sống và suy nghĩ thế?

Thường khi, do tác động tích cực của văn học và sách báo tuyên truyền, người ta có suy nghĩ và cảm xúc tiến bộ, khá mãnh liệt đằng khác. Nhưng ít ai kiểm tra mình xem tình cảm và suy nghĩ đó có thật là bản chất của mình hay không. Có thật nó bắt nguồn rễ sâu xa từ tận cùng cảm nghĩ, từ đáy lòng mình? Có ai tự kiểm tra mình, tự kiểm tra cảm xúc và suy nghĩ của mình, xem bản thân mình có lấy những rung cảm tốt đẹp đó làm quan niệm sống, chứ không phải làm một thứ đồ trang sức rủng roẻng?

Có lẽ chưa mấy ai, bởi vậy mới ít người… Dù sao, Phong cũng là một tâm hồn đáng quí, một người lính đáng tin cậy. Cầu mong cho bạn lớn lên trong cuộc chiến đấu đang chờ đợi, đang dữ dội.

Sắp hết năm rồi, năm 1971, cái năm đầu tiên xa cách, cái tuổi quân đầu tiên… Mình đã hết cái buổi đầu bỡ ngỡ làm quen với cuộc đời bộ đội. Mặc dù vẫn chỉ là binh nhì, nhưng mình đã là “lính cựu”. Lại sắp một đợt tuyển quân. Thế mà, hình như mình còn trẻ con lắm. Vẫn lang thang trên đồi, xuống dốc, vẫn đá cầu…

Các anh lý 3 đi Phòng không – Không quân, một số khác đi Pháo binh và một số có lẽ vào Tên lửa. Sáng qua, họ lên xe rồi, và vào giờ này, 10h20 sáng, họ đã đến nơi. Ở Bắc Giang hay ở Kiến An? Đâu mà chẳng đất nước mình…

Chính trị viên Các hỏi mình thích đi đâu. Mình chỉ thích bộ binh, đánh nhau thế mới khoái và ít bị phụ thuộc vào máy móc. Vả lại, đi bộ binh gần dân hơn, biết nhiều điều thú vị hơn.

Hôm mới đến đây thấy trên đỉnh đồi có con ngựa đá bị chôn ngập ngang cổ, cái lưng bị cắt ngang, to như con voi Bách Thảo, bọn trẻ con bảo: Đấy là ngựa Thánh Gióng, còn cả cây gậy to ném dưới chân đồi. Cái gậy to thật, bằng đá và chôn sâu dưới đất, mình ôm không xuể. Phía trước mõm ngựa có hại tảng đá lớn, người dân bảo: Đấy là gan ngựa vì con ngựa bị giết! Mình ngạc nhiên hết sức, chẳng lẽ đây là núi Sóc Sơn, nơi Thánh Gióng cưỡi ngựa bay thẳng lên trời? Vô lý lắm, và vì sao con ngựa lại bị giết?

Con ngựa đá vẫn nằm ở đấy, góc một nương sắn và lạnh lùng nhìn khách qua đường. Không ai hiểu về sự tích con ngựa đó, nguồn gốc của nó và câu chuyện nhuốm màu thần bí như ngọn gió vô hình.

3-12-1971

Vẫn như hôm qua, ngủ và chơi bời lêu lổng. Chán ngán lắm rồi, bắt đầu đi lùng trong xóm.

Hết mía lại sắn, sắn ăn chóng no, chóng chán. Ở đây chỉ có thế. Và nếu chán thì chịu, dân đi làm đồng hết cả rồi, chẳng có ai ở nhà mà nói chuyện. Quanh quẩn với cái sân phơi rơm rạ, với cái vại chỉ hai gánh nước là đầy. Ngủ chán rồi lại thức, lại nóng ruột.

Ở đây xa bưu điện và chờ hòm thư mới nên thư đi cũng không mà thư đến cũng không – Trống rỗng đến phát sợ và lo lắng cũng kinh khủng. Mọi cái đều thăm thẳm như bầu trời những tháng này.

Lại thêm ba người nữa “tút” về Hà Nội. Họ không chịu nổi tình trạng nằm đợi ghê sợ này.

Hôm qua Thịnh trốn về cùng bọn anh Châu, được ở Hà Nội 3 tiếng. Họ đến ga Hàng Cỏ lúc 2h30 chiều, được nghỉ đến 11 giờ đêm, sau đó lên tàu quân sự đi Thanh Hoá. Mình nhờ anh Hùng đến nhà Trí cho Trí biết tình hình vì không kịp viết thư, nhưng anh Hùng không kịp đến. Anh Châu không biết có đến kịp hay không! Mà cũng rất khó gặp Trí học buổi chiều.

Lê Như Thanh và Đỗ Thành xin mãi cũng được về. Thanh nó khoái lắm và vanh vách kể cho mình cuộc sống đang phát triển của thủ đô. Nó không dám đến trường vì sợ xúc động. Khỉ thật, Thanh mà cũng dễ liên tưởng như vậy nhỉ!

Thanh bảo không dám kể tình hình thật của đơn vị cho gia đình vì nó sợ gia đình không yên tâm. Toàn bốc phét nào là tập ít, ăn khỏe, sướng, vui… rồi triển vọng binh, quân chủng cao xa… Kể ra Thanh cũng không muốn nuôi ảo tưởng cho gia đình, nhưng biết làm sao được, ngay cả mình ở mức độ nào đó cũng phải làm như vậy.

Còn Thành thì khác. Anh ta tưởng bà mẹ “bôn” lắm. Thế là kể ráo. Bà ngồi yên lặng nghe đứa con trai nhỏ của mình thủ thỉ. Suốt bữa cơm bà không nói không rằng. Và khi con đi, bà òa lên khóc, đứng chắn ở cửa nhất định giữ nó ở nhà.

Thế đấy, mẹ mình chắc là không thế. Mẹ mình chưa khóc bao giờ trong những lần tiễn con đi. Mình lại nhớ câu thơ của Trần Vàng Sao, đại ý: Bao nhiêu nước mắt mẹ thấm vào vạt áo, để đường con đi không bị ướt… Mẹ mình dũng cảm lắm, biết hi sinh lắm

Mình xa Hà Nội, xa phố xá, con người, kỷ niệm… thế cũng mấy tháng rồi. Quen dần với rừng âm u của Yên Thế, những lần vào sâu trong rừng lấy gỗ. Nghìn âm thanh, vạn âm thanh… Nhưng không chút âm thanh nào giống những bờ đường bình yên của thành phố. Hôm đi xem triển lãm Vân Hồ, nhìn người, nhìn cảnh Hà Nội, thấy phong thái bình tĩnh, tự tin quá, những hàng cây vô tư lự, những vòng xe lăn. Bọn mình túm tụm dưới gốc bàng bên vỉa hè và ao ước ngày trở lại Thủ đô. Những đứa con trai, con gái của Hà Nội đi xa vẫn hướng về quả tim Tổ quốc như thế đó.

Mình không nhớ Hà Nội chung chung như thế, Hà Nội, với mình là ngôi nhà nhỏ bên cái ao nhỏ dạo này chắc là nhiều muỗi lắm. Là phố Nguyễn Du với đường cây ven hồ, ở đó có ngôi nhà 72 vừa gần gũi, vừa xa lạ, xa vời. Là đường Bà Triệu, thư viện, đường Nguyễn ái Quốc, hồ Tây… Là những kỷ niệm thấm mát tâm hồn…

Nghĩ về Hà Nội là nghĩ về N. Anh, nghĩ đến những ngày bên nhau đi trong hương đêm mùa hè, của đêm mùa thu… Ta gặp nhau làm gì nhỉ? Ta nắm tay nhau làm gì nhỉ? Ta siết chặt trong nỗi xúc động làm gì… N. Anh bé nhỏ yêu dấu đêm nay ở đâu… Thương N. Anh thật nhiều mà không biết nói sao, không biết làm sao cả. Tội nghiệp N. Anh, cứ phải buồn mãi, buồn dai dẳng… Sao không vui với bạn bè mỉm cười. Mùa xuân… đâu rồi? Đêm gần nhau nhất lại là đêm chia tay. Hạnh phúc thả những đốm sáng bay lơ lửng trên trời. Vũ trụ bao la quá mà tay N. Anh nhỏ nhắn chừng nào…

Bao nhiêu đêm nằm mơ, mình trở lại buổi tối cuối cùng, khi N. Anh dừng xe ở đằng sau và đặt nhẹ bàn tay lên vai trái. Mình ngoảnh lại… thế rồi không còn mơ được gì nữa, cứ trượt theo những đường cong mềm mại… Mai, ta xa nhau rồi, vậy mà có ai nói được với ai điều gì đâu, cứ mặc làn gió thơm mùi đồng nội vuốt ve mái tóc…

 

Như Anh

Mới đó mà ta xa nhau, thật là kinh khủng. Có lẽ nào tất cả chỉ là như thế. Có lẽ nào tất cả chỉ là như thế và vĩnh viễn cũng chỉ là như thế. Có lẽ nào đó là tột cùng hạnh phúc? Còn sau này chỉ là đau khổ và mòn mỏi, hối tiếc…

Phải chi đừng gặp N. Anh thì bây giờ đỡ hối hận biết bao. Dẫu có phải mất đi những tháng năm đẹp đẽ ấy cho N. Anh bình yên và hạnh phúc.

Tội lỗi đó không bao giờ mình có thể tự tha thứ cho được. Càng nghĩ nhiều càng thấy mông lung và thương N. Anh, thương cả mình nữa. Trái tim ơi, vỡ ra và đừng bao giờ rung nữa. Cho ta thảnh thơi, cho N. Anh hạnh phúc… Buồn lắm, cuộc sống riêng của mình. Càng nghĩ càng buồn, nhất là trong những ngày này.

Bao giờ mình mới thoát khỏi sự chờ đợi đáng ghét như hôm nay? Đi chiến đấu chắc say sưa và hào hứng hơn chăng?

Thông bảo mình đi hỏa lực bộ binh. Mình thích lắm. Nhanh nhanh mà đi B chứ không thì hết địch đến nơi. Nghe phong thanh trên bộ lấy lính lái xe tăng, tụi nó thích lắm. Thích gì cái con rùa thép ấy, chỉ oai ở ngoài này thôi chứ khó mà được vào trong ấy.

Đại đội trưởng Châu mới về, trẻ măng, 24 tuổi. Anh là biệt động của Quảng Ngãi. Nghe kể dạo tổng tiến công mà tiếc đứt ruột. Dạo ấy mình lớp 8 nhỉ, còn nhỏ quá.

Anh Châu vào bộ đội 7 năm rồi, năm 69 ra Bắc. Anh có đôi mắt tuyệt nhất của người con trai. Đẹp lạ lùng, vừa sắc, vừa sâu xa, vừa trong và hơi bỡ ngỡ. Khuôn mặt nhỏ nhắn, cái miệng thật hiền.

Vậy mà anh ấy đã từng đóng sĩ quan biệt động ngụy, trong thành phố. Nghe anh kể chuyện thú vị chừng nào. Anh nghe nhiều và nói ít, nói nhỏ nhẹ và thân tình.

4.12.1971

Sớm mai bọn lính xe tăng đi rồi. Lăng, N.Thanh, Thành đều đi cả. Mình vẫn chỉ theo tin vỉa hè là đi Đ.K.Z. cùng Minh và Thìn. Bọn nó sợ lắm vì phải mang vác nặng. Khoản đó mình cũng hơi chờn, gù lưng và lùn đi nhiều. Chậc, có sao. Phiền cái gì chứ cái đó thì thông qua dễ thôi.

Thìn sợ chết nhỉ, anh ta chỉ thích đi xe tăng, vừa được ở ngoài này, vừa có vỏ thép đày che đỡ. Chán ghê với nó. Không biết bao giờ mới mở mắt ra được. Như vậy, chỉ còn khoảng 27 người chưa phân công đi đâu cả. Cán bộ khung về hết rồi. Vừa nãy, chính trị viên C đến thay ô. Các. Bộ đội về nhà nhiều quá chỉ còn lèo tèo vài người. Buồn chết đi được.

Dưỡng rủ mình “tút” về nhà. Nó có lắm lý do thế. Theo anh ta thì đây thực sự là cơ hội hiếm có. Dũng cũng náo nức và muốn về ngay.

Nói chung, trong cuộc sống, nhiều lúc tình thế đặt cho mình những thử thách dữ dội trong chốc lát và âm ỉ lâu dài. Mình không muốn về nhà theo kiểu đó. Nơm nớp và tự lương tâm mình.

Mà nào xa nhà có lâu la gì, mới 2 tháng thôi chứ mấy. Tất nhiên, ai mà chẳng nhớ. Vấn đề không đơn giản như mấy cha tưởng tượng. Mình cũng muốn về mang thêm mấy cuốn sách đọc. Dạo đi đem ít sách quá, cứ sợ nặng và mất mát. Đành vậy thôi, mất cũng chịu chứ kiểu sống vắng sách thế này thì buồn lắm. Chao ôi, càng đi càng tiếc những tháng ngày ở trường, bao nhiêu sách mà chịu chết, không nuốt chửng được để bây giờ nhai lại. Giá quân đội có tủ sách lưu động, luân phiên cho lính đọc thì khoái lắm. Mặt trận cũng xa, mà hậu phương dường như không phải ở đây.

Nghe tụi về Hà Nội kể, thì ở nhà chuẩn bị một đợt tuyển quân khá lớn. Các trường đại học lại tiếp tục lấy. Nhưng có điều đáng buồn là một số sinh viên không muốn nhập ngũ lắm. Sợ chết? Ham địa vị?

Kể ra, mình có mơ ước gì cao xa đâu. Bọn nó cứ nghĩ rằng mình muốn thành nhà văn, nhà thơ nào đó. Không đâu, mình chỉ muốn sống trong nỗi lo toan của dân tộc…

Chân bước trên rơm thơm, khó ai định liệu được mình còn ao ước cuộc sống nào hơn thế nữa. Mặc dù hạnh phúc ấy mỏng manh như chính số người nhận ra cảm xúc ấy là hạnh phúc của cuộc đời.

Thỉnh thoảng mình cũng hay ao ước trở lại cuộc sống trẻ thơ. Muốn trở lại đứa lên ba, cho một bàn tay êm dịu xoa đầu âu yếm. Muốn trở về một giọt mưa nhỏ từ mái rạ vạch thành đường sáng bên cửa sổ… Muốn gặp cây chanh tím trong gió bấc… Kỷ niệm trong lành quá khiến ta muốn đầm mình trong dĩ vãng, ta muốn quay về tô đậm cho những gì tốt đẹp và xoa dịu nhưng vết thương còn rỉ máu…

“Người ta không sống bằng kỷ niệm”… Chỉ nên để kỷ niệm thoáng qua, đánh thức trong ý nghĩ lòng ham muốn sống say sưa ở hôm nay và xây dựng toà lâu đài kỳ vĩ cho hôm mai…

Song đã mấy ai thế. Dẫu hôm qua sống thờ ơ và bình thản, thời gian trôi, khoác lên quá khứ tấm long bào, khiến nó trở nên rực rỡ. Con người vẫn bị đánh lừa và thương tiếc những gì đã mất đi.

Phải, thời gian trôi, không bao giờ ngoảnh lại và những gì mất đi không bao giờ người ta còn có. Nhưng thời gian vẫn còn thừa thãi, còn rơi vãi trong tay những người đang than thở. (Có con ruồi vừa đi dọc trang giấy này…).

Những người hay sống trong vị mật của quá khứ thường hoang mang trước bước ngoặt của cuộc đời.

Người ta không nhận ra, việc từ bỏ con đường thẳng trước mặt, rẽ về bên trái, bên phải hay lùi lại một chặng, tìm con đường khác là tránh một rặng Chômôlungma quanh năm tuyết phủ… Người ta chỉ muốn, mãi mãi sống trong êm đềm, có dạo chơi, có mặt hồ lăn tăn, đủ nước cho con thuyền trôi nổi… Muốn nhắm nghiền mắt lại, để tận hưởng cái thi vị điên cuồng và quên đi màu máu đỏ…

Trong cuộc đời này, đâu đã hết bất công. Xã hội ta đâu hết những kẻ dựa vào quyền thế, muốn dành một chỗ yên lành trong cuộc sống. Ta khinh bỉ, nguyền rủa và suốt đời sẽ đập tan tành cái mưu đồ đen tối ấy. Cho ngày mai, chỉ còn những tâm hồn trong như ngọc, dẫu không tròn và nhẵn nhụi như xưa.

Mấy hôm nay, mình nghe lải nhải mấy chàng nghiện ngập rên rỉ: “Đời là giấc mơ…” Là giấc mơ, nên cuộc đời thoáng qua như một bóng mây mờ, u ám. Không âm hưởng, không hương vị. Một đám mây tơi tả, không tâm hồn; Đám mây rách như giấc mơ đen, như cuộc đời của chung người đòi hưởng thụ.

Đời là lao động và mơ ước. Mình nhớ câu thơ

“Lao động đuổi theo mơ ước

Năm lại tiếp năm

Cuộc sống tăng lên tốc độ vạn lần”

Bài thơ ấy thầy giáo làm trong một năm đón giao thừa khi mình còn nhỏ. Ai ngờ lại có ngày, có lúc lung lên ở đây, xua cho mình khỏi làn khí độc.

Cảm ơn tất cả những mái trường đã ôm ấp lấy ta. Cảm ơn ngọn đèn dầu theo ta đi suốt những năm đánh Mỹ. Cảm ơn cuộc đời.

“Tương lai không hứa trước điều gì may mắn cả…” Như Anh không hiểu có còn nhớ câu đó hay không. Riêng mình, mình luôn ghi nhớ. Ngày mai ra trận, dễ một đi không trở lại lắm. Đôi khi, đứng trước cái chết người ta dám nhìn thẳng mặt, nhưng ở xa mà ngó thì chưa chắc đâu, còn suy tính thiệt hơn. Vả lại, ngày mai có biết bao điều thay đổi, hay có, dở có…

Mình nhớ, dạo họp bên Xuân Đỉnh, ghi được một câu của đồng chí Lê Duẩn: “Thanh niên phải tắm mình trong ánh hào quang rực rỡ của tương lai”.

Như vậy đấy, tương lai đang rộng cửa cho mọi người, rực rỡ biết bao và đẹp đẽ biết bao. Song, con đường tới ngày mai tươi sáng ấy đâu có dễ dàng, giản dị. Và có bao nhiêu người nằm xuống trong đêm mà không được nhìn một chút ánh sáng của cuộc đời. Chỉ là viễn cảnh. Nhưng viễn cảnh có thực của ngày mai.

Mình đã yên tâm dần với cuộc đời cống hiến này. Có thể tự hào một chút chứ nhỉ. Song, vấn đề là phải tự nâng cao trình độ để cống hiến được nhiều và đẹp đẽ hơn…

7-12-1971

… Không ai phút này cảm thấy cô đơn

Nhưng da diết vẫn gợi về Hà Nội!

Phố nhỏ se se đang mùa gió nổi

Có chút gì xúc động mãi theo đi…

Bằng Việt nhỉ, ừ, Bằng Việt, trong một Mùa xuân xa Hà Nội. Nhưng bây giờ lại đang là mùa đông. Lẽ ra đang lạnh. Vậy mà chưa. Năm nay rét muộn nên rét dữ. Không biết bao giờ mới như Trường Phước Mãi hôm nay mới thực đông về…

Cuộc đời bộ đội xoay như chong chóng. Bây giờ thì rối mù rồi, không còn biết ra sao nữa. Lại nằm đây nghe luỹ tre vặn mình trong gió mạnh, những khẩu súng nằm thật im ở cuối giường. Giây phút này thực cô đơn, thật lẻ loi. Lẻ loi trên cái nền âm thanh của ngày trở gió.

Mãi sớm nay, bọn lính tăng mới đi. Lăng đi rồi, lúc 5 giờ sáng. Bọn mình mệt còn nằm ngủ, nó không gọi và để lại mảnh giấy nhỏ. Chia tay, giản dị và thân mến quá…

Ngày mai, có lẽ một nửa đi E4. Thế là tiểu đội chỉ còn 3 đứa. “Mình có 3 người, 3 đứa sống 3 nơi… “. Ôi, bài hát ấy… Chúng nó đi, và có nhớ chút nào đến 3 tháng qua, đến tháng ngày đầu bộ đội. Đêm nay rét đây và chắc là khó ngủ. Mỗi người một thế giới trong đêm…

Hôm 5-12, được về qua Hà Nội mấy tiếng đồng hồ, mới cảm thấy hết hạnh phúc đơn sơ mà ngày thường không để ý.

Phố Nguyễn Du, phố Bà Triệu, ngôi nhà 72 và 57, cửa vẫn đóng và mãi đóng.

Nhìn rõ hơn con đường dẫn vào nhà. Cây nhãn. Ô cửa hình bát giác đều. Hành lang, mái ngói…

Không có ai cả…

Hà Nội thật rồi, chứ không phải giấc mơ. không phải là ảo tưởng…

Nhưng…

Họ lớn quá, lớn nhanh quá. Không gặp bạn trai mà chỉ toàn bạn gái. Xe xuống dốc, và qua khúc đường ngoặt, đi chậm lại cho họ vượt lên.

Xa lạ xa lạ… mà không xa vời. Họ thay đổi nhiều quá, mình thay đổi nhiều quá. Không muốn gọi nữa rồi, ôi, cái màu trắng vô tư và yên ổn ấy!

Không muốn gặp con người. Bởi con người ấy không phải là người muốn gặp. Chỉ muốn tìm vết chân người yêu dấu trên vỉa hè và dưới gốc cây.

Những người đi đường kia, có ai giống mình hay không, đi tìm ngày qua trên những nẻo đường và ô cửa Thủ đô? Có phải kìm giữ lòng mình, và có ai cô độc như mình hay không?

Trường Tổng hợp như hẹp hơn hôm qua, ít gặp người quen thuộc. Dừng lại dưới chân cầu thang. bùi ngùi và buồn vô hạn… Tất cả như vụt đứng dậy? Vụt ào ra, ôi, kỷ niệm… Và đậm đà là bóng dáng Như Anh, hôm qua, hôm qua, đứng gõ cửa thật nhẹ…

Vụt ào ra, như cửa sông, thời sinh viên say mê, hồ hởi… Giật mình, sờ lên vai áo, cổ áo. Cuộc sống vẫn như xưa, ồn ào, nghịch ngợm. Nhà cửa vẫn bẩn, và ngọn đèn vẫn trải vô vàn đường sáng. Thêm mấy cặp kính trắng, và giáo trình thì khác nhiều rồi. Đang học chuỗi Phuariê.

Dắt Hải đi chơi, một lát, chia tay ở gốc cây thứ ba, nơi nửa năm trước, ngày 30.5, chia tay Như Anh… :Hải có biết tại sao mình chia tay với Hải ở đây không? Ở gốc cây thứ 3 này, mình đã chia tay với bạn thân yêu nhất của mình…” – Chỗ ấy, cái miếu nhỏ, ngã tư, Văn Miếu…

Lại đi trên đường Nguyễn Ái Quốc. Thú vị vô cùng, chỉ thiếu Như Anh. Nhưng, không sao cả. ”hạnh phúc bắt đầu từ chỗ biết xa nhau”…

Tự trách mình, lẩm cẩm quá, toàn than thở và hối tiếc những gì đã đi qua. Hỏng lắm. Không được thế nữa.

Quả thật, về nhà, ở bên bố mẹ, gia đình sao thanh thản cháu Hằng vừa ốm dậy, cứ chăm chắm nhìn mình và không nói một câu nào, cả cho đến lúc mình đi. Suốt đêm không ngủ, không muốn ngủ tí nào. Nằm nhìn đỉnh màn và nghe tiếng thở của gia đình. Tự dưng, thấy mình lớn lên nhiều. Tưởng chừng có thể che chở cho cả gia đình.

Bố mẹ yếu đi nhiều, gầy đi nhiều. Nhà cửa bề bộn lắm. Bao nhiêu điều phức tạp giày vò bố mẹ mình. Không thanh thản như mọi người, không sung sướng và nhàn hạ như bố mẹ người. Vì sao? Vì sao?

Câu hỏi trả lời dễ và khó. Song ta biết cách trả lời.

Cái ô tô lăn bánh qua cầu Long Biên. Lại xa Hà Nội. Sông Hồng ơi, sông Hồng…

“Bè nứa phơi trên cát bãi sông Hồng

Nơi tuổi nhỏ ta đi câu cá

Những chiếc xà lan ngày ấy nông nổi quá

Nay trầm tĩnh ngược sông chở đá chữa cầu…”

Qua cửa kính mờ bụi, ta bối rối chào dòng sông đỏ và nhẩm đọc vần thơ Lưu Quang Vũ. Thế là lại xa Hà Nội, lại xa Thủ đô và biết đến bao giờ ?

Tạm biệt ngôi nhà, tạm biệt con người, đường phố và những dòng cây xanh chảy trên vỉa hè thành phố. Tạm biệt đôi mắt đen ở chân trời.

Định gửi một lá thư giữa Thủ đô cho Như Anh. Nhưng lại không gửi được và không muốn gửi. Hãy tin tưởng, đó là điều chủ yếu và quyết định. Cần gì phải viết nhiều thư, khi ta đã hiểu nhau thực sự? Muốn chiều Như Anh thật nhiều bởi thương nhớ lắm, nhưng cũng muốn Như Anh vượt qua được cái khủng khiếp của thời gian và xa cách.

Vả lại Như Anh còn phải học. Băn khoăn quá, Như Anh học hành ra sao, có giỏi hay chỉ nhàng nhàng. Dẫu thế nào, cũng ảnh hưởng. Kinh nghiệm của bản thân mình năm qua đấy. Viết thư, mất ít thời gian thôi, còn lo lắng và nhớ nhung, mong đợi mới chi phối nhiều.

Ngẫm nghĩ lại, thấy kết quả của Như Anh cuối lớp 10 không bằng những năm trước. Có lẽ tại mình thôi. Sao mà vô duyên thế và có chút gì dã man. Vì cá nhân mình mà làm cả Như Anh cũng khổ. Có lúc nào Như Anh tự trách và trách mình hay không?

Không có thư mình, chắc Như Anh sẽ nghĩ ngợi, buồn và nghi ngờ. Biết làm sao, Như Anh làm quen nhé, đừng vội trách, ta vẫn dành trọn vẹn trái tim mình cho Anh. Không có gì thay đổi cả, dẫu ở nơi ấy, có nhiều thay đổi. Từ nay, ta mãi như hôm qua, mãi nhớ thương và gìn giữ hình ảnh trong sáng của Như Anh trong tâm hồn. Không còn ai có thể bằng được một phần nhỏ những điều đẹp đẽ mà ta tìm thấy ở Như Anh.

 

Tập 4

 

8.12.1971

Cho tới hôm nay thì còn 3 đứa: Thình, Đ. Minh và mình. Sợ quá, có cảm giác bị bỏ rơi. Cảm giác thôi, nhưng rõ ràng không tốt. Một nhóm sáng nay đi do BỘ điều động đến các Binh chủng khác. Còn tụi mình, sư đoàn cứ giữ, cũng chẳng sao cả. Đâu mà chẳng bộ đội Cụ Hồ!

Nhưng không khỏi xuýt xoa, tụi nó “sang” quá. Mang danh lính của Bộ, “oai” ghê!

Mình vẫn chưa đi đâu cả. Mà tình trạng ăn đợi nằm chờ thế này thì ngán lắm. Suốtngày chỉ ra lại vào, thở ngắn than dài. Chim sẻ, chim sẻ, con chim không đi tránh rét nhỉ, về đậu đầy trên luỹ tre trước ngõ và kêu ríu rít suốt ngày. Nghe rối cả ruột.

Đường 18 vắng hơn cả đường phố vắng nhất của Hà Nội. Mình đi với Thìn, nghênh ngang giữa lòng đường, thấy cây chạy đến thật xa, cuối con đường. Chỗ ấy mờ mịt và thật mông lung.

Con đường, đưa anh đi đâu? Con đường đưa anh về đâu?

Có quán hàng nhỏ mấp mé đường. Ờ, cũng một cuộc đời, chứ sao? Buồn, chán, bạn nhỉ?

Rất lạ, mùa đông vẫn có nhiều cò trắng. Con cò trắng vỗ cánh trên khoảng đồng mênh mông, vừa cày vỡ. Màu xanh của mạ non, màu trắng sáng của nước, màu đất phù sa nữa… Nom lạ lắm. Sao mình lại ở đây, lại đứng đây? Chờ gì? Đợi gì?

Không muốn nói một lời nào, kiểu tụi trẻ đeo cặp sách tới trường. Biết thời gian trôi đi mà chịu chết! Ba năm… sáu năm…

Đêm qua, nghe phổ biến, tình hình có nhiều biến chuyển có lợi cho ta. Còn lâu mình mới được đi chiến đấu. Phải học tập và rèn luyện nhiều. Vả lại, sinh viên họ cũng chưa chịu cho đi chiến trường ngay. Lại càng thêm chán.

Bọn đi xe tăng lại càng ngán. Phải học tù 3 – 7 năm trên Tam Đảo. Khi đó, chắc hết Mỹ rồi còn gì? Còn đánh đấm đá gì nữa.

Phải tỉnh bơ đi mới được, càng nghĩ càng cảm thấy phiền lòng.

Hôm nay, đọc được bài thơ hay, một nhà thơ trẻ Liên Xô, có nhiều tứ sáng tạo, táo bạo…

“Con người thường đi thẳng đứng

Nhưng có người lại thích bay nghiêng…”

13.12.1971

Buổi trưa…

Nằm mà không ngủ được. Hơi mệt mỏi, mắt cứ díu lại. Đã lơ mơ một lúc, chợt choàng dậy. Có lẽ bởi tiếng kẽo kẹt của cái võng…

Bao nhiêu buổi, bao nhiêu giờ khắc tỉnh dậy như thế rồi? Mỗi lần tỉnh dậy, giật mình và cảm thấy bàng hoàng… Thạc ư? Thạc mà như thế ư?

Hôm nay thì nhớ Châu. Thật lạ, dạo ở trường, suốt 3 năm cấm có thèm nhìn mặt nó. Thế mà bây giờ lại nhớ. Nhớ và cảm thấy lo lắng vô cùng.

Mình đã và sẽ làm gì? Cho mãi tới bây giờ vẫn chưa ra hồn vía gì cả. Các bạn bè của mình, phút này ở đâu, đang nghĩ gì và đang làm gì? Cuộc đời họ thật thẳng băng và dễ dàng đạt tới mục đích. Riêng mình thì sao lắm khó khăn thế! Chẳng thể nào hết được nỗi buồn. “Nỗi buồn như râu tóc. Cạo hết rồi lại mọc”. Có lẽ nào như thế. Nhưng, sự thể là như thế vậy.

Toàn ngủ thật vô tư. Giờ này có lẽ nhiều người vô tư như thế. Và có ai như mình hay không? Ngày tháng trôi đi nhanh quá, mà bản thân mình vẫn quanh quẩn trong cái thất vọng, trong chờ đợi và mong ước hão huyền.

Hai hôm nay, nhận công tác mới. Nghe Đạt nói thì máy vô tuyến 2W nặng 20kg, liên lạc trong R=25km. Thú vị nhưng đi chiến đấu dễ bị phát hiện lắm. Sáng qua học chính trị về tình hình và nhiệm vụ mới. Lại thảo luận 13 giờ nữa. Ngồi tiếc đứt cả ruột, giá cho về nhà đọc sách lại khoan khoái hơn và có chất lượng hơn.

Ngồi họp mà cứ nơm nớp cái áo phơi ở nhà. Lạy chúa, đừng mọc cánh”. Cũng không hiểu sao dân hay lính nữa. Toàn mất tiệt cả ba lô rồi.

Tội nghiệp, dân ở đây cũng khổ. Nheo nhóc đến thế thì cũng hiếm. Nhà nào nhà ấy vách hở lung tung. Tụi trẻ bẩn thỉu và mãi tối mịt mới ăn cơm chiều.

Bà cụ sống trong ngôi nhà mình ở mới khổ. Con trai bỏ vợ đi bộ đội, để cho bà nuôi đứa cháu lên 6 tuổi. Bà già lắm rồi, buổi sáng cặm cụi làm bánh sắn mang bán. Đứa cháu gái lần hồi nhặt lá mít về gói bánh. Cái lá nào cũng đầy bụi. Nhà cửa trống hoang trống huếch, có ít gộc tre để đun cũng bị lấy cắp dần. Sao có kẻ vô lương tâm đến thế!

Cuộc sống của đất nước còn lam lũ lắm. Đầu tắt mặt tối mà nào có đủ miếng ăn. Rồi mất cắp. Rồi đánh chửi nhau. Rồi thiên tai, địch hoạ. Cơm độn ngô rồi còn độn sắn. vậy mà những chiếc lá tre kia vẫn dịu dàng, vẫn đưa vào cõi êm ả của tâm hồn. Thật lạ biết bao!

14 . 12 . 1971

Tâm hồn con người thật kỳ lạ. Hay đúng hơn, tâm hồn mình thật kỳ lạ. Sao có người lại “vỉa hè” như thế được!

Tự dưng mình lại nhớ K. Tâm – Bây giờ chắc Tâm nó học được nhiều rồi. Và chắc cũng có nhiều thay đổi. Cuộc sống có khi nào ngưng lại, nhất là với tuổi trẻ. Nhanh quá, mới hôm nào đi học, mới hôm nào ngồi trong cái lớp mái rạ, bây giờ đã ở đây. Rồi ngày mai nữa, sẽ ra sao?

Thực ra Tâm cũng là bạn tốt và hiếm có. Rất ít người con gái khiến người ta vừa mến vừa phải kính trọng. Thầy Đản đã nói với mình như vậy khi nhắc đến Tâm. Nhớ bạn- nhớ trường… Các học trò của Yên Hoà B giờ mỗi người mỗi ngả. Và phút này, ai buồn, ai vui?

Riêng mình, nao nao nhớ – Hơi buồn một chút – Mà lạ thật, nhớ ai mình cũng chỉ nhớ nét cười của họ. Ai cũng có điệu cười thoải mái và dễ dàng.

Lâm bây giờ ở thành phố quái quỉ nào rồi nhỉ? Rồi “chị” Phương, “Châu Phương Đùng”… Ôi, tụi nó… Nhớ làm quái gì nhỉ? Xấu hổ không kìa, đừng vớ vẩn nữa.

Đọc lại “Thép đã tôi… ” – Đêm qua dừng lại đúng ở công viên Thương Mại – Paven và Tônhia sắp vĩnh biệt nhau rồi. “Anh trước hết là người của Đảng – sau đó mới là người của em và những người thân khác”

“Em có gan yêu một công nhân, nhưng lại không có gan yêu một lý tưởng”…

Và sau cùng, Paven không nói nữa.

Cuộc đời tất nhiên sẽ là như thế. Nhìn mớ tóc bồng màu hạt dẻ của Tônhia, Paven thấy ái ngại vô hạn anh chưa hết tình yêu người bạn thời thơ ấu, nhưng bây giờ, Paven “không còn là cậu bé Pavơlusa ngày ấy nữa”…

Anh không yêu một lần. Tình yêu đầy thi vị của buổi thiếu thời chỉ mới là “nhập môn” thôi sao?

Thật đáng buồn. Nhưng sao hai người chia tay nhau chóng vánh đến như vậy? Chỉ mấy ngày thôi.

Có nhiều lúc mình thấy chán những “trò đời” như thế. Hồi mới đọc Axtơrốpski, rất thú vị với anh bạn Paven và Tônhia. Nhưng bây giờ thấy nó cũng bình thường và có chút gì hơi mòn, cũ. Không lẽ mình đã già cỗi đến như vậy?

Vả lại đọc nhiều lần nên cũng mất nhiều hứng thú. Mình thấy ngòi bút của Axtơrốpski và A. Đức có gì giống nhau trong khía cạnh biểu hiện tình cảm. Bô rít Pôlêvôi riêng biệt hơn, và độc đáo hơn chăng.

Mêrétxép và Paven… Những người đầy nghị lực và có thể nói được họ đã đi tới mục đích của đời mình!

Đôi lúc mình có cảm giác tội lỗi rằng mình đi bộ đội là tạm thời thôi. Hình như xa nhà chỉ vài ngày và không lâu nữa lại trở về Hà Nội. Lại tàu dừa và cái chợ ồn ào, buổi sớm, buổi chiều gặp bố mẹ và các em.

Chỉ thoáng một tí cảm giác về ngày ra trận. Mình sẽ làm những gì trong những ngày không bình thường ấy? Thật ghê sợ khi phải vĩnh viễn xa gia đình.

Kể ra, bây giờ mà chết thì thật đáng tiếc. Những ngày còn bé, những lúc đi học chẳng bao giờ phải phiền toái đến chuyện đó cả, chỉ miên man với tương lai anh sẽ làm gì và sống ra sao. Nhưng bây giờ, những ý nghĩ đó mọc ra.

Khó gì đâu – cái chết – chỉ một viên đạn lạc hay một hơi bom. Sự thật bi đát đó không trừ một ai cả.

17.12.1971

Mưa đêm. Cũng không còn biết mưa đông hay mưa xuân nữa. Năm nay rét muộn và rét không dữ lắm. Rét sơ sơ rồi lại ấm dần lên. Con người và thiên nhiên.

18.12.1971

Tụi trẻ đi cổ động. Không thấy thầy giáo nào cả, chỉ toàn cô giáo. Những cánh chim đỏ bay trong gió chiều.

Mình ngạc nhiên khi nhìn con đường mòn lên đồi đá. Màu tím, màu lam và mờ mờ sương. Bầu trời giống như không trên sân khấu. Mọi cái đều chỉ như làm bằng giấy, nếu như bọn trẻ không đánh trống hò reo trên đó.

Nhiều lúc mình ngạc nhiên và không thể nào tin được những đứa bé rất ngây thơ và nghịch ngợm kia lại có lúc cao lớn bằng mình – Lại mọc râu và chống gậy và cũng khó mà tin rằng mình cũng có những phút giây như thế – Mọi cái trôi nhanh.

Mai là 19.12 rồi, ngày toàn quốc kháng chiến. Năm ngoái, buổi chiều như thế này, mình đang trên gác 4 nghe thầy giáo giảng. Năm nay, đang trên đồi và nghe cuộc đời mở mắt. Thật không thể nào định liệu được ra sao nữa – 18.12.1971 thì thế… 18.12.1972 sẽ ra sao?

Lúc đó có còn được ngồi mà viết thảnh thơi như bây giờ không? Mọi cái đều không lường trước được. Paven khi nghe bản nhạc này “Ơ này! Quả táo” rạo rực đến nhảy lên mà khiêu vũ. Anh cũng không ngờ đó là lần khiêu vũ cuối cùng của cuộc đời mình.

3 giờ sáng. Trời mưa nên tỉnh giấc. Cơn mưa rất lạ, ít hạt và lốc đốc trên mái ngói. Mình cứ nghĩ đến cái gì đó đang nảy mầm. Thôi được, đồng ý gọi cơn mưa này là mưa xuân.

Lúc nãy hơi mưa mát mát, bây giờ lạnh. Hôm nay viết thế thôi. Luỹ tre vẫn vặn mình không ngớt, cái luỹ tre thân thuộc mà P. ao ước… Không nhớ cụ thể dáng người P. được Mọi cái đều thấp thoáng mờ ảo – Lúc này, P. làm gì nhỉ lúc này, lúc này…

20.12

Ngày thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Mặt trận của mình chứ còn của ai nữa. Mai, là giải phóng quân rồi chứ tưởng à. Cũng không ngờ như bao chuyện không ngờ khác. Hôm nay, tất cả mọi người đều phải đeo quân hàm, chờ đón 22.12 mà.

Đi ra đi vào đều gặp màu đỏ, đều gặp những ngôi ngần làm xong nhà bếp. Sắp quen với rui, với mè rồi. Cái đục, cái chàng, cưa… Buồn cười nhỉ, ai lại lấy những cái tên ấy.

21.12

Anh con trai nhà bên sắp đi bộ đội. Sớm mai sẽ đi thì phải. Bạn bè đến chơi đông và chắc là bồn chồn lắm. Chà, có gì mà phải tiễn. Tôi là lính cũ rồi, đi bộ đội bình thường thôi – giản dị mà lên đường và khiêm nhường khi trở lại.

22.12

Ngày thành lập quân đội. Được nghỉ cả ngày. Hùng rủ mình đi Phố Mới chơi. Có hơi thở của Tết rồi. Quân đội mình 27 tuổi. Vậy thì 22-12-74 sẽ tròn 30 tuổi. Lúc ấy, mình sẽ ra sao?

Buổi chiều định rủ Năm đi Phả Lại. Mình thật yêu dòng sông – Vừa hùng vĩ vừa êm dịu.

Mấy tân binh được người quen đi tiễn có vẻ sung sướng lắm. “Khi đi thì vui, khi nghĩ lại bùi ngùi”? Nhưng chỉ đi được đến Đông Du là “gục” hết. Khóc không trùi một ai. Hôm mình đi, nào có khác gì. Buồn cười nhỉ.

5.23.12.71

Bắt đầu mở P.105. Máy Liên Xô kiểu 1954. Không có gì phức tạp cả. Hai đài đáy liên lạc rất đẹp với nhau, còn đài trưởng mạng chịu chết! Anh Lộc hẹn liên lạc từ 21 giờ đến 21 giờ 30.

Mình cảm thấy trong liên lạc vô tuyến, sự tôn trọng kỷ luật là điều rất quan trọng. Dải tần xê xích là hỏng ngay, ồn và rất khó bắt được liên lạc với đài bạn.

Bên ưu tiên 2 có vẻ đông đúc hơn mình. Họ nói ồn ào vào trong máy và rất thú vị, đến nỗi hát tướng lên. Bài gì không nhớ, hình như một bài có “hoa đào” thì phải, dĩ nhiên là “ướt nhèm”…

Mải tìm sóng, mãi không thấy 1825 – Mò sang nhà mấy gã đã lăn quay ra ngủ, thật tệ. Nhưng máy vẫn bắt được sóng của một đài lạ – Côlycốp chỉ phát sóng ra 5km. Đài kia hỏi: Anh đã mượn được xe chưa?

Đồng hồ chỉ 22 giờ kém vài phút thôi. Con nhà thông tin có mặt suốt đêm nay

Hôm nay Năm ốm rồi. Vạ vật mãi, chịu sao nổi. Không ăn uống được gì cả. Li bì suốt. Sơn từ máy 4950 gọi Năm ríu rít. Nhưng nó nhức đầu quá, không thể trả lời được.

Mình bị đau tai, do liên hợp nghe, nói ép vào. Nghe nói đi vô tuyến có 2 thứ bệnh: Viêm họng và đau tai.

6.24.12.71

Gấp cuốn sách vào và suy nghĩ về Paven. Những trang cuối của tiểu thuyết để lại cho mình nhiều chấn động mạnh hơn cả. Mình chú ý nhiều đến bức ảnh Paven ngồi như một ông già, nhưng sôi sục ngọn lửa sống. Lúc ấy bến bờ biến và ánh nắng đã nhạt dần…

Cái gì nấp đằng sau con người ấy? Cái gì làm nên nghị lực phi thường và dễ hiểu của Paven? Thật dễ hiểu.

Sao Paven có niềm khao khát trở về đội ngũ như thế. Cuộc sống dồn anh vào góc tường và cánh tay thần chết đã lần đến cổ anh. Nhưng, anh vùng ra, vùng ra và trở về với ánh sáng mặt trời. Kiêu hãnh thay, người cộng sản Xô Viết ấy.

Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt tai trong lữ đoàn Buđionrú anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sĩ hồng quân.

Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn cuộc đời mình cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.

Hôm nay, lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Mình chưa phải là một đảng viên!

Buổi chiều, đang họp A, anh Lộc gọi ra sân và hỏi mình có giấy cảm tình Đảng không. Lúc đó, chỉ hơi thoáng qua một ý nghĩ còn mờ nhạt. Sao mình tới giờ vẫn chưa thấy gần gũi với Đảng của Bác Hồ? Anh Lộc bỏ đi khi mình lắc đầu. Mình như có lỗi gì đó, cái lỗi rất lớn mà bấy lâu mình không biết.

Đảng viên. Một người Đảng viên. Paven là một người chân chính, một Đảng viên chân chính. Dĩ nhiên rồi, đó phải là người con của giai cấp, suốt đời trung thành với Đảng, và cống hiến cả đời mình cho cách mạng. Mà mình, dường như vẫn còn nhỏ lắm, trẻ con lắm, chưa là người lớn đâu Mình còn cá nhân lắm, nhỏ nhen và ti tiện. So bì thiệt hơn, đòi hỏi bao nhiêu thứ. Cuộc sống của mình không bằng 1% cuộc sống của Paven.

Còn lý lịch nữa. Lý lịch phải trong sạch, mình không biết có sao không – Dù sao, đó chỉ là điểm rất nhỏ – Cái cơ bản là mình có thật sự sống và làm việc như một Đảng viên chân chính hay không?

Sao trước kia mình không hề lúc nào nghĩ đến điều đó cả? Có phải vì mình thấy Đảng quá cao siêu và mình không thể nào với tới? Có phải vì mình kém nghị lực chiến đấu; kém tinh thần vươn lên và cam chịu sống cuộc đời riêng biệt, tẻ nhạt với những rung động êm đềm? Có phải vì mình thấy trước được những trở ngại không thể nào vượt qua được mà cảm thấy phiền lòng? Cảm thấy nhụt dần hứng thú hoạt động tập thể mà tuổi nhỏ rất nhiệt tình tham gia.

Anh Thoả hỏi nịnh trước kia có tham gia công tác Đoàn gì không? Mình lắc đầu, đoàn viên thường thôi – Dĩ nhiên có nhiều lý do, nhưng một phần do sự lười công tác.

Mình đổ đốn như vậy nữa đấy. Đổ đốn đến như thế nữa!

7.25.12.71

Bữa họp tiểu đội. Nội dung chủ yếu: Giới thiệu gia đình và bản thân. Mình không muốn kể một điều gì cả. Các bạn dẫu có khổ, dẫu có vất vả, nhưng không ai có một hoàn cảnh như mình.

Các bạn hỏi về người bạn thân nhất của mình. Vẫn lắc đầu và chắc sẽ còn lắc đầu mãi mãi. Mình không muốn kể cho ai, nhất là cái tập thể đông đúc này những dòng tâm tình của hàng cây bên đường Nguyễn ái Quốc. Cho tới giờ đây, nhiều lúc vẫn ngỡ ngàng, như trên đầu một đám mây vội vã, mình vẫn chưa hẳn tin những ngày qua là có thật.

Lạ lắm, phải không P.? Và cả mình nữa, vẫn lạ lùng. P. có biết rằng mình yêu P. không?

Tội lỗi? Một tội lỗi? Mong P. đừng biết và chóng tìm thấy hạnh phúc của đời mình.

Nô-en đấy. Vùng đất không có nhà thờ nào cả.

Tối qua nhà thờ lớn chắc rung chuông dữ lắm. Và cả Đại Xuân nữa.

28. 12.1971

Lại bỏ nhật ký mất mấy ngày. Bận nhiều và chẳng lúc nào được rỗi rãi nữa. Vừa báo động hành quân lúc 9h30, sắp đi ngủ. Đeo máy đằng sau và ba lô đằng trước, như lính nhảy dù! Trung đoàn trưởng hôm 26.12 kiểm tra đơn vị, chưa sẵn sàng chiến đấu lắm. Lại rèn, lại rèn. Thế mới tốt mặc dù hơi khổ đấy.

Suốt mấy hôm tập trên máy, khá căng, tai mình hơi ù và cũng thấy sức khoẻ giảm xuống – Buổi sớm dậy không được nghĩ ngợi nhiều nữa và phải tập thể dục luôn. Đang đọc “Hải âu” của Biuriucốp, nhưng rời rạc lắm vì không có thời gian.

Mình luôn nhớ Như Anh. Cảm xúc ấy trở đi trở lại và luôn luôn mới mẻ, luôn khiến mình phải bàng hoàng. Đã khá lâu rồi chưa thấy thư Như Anh, và cũng rất lâu chưa nhận được thư của ai cả. Hơi rảnh trong chuyện đó, nhưng nó lại đem đến một sự lẻ loi, cô độc mơ hồ nào đó. Không sao cả.

Tự dưng, mỗi người lính đều nghĩ đến anh hùng Nguyễn Chơn. Người chiến sĩ cộng sản triệt để – Người sư trưởng dũng mãnh của sư 304. Phải sống như thế và rèn luyện như thế.

Gió bấc đã về, và da dẻ đã nhăn nhúm lại. Có một câu thơ khi đón cơn gió ấy về…

Có những lúc con người trở nên tầm thường đến phát sợ. Trường hợp mình cũng là một điển hình khá sinh động đấy. Mình cũng không hiểu vì sao nữa. Tờ báo của chi đoàn hôm nay đã xong, mình nộp bài thơ “Cái ba lô” xinh xắn mà mình cũng khá yêu. Khi thấy ban Văn hoá – Văn nghệ xem các bài nộp; mình cứ thắc thỏm, nhấp nhổm xem thái độ của mọi người đối với bài thơ nhỏ ấy của mình – Đúng là lúc ấy có cảm giác mong nhìn thấy mọi người vồ lấy và chuyền tay nhau đọc, miệng hỏi: “Bài của ai đấy nhỉ? – Chỉ có chữ 2W thôi!”

Dĩ nhiên cũng có người khen và cũng có người chê. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, mình cũng thật dở. Làm gì cái câu khen ấy và câu chê ấy. Anh tài giỏi ư? Lạ thật, lên mặt với cái tụi này thì cũng xứng danh Thạc thật đấy!

Mau xoá đi cho luồng suy nghĩ hèn đớn ấy. Phải cao rộng hơn lên – Shakespeare với “Rômêô và Juyliét” đấy! Như thế!

Quang và Năm lại ngủ rồi. Còn mình, đừng có lười nữa. Sống say mê và dồn ép lại, đừng để những tháng ngày trôi qua vô vị nữa. Nghĩ đến các bạn lại giật mình.

Như Anh của mình đang nghĩ gì bây giờ nhỉ? “Của mình” sao đơn giản thế! Không phải đâu, Như Anh chẳng phải của mình đâu. Nhưng, nói ở đây thì có sao, có ai biết đâu mà sợ!

Như Anh là của Thạc nhé, một Như Anh hư ảo mà trên Trái đất này không có! Còn Như Anh thật? Ừ, Như Anh cứ sống và vui vẻ với cuộc đời êm đẹp, rồi hạnh phúc ngọt ngào sẽ đến với Như Anh…

Còn mình, chỉ níu giữ lại Như Anh trong tâm hồn mình thôi, như thế Như Anh đỡ khổ và mìnnh cũng đầy đủ. Đầy đủ? Như Anh, Như Anh biết không, chúng mình phải vĩnh biệt nhau đấy, chúng mình không được sống gần nhau đâu – Như Anh có cảm thấy buồn khi vĩnh viễn xa Thạc hay không? Thạc biết lắm, biết nhiều lắm những gì ràng buộc mình với Như Anh và những gì ngăn cản chúng mình – Như Anh, Như Anh quay đi đi, đừng nhìn vào Thạc nữa…

Ờ, thật lạ, tự dưng, mình lại có những lá thư như thế nhỉ? Bắt đầu điên đấy, nhất là về đêm khuya…

Đoạn thơ ấy thế này:

“…Thấm ướt làn môi cho đỡ hanh hao

Nghe đợt gió thổi vào lòng se sắng

Mọc lá xanh non chỉ cành lim trắng

Cái lá xoan vàng úa cả mùa đông…”

Đi ngủ thôi. Mệt và đã khuya lắm rồi…

4.29.12.71

Rất lạ, mấy ngày trước thì khá là vất vả, làm việc luôn có lúc nào được rời máy. Còn hôm nay thì rỗi rãi đến kinh khủng – Máy thì hỏng, kỳ cạch chữa cả chiều – Đến lớp rồi lại được về. Tạm bợ, bạ đâu giảng đấy, nói đấy, và những cái gì đơn giản như học sinh cấp 1.

Thật là học bao nhiêu ngày rồi mà kiến thức không bằng 1 giờ trên giảng đường đại học. Tháng ngày cứ đi qua như thế, tiếc lắm nhưng không biết làm sao cả.

Vẫn cố gắng đọc “Traika” , nhưng đến trang 106 rồi mà chưa cảm thấy hấp dẫn gì cả – Chỉ muốn xé đi thôi: Nội dung thì tàm tạm được, nhưng câu văn thì rời rạc, buồn tẻ và chán ngắt! Không, bản thân chữ “rời rạc, buồn tẻ và chán ngắt” cũng đủ hay hơn những lời văn chết dẫm ấy. Điều hấp dẫn và hứa hẹn mình chỉ là giải thưởng Stalin 1950 mà cuốn sách dành được.

Mình nghĩ có lẽ do người dịch, Hiền Khang, người dịch cuốn “Làm mẹ” của Colava mà trước kia mình ghét cay ghét đắng, bây giờ lại làm mình ghét lây sang cuốn sách này, chú thích chẳng ra đâu vào đâu mà hơi một tí lại (N.D)! Cuốn tiểu thuyết còn mới nguyên mà mình đã xé mấy chỗ chú thích như thế!

Thế mới biết cái khoe khoang hợm hĩnh nhiều khi làm cho người ngoài tức lộn ruột lên!

Vẫn chưa thấy thư Như Anh gì cả. Và mọi người cũng đều im lặng làm sao. Hình như ít ra là 1.1.1972 mới bắt đầu có thư theo địa chỉ hòm thư mới.

Tình cảm của mình và suy nghĩ của mình biến động lắm. Hôm nay đọc lại trang trước đã thấy cái dở kinh khủng của tâm hồn ưùnh. Dở lắm, Thạc ạ, phải sống kiên định chứ nghiêng ngả như vậy chẳng làm gì được cả đâu.

Lúc này, sao mình khó tính như thế, thằng bé con ngồi bên cạnh thở phì phì, mồm nó nhai cái gì nhồm nhoàm làm mình tức điên lên được. Năm thì vừa ngó vào xem mình viết gì. Tò mò, tò mò? Mình gắt um lên – Rồi nó lại lấy mật ngữ của mình ra học – Sao không lấy của nó? Tay thì bẩn, lại làm nhem nhuốc hết cả cuốn sổ vừa chép rất nắn nót tối qua. Mình ích kỷ thật, nhưng có lẽ cái tính bẩn thỉu ấy không phải tự dưng có ở trong người mình.

6.31.12.71

Ngày cuối năm. Khoảng 6 giờ tối, còn 6 giờ nữa của năm 1971. Lại đốt một điếu thuốc. Buổi chiều lại đá bóng. Bao giờ cũng vậy, mình muốn có một cái gì kết thúc vào cuối năm. Cầu mong cho một năm mới tốt đẹp.

Năm 1972, mình đã tròn 20 tuổi. Thạc ư? Đấy, thằng bé con của ngày xưa lêu lổng. giờ đây đã thực sự là người lớn! Con đường mình chọn, con đường mình đi là hoàn toàn đúng đắn. Không còn phải đắn đo gì nữa, Thạc cứ đi theo con đường này thôi, con đường không đòi hỏi đền bù lại điều gì và trọn đời cống hiến cho đất nước. Mình không muốn dành cuộc sống của mình cho 1 sở thích cá nhân. Mình muốn làm theo yêu cầu của Tổ quốc.

Phút giây này, mình thấy trong người ớn lạnh, muốn rùng mình một cái, và lột xác. Có ai biết ngay điều này không?

Ôi, giá mà có Như Anh ở bên, ở ngay đây… Chỉ một cái bàn cũ, một ngọn đèn dầu sáng đỏ và trang giấy mở đời, trang giấy trắng dành cho những ngày mai. Muốn nói một câu gì với Như Anh, đêm nay Như Anh sẽ làm gì? Ở đó, người ta đón giao thừa vào đêm nay phải không Như Anh? Như Anh đang đứng bên người bạn nào của mình? Chưa một mùa xuân nào của chung hai đứa, chỉ cuối xuân, mùa hè luôn (!) và sau đó là mùa thu… Rồi xa nhau. Mùa xuân đến không làm mình vui lên, không làm nỗi buồn đau của mình dịu lại…

Chỉ có những gì day dứt và dằn vặt giày xéo tâm hồn mình…

Chỉ còn 6 tiếng, 5 tiếng nữa thôi. Phải dành 3 tiếng cho quân đội, còn sau đó là của riêng mình, rất riêng…

TỪ GIÃ 1971!…

2.3.1.1972

Bận nhiều rồi. Và niềm vui cũng tăng dần với khối lượng công việc. Vào 1972, thấy khoan khoái, khoẻ khoắn và hầu như 3 hôm nay không có điều gì đáng buồn cả. Sung sướng biết bao, được làm việc và vui như những ngày đầu năm này.

5.6.1.1972

Ở trên ngọn đồi phơ phất bạch đàn non, nhiều đống đá xếp hình khối. Mình bắt gặp một cái cúc áo màu xanh cánh chả. Hẳn đây là cúc áo của 1 cô gái nào đó. Sao họ lại đến đây và đánh rơi một chút gì bâng khuâng cho khách lạ?

Mấy đêm qua đều hành tiến. Gió mạnh, buốt lạnh, từ khe trời tím thẫm, tuyệt nhiên không có một vì sao nhỏ. Đài phát sóng của mình đi theo hướng Phả Lại, và nằm trên một đống rơm bề bộn trong 1 góc tường của ngôi nhà đổ. Trường Phước khi viết câu thơ:

“Những tối mênh mông đường không đuốc lửa

Sương đẫm mũ anh thấm cả lòng em”

Chắc anh ta cũng ở vào một đêm như đêm nay. Ừ, đêm nay buốt lạnh, gió thào thào trên đỉnh đầu, lồng lộn. Sương xuống lạnh tê dại… Có cô em nào thấy lòng thấm lạnh sương đêm đang phủ ướt mũ mình?

6.7.1.1972

Cái đẹp đẽ của cuộc đời, cái tươi mới của cuộc đời nhất định không đến khi anh bo bo giữ gìn cái “tôi” của mình. Cũng có một thời kỳ như thế, mình luôn luôn lo lắng cho bản thân. Mình luôn hướng tới tương lai. Nhưng tương lai trong suy nghĩ của mình là một màu hồng rực rỡ pha chút gì ánh biếc phù hoa. Cái tương lai đó bó hẹp trong 1 hạnh phúc ngọt ngào, trong 1 niềm mê say học tập, nhưng học để mà học, để mà “có triển vọng”, nhưng mãi không thấy chút thành quả gì. Bởi ước mơ phù phiếm nên chỉ vấp phải thực tại khô khốc, mình chưa kịp quen ngay. Không ít thanh niên sớm chán nản với cuộc sống này, muốn trốn tránh, muốn hưởng thụ mặc dù bản thân mình chưa cống hiến được chút gì. Hình như mình cũng thuộc vào loại đó. Chán nản, buồn, buồn lắm, mênh mông như buổi tối tắt đèn…

Gặp nhiều người chán nản như thế, mình tự rút cho bản thân một điều quan trọng: Mình giống họ ư? Chẳng lẽ mình giống họ trong cái bi quan, hèn mạt ấy chăng?

Những ngày đó qua rồi. Mỗi ngày lại thêm một ngày đẹp đẽ. Ao ước gì ở ngày mai khi hôm nay được nhìn, được cảm cuộc sống xôn xao của dân tộc. Cô gái mặc áo da trời bơm thuốc trừ sâu, những gánh bùn lên cải tạo ruộng đồng sau trận lụt, và luỹ tre thân thuộc, bốn mùa lúc nào lá cũng xanh, lúc nào cũng thì thào muôn điều kỳ lạ…

Cảm ơn Tổ quốc, cảm ơn những cánh cò trắng muốt của ca dao cho ta niềm hạnh phúc, cho ta niềm tự hào.

Ta lớn dần lên với tuổi, với cuộc chiến đấu này. Bao giờ để ta hoàn toàn có thể xoa tay mà hài lòng với cuộc sống của mình? Còn lâu, lâu lắm… Nhưng bước đầu này sung sướng biết bao. Tổ quốc vẫn dựng xây và đánh giặc hai hòn gạch vẫn gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản… Trong ngôn ngữ của ta bớt dần tiếng tôi, tiểu đội trung đội; Ta muốn nói đến những Trung đoàn, những Sư đoàn gang thép… Dân tộc ta đã lớn lên.

Trên đầu ta đã có nhiều sợi bạc. Không, ta không gọi đó là tóc bạc. Có chút gì phôi pha trong từ ngữ đó. Ta muốn gọi đó là những sợi tóc trắng, những sợi tóc trắng trong… bởi những gì đẹp đẽ trong ta có bao giờ phai nhoà cho được.

10-1-1972

Năm ơi! Năm đang ở đâu rồi?

Thật không ngờ chiều qua lại là lần cuối cùng hai đứa ở bên nhau. Còn bây giờ, xa lắm rồi, xa lắm, nếu Năm không quay trở về đội ngũ.

Đảo ngũ! Thật không thể tưởng tượng được.

Đêm nay bơ vơ ở đâu, ở trên một chặng đường xe lửa hay một con đường lay lứt? Năm có cảm thấy lạnh lùng, trống rỗng hay không? Chắc mày trách tao lắm hả, ừ, tao tự trách mình nhiều lắm, sao để mày như thế, sao để mày như thế…

Sao trước kia không thương mày nhiều hơn nữa, không gần gũi mà hiểu mày hơn nữa. Giấy truy nã mày tao cầm trong tay đây. Sớm mai sẽ có người xa lạ nào cầm đọc, người ta sẽ nguyền rủa mày, khinh bỉ mày Năm ơi!

Năm ơi, quay trở lại đi, quay lại và rủ thằng Thỏi nữa, đồng đội và tao đang chờ mày. Cái giường ọp ẹp vẫn dành chỗ ấm nhất cho mày đó. Sao mày lại bỏ đi mà ngủ trên một quãng đồng trống trải, lạnh lùng… Năm à, quay lại đi!

3.11.1.72

Điều gì không lành đang chờ đợi mình đây. Tự nhiên mình linh cảm rất rõ. Cái gì?… Đến ngay bây giờ xem, mình tự hiểu điều đó rất dễ xảy ra! Rồi hậu quả sẽ ra sao? Ai là người đóng vai trò quyết định trong tấn bi kịch ấy? Không sao cả, ta đang chờ đón nó. Hãy đến đi xem, không buồn đâu, không nản lòng đâu! Chỉ càng thêm vững vàngvà bình tĩnh trong tâm hồn sắp lạnh cứng lên đây. Ta không cần gì cả, hãy bay đi tất thảy những gì hôm qua sưởi ấm lòng ta – Hình như những điều đó giờ đây không đủ sức kéo ta trở về những ngày đau đớn vừa qua nữa. Trong 2 nhân vật đó, ai sẽ là người quyết định mở màn? Màn đã mở chưa? Ta chờ đợi từ rất lâu rồi…

4.12.1.72

Đôi lúc nhìn thấy chữ Như Anh, lại giật mình. Mình quen rằng cuộc đời mình có Như Anh từ bao giờ nhỉ? Không rõ nữa. Nhưng cứ ngẫm lại: nhìn lại chữ mình quen viết đó mình không khỏi bàng hoàng. Lạ thật, sao Như Anh lại cứ xuất hiện trong nhật ký của mình? Sao Như Anh lại cứ đứng ở nẻo khuất của lòng mình?

Thật đáng sợ khi so sánh mình với Như Anh! Sao Như Anh không nhận thấy điều ấy nhỉ? Ngày nào trong tương lai Như Anh sẽ nhận ra? Khi đó, chắc cũng chẳng có dịp mà trở lại nữa.

Dù có tưởng tượng giỏi đến đâu? mình cũng không thể hình dung lại được tương lai của mình thế nào! Mù tịt! Chán quá, nghĩ bao nhiêu điều mà viết ra toàn những điều tầm thường – Chẳng viết nữa!

Đọc trên báo tường C23:

“Ta đi hôm nay cũng không là sớm

Đất nước hành quân mấy chục năm rồi

Ta đến hôm nay cũng không là muộn

Tổ quốc còn đánh giặc mãi không thôi!”

Thực ra, đó là câu thơ Phạm Tiến Duật trong bài “Chào những đoàn quân…”. Câu thơ thật đúng với mình giờ này. Ta không còn là người mở đường nữa – Chỉ là người tiếp bước thôi. Cha anh cầm súng chống ngoại xâm suốt hàng thế kỷ nay. Sức đã kiệt! Phải dốc ra cái vốn quí ngũ trí thức! Ai dám bảo ta còn sung sức lắm! Không, dân tộc ta đã hy sinh nhiều rồi, và còn hy sinh nữa! Nhưng độc lập tự do thì không thể nào để mất.

Lúc này ta được đi và phải đi bộ đội Tổ quốc đưa vào tay ta khẩu súng. Đừng trốn tránh!

Đồng chí Lê Duẩn nói: Thanh niên hãy lấy sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, đừng để cho tình cảm cách mạng nguội lạnh vì những tính toán được mất cho cá nhân!

Như Anh ơi! Phải chăng đó là câu trả lời mà 4 năm sau T. phải nói với Như Anh? Cũng chưa biết chừng – Bởi vì 4 năm trong quân đội, con người lớn lên ghê lắm!

Vẫn trên báo tường C23:

“Vì uống nước nhiều sông

Nên khác nhau giọng cười

Vì yêu qúi màu xanh

Nên họp thành tiểu đội”

Cái tứ ấy hơi giống Bế Kiến Quốc, nhưng tạm được.

Tập 5

 

5.13.1.72

Nhớ rằng Thông tin là con nhà “Sáng đi bốn phương, chiều về tổ ấm” – Hãy caothượng hơn nữa, đừng để hối hận khi mỗi đứa một phương!

Thật đáng tiếc, hôm nay cũng chưa phải là trọn vẹn lắm. Cuối cùng tỏ rõ một điều: Mình chưa tự chủ được! Từ mai cần bám vào tập thể cho “dạn” hơn. đừng lẻ loi một mình mà phải đấu tranh gay gắt với bản thân!

Ngoảnh đi ngoảnh lại, phút mình vô tư nhất lại là lúc ở trên sân bóng. Lúc đó, ngoan lắm, đáng yêu lắm. Mãi không có thư! Mai sẽ thế nào, mong lắm rồi.

6. 14.1.72

Hải Thượng Lãn ông nói: “Ghét muốn xúc đất đổ đi!” thật đúng với tâm trạng của mình. Càng ngày mình càng trở nên gay gắt với anh chàng cùng tổ. Bạ dính vào việc gì có hai đứa là mình khó chịu, khó chịu thành ra xét nét và càng xét nét càng khó chịu. Cứ thế này không khéo chẳng bao giờ ưa anh ta mất.

Kể ra thế thì cũng tệ thật. Nhưng không làm sao khác được cả. Dẫu mình có cao thượng, có nhường nhịn đến thế nào đi nữa. Nhưng cái gai mắt vẫn là cái gai mắt. Mà sao lại cho nó vào nhật ký của mình nhỉ? Giá mà nó không chạm vào một phần cuộc sống của mình thì đừng hòng chen vào đây! Chẳng thèm nhìn mặt nó nữa! Chẳng thèm gọi tên nó vào đây nữa!

Chốt trên cao điểm 84,2. Đúng ở ngọn đồi “chuồn chuồn đỏ” hôm nào ngồi với anh Châu. Bây giờ thì kém xúc động nhiều rồi – chỉ còn công việc. Tại sao con người khi lớn lên hình như thích khoe khoang và lên mặt thế. Dẫu đến với ai mình cũng có cảm giác người đó đúng đắn hết thảy. Nói điều gì họ cũng dường như khẳng định và không một thoáng nghi ngờ. Sau khi nghe họ nói và nhìn hành động của họ, thật khác nhau một trời một vực! Mỗi người đều có một quan niệm sống nào đó, đúc kết thành lý luận. Và chắc lý luận đó được “trình bày” nhiều lần trong các cuộc trà lá nên họ nói trôi chảy, trơn tru lắm. Đấy là mình nhận ra khi xem anh Th., Q. và nhiều người khác nữa…

Lại suy nghĩ về những bức thư. Tự dưng, mình sợ đọc thư của người khác. Nó chán và gây cả cái gì mòn, sáo, rỗng tuếch cho vô vàn cái đẹp của thiên nhiên. Trăng, gió, mây mưa, sương sớm… Hỡi ôi, nó không còn mới mẻ nữa hay sao?

Và lúc này có 1 lá thư nào gửi cho mình mà chưa đến tay mình hay không? Có thư cũng không vui gì lắm. Nhưng không có thư lại càng buồn hơn. Mấy tuần nay ít gửi thư, và có lẽ vì vậy mà không xảy ra phản ứng hai chiều. Mình cảm thấy cuộc sống này thế nào ấy. Người ta sống chưa thật lòng với nhau. Còn kèn cựa, còn ganh ty và chưa thương yêu nhau như mình mong muốn. Dĩ nhiên, mình cũng !à những người như thế thôi, chưa thể làm khác được.

Mà thôi, cuộc sống có lẽ chẳng thể tốt hơn được khi những vấn đề cấp thiết nhất chưa được giải quyết. Phải tạm bằng lòng chút nào vậy. Và nếu chưa đủ sức đấu tranh, hãy tạm kìm mình cho êm ả. Mình hãy sống tốt đi đã rồi hãy bàn đến tương lai.

Đúng như Như Anh nói, mọi cái chỉ là tương đối thôi. Cả nỗi nhớ cũng vậy. Mình vẫn không quên nhưng ngày tháng 8, 9, 10, 11, 12:.. mấy tháng nhớ bạn, nhớ những kỷ niệm trong lành. Cảm giác ấy không sao tả được, nhưng nhớ rất rõ.

Còn bây giờ, những gì sôi nổi lắng dần xuống. Cứ thế có lẽ lại tốt hơn cơ đấy. Mình không quên Như Anh. Nhưng nhớ ít thôi, ít hơn trước. Hình ảnh thân yêu ấy chỉ chợt thoáng qua rồi lại biến đi, không nhiều trong 1 ngày. Mình cũng không có ý định bắt mình phải nhớ đến. Kể ra nhớ đến thì cũng tốt, nhưng nó cứ bắt mình phải nhớ đến cái gì đó mơ hồ, nhưng cụ thể biết chừng nào! Mà lúc này đâu được làm như thế!

Rất khó kìm giữ được mình. Lại miên man hoài! Không mình nhất định không quên Như Anh! Song, lúc này bớt nhớ đi mà làm việc là đúng đắn nhất. Mình tin rằng những gì tốt đẹp mình đã và sẽ dành cho Như Anh là tất cả cái trong sáng và lành mạnh nhất trong cuộc sống của mình.

Đêm nay lại đi gác đây. Buồn ngủ nhiều và ít thấy xúc động Vì lạnh, ngoài trời đang nổi gió. Cảm giác đèm đẹp cứ chai sạn dần đi. Mà hình như mình chưa làm bài thơ nào về một đêm gác cả. Tuy Nguy Nguy có nói: “Nghề viết văn là một lao động cực nhọc. Phải làm ngày và làm cả đêm”. Có lẽ mình không muốn làm nhà văn mà mình lười biếng như thế chăng? Buồn ngủ díp cả mắt lại, chỉ muốn rúc vào chăn thôi.

3.18.1.1972

Về nhà hôm chủ nhật, nhận được 5 thư liền của Như Anh. Chiều nay Năm và Thơi đã lên. Nó nằm kia và ngáy khò khò. Vô tư quá! Con người vô tư quá.

Ngày hôm nay vui vui, mà không hiểu từ đâu niềm vui kéo đến. Mình hát khe khẽ. Khe khẽ.

Chủ nhật về nhà, đêm ấy thức suốt sáng, mệt nhoài người, đi bộ 40km từ cầu đường đến đơn vị vậy mà vẫn bị chậm. Thật chán.

Như Anh sẽ thôi, không gửi thư cho mình nữa. Ừ! Như Anh phải học chứ. Phải học giỏi nữa.

Có lẽ nhắc Như Anh ra khỏi nhật ký thôi, bởi vì nỗi nhớ Như Anh là chuyện hàng ngày, không cần phải nhắc nhở nhiều mà nhàm

7.22.1.72

Mệt lắm, song phải cố viết. Như Anh đang làm gì nhỉ. Mấy ngày bận và cũng chẳng lúc nào ngồi một mình. Sắp đi học rồi. Hôm nay, bạn mới, thầy mới, lớp mới và chuyển sang bài học mới.

Tạm biệt thôn Cầu Tự mấy tháng nhé. Hôm nay đến chỗ mới, thôn Phùng Xá – Gần cơ quan trung đoàn, sắp vào học tín.

Thư Như Anh gửi cho không nhận được rồi: Họ chuyển đến Việt Yên, cách đây 30km. Xa thế làm sao có đủ thời gian mà đi nhận cho được. Kệ họ thôi, rồi họ khắc phải lấy thư về nhà. Không hiểu đến bao giờ mới nhận được mới được đọc những lá thư ấy nữa.

Gia đình mình mới tới có nhiều chuyện thú vị ghê. Làm mình nhớ tới Pauxtôpski trong “Bình minh mưa ” và nhớ tới Lê Điệp với Buổi tối ngày mưa …

2.24.1.72

Cảm thấy nhớ B thông tin của mình. Mà nào có xa xôi gì cho cam, chỉ cách có hơn năm. Thế mà về xoành xoạch, chẳng thể chịu được.

Cầm tờ báo, thấy bài nói về thông tin vô tuyến, mình nghĩ luôn, tối nay, tới nó ở nhà lại đọc bài này đây. Chẳng được ngồi với chúng nó mà nghe đọc nhỉ. Đêm nay, ai lên đọc báo đây, Hùng hay Toàn nhỉ?

Học tín khổ nhiều, căng thẳng và họ giữ giờ giấc mới ngặt nghèo làm sao. Thu, phát cứ răm rắp. Mệt cũng phải nghe và cứ là rối tung lên thôi. Kể ra cũng không nặng nề lắm, nhưng cần nhạy cảm, cần nhạy cảm lắm – giống như học ngoại ngữ. Như Anh bây giờ đang học Nga văn đấy. Chắc cũng vất vả và khổ như thế. Hôm nay học khá tốt, chỉ bị một lỗi thôi, do bị cuống.

Cái loa ở đầu nhà cứ oang oang, nhưng nói toàn chuyện đâu đâu ấy. Mình không được nghe tin thắng lợi Xảm Thông – Long Chẳng và cánh đồng Chum như lúc còn ở “nhà” nữa. Nằm đây mà cảm thấy ngường ngượng thế nào ấy! Thế mà cũng đòi đi bộ đội, ra tiền tuyến mà thế à? Các bạn ở nhà sắp đi dã ngoại rồi ? (Chao, có tiếng ve, có tiếng ve, lạ quá đi mất, con ve, con ve sầu – ôi, con nữa, con nữa, nó kêu nhiều quá, ở bụi trúc trước ngõ ấy, cả ở mái nhà nữa!? Sao thế nhỉ? Sao thế?…)

Mình năm nay đón tết ở đâu, tụi đi dã ngoại mồng 7 Tết mới về. Ở đây chỉ có 20 người, vắng vẻ, ăn tết với gia đình chăng?

Cô gái nhỏ, Hoa, còn nhỏ lắm, lớp 6 thôi, nhưng đã thuộc vào loại “bom”… Ngộ ghê lắm. Nhìn tụi nhóc tụ họp để học (không, chủ yếu là vui thôi…) mình không còn cảm thấy buồn, tiếc nữa. Đúng đấy, bây giờ chính là lúc mình đóng góp mà, tuổi thanh niên là tuổi cống hiến. Thạc đừng vội nghĩ đến những đòi hỏi hưởng thụ. Hãy cao hơn những tính toán cá nhân.

C18 đang hành quân ngoài đường. Họ hát vui. Mình không đi được vì “bị thương” do trận đá bóng sáng chủ nhật Tay trái bị sây sát nặng, sưng tấy cả lên. Viết thế này phải nằm trên giường và kê tay lên chăn. Sao cuộc sống lúc này mình yêu thế. Yêu từ ngọn đèn mờ đỏ này. Đêm qua đi dưới lùm tre thân thuộc, có ánh trăng rất trong và ngọn gió mênh mang, lắng nghe lời kể chuyện, mình thấy tự hào ghê. Các thầy cô giáo, các bạn học của mình chắc không hề ngờ rằng mình lại ở đây, một mình đi dưới ánh trăng êm đềm này.

Mình chẳng cảm thấy cô đơn, và có lẽ đây chính là những lúc cảm thấy đẹp đẽ nhất trở về: Nhìn những ngôi sao long lanh trên bầu trời, bao nhiêu ý nghĩ hồng hào của tương lai làm mình sung sướng. Mình sẽ đi bộ đội cho đến khi nào hết giặc. Sẽ theo Bô rít Pôlêvôi, thu thập thật nhiều vốn sống, và sẽ viết văn, sẽ làm thơ ca ngợi những con người đã hy sinh những gì quí giá nhất của riêng mình cho giai cấp, cho dân tộc. Trước hết là làm tròn nhiệm vụ của người lính thông tin, sẽ thành người báo vụ chân chính, xứng đáng với lòng tin của mọi người. Sáu năm sau, sẽ gặp Như Anh thân yêu của mình. Ôi, lúc đó, có biết bao nhiêu thay đổi, 6 năm cơ mà… Nhưng mình tin cuộc sống sẽ thay đổi theo chiều đi lên.

Tội nghiệp Như Anh, cứ chờ hoài. Lỡ mình có sao thì lại lỡ làng hết cả. Rồi lại buồn mãi. Có lẽ ít người như Như Anh lắm, nhiều lúc cũng khó ngờ Như Anh lại nhiệt tình với mình như thế. Dũng cảm, Như Anh nhé, dũng cảm lên, mạnh dạn và vững lòng tin.

Bà cụ lại nhớ con. Anh ấy (anh ấy mà chỉ mới 18 tuổi! Đi bộ đội sau mình 3 tháng), có ao ước về nhà thăm mẹ và em không? Ngôi nhà nhỏ, tùm lum hay đi về trong giấc ngủ và nỗi nhớ của anh. Nhưng mình lại đến đây, bên bà mẹ, bên em gái của anh… Mình cũng biết đó là ước mơ của anh ấy…

Giờ này có bao nhiêu bà mẹ đang da diết nhớ con xa?

5.27.1.72

Đêm qua ngủ say thế nhỉ. Stăngđan hồi nào lắng nghe đất thở chắc cũng như mình thôi. Rừng bạch đàn đẹp lạ dưới ánh trăng còn chơi vơi. Bọn mình nằm chật quá, hơi lành lạnh may mà không có gió, và gió nhẹ lắm, chỉ khẽ đưa võng bóng cây. Tăng không đủ che mái, nhìn lên cao bỗng nhớ câu thơ của bạn:

“Có phần đón mặt trăng lên

Có phần ánh sáng cho em chải đầu… ”

Thoan về muộn, không có chỗ ngủ, thế là khóc. Có quái gì mà phải khóc nhỉ, ghét nó thật đấy. Cả tiểu đội của anh phản đối. Có thế mà cũng khóc, dở thật…

Dã ngoại là như thế đấy. Đừng có nằm quay đầu lênnúi mà dại. Mình nằm song song với hướng núi dưới chân 5 ông tướng. Lá bạch đàn dưới chiếu bốc mùi hăng hăng… Đến tận cây bạch đàn bé nhỏ của em… Còn Như Anh, cũng là 1 cây bạch đàn bé nhỏ… Đến suốt cuộc đời. Thạc đồng ý thế không?”… ờ, chưa hiểu lắm, chưa hiểu lắm…

Cầm que diêm xoè lên một ngọn lửa nhỏ, Tâm đốt điếu thuốc Trường Sơn… Rồi có ngày nào mình cũng sẽ được đứng trên đỉnh Trường Sơn mà nhìn cho rõ mặt trăng nhỉ. Lúc ấy, có là một rừng bạch đàn mảnh dẻ, có những cơn gió nhớ thương. Và nhất là có còn thi vị như đêm nay. . . ánh sáng đỏ mờ mờ bên thân cây bạch đàn cao, thẳng. Gió lạnh về làm vỏ cây nứt nẻ. Bạch đàn ơi, thương em lắm, sao em đứng đây, sao em đứng mãi đây?

Dạo còn bé, đi cắm trại, cũng căng lều, cũng nằm mà không ngủ… Nhưng, giờ đã lớn rồi, ta là anh bộ đội, ta căng bạt ta nằm, nghe lời của đất nước. Nghe lời của Như Anh…

2.31.1.72

…”Nhà trường đã ở phía sau sau và bây giờ trước mặt tôi là một thế giới. Giờ đây tôi phải bước ra để tỏ rõ anh ửng sức mạnh và tất cả những gì sâu kín nhất của tôi… ” – Rôbec Suman.

Sức mạnh anh ta là đâu? Những gì gọi là sâu kín nhất?Thực ra, sức mạnh và mơ ước thầm kín không dễ gì phát hiện được ra. Ngay cả bản thân mình cũng khó mà nói được cái gì là sức mạnh, và mơ ước trong ta là chân chính. Có phải con người lúc nào cũng biết được mình đi tìm điều gì trong cuộc sống? Và có phải lúc nào con người cũng hướng theo một mục đích nhất định?

Nóng quá, ngủ rừng. Nằm trong lều rù lông bức bối vô cùng Đây lại là ước mơ thuở nhỏ của mình… Các bạn đi dã ngoại trên núi Chí Linh, chỉ vài người ở nhà. Rừng bạch đàn lào xào gió khua lá. Nghĩ được bao nhiêu điều mà không viết ra được chút gì.

Mình thật sướng ghê! Lớn thế này mà thoải mái nằm ở đây chẳng phải làm lụng gì cả. Tha hồ lang thang, chẳng sợ ai bảo lông bông nữa. Mình đi rồi được nhìn bao nhiêu thứ, được gặp bao nhiêu người, nghe bao nhiêu câu chuyện. Song, mình hiểu rằng, sự thực đó đặt cho mình bao nhiêu nhiệm vụ nặng nề. Như Anh bảo rằng: Hãy đem cuộc đời mình cống hiến cho văn học, bởi vì đó còn là của cả Như Anh, đó còn là ước mơ mà Như Anh không làm được: Mình đã làm được những gì? Tất cả đều là con số không!

Chẳng khi nào hết day dứt. Thật đáng tiếc vì mình vô tài vô dụng. Thực tế cuộc sống đẹp vô cùng, mà mình thì còn mê mải với những vụn hương thừa.

3.1.2.72

Trời vẫn mưa nho nhỏ, 4 ngày nữa mới lập xuân cơ. Nhưng mưa này đúng là mưa xuân rồi còn gì, dù hơi lành lạnh, nhưng lại là cái rét nẩy mầm, rét đài, rét lộc. Thỉnh thoảng, một cơn gió đi qua, lại lắc cây bạch đàn làm hạt mưa lóc róc trên mái nhựa.

Năm ngoái, những ngày này, mình còn ở trường… Đang nhộn nhạo, xôn xao vui vẻ cả, còn tết này, là nỗi nhớ. Nhớ nhà, nhớ Như Anh, nhớ bạn, nhớ trường. . . Cơn gió có hạt nước nhỏ li ti đánh thức mùa xuân dậy, và đánh thức cả những kỷ niệm của mình.

6.4.2.71

Gió mùa Đông Bắc.

Cả rừng bạch đàn vặn mình. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đã cũ. Gió reo vù vù. Đêm nay rồi gay đây rồi sẽ ngủ vào đâu? “Sểnh nhà ra thất nghiệp” mà!

Khắp rừng đầy lá rụng. Lá còn tươi cuốn lập bập trên sỏi vụn. Mưa đấy, nhìn ra xa thấy đỉnh núi tím đen lại. Bàn tay nào vô hình kéo lá bay vụt như mũi tên, qua những gốc bạch đàn nứt toác và những mái lều như cánh buồm phồng căng.

Vào lúc nổi gió này, người ta nghĩ đến điều gì nhỉ. Nhà ai ọp ẹp chắc lo góc mái nào đấy… Mà không hiểu có ai tìm cái thơ mộng, cái đẹp đẽ trong cơn gió ào ạt ngoài kia?

“Một cơn dông”… Như Anh ơi, nhớ Như Anh đấy. Chỗ này là cửa ngõ của đợt gió mùa, và cũng là cửa ngõ của nỗi nhớ dai dẳng, da diết và triền miên…

Ối trời lều hất ra rồi, ụp này!

2.7.2.72

Chưa hết rét, đợt gió lạnh về mấy hôm rồi, hôm nay vẫn chưa dứt cơn. Ngồi trên manh chiếu rồi mà vẫn cóng. Nói chung, lúc nào cũng có điều hối hận, chẳng lúc nào có thể hài lòng được với mình. Đá xong 1 trận bóng là thề sống thề chết rằng đấy là trận bóng cuối cùng, nhưng rồi đâu lại hoàn đấy. Không sao cưỡng nổi. Mình không hề nói rằng đá bóng là có hại. Song, bỏ một khoảng thời gian không nhỏ mà lật đi lật lại quả bóng thì quả là phí. Phí ơi là phí. Đấy là nguyên nhân chính khiến cho mình muốn xa rời sân cỏ đi. Ngoài ra, mình còn sợ những va vấp đáng tiếc về sức khoẻ và va chạm về ăn thua với những người khác Thật ra, lúc đá bóng là lúc mình vô tư nhất, mình không còn nghĩ ngợi gì nhiều nhặn cả, chỉ rất nhanh trong óc chọn lấy một lối đẹp nhất mà dắt quả bóng đi và chuyền nhanh cho bạn. Không nhìn người và không bao giờ muốn “biểu diễn”, muốn khoe tài trước mặt người khác cả. Vả lại, mình thì chẳng có tài gì để khoe hết.

Bóng đá, cũng như âm nhạc, như thơ, văn và vô vàn cái thú vị khác đều là một thứ nghệ thuật gây sự hưng phấn, say sưa, sôi nổi cho người tham gia. Những đường bóng căng bay chéo trên sân cỏ, một quả phạt lơ lửng trước khung thành… đấy là tất cả thế giới khi mình đang đứng trên sân cỏ/ say mê nhìn và lúc ấy… là tuổi thơ!

Như Anh yêu âm nhạc, chắc cũng như thế. Cái ắccooc hay pianô đều có thể đưa lòng ta tới những miền xa xôi chưa bao giờ đặt chân tới cả. Nốt nhạc nhí nhảnh hồn nhiên gợi cho ta một điều gì trong sáng, yêu yêu…

Hình như đôi gót nhỏ, bím tóc xinh xinh. Hình như một buổi sáng xuân e ấp, màn mưa buông che cho mầm, cho lộc xanh màu xanh thương nhớ…

Đôi mắt em, đôi môi em và cả tâm hồn em lớn lên trong tiếng nhạc ru lòng. Sáng em mở cửa phòng, thấy cành cây ướt đầm sương khuya, em lại nhớ một bản nhạc và em hát. Khúc ca buổi sáng…

Em ơi! Tất cả những niềm vui bé nhỏ đó, phải biết hy sinh. Nếu em muốn đi xa hơn nữa. Đất nước gọi em, và chìa tay đón em vào lòng, với ước mong em là đứa con ngoan, đứa con khỏe mạnh và có ích. Em hãy biết bỏ qua những điều không nhỏ mà nắm lấy cái gì lớn nhất mà cánh tay em có để dâng trọn cho Tổ quốc…

Nhưng ngay từ chiều thứ 7, mình nhớ kỹ thì từ chiều thứ 4, chiều thứ 5. 6 mình phải bỏ học tín và đi tập bóng trên sân trường Trung cấp cơ khí. Còn cả ngày thứ 7 chuẩn bị cơm nước, quần áo… để 2 giờ chiều lên xe ô tô. Cái xe vận tải xóc lộn cả ruột. Ngồi mệt lử và rét cóng tay. Lên mãi tận Kim Tràng – Tân Yên, cách Nhã Nam 12km. Ở đó có trường học sinh miền Nam và trường dân tộc gồm toàn trẻ em Lào du học ở Việt Nam!

Cứ thế cứ thế, ăn, ngủ, nói chuyện và đi đá bóng. Mất trọn 3 ngày trời! Sáng nay thứ 2 mới về đến nhà, mệt lử cò bợ, phải bỏ buổi học chiều nay, nằm nhà mà hối hận. Thật chán ngán biết mấy. Mình thì lúc nào cũng thế.

Không hiểu ai (hình như Xtêphan – Phêđôrốp) đã nói: “Nghệ thuật là sự đối lập giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa đen và trắng”. Mà thật vậy, cuộc sống cũng chính là một nghệ thuật. Anh sống say sưa, sống nhiệt tình, song, phải biết tỉnh táo. Phải biết gạt bỏ trong trí óc của mình những công thức tiêu cực mà thế vào đó những gì tích cực và lành mạnh. Không ai có thể đảm bảo rằng mình sống như thế là hoàn toàn có thể yên tâm về ngày mai. Cái tốt và cái xấu được mình ủng hộ vì “hấp dẫn” với mình hơn (!) Chậc! (Tặc lưỡi) – Thế là hỏng rồi…

Mình cũng không hiểu các nhà bác học, các nhà văn, nhà thơ vào cỡ thế giới họ sống thế nào. Hãy nói gần gũi hơn Bằng Việt , Lưu Quang Vũ… họ sẽ sống như thế nào? Người ta bảo rằng: “Nghệ thuật là sự cảm hứng của tâm hồn”. Nếu như chúng ta đồng ý rằng: “Nghệ thuật sinh ra để làm cho con người trở nên hoàn thiện hơn” thì chúng ta cần phải thừa nhận rằng những ai tham gia vào đó tức là những người ưu tú nhất trong những người ưu tú – Câu này của Gơrêbe.

Mình rất đồng ý như vậy! Nếu như cuộc sống của mình không trong sáng, không cố gắng vươn lên, mình không thể có được cái nhìn đẹp đẽ nhất vào cuộc sống bề bộn và sầm uất bên ngoài. “Nghệ thuật không thể xây dựng bằng những bàn tay bẩn thỉu được!”. Bởi thế sự tu dưỡng nghệ thuật luôn phải gắn liền với sự tu dưỡng của bản thân mình.

Muốn chép một đoạn nữa vào đây. Trích từ trong Mùa xuân của một thiên tài, đây là những suy nghĩ của Ăng ghen qua lời văn của người đời sau

… Một nền nghệ thuật lớn lao và chân chính thì không thể thừa nhận một cuộc sống hai mặt. Tài năng bao giờ cũng hết sức mỏng manh. Và kẻ nào toan lừa dối nó kẻ đó sẽ mãi mãi mất nó. Cái đẹp sở dĩ tuyệt diệu chính vì nó không dung thứ cho sự giả dối cũng như tính gian tham. Cái đẹp không thể dung hoà với bất kỳ sự bẩn thỉu nào”…

Không thể nào tin được Hoàng Nhuận Cầm lại có thể viết tốt hơn thế được. Nếu như Cầm nó không thay đổi cuộc sống của nó – Thời gian lơ lửng trên hè phố của nó quá nhiều, nó “trầm tư trên mái phố” quá nhiều đã tàn phá của nó khá nhiều thiên tư văn học. Cầu mong đất nước đừng để rơi một khả năng đáng quí – Nó sẽ chẳng bao giờ còn bê tha ở chợ Nhã Nam, mà cống hiến trọn vẹn những tháng ngày còn lại cho thơ.

Có một lần X.D nói: “Nghề làm văn, thơ là nghề làm quan tắt”. Người ta có thể nổi tiếng một cách không cứu vãn nổi chỉ vì vài bài thơ tốt – theo nghĩa đơn giản nhất. Hãy đến với văn học chật vật như Phạm Tiến Duật, dò dẫm hàng năm trời không mỏi mệt, chỉ để đạt được mục đích đem đến cho thơ một tiếng nói mới, độc đáo và riêng biệt…; chỉ để tìm được ở mỗi người đọc, mọi người đọc một con đường đi vào đáy sâu tâm hồn họ. Đánh thức trong tận cùng cảm nghĩ của họ ý thức dân tộc, lòng ham sống – chiến đấu, cái đẹp và niềm tự hào chính đáng. Phần thưởng cao quí đến với Phạm Tiến Duật không phải mọi người yêu thơ biết đến tên anh, không phải anh có thể tự hào rằng mình có những bài thơ hay mà chính là thơ anh đã có tác dụng lớn lao trong cuộc chiến đấu mãnh liệt ở tiền phương và cuộc chiến đấu âm thầm, bền bỉ ở hậu phương. Hạnh phúc mà sau một vài bài thơ, một vài cuốn sách cho “nổi tiếng” thì họ lụn bại dần. Người ta nhắc đến họ bằng những cái gì họ viết từ trong dĩ vãng. Họ, không thiếu trong cuộc sống hiện nay!

Cuộc sống không đơn giản như những người “ăn không ngồi rồi”, suốt đời rỗi rãi quan niệm. Nỗi buồn ư? Chẳng lẽ nỗi buồn không thể có được giữa tập thể dù tốt đẹp?

“Nếu như một người không hề biết đến đau khổ thì đó là thiên đàng – con đường đẫn đến địa ngục” (Shakespeare).

Không gì làm con người tiến lên bằng sự đau khổ, không gì làm con người cứng rắn bằng nỗi buồn – mặc dù khi nỗi buồn đang xâm chiếm tâm hồn, có thể làm họ yếu lòng, chỉ có điều anh tiếp nhận nỗi buồn ấy ra sao và xử trí với nó như thế nào! Anh biết rút từ trong sự đau xót ấy cái gì đáng nhận làm của mình. Và sau rốt, anh biết từ thực tế ấy phải đi lên thế nào để ngày càng cao hơn, để ngày càng hoàn thiện.

Có phải bất kỳ điều gì người ta cũng có thể nói ra bằng tất cả tấm lòng chân thành của mình để thể hiện lòng trung thực quí nhất của con người? Vấn đề là nói những điều suy nghĩ vừa phôi thai?

Đi dọc những nẻo đường đất nước, gặp lùm tre lắc lư bên dòng sông quen hay xa lạ, gặp những con người, đọc trong những quầng mắt lo âu, ánh mắt buồn, vui, âu yếm những chuyện đời… Ta ghi tất cả, ta nghe tất cả, thu lượm tất cả làm thành những gì gọi là kỷ niệm, gọi là vốn sống. Sự phong phú, sầm uất, ngổn ngang những cảnh đời những kinh nghiệm sống là điều không chỉ quan trọng đối với một người, đối với cuộc sống của một con người, mà quan trọng nhiều hơn là đối với một người viết văn.

Mình sẽ làm thơ và viết văn. Đấy là ước mơ thầm kín từ rất lâu rồi, từ bài văn đầu tiên “Con gà trống qua sông” cho đến tận bây giờ. Ước mơ thầm kín, song ta không hề được ủng hộ. Và rất dễ nhận thấy sự nhậy cảm văn học, sự cảm thụ cái đẹp trong cuộc đời phôi pha đi nhiều. Mình không dám nói điều mơ ước ấy với ai, kể cả những người thân thích. Lỡ đâu không viết được thì xấu hổ chừng nào. Song giờ đây, giờ đây, mình hiểu rằng cây bút đã nằm gọn trong tay mình. Phải viết, phải viết – Viết say sưa và bằng tất cả trái tim mình. Hãy cống hiến chút ít gì năng lực và tất cả nghị lực cho thơ, cho văn. Hãy dũng cảm nhận lấy trách nhiệm mà lương tâm mình trao cho. Viết bằng sự say mê của bản thân và viết bằng cả sự thôi thúc của những sự kiện nóng hổi mà đất nước và dân tộc tặng cho ta.

Sung sướng hơn Như Anh và gian khổ hơn Như Anh. Mình hãy xứng đáng với Như Anh, xứng đáng với niềm tin và sự chờ đợi của Như Anh. Đừng bỏ phí thời gian, hãy tập trung sức lực làm việc cho say sưa và có ích nhất.

Mình sẽ noi gương Pêlêvôi, noi gương tác giả đã hy sinh của Người mẹ cầm súng. Trước hết hãy cầm súng, bằng cả hai tay. Rồi trong phút nghỉ ngơi hãy cầm bút và viết và ghi chép lấy những sự tích anh hùng về người phi công Marétxép dũng cảm, và về người mẹ anh hùng của 6 đứa con thơ… Hiện thực rực rỡ và huy hoàng quá. Hãy táo bạo, mạnh dạn ghi chép và viết. Hãy cống hiến cho đời bằng dòng máu và dòng thơ…

Tập 6

 

3.8.2.72

Càng gần đến tết, người ta càng thêm nhớ nhà. Những người mẹ có con đi xa lại càng thêm nhớ, thêm thương. Nhất là những ngày gần tết năm nay. Trời lạnh, mà anh bộ đội phải lên đồi nằm, đất toả ra không phải hơi ấm mà lại là những hơi lạnh cóng, tê dại cả người và ngay đơ cả chân tay. Đêm qua gió lạnh kinh người, cả lán phập phồng giật lên giật xuống vì gió – không biết bao giờ mới ngớt đi cơn gió lạnh này.

Ôi, những ngày gió nổi. Bao nhiêu người mẹ ngồi nhà nhớ đứa con đi xa đang nằm sương gối đất. Chiến tranh! Không còn là một khái niệm trừu tượng, xa vời. Không còn là sự gắn liền với những danh từ cao quí nhưng thiết thực. Ở đây là sự nhớ thương – Lo cho đứa con mình bị lạnh, thương con tết liệu có bánh chưng xanh, có được ngồi ấm cúng trong nhà khi trời đất chuyển mình sang năm mới… Tiếng khóc nấc lên của bà mẹ, thật quí, nhưng cũng đáng sợ biết bao.

Không ai có thể tránh được dòng nước mắt yêu thương ấy. Bên cạnh lòng yêu nước, yêu Tổ quốc, người mẹ Việt Nam còn có tình mẫu tử. Người mẹ nào chẳng thương đứa con đẻ của mình – Núm ruột dứt ra – Mẹ khóc-Khi đứa con không có ở nhà. Anh đi xa, anh chỉ cảm thấy xa xôi.

5.17.2.72

Sắp rời khỏi Hà Bắc. Lần này thì vĩnh biệt thật. Và không biết có còn dịp nào trở lại đây hay không?

Vừa hết tết mà mùa hè dường như đã đến. Không tài nào viết được ra những cảm xúc của mình! Khổ quá đi mất.

6.18.2.72

Đại đội 18 lại có thêm mấy người nữa trốn về. Tội nghiệp tụi lính trẻ. Họ không thắng nổi nỗi nhớ và những cám dỗ tinh thần, vật chất ở nhà. Các cán bộ hò hét suốt mà nào có ăn thua gì. Ai về cứ về và ai đi vẫn cứ đi…

8.20.2.1972

Vừa hành quân đến đây. Mình không muốn ghi nhật ký hành quân nữa. Đại khái nó cũng như mọi lần hành quân khác. Cái mới chỉ là con đường đẹp hơn, giống Hà Nội hơn và những ngôi nhà khác kiểu. Nói chung sự khác biệt ấy rõ nhất ở cái tên: Hải Hưng và Hà Bắc.

Nhưng cũng không thể nói rằng hoàn toàn không có gì mới. Điều mới mẻ là dĩ nhiên thôi. ít nhất, nếu cái mới đó không phải do sự phát triển lô-gich của nhận thức mình thì cũng là do sự thay đổi địa hình, địa vật, con người Phả Lại, mình đi phà sang bờ kia, với Tâm, hai đứa lủng lẳng trên cành tre một thùng thịt lợn. Ai nhìn thấy cũng phải buồn cười. Họ cười thật, cười lăn, cười bò… Mình cũng ngượng nghịu cười. Tâm thì khoái lắm, nó đội lệch cả mũ và lắc lư cái thùng. Mình nghĩ, nếu như đây là Hà Nội, gần hơn là Cổ Nhuế, liệu mình có dám khiêng như vậy hay không? Và buồn rầu nhận rằng mình chẳng dám mạnh dạn như thế đâu… ở nhà, phải đẩy xe bò mình đã ngại ngần thế nào rồi, nhất là những hôm gánh cỏ cho mợ hoặc em Hương… Không phải sợ nặng mà lười, chỉ vì có quan niệm nào đấy tách mình ra khỏi lớp người lao động chân tay. Rồi cuộc sống bộ đội sẽ làm lại cho mình tất cả những gì mình còn e ngại. Cho đến lúc nào mình cảm thấy tự hào rằng: chính mình đã làm được những điều ấy và cảm thấy thèm khát muốn làm. Lúc ấy mới có thể hài lòng được, lúc ấy mới có thể nhận mình là người con chân chính của giai cấp, của Đảng. Còn bây giờ là “tập” là “nhập cuộc” mà thôi.

Ở bến phà, những người đi chơi tết còn đông lắm. Họ đứng nghẹt ở hai bên bờ, chờ bộ đội đi qua. Sông Lục Nam xanh ngăn ngắt màu lá ngô non. Còn cái ca nô kéo phà thì chăng cờ lộn xộn, đủ các loại. Cuộc sống mà cần đến sự loè loẹt ấy chăng? Mình nghĩ đến những kỳ nghỉ hè của học sinh Hà Nội. Có em bé nào từ khoang ca nô nhìn trời, nhìn sông (hết mực rồi, và chưa mua được – cũng lại là một qui luật hay sao, người ta ngại đem mực đi vì sợ “lỉnh kỉnh”, nhưng người ta vẫn phải viết – và thế là tích cực đi xin!).

Chắc là người ta thương anh bộ đội lắm. Mồng 4 tết, mà nhổ lều, bứt lán, gồng gánh ba lô, xoong nồi hành quân như vậy để có chiến thắng đánh dấu một thời đại. Còn ta, cũng hành quân đây. Ta sẽ để lại điều gì trong lịch sử?

Đất Hải Dương… Hải Dương, mình nhớ luôn đến Trần Đăng Khoa. Khoa còn cách đây xa, 20km nữa. Đây là huyện Chí Linh. Lúc dừng chân nghỉ ở cái kho hợp tác ven đường gió lộng, mình bảo với Tâm: “Tâm nghĩ gì khi đến đất Hải Dương này?” Tâm không nghĩ ngợi điều gì cả. Nó nghĩ rằng đường xa quá, trời nắng quá và nhiều bụi…

Còn mình, mình nhớ da diết. Phải, da diết và day dứt nhớ Trần Đăng Khoa. Đất nước vẫn như xưa (!), Hải Dương cũng chỉ một làng quê như trăm nghìn làng quê Việt Nam khác thôi, như Cổ Nhuế, như ngoại thành Hà Nội. Vẫn cánh đồng trải như vô tận (chẳng phải, còn những mỏm đồi xa xa, màu xỉ than). Đồng đang xanh màu tươi mát của lá ngô non. Còn dĩ nhiên là nhiều gió. Chân gió đi không biết mỏi, gió xoài ra một lát rồi lại cuốn ào ào, mang đi biết bao vị ngọt hương thơm của quả chín, của mía… Cái mùi vị đồng nội ấy. Vậy mà Khoa, năm nay lớp 7 đây, lại làm được những bài thơ hay và xúc động. Phải chi quân mình cứ đi mãi rồi rẽ sang tay phải đến xã của Khoa – xã Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Hưng – Đóng quân ở đó, để mình gặp và chiêm ngưỡng tài năng trẻ của đất nước, để mình hỏi và đọc thơ em Trần Đăng Khoa, chắc chẳng khác gì những đứa trẻ chạy lông bông ngoài đường kia thôi. Thế mà những âm rung nhỏ xíu nhất của em lại có sức vang động lạ lùng. Người ta thuộc thơ em, và hơn cả thơ em làm lớn dậy tâm hồn và trái tim biết bao người. Hạnh phúc biết mấy Khoa ơi!

Hải Dương – Người hãy tự hào vì đã dâng cho đất nước thiên nhiên xinh đẹp và những tài năng quí giá. Đến Sao Đỏ, chỉ còn cách Đông Triều 15km, mình mới hiểu vì sao Khoa có thể đi bộ đến mỏ than để thăm anh Minh, mới hiểu “mang màu than trong nòng súng chúng tôi đi”. Hiểu nhiều hiểu tất cả. Cả ngôi nhà Nhuần dưới chân núi của Lý Biên Cương trong “Mùa lũ” … Chao ôi, cảm ơn tỉnh trung du, đẹp quá đi thôi…

Những cánh rừng trong đêm âm u lạ. Mảnh trăng mềm như một miếng hồng vừa cắt chỉ khẽ ló ra sau lá. Ta nhận ra rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lá to và ngắn hơn bạch đàn ở nhà, ở Quế Võ, ở Hà Bắc. Ừ nhỉ, đến đâu cũng gặp bạch đàn thôi. Và ở đâu, đi đâu, đến đâu, và nhớ gì, nghĩ gì, ta đều nhớ Như Anh. Như một niềm vui, mềm an ủi, như một ước mơ hết sức xa vời, song đẹp đẽ và đáng mơ ước biết bao nhiêu.

Ở chỗ đóng quân lại nhiều thông. Cây thông thật cao và to đứng im lặng. Xung quanh là đồi cây, đây mới thực là thung lũng. Gió đâu rồi nhỉ, đâu rồi cơn “gió qua thung lũng, mang màu xanh bất tận? Mình có cảm tưởng đi vào ngôi chùa nào đấy, thờ một ông phật, bụng phệ nào đấy và cố từng tam quan. Toàn thông và bạch đàn thôi. Thân cao nhìn thật thanh thản. Xung quanh đồi thật đẹp, xanh lốm đốm chứ không phải đồi trọc như Hữu Bằng. Dân cũng tốt hơn, xin tre về làm lán dễ lắm, thế là lính phấn khởi dần lên. Lính cười: hơ hơ, hì hì, hục hục… đủ 36 thứ cười! Y trồng trước lán một cây thông nhỏ, nó bảo đấy là bồn hoa. Vị lấy đá xếp chữ “Khí tiết” như trong Bất khuất” vậy. Chúng nó bảo, sống một ngày cũng phải sống cho đàng hoàng. Ừ, đúng lắm, phải sống cho đàng hoàng. Cái lán làm xong đẹp quá đi mất. Mình nằm ngửa mặt nhìn lên mà khoái. Sao nó giống tường của rạp Kim Đồng đến thế. Cũng những nẹp hình vuông.

Ôi, lại nhớ Như Anh đây. Hôm nào sống giữa trường đại học có cửa gương, có giường tầng, mà lúc Như Anh vào chơi, ngượng đến chết vì nhà cửa bề bộn quá. Thế mà bây giờ ở rừng Chí Linh này, mong Như Anh đến. – Như Anh đến đây nhé, mà xem lán anh bộ đội làm, đẹp đến mê đi.

2.21.2.1972

Rất buồn cười về nếp sinh hoạt mới của lính. Buổi sớm, buổi trưa và buổi chiều, những cảnh ngộ nghĩnh lại bày ra trước mắt. Chiều qua mình ngộ quá. Lúc mặt trời gần khuất sau đỉnh Côn Sơn, mình thấy lũ lượt lính vác xẻng lên đồi thông. Trên ấy có gì nhỉ, hay họ đi đào hầm,Chẳng lẽ đào hầm xa lán thế? Cuối cùng mới vỡ lẽ, họ đi đại tiện! Phải đào hố và lấp đi, có vậy thì mới giữ vệ sinh. Tuy vậy lên đồi thì cũng phải cẩn thận lắm, không có nguy hiểm ngay thôi.

Còn nước thì mới kinh khủng chứ. Ở đây không có suối không có giếng. Vào nhà dân thì xa quá. Vậy là rửa mặt, rửa tay chân. tắm giặt, nước ăn, tất cả đều ở trên một cái ao nhỏ xíu, cỏ đầy trên mặt nước. Nước cứ mờ mờ xanh, và chỉ khẽ khua lên là lầm đục. Đứng trên bờ thấy lợm giọng vì một mùi tanh. ôi chao, kinh sợ quá đi mất.

Hôm đầu đi với Tâm, nhìn mấy đứa đang tắm, khắp người ghẻ kềnh càng, thấy gai cả người. Giá ở nhà có lẽ mình chẳng dám xuống rửa chân nữa, thế mà mình ở đây, lại múc nước lên đánh răng, rửa mặt và múc cả về lán đun lên uống nữa. Eo ơi, đừng ai nhổ nước bọt đấy. Cuộc sống bộ đội rồi còn ác liệt hơn thế nhiều, gian khổ và vất vả hơn thế nhiều.

Có lẽ bắt đầu từ hôm nay mình sẽ không viết thư cho bất kỳ ai nữa cả. Và dĩ nhiên sẽ không nhận được thư của bất kỳ ai. Hãy dẹp bớt đòi hỏi của cá nhân mình, và làm việc cho tốt. Mình nhiều lúc phải hối hận vì đã bỏ quá nhiều thời gian vào những công việc ít có ích. Rồi mai đây, khi trở về gặp lại các bạn thời thơ ấu, liệu mình có dám đứng đấy mà trò chuyện hay không? Thật đáng sợ biết bao nhiêu!?

Cuộc sống không chờ một ai cả. Thời gian trôi thật nhanh, chẳng mấy chốc mà 5 năm, 6 năm lại trôi qua đi thôi cố tin rằng mình không chết! Thế thì liệu đất nước đã thống nhất hay chưa? Và liệu lúc ấy mình đã làm được những gì đáng gọi là “thành quả” cho đất nước? Hay vẫn chỉ thu lượm, hin tòi? Hay vẫn chỉ “triển vọng”? Trời ơi, phát điên lên mất thôi. Còn mặt mũi nào mà gặp lại các bạn, nhất là Như Anh!

Những tháng năm rảnh rỗi trong suy nghĩ thế này mà không viết được gì thì biết đến bao giờ mới làm được? Bao giờ mới làm được Thạc ơi? Trước kia thì ao ước, mong chờ được đi mà viết, còn bây giờ thì nằm ngay đơ trong lán mà than thở.

Hôm nào, sẽ lên thăm đỉnh Côn Sơn, nơi Trần Đăng Khoa đã viết câu thơ “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa… “ Nguyễn Trãi xưa kia đã tới đây ẩn dật. Vậy là đất này chính là đất văn học rồi. Sao mình không thể cất lên tiếng hát ở đây?

Các bạn đã làm được nhiều. Riêng mình vẫn trằn trọc hoài, trằn trọc mãi không thôi. Tự nhiên, mình ghét những trang nhật ký này. Nó dường như không có tác dụng gì mấy trong cuộc sống của mình, mà chỉ là chỗ chứa những lời than thở trách móc năng lực và số phận của mình mà thôi! Không nói đến những điều ấy nữa!

Mình giờ đây băn khoăn khá nhiều, mà không hề có được 1 lời khuyên bảo. Liệu mình có thể làm được gì, đóng góp được gì cho văn học chống Mỹ hay không? Biết bắt đầu từ đâu và đi theo con đường nào? Làm sao có được một bàn tay dẫn dắt của người đi trước?

3.22.2.72

Sắp phải đi học rồi đây. Thời gian trôi nhanh quá. Thật thế ngày nào mình cũng phải đấu tranh tư tưởng. Ngày nào cũng tự nguyền rủa mình. Ngày nào cũng một nỗi ân hận giày vò.

Rồi sau này, nếu Như Anh có về đọc được nhưng dòng nhật kí này, chỉ mong Như Anh hiểu được những điều bây giờ đang dằn vặt mình, đang vò xé trái tim mình, lương tâm mình. Trời ơi, có bao giờ mình lại khổ sở vì khả năng kém cỏi của mình như lúc này hay không?

Còn nhớ đêm mồng 3 tết, nằm trong lán nilong với Tiến và Thư mình trở mình hoài vì bài thơ “Gửi lại Talê” và “Đoạn đường…” của Trần Nhật Thu. Chao ôi, bài thơ hay quá đi mất. Những bài thơ làm trên chặng đường hành quân vào trận tuyến. Những bài thơ cảm động và đẹp đẽ biết chừng nào. Trần Nhật Thu dễ thường chẳng mấy người biết đến tên anh, nhưng thơ của anh thì hay đến thế. Những dòng thơ bước thẳng vào trái tim người đọc Chính bởi anh từ cuộc sống chiến đấu ác liệt mà viết nên những vần thơ ấy…

“Gửi lại Talê – Gửi lại Talê

Tôi ríu lưỡi trước giờ từ biệt

Xiết chặt tay các anh – Dòng sông cuộn xiết

Một góc rừng Lào âm âm tiếng bom…”

Bài thơ anh làm tại Bulapha, ngày 31.5.1971, đúng ngày T. và Như Anh gặp nhau trên đường Hà Nội. Phải, lúc ấy mình còn thanh thản lắm, và đâu nghĩ rằng có những người đang viết những vần thơ lửa cháy!

Tới hôm nay, Y đưa cho mình xem bài thơ “Dốc On My”, lại của Trần Nhật Thu đề ngày 30.2.1971. Anh viết khoẻ và viết hay, táo bạo!

Chao ôi, hạnh phúc biết bao nhiêu khi chính mình được đi trên những nẻo đường thấm máu đồng đội, trên những nẻo đường mang tên người con gái Lào xinh đẹp. Các anh, sung sướng quá! Biết bao lần mình mơ ước được đi như Phạm Tiến Duật, nằm trong mái lán Trường Sơn mà cảm hiểu cuộc sống nước sôi lửa bỏng của dân tộc. Mà viết và ca ngợi!

Mặt trận còn cách xa đây lắm! Nhà văn Ng. Khải nhận xét rằng: Mọi người đều đã quen với cách nghĩ: “Còn phải đón đợi những thử thách ở phía trước”… Với họ, họ đã làm tròn trách nhiệm của hôm nay. Và họ đều cảm thấy khó khăn, gian khổ, thử thách là chưa tới, là chưa tới! Như anh chiến sĩ vây lấn ấy vậy, nằm bên đồn bốt địch, nghe rất rõ tiếng pháo nổ đầu nòng, còn tiếng thứ hai thì xa, xa lắm. Và anh nghĩ thầm rằng mặt trận ở tận đâu ấy, dễ thường cách đây đến hàng chục cây số!

Riêng mình, quả thực đây là hậu phương của bộ đội. Không tiếng súng nổ, và cuộc sống bình thản quá. Cái hội trường học tín sạch và mát, ẩn dưới gốc thông già. Không có trẻ con đến chơi, không có tiếng chim, chỉ lâu lắm mới nổi lên một đợt gió từ thung lũng xa. Buổi sáng, còi tập thể dục chưa buồn dậy, còn nằm rốn mơ tiếp một giấc mơ còn dang dở, rồi lục cục gập chăn màn, đánh răng rửa mặt, ăn sáng và đi học… Lại xếp hàng một, tay cầm liên hợp và ma níp, vừa đùa thoải mái. Để đến cái sân đất có nhiều lá rụng mới lại chợt nhớ Pauxtôpski, nhớ Bông hồng vàng , và một lời hứa, một trách nhiệm của cuộc đời…

Ngoài ra còn phải học tín nữa. Lơ là thì đố có mà học được Nhầm be bét học làm sao nổi! Chao ôi, mình ngấy đến tận cổ cái trò cứ “tích ta tích ta” này rồi, chẳng nhẽ cứ nhàng nhàng mãi!

4.23.2.72

Không hiểu người ta nghĩ gì, người ta cảm thấy điều gì khi đến những miền đất lạ? Giả sử như ở đây, nhìn ngọn núi xanh màu lá cây thật mềm, mát, người ta sẽ cảm thấy cái gì? ắt có người khen đẹp. Ừ, đồi núi ở đây đẹp hơn ở Tân Yên, nhất là so với Hữu Bằng thì nó lại càng đáng ca ngợi. Những cây thông uy nghiêm trên đỉnh núi, phía dưới thung lũng là trắng bạch đàn, rừng thông rì rào suốt ngày đêm. Cỏ mọc dìu dịu ở sườn đồi, còn con đường lên đỉnh thì bàng bạc và mới mềm làm sao. Tất cả đều gợi lên một điều gì dịu dàng, mát mẻ. Cả vũng nước nép giữa bụi cây nhỏ loà xoà mà lính hay xuống rửa tay chân cũng mở một thế giới trong lành. Cuộc sống hơi chật một chút, song thú vị.

Phong cảnh ở đây khác nhiều so với Hữu Bằng. Không có một dòng sông để nhặt những viên sỏi nhẵn và những cánh buồm mốc vá víu phồng căng, không có những cô gái gò lưng kéo thuyền khi trời lặng gió… ở đây không có những quả đồi trọc, toàn đá sỏi, nhìn lên khô khốc, không thấy cảnh con bò giơ bốn chân khẳng khiu đỡ lấy đống tròn phình, chót vót trên đỉnh đồi, gặm vào lá cỏ non vừa nhú.

Phải đấy, cuộc sống của nhân dân ở đây thoải mái và sung túc hơn so với Hữu Bằng, bởi vì vùng này không bị lụt và ít nhiều dân cũng thưa thớt hơn. Mình vào mấy nhà quanh chỗ đóng quân, nói chung đều cảm thấy thoải mái hơn ở chỗ cũ. Nhà cửa sạch, mát, lối vào nhà gòn gọn. Cả gốc tre cũng sạch, ít lá rụng và ít bụi: Cuộc sống thanh bạch và trong sáng làm sao. Cũng chưa biết xã trung du này nữa. Hôm nọ hỏi bà cụ gánh cỏ, biết được đồng cỏ vịt, còn thì chẳng biết được gì hơn. Không biết đây là người Kinh hay người dân tộc nữa. Suốt ngày chỉ thấy những đám mây bay từ đỉnh này sang đỉnh kia, che rợp một vùng đất. Còn thì âm âm u u, như thể đây là một vương quốc của riêng mình. Có lúc tưởng như mình đã ở đâu xa xôi lắm. Té ra vẫn đất nước mình, và cách Hà Nội có là mấy đâu Vùng này thế, thảo nào ngày xưa Nguyễn Trải ẩn dật!

Mình có cái tệ là ít vào nhà dân. Vào lúc nào cũng chỉ có việc không xin cái nọ thì xin cái kia. Nếu vậy thì làm thế nào mà hiểu biết sâu được vùng này! Vả lại, khi anh chưa thật sự quan tâm đến cuộc sống lam lũ của dân tộc thì chẳng bao giờ anh hiểu nổi cái cốt lõi làm nên cái trạng thái tâm hồn ở đây.

Nếu như nhìn ngọn đồi đá ong, đá trắng, sỏi vụn anh chi cảm thấy khô, thấy nhức mắt, thấy ghét guồng chứ không phải là nhức nhối trong tim, thì anh hãy về đi, đừng làm anh bộ đội nữa. Hoặc là hãy đặt tay lên ngực, xem quả tim đi, Có lẽ nó đã trôi xuống dạ dày rồi! Mà nào có ít người nói những điều ấy với mình, thế mà họ lại là bộ đội đấy!

Có tiếng súng nổ – K54! Hôm nay C vận tải đã hành quân đến. Họ dựng lều bên kia đồng, ở chân núi, dưới những cành thông cao tuổi. Người ta bảo làm lán ở rừng thông là tốt nhất, thoáng mát và không khí trong lành. Thân cây to đen, nứt nẻ, nhiều vết toác ra cho nhựa chảy. Thật khó mà chặt được thông, chỉ cần một vệt dao xước nhẹ là nhựa đã chảy ùn kín vết thương. Ai ví cây thông như sức sống của người cộng sản thật đúng quá!

Dưới (hay là trong?) rừng thông già lão ấy là C vận tải những anh lính trẻ. trẻ quá – Khi ngồi trong lớp học, tay gõ ma níp mình thấy họ đi qua cửa rửa mặt mà thương quá. Họ hành quân mấy ngày rồi, mãi tối qua mới tới đây… Có lẽ toàn lính thành phố cả. Trông cách ăn mặc, và điếu thuốc ngậm trễ trên môi là đủ biết. Hầu hết là lính mới, nom mặt còn non choẹt, và người thì nhỏ xíu. Bất giác nhìn lớp học của mình. Hầu hết là sinh viên, to, khoẻ, chững chạc. Chính mình sẽ là chủ lực của quân đội đây, còn dựa vào ai nữa.

Bây giờ, càng đi lâu, mình càng thấy sự có mặt của mình trong quân đội là cần thiết, là đúng đắn. Xấu hổ biết bao nhiêu vì thanh niên trai tráng, khoẻ mạnh lại suối ngày ru rú trên cửa sổ của giảng đường đại học! Suốt ngày gìn giữ nếp áo quần, giữ bàn tay cho sạch, và soi gương làm dáng… để cho lớp thanh niên vừa nhỉnh một chút lăn lộn người ngoài tiền tuyến, với những thằng lính Mỹ xâm lược to gấp đôi, gấp rưỡi mình! Thế sao trước kia mình không nhận thấy điều ấy? Một chân lý đơn giản, thật dễ hiểu? Mình trước kia không hiểu hay không muốn hiểu?

Từ lúc nào không rõ, mình có ý thức chủ nhân đất nước. Dạo còn bé đi học, mình biết rằng còn có cha mẹ, có thầy cô giáo và mọi người lớn lo thay cho mình. Song giờ đây mình hiểu rằng, chính mình là cột trụ của đất nước. T. H nói đúng làm sao: “Lịch sử chọn ta làm điểm tựa”. Ừ, đâu còn là một chân lý trừu tượng nữa, mà đã là sự thật. Không chỉ nhận ra, mình còn sung sướng và tự hào vì nhiệm vụ vẻ vang ấy. Chỉ tiếc rằng, mình đi chậm quá, chậm quá rồi. Nếu như có ai đọc một truyện ngắn trên Văn nghệ quân đội về những người chiến sĩ vây lấn điềm cao, người ta đã có hy vọng gặp nhau “khi chiến tranh kết thúc”… Kết thúc chiến tranh… Không, đấy không phải là chiến tranh hay sao ấy.

5.24.2.72

Cuộc chiến đấu của dân tộc đã trở thành nếp sống bình thường của mọi người. Và có lẽ do vậy, người ta ít khi hình dung sẽ có ngày mà chiến tranh kết thúc. Ý nghĩ ấy thật là tội lỗi, chắc chắn nó là một ý nghĩ lạc hậu so với cuộc sống sôi nổi, lạc quan của những người làm chủ cuộc sống của mình. Thử để ý xem những người khác suy nghĩ thế nào về việc kết thúc chiến tranh”! Phải nói rằng đa số những người mình gặp đều có một thái độ chuẩn bị lâu dài cho cuộc chiến đấu. Nhưng họ không bi quan và không lạc quan quá đáng. Đó là điều tốt và đáng quí.

…Ở đây đã gần một tuần rồi, và chưa kịp đi đâu xa xôi cả Chỉ có dịp đi xa một chút, về tiểu đoàn thăm bọn nó. Cả B đi vào rừng lấy củi, một số đi xa hơn, 30km, lấy nứa về làm lán. Mình cứ lần theo đường dây điện thoại mà về…

Chỉ thế thôi, còn toàn quanh quẩn ở nhà với hội trường thôi. Thoắt một cái đã hết ngày rồi, mà chẳng làm được gì hết.

Hôm nay nghe tin đồn thì lại sắp chuyển quân. Hình như cuối tháng hoặc đầu tháng 3 thì phải. Người thì bảo Thanh Hoá người thì bảo Quảng Ninh… ôi, sao nhanh thế nhỉ. Đã biết trước chỗ này chỉ là dừng chân tạm thôi, mà vẫn cảm thấy nhanh. Chưa kịp đi Côn Sơn thăm nơi Nguyễn Trái ẩn dật, và đỉnh núi kia vẫn chỉ mờ mờ trong sương sớm, trong trí óc của mình.

Dù rất mong đi chiến trường, vẫn cảm thấy nhanh. Vụt cái như một vệt sao đổi ngôi vậy. Mình đã gần nửa tuổi quân. Đã quen với tiếng súng AK, K63, K54, bộc phá, lựu đạn. Và chỉ mới như thế thôi. Những con chuột lửa, dải lửa màu da cam của B40 chưa từng được thấy. Cả dãy Yên Tử cũng chẳng nhìn thấy nữa. Tâm ca ngợi Yên Tử nhiều lắm, nó bảo, lính muốn đi B thì ắt phải trèo Yên Tử, lên 1 ngày xuống 1 ngày. Trên đỉnh là quê của “tắc kè” đấy…

6.25.272

Thấy hoa nhãn nở, nhớ câu thơ Chế Lan Viên:

 

“Tháng ba vườn nở hoa xoan

Sáng ra mặt đất lan tràn mùi hương

Vắng em anh chẳng ra vườn

Sợ mùi hương, sợ mùi hương nhắc mình… ”

 

Tập 7

 

4.1.3.72

Tháng 3 của em… Thế là đã 1 năm trôi qua – ở nơi xa xôi ấy em nghĩ gì?

7.4.3.72

12giờ 15

Rất lâu lạ; không viết Nhật ký – Không buồn viết – và cũng chẳng có mực mà viết – Đem đi thì sợ đổ, đến nơi ở thì chẳng có lấy chút mực gì – Thật chán quá đi thôi!

Cứ mỗi lần bỏ cái mũ ra, người ta lại oà lên kinh ngạc vì mái đầu bạc của tôi ! Sao người ta tàn nhẫn thế hở những người xung quanh? Thử giật một sợi tóc vô tình, phần lớn là tóc bạc, những sợi tóc trong trẻo, trắng muốt thế, mà lại là nỗi buồn êm dịu, nỗi buồn dai dẳng, đau đớn và dữ dội của lòng tôi? Chẳng lẽ tôi đã già đi như vậy? Già trước tuổi già trước tất cả những gì tôi đã trải qua và chưa hề trải qua?

Tôi lo lắng chút gì về bản thân, lo nhiều vì tôi chưa làm việc ra hồn, lo nhiều vì thời gian trôi đi nhanh và mất hút sau lỗ rách của mái lều – Tôi lo vì sự đói rét của gia đình, vì sự bất an của bố mẹ tôi – Tôi lo tất cả, vì từng người trong gia đình. Những người thân thích của tôi không yên ổn sống trong cuộc đời này… Thế mà những sợi tóc tưởng chừng như vô tư lự ấy, cả nó nữa cũng đem đến cho trái tim tôi một vết thương. Hôm nay mới 20 tuổi đầu đã trắng xoá cả mái tóc lẽ ra còn xanh – Vài năm nữa – Rồi sẽ ra sao? Rồi người ta sẽ nhìn tôi ra sao?

Chẳng bao giờ tôi chán nản với những ước vọng của mình – Tôi không còn muốn trở lại gặp ai nữa – Cả bố mẹ, anh chị em, cháu Hằng và cháu Phương mà tôi nhìn mặt cháu 1 loáng trong ánh sáng mờ khói – Tôi không muốn gặp lại cả Như Anh, người mà tôi hết lòng yêu quí và kính trọng, người mà tôi mang nặng trong tim suốt cuộc đời này. Tôi không muốn nói về tôi điều gì nữa cả. Tất cả cuộc sống của tôi dường như đã trở thành vô vị – Phần lớn những người bạn thân, tôi không muốn trao đổi điều gì với họ, tôi đi, im lặng… và sẽ im lặng mãi. Bây giờ tôi chỉ muốn đi chiến trường ngay – ở đó cuộc sống quí giá hơn ở đây chăng.

Không ai có thề hiểu được nỗi buồn xa xôi đang bóp nghẹt trái tim tôi. Thật quả tôi cũng không thể khẳng định được rằng tôi có đủ nghị lực để sống cô độc từ nay – Tôi biết rằng không lâu nữa, tất cả những gì mà tôi hằng ôm ấp và mơ ước tới sẽ vụt khỏi giấc mơ tôi. Bởi hai bàn tay tôi không tài nào giữ được… Sẽ mất, sẽ mất hết cả. Vậy thì giữ làm gì nữa, hở tôi?

Đừng ai xem những dòng này. Vả lại cuốn Nhật ký này chắc cũng chẳng bao giờ có ai xem được – Tôi sẽ chỉ giữ những cảm xúc này cho tới lúc tạm biệt miền Bắc thân yêu đi chiến đấu – và sẽ biến những trang giấy này thành ngọn lửa hun cay sè mắt tiễn biệt tôi – Vì chắc chắn chẳng có ai tiễn đưa tôi cả – Tôi đi và gửi tấm thân này ở một miền đất nước nào đấy mà tôi biết hoặc chưa thể biết tên.

Tôi muốn nói với Như Anh những lời da diết và êm dịu nhất. Song, em sẽ chỉ gặp tôi trong những giấc mơ thoảng qua và trong những trang thư tôi đã gần cho em. Em hay ở xa mà mơ ước về tôi, mơ ước về một trang thanh niên khoẻ mạnh, giàu xúc cảm, giàu lòng nhân đạo và mơ ước cao xa – Em hãy làm việc say mê – Cứ như thế, em hãy nghĩ những điều tốt đẹp về tôi – người yêu em tha thiết và mãnh liệt… Tôi không muốn để lại trong đáy sâu của trái tim em hình ảnh kiệt quệ của tôi, mái tóc còn non trẻ đã lốm đốm màu sắc của già cỗi, của khô héo và của những suy tưởng ngông cuồng.

Không ai có thể khổ như tôi – Bởi những điều hằng đay nghiến và dằn vặt tôi, tôi không thể nào nói ra thành lời, không thể nào viết lên trang giấy được, dẫu những điều tôi nói, tôi viết chỉ có 1 mình tôi nghe, 1 mình tôi đọc Tôi xấu hổ với các bạn bè của tôi, tôi buồn rầu vì sự xấu hổ của bố mẹ tôi với những người xung quanh, với những người hàng xóm soi mói và lắm điều… Trời ơi, sao tôi khổ sở thế này. Sao tôi điên dại thế này. Tôi muốn nằm phục xuống đây mà khóc, nhưng cái nền đất này lại không có một chút màu gì – thành thử cái thằng người tôi cứ nguềnh ngoằng ra đấy, thật vô duyên và thô lỗ chứ!

20-3-1772

Tôi lại viết tiếp những dòng nhật ký này sau hơn nửa tháng bận rộn mệt mỏi, lo nghĩ, buồn bực và hơn hết là diết nhớ người mà tôi hằng yêu quí – Tôi cũng khôn còn nhớ rõ có phút nào tôi thanh thản, có phút nào tôi giật mình thức dậy, tôi lại đọc hàng trang những dòng thư tôi sẽ viết cho Như Anh – Tôi đã khóc trên những dòng thì thầm nóng hổi và âu yếm ấy, tôi đã khóc trên vai em, trên đôi môi cháy bỏng của em… Tôi đã đọc cho Như Anh những lời đẹp đẽ và chân thực mà lẽ ra tôi đã nói khi hai đứa cầm tay nhau đi trên đường Hà Nội, những giờ phút cuối cùng của mối tình gần gũi – Và chính những giờ phút ấy tôi lại đau đớn nghĩ rằng: Đó là đỉnh cao, đó là tận cùng hạnh phúc của đởi sống riêng tư của tôi… Chao ôi, làm sao ngày về, tôi lại được đón Như Anh, tôi lại vượt qua được biết bao ràng buộc ngăn cản tôi, để tôi đến gần, rất gần, gần hơn cả những giây phút bịn rịn trên đường Nguyễn Ái Quốc… Tôi lại mơ tiếp với em giấc mơ đẹp và giản dị mà tôi chưa bao giờ được hưởng.

Không, cuộc sống chẳng bao giờ chiều tôi cả – Tôi sẽ vĩnh viễn xa em, xa người yêu duy nhất của đởi tôi – Biết làm sao được.

Cả những trang nhật ký bây giờ cũng vá víu bằng chục, trăm, nghìn mụn vá – Mà nào những mụn vá ấy có sạch sẽ, có đẹp đẽ và đáng nhìn đâu – Tất cả đều mơ hồ, tất cả đều mòn cũ và chán ngán – Tôi không thể viết thêm được nữa – Cái chán ngán này đến bao giờ mới chấm dứt đây ôi chao, lười, lười, dốt nát, dốt nát cùng cực – Thôi lại giở thư Như Anh, dòng mùa thu ẩm ướt của đời tôi đấy – Như Anh về đây với anh nào, về đây, gần đây nữa, đừng đi nữa. nhé, em yêu của anh… Trời ơi, điên lên mất, điên lên mất thôi! Sao tôi lại trở nên dở người thế nhỉ? Tôi nhớ V.T.P nhà văn của thuốc phiện và bàn đèn… Đốt hết cả đi. Đốt đi ngay.

21/3/72

Vào rừng lấy nứa. Vào rất sâu. Qua không biết mấy đỉnh đồi um tùm và rậm rạp – Cỏ lau, những cây lạ, song, mây, cây tư me (hay chua me?) quả nhỏ, tròn, mọng – Nhấm vào thấy chát lè lưỡi, nhưng lát sau, lâu. sau thì ngọt từ trong cuống họng…

Đỉnh đồi cao, con đường mòn như thói quen, nhẵn bóng, và nhất định có nhiều người đi – Thế mà mãi tận bây giờ mình mới biết, mãi bây giờ mình mới đi.

Cả những chiếc lá rừng mình không biết tên nữa – Có chiếc lá nằm trong rừng sâu, dưới lớp đất ẩm, tối suốt, nên đen nhánh – Thời gian thật là lạ, ở cây xoan tây trên thành phố nó bước qua bằng dấu chân hoa đỏ chói – Còn ở đây, là màu đen, màu xám và mốc meo.

Mình nhìn cây mua xanh nhung mà thật cảm động. Ở rừng rú, chỉ tiếng chim lạc lõng trong cái nền âm u, rì rào như một cơn giông lớn đang ào tới, mà hoa mua nở tím cả thung lũng – Hoa mua cánh mềm, cánh mỏng như nếp áo cô gái Việt Nam chung thuỷ đợi chờ – ù, hoa mua, ở rừng thế, làm gì có hò hẹn mà cũng nở ra hoa tím, mà cũng chờ đợi và chung thuỷ

“Đất nước của tôi, mà tôi là khách lạ

Hoa tím rừng, khiến mắt rưng rưng…”

Mỗi người vác một bó lớn ra cửa rừng – Thư tỏ ra tháo vát có nhiều kinh nghiệm – chọn nứa, chặt nứa và vác nứa trong rừng – Nhưng còn ấu trĩ, khi nó chưa biết con vắt là gì Lúc xuống suối lấy nước, 3 con vắt bấu vào chân, nó cười ngặt nghẽo và thú vị nhìn cho đến khi máu tứa ra ở bàn chân, ở kẽ ngón chân. Vắt cắn rất êm. cắn rất êm…

Xếp nứa theo hình chữ A mà vác là tốt nhất, cho đầu nặng hơn, chúc xuống dưới, tránh được dây rợ lằng nhằng và nếu có ngã thì chống được ngay – Mình nhìn những chữ A lừ đừ trôi trong rừng, vừa thú vị, vừa vui, vừa khổ và nhất là rất nhớ Như Anh – Lúc ấy chắc Như Anh không hiểu điều gì đang sống với mình đây. Nhớ Như Anh hơn cả gia đình! Không thể giấu được điều ấy.

22/3/72

Về Hà Nội, từ 6 giờ sáng – Ngồi chờ giấy công tác. Sốt ruột nhiều và cũng thú vị.

25/3/72

Chuyến đi qua Hà Nội thật thú vị. Đi ô tô Sao Đỏ – Hải Dương – Hà Nội. gần 100km. Mệt bã người, nhưng vẫn mong về nhà. ở trên cầu Long Biên, ô tô đi cùng diều với tàu hoả – Thấy Y ngồi ngặt mặt ở cái cửa sổ toa tàu – Nom nó trẻ con lạ – Không hiểu “con giời” đang nghĩ gì mà trầm tư thế.

Mình về nhà, nói chung là vui – Các em đi làm hết cả. Nên kinh tế đỡ khó khăn – chỉ buồn buồn là các em không được đi học – Thôi chẳng cần nữa vậy – Sau này, cố gắng học chứ biết làm sao – Các bạn cùng lứa tuổi mình đi bộ đội hết cả rồi – Người đi B, người đi C – và có người đã là liệt sĩ – Đất nước, có bao giờ như lúc này, lúc mà mỗi gia đình là một gia đình quân nhân = Lúc mà mỗi thanh niên đã trở thành một chiến sĩ.

Thế hệ mình, lứa tuổi mình – Các bạn ơi, đi nhé, chúng ta đi và chẳng cần chần chừ, suy tính – Ta gửi lại phía sau lưng mình tuổi thơ và cả những người thân yêu nhất…

Mình đến chơi với các bạn, và không gặp bất kỳ ai hết cả Cả Tr. nữa – định đến lấy ảnh của Như Anh – nhưng mình gặp Tr. trong hiệu sách nhân dân – Mình sững lại, rồi quay phắt đi.

Không, mình không muốn gặp Tr., không muốn gặp Tr. đâu – Mình không muốn gặp Tr. vì nó nhắc nhở hoài tới Như Anh – Tr. mặc áo trắng rất lộng lẫy – Và anh bộ đội quay đi – Gặp nó làm gì nhỉ, lấy ảnh thôi ư? Không, mình chẳng liên quan gì tới Tr. cả, chẳng liên quan gì – Nhờ Tr., thì cảm ơn Tr., có vậy thôi.

Cái gì Tr. cũng đơn giản, cũng thẳng băng – Cầm cái thư nhỏ Tr. “viết vội” (chẳng bao giờ Tr. có thời gian mà viết thư cả Tr. còn bận tiếp bạn, Tr. còn bận học ) – ừ, cầm cái thư luễnh loãng trên 1 trang giấy nhỏ mà bực mình hết sức. Đầu thư “Văn Thạc!” – Rồi sau đấy vài dòng chẳng lẽ Thạc không biết sao?”

Mình không biết nói gì, mình không biết nói gì khi linh cảm thấy rằng Tr. đang “sinh viên” với mình – ừ, đây, cái cảm giác đầu tiên mà mình lo lắng từ khi đi bộ đội đã trở thành hiện thực. Tr. mà thế, Tr., người bạn thân lắm của Như Anh. Lúc ấy mình muốn nói tha thiết với Tr.: Tr. ơi Tr. đừng như thế Tr. ạ – Tr. sung sướng được đi học, được đi học trong khi các bạn Tr. vất vả, gian khổ và để tất cả những năm tháng trẻ khỏe và đẹp nhất của mình cho cuộc chiến đấu của dân tộc – Tr. phải biết ơn – Mình không muốn và chẳng hề nói Tr. phải biết ơn mình – Mình cũng chỉ làm nhiệm vụ của lính thôi. Nhưng Tr. phải nhớ một điều: Nếu như không có chiến tranh, nếu như không đi bộ đội thì có lẽ những anh bộ đội lù lì, cục mịch, xô bồ này cũng chẳng chịu kém cỏi gì Tr. đâu, cũng chẳng chịu kém những người bạn giỏi nhất của Tr. đâu.

Nhưng thôi, chẳng nói Tr. làm gì, chẳng nói Tr. Khi mình biết rằng đang cao hơn, cao thượng và rộng lớn hơn Tr. khá nhiều – Mình chẳng cần chấp nhặt những điều nhỏ mọn ấy.

Và đây thì là Như Anh, là Như Anh mà mình nhớ đến trong từng nếp trở của mình – Như Anh mà mình cảm tình ghê gớm. Như Anh mình yêu, thương và buồn khổ.

Đọc hết 6 lá thư, mà mình muốn ngay trong đêm viết thư cho Như Anh hiểu – Ừ, 6 cái thư làm mình xúc động – Xúc động vì sung sướng, biết ơn, vì buồn và đau khổ – Không, đau khổ là nhiều thôi.

Bây giờ, nỗi nhớ đi vào chiều sâu – Và vị ngọt hút từ màu tím thuỷ chung: Ta xa nhau lắm rồi – Cả không gian lẫn thời gian và biết bao giờ mới trở lại bên nhau.

Nói chuyện với Như Anh như vậy.

Thạc giở lại tất cả thư còn giữ lại được, vừa nhận được của mọi người mà buồn hết sức – Chẳng ai hiểu mình cả.

Như Anh thương mình thật, mãnh liệt – Nhưng rồi thời gian? Không, mình không viết dòng trên đâu – Vì thế là nghi ngờ Như Anh rồi.

Đang ngủ trưa, mà những cơn gió mùa Đông Bắc còn róc lại từ mùa trước đánh thức mình dậy. Trời rất trong và sáng. Lán vặn vẹo và từ hai bên hiện ra hai khoảng trời hình tam giác, ở đó có rối loạn những cây bạch đàn xơ xác và tơi tả Bỗng nghẹn ngào nhớ đến Như Anh – Dường như Như Anh đấy với mái tóc tẽ đôi bay ngược chiều gió thổi như đang nức nở – Như Anh khóc à? Khóc thật ư, Như Anh?…

Chao ôi, từ bao giờ vậy, mình hiện ra tính ghen tuông tồi tệ Mình ghen với Liêm, Dũng, Phú và bây giờ với Lương, người mà mình hình như có biết trong trường Tổng hợp – Ừ, thì ta tưởng tượng rằng: Lương chính là người ấy Là người thâm thấp, lầm lùi và một lần mình gặp dưới cầu thang… Phải, người ấy đấy – Thật sung sướng khi Lương cũng được hưởng hạnh phúc gần gũi người mà mình hay gặp trong những giấc mơ, hay gặp trong suy nghĩ…

Thôi nhất định sẽ không viết thư cho Như Anh nữa – Dù lá thư vừa nhận được khiến mình hơi bàng hoàng – Khiến mình cảm thấy Như Anh hơi xa lạ với mình.

Thạc đừng kéo Như Anh lại nữa. Thạc để Như Anh đi đi Thạc sống một mình như vậy nhé – Hạnh phúc của đời chỉ dành cho Thạc thế mà thôi…

… Bất chợt nhìn lên vách lán. Những cây nứa tươi xanh hôm qua đan thành phên chắn gió. giờ teo, tóp lại, đe lộ từng khung vườn nhỏ, dài dài – Kia là bạch đàn, Như Anh đấy Không, phải mình không hiểu Như Anh khổ – Nhưng sao giờ đây khi đọc những dòng trách móc của Như Anh về món tiền cấp hàng tháng và món canh cà chua, với hành và mì luộc. Bỗng nhói lên, và trái tim mình như giập ứa. Đừng nói nữa Như Anh và đi đi, kẻo muộn…

Như Anh nhắc đến Hồ Tú Bảo, đến Bùi Khởi Đàm… để an ủi mình ư?

Chẳng cần đến điều ấy làm gì đâu!

Phải, giờ đây tôi ân hận rất nhiều. Tôi tự trách mình sao đã tìm đến Như Anh. Sao tôi không nghĩ rằng, đó chỉ có thể là ảo tưởng? Sao tôi đã níu chặt Như Anh khi ngày mà Như Anh đã đi xa, đi xa?

Sao đêm hôm ấy, tôi lại hôn Như Anh, cái hôn đầu tiên và duy nhất trong cuộc đời tôi. Ừ, lúc ấy, thật ngượng ngùng. Có biết thế nào đâu chỉ vì yêu thương Như Anh quá chỉ vì nghĩ đến cái xa cách đáng sợ mà tôi đang chịu đựng đây…

Phải, bao nhiêu lần tôi nhủ Như Anh đừng chờ tôi làm gì nữa. Nhưng chính lúc tôi nói những điều ấy trong thư, thì tâm hồn và trái tim tôi bàng bạc một dòng tha thiết: chờ Thạc, Như Anh nhé. Chờ Thạc như cô gái Việt Nam chung thuỷ trọn đời với người yêu đi chiến đấu – chờ Thạc, như cô gái trong bài thơ của Tế Hanh: “Em chờ anh không biết có thời gian…”

Phải, lúc này tôi buồn bã vì những giây phút xúc động đã qua, tôi đã đi quá xa những ước muốn của tuổi nhỏ – Tôi đã buột ra, gọi Như Anh, gọi người tôi yêu quí bằng cái tên chung của mọi người con gái: – Em…

Và thế là hết, tuổi thơ hồn nhiên, tinh nghịch, nhí nhảnh và đẹp lạ. Cái tuổi thơ chỉ nhiều mắng mỏ, nhiều giấc mơ quái đản, kỳ dị làm tôi giật mình – Hết tất cả rồi, khi tôi đã lớn khi tôi đã ghì chặt đôi vai tròn, thon thả và nói với người tôi yêu quí những âm điệu ngọt ngào nhất của trái tim tôi.

Như Anh bảo: Như Anh an, Như Anh không đòi hỏi điều gì khi Như Anh thực sự là của Thạc. Thế mà chỉ thiếu thư một chút, viết ngắn một chút đã dỗi… Ai sẽ dỗ Như Anh, ai sẽ viết những bức thư ngọt ngào cho Như Anh đọc khi Thạc đi vào chiến trường xa xôi?

Đòi hỏi ở bạn làm gì, khi mình đã thực sự tin yêu bạn- Khi mình thực sự muốn cho bạn sống và làm việc được nhiều.

…”Đêm trăng sáng. đêm mùa hè, trên dòng nước mênh mông long lanh mà lặng lẽ, trong tiếng hò Nghệ An mà ấm lòng:

“Anh đến với hoa thì hoa đã nở

Anh đến bến thì thuyền đã sang sông

Anh đến với em thì em đã đi lấy chồng”

Tiếng than thở của người con trai ấy nghe mênh mông làm sao, và câu hỏi buông cuối giọng hò nghe sao mà xao xuyến…và xa xa, người con gái trả lời, tiếng hò ấm mà cao, bay đến nơi đây, quấn quít:

“Hoa đến thì, thì hoa phải nở

Bến có đông thì thuyền mới sang sông

Mà em đến duyên, em phải đi lấy chồng.

Trách em sao nỡ, hỡi bạn lòng ơi..”

Mênh mông, mênh mông… ơi dòng sông quê vừa quen, vừa lạ. và làng xóm ven sông chưa đến một lần, song đó là quê đấy…

Chao ôi, đấy chính là Như Anh, dòng chữ Như Anh sắp xếp và viết trên trang giấy thân yêu – Ta như thấy sông Lam, thấy mặt sóng nghiêng mênh mông, nước trong văn vắt có con đò độc mộc và cô gái thân yêu đang cất giọng.

Bông hoa của lòng ơi, nở đi hoa… Cho con thuyền sang sông chở khách – Người khách nào ngồi đợi trên bến của sông? Và tiếng sóng cứ mênh mông lạ – Dẫu trong đáy sâu của hồn ta đang nghẹn ngào. nức nở, gọi ánh nắng mặt trời… Con thuyền dưới dáng chèo uyển chuyển của người con gái trôi êm như ru, như tiếng hát trong trẻo mà làm ta xao xuyến, làm bổi hổi cả trái tim ta.

26/3/72

Tôi đã hiểu rằng thật khó khăn mà những mơ ước của tôi với Như Anh lại có thể thực hiện được ở ngày mai – Hôm nay, đã viết được cho Như Anh 1 lá thư tương đối lạc quan – Đành vậy, đừng nên để Như Anh nghĩ ngợi và buồn bực. Chẳng thà chỉ có một mình mình chịu đựng cái cảnh u buồn này.

27/3/72

Cơn mưa cũng buồn – Mưa rừng buồn hơn những trận mưa ở nhà rất nhiều. Người ta sức chịu đựng cũng chỉ có hạn – Cố nén cũng khó mà nén được. Sống được trên đời này cũng là một vấn đề đáng suy nghĩ đây. Tự dưng thấy chán nản với hết thấy những gì mà người ta hằng ao ước – Buồn chán lắm. Chỉ mong đi chiến trường và có thể quên đi cái cảnh đáng kinh sợ này!

4.4.1972

Những ấn tượng tốt đẹp đang đến, đang đến làm mình rạo rực. Nếu như cuộc đời nhiều những ngày như hôm nay có lẽ mình cũng không thể ủ rũ, không thể nào buồn bã hay nghĩ về câu chuyện cá nhân mình nhiều như những ngày qua.

Buổi trưa, mình không ngủ, ngồi trong hội trường (Hội trường là gọi cho sang, chứ thực ra đó chỉ là 1 cái nhà bạt, giống như lều trên đồng cỏ của dân du mục – Bàn ghế không có, phải đào hố lấy nền nhà làm mặt bàn, và gõ ma rúp ấy cái hội trường thật dã chiến, nó giống như cuộc sống dã ngoại của đơn vị). Mình ngồi trong hội trường như vậy và đọc Pơma của Goocky – Phải đấy, khi cuộc sống bên ngoài đang rạo rực vì niềm vui chiến thắng thì mình đang băn khoăn vì sự gặp gỡ của Goocđêep và Pavlôpna. Đài phát thanh đang truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền tuyến ở mặt trận Trị – Thiên – Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đã diệt 5.500 tên. địch 10 vạn đồng bào nổi dậy – Đài phát thanh tiến.g nói Việt Nam đã phải mở thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng. Có bao nhiêu lần mình mong được sống những ngày sôi nổi niềm tin chiến thắng của một dân tộc hôm nay, ừ, chính trong quân đội, mình đã nghe niềm vui ấy dâng lên trong lồng ngực…

Ý nghĩ về ngày mai chiến thắng… Ừ, hôm nay mình chợt nhớ ra rằng, đây chinh là hạnh phúc bất diệt mà những người khác, nhiều người bạn khác của nình không được hưởng – Các bạn đi xa, các bạn ở hậu phương làm sao có thể được sống những ngày như ngày hôm nay. Mình chọt nghĩ rằng, ngày mai, khi đất nước chiến thắng rồi, khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng, mình sẽ làm gì? úp bàn tay lên má, lên mặt và nghĩ về tương lai. Không, chẳng có gì đáng lo ngại cả. Lúc đó sẽ đi học, chắc là không muộn, không bao giờ muộn cả. Mình sẽ trở về và gặp lại tất cả mọi người, gặp lại Như Anh thân yêu.

… Người ta đang học hát. Những bài hát tự biên tự diễn, tối mai sẽ hội diễn trực thuộc toàn E. Và cũng chính ngày mai mình cùng các bạn dưới D. lên đây học tín sẽ trở về đơn vị cũ Ngọn đèn này đây, mai, tao sẽ xa mày – Và vĩnh viễn, vĩnh viễn sẽ xa mày, chẳng bao giờ gặp lại – Hãy thắp sáng, thắp sáng cho ta viết nốt những dòng này. Từ giã C18, và cô dịp nào lên đây nữa hay không cũng không còn rõ nữa. Đơn vị cũng sắp di chuyển rồi – Có lẽ tuần sau sẽ hành quân về Yên Thế đánh công kiên. Rồi sau đó chuyển đi tận đâu nữa thì cũng chưa biết – Mình mong mỏi biết bao, ngày nào sẽ được chính thức đi chiến trường…

Mấy bữa nay, trên đài, trên báo đang tuyên truyền tấm gương sống, chiến đấu dũng cảm hết lòng vì đất nước vì sự nghiệp cách mạng của Đảng của Vương Đình Cung. Cung là con đồng chí bí thư lính ủy Hải Dương. Trước kia, anh học cấp 3 trường Yên Hoà (cũng không hiểu có phải Yên Hoà của mình hay không) – Anh xin đi học trường Đại học Nông nghiệp với mục đích sau này được phục vụ thiết thực cho đất nước, phù hợp với công tác của bố anh. Một đảng viên. Đất nước còn giặc, đã khiến anh không thể ngồi yên trên ghế nhà trường. Anh đã xung phong đi bộ đội – ở trong quân đội, anh là một chiến sĩ gương mẫu, 1 đảng viên tích cực . Đã 2 lần anh từ chối không đi học nước ngoài vì muốn được trực tiếp góp sức mình vào sự nghiệp cách mạng cứu nước của dân tộc.

Anh từ chối tất cả sự ưu tiên, đãi ngộ mà Đảng dành cho. Với anh, tất cả là cho Đảng, cho cách mạng. Tình yêu đằm thắm và mãnh liệt nhất trong anh là yêu chiến trường Anh có một mối tình đẹp đẽ, cao quí với Kim Anh- Anh đã hứa với A. bao giờ đến ngày toàn thắng mới trở về gặp nhau…

Đẹp đẽ xiết bao tấm gương của người đảng viên cộng sản trẻ tuổi Vương Đình Cung. Anh không còn sống nữa, những người Cộng sản có cần gì cuộc sống riêng tư, khi họ đã cống hiến đến phút cuối cùng hơi thở trong sáng của mình cho Đảng.

Hiểu cuộc đời Vương Đình Cung, mà mình hổ thẹn với lương tâm mình. Sao mình hèn kém và nhu nhược đến như vậy. Không thể nào tha thứ được. Thử hỏi mình đã có được niềm say mê cống hiến như vậy chưa? Mình đã sẵn sàng làm theo yêu cầu của Đảng chưa? Chưa! Phải thành khẩn nhận lấy điều đó. Mình đi bộ đội, chẳng qua là buộc phải đi! Không đi ư, thì tức là anh đã chống lại chính sách, chống lại Đảng. Đấy, những ngày đầu của mình đi bộ đội là như thế. Tuy đó không phải là chủ yếu, nhưng cũng phải thành thật mà nhận lấy thiếu sót đó. Nhưng giờ đây, mình đã hoàn toàn an tâm, phấn khởi. Mình mong mỏi khi nào được đi chiến trường. mình sẽ làm tốt những công việc gian khổ mà cuộc sống chiến đấu sẽ đặt ra. Mình mong mỏi sẽ vượt qua tất cả mọi thử thách. Mình sẽ sống, say sưa, chân thành, cởi mở, trong sáng. Mình sẽ xứng đáng với lòng tin của mọi người, sẽ sống cuộc đời đẹp nhất ở trên trận chiến đánh quân thù mà Lê Mã Lương, mà Vương Đình Cung hằng ao ước và đã sống đẹp đẽ.

8.4.1972

Ga Phố Tráng.

Dừng chân tại một bãi bạch đàn. Đi đâu cũng gặp bạch đàn thôi. Rậm rịch suốt đêm qua, chuẩn bị di chuyển (chẳng phải, chuẩn bị hành quân diễn tập cấp E). Nửa đêm, trời nổi gió – mưa lớn anh Tuyến phải dậy che lại lán, gió giật đùng đùng. Lạnh quá, mình và Quang lấy võng bạt ra đắp. Được một lát thấy lành lạnh, tỉnh giấc hoá ra vách lán bị bật, gió mưa tha hồ tốc vào. Màn và võng ướt hết. Che đậy xong, nằm ngủ thì có còi, lại dậy. Lúc ấy 2 giờ sáng.

Dỡ lán, xếp lại ba lô trong cơn mưa. Mình hiểu rằng không phải chỉ có riêng mình đêm nay làm những công việc này. Nhưng vẫn băn khoăn, nóng ruột và vẫn có một chút gì tự hào.

Ánh lửa loang loáng trên nền cát, đất cát – Nhưng cây bạch đàn thì chẳng còn nhìn thấy gì hết – Tội nghiệp – Chào bạch đàn nhé, các anh đi…

Cứ tưởng đợi ngớt cơn rồi mới đi. Ai ngờ các cụ ấy bắt đi luôn, trời còn tối mịt mùng, và gió đánh ào ạt trên đầu, nước mưa xối xả. Mình đi sau cùng của B. Trước mình là Y. Nó đeo cũng khá nặng. Và cả anh nữa, lần này dễ chưng nặng nhất từ khi đi bộ đội. Phía đại đội 1, bọn nó đốt lửa bập bùng, ngọn lửa bốc lên thật cao, lực phựt trong mưa giống như pháo hoa trên bầu trời Hà Nội. Mình bước qua một khe suối cạn, nước lấp xấp dưới chân – Và tự nhủ, mình được một hạnh phúc đây – Được đi cùng những con người dũng cảm trong đội quân chiến thắng.

Càng ngày, mình càng hiểu sâu sắc hạnh phúc lớn lao mà hôm náy mình đang được hưởng. Một nửa là nghĩa vụ và một nửa là vinh dự. Không hiểu có ai đã nói: Giải thưởng lớn nhất đối với người viết văn là được sống trong hàng ngũ quân đội. ở đó, anh sẽ thấu hiểu tất cả nỗi nhọc nhằn, đau khổ và những niềm vui bất tận của con người.

Mình rất nhớ Cầm vào lúc này, cũng như Hậu, Lăng, Thịnh. Cầm đang ở Quảng Bình, có lẽ không lâu nữa mình cũng sẽ vào đấy với nó. Mình nhớ bài thơ Bức tranh… Cầm đọc khi hành quân lần đầu. Ừ, ở nó thật sự có khả năng.

Mình nghĩ có lẽ cuộc sống tâm hồn của nó hẳn phải phong phú lắm. Giá như nó còn ở đây, chắc nó đã nghêu ngao hát và đọc những câu thơ hàm súc, uyển chuyển:

“Tôi đọc chuyện cổ tích của Ng.

Và biết được giọt sương đêm thánh thót nói lên lời.

Biết được mới tháng 4, trái đào còn chát

Biết được trái đất này nhọc nhằn mà đêm nào cũng hát

Những bài hát không tên…”

(Anđécxen – H N. Cầm)

Mình đã sửng sốt về nó nhiều và hẳn là còn phải sửng sốt hơn nữa. Được đi vào cuộc chiến đấu ác liệt của dân tộc với khả năng quí giá đó, nếu Cầm thực sự sống đẹp đẽ, hẳn nó sẽ là cây bút trẻ xứng đáng với lòng mong mỏi của mọi người.

Nhưng trong những người cùng đi với mình đêm nay, chẳng có ai đọc hay ngâm nga một câu thơ nào cả. Có Th. và Q. hát thôi, song mình nghi ngờ hiện tượng đó. Tối qua, Q có phát biểu trong buổi họp Phân đoàn, động viên mọi người lúc hành quân cố gắng hát hò cho phấn khởi. Mình để ý chẳng có ai hát cả. Q. nghêu ngao một bài gì đó,nhưng lạc lõng và tẻ nhạt biết bao. Dường như – Dường như thôi! Q. có ý tỏ ra rằng mình đang làm công tác động viên anh em đây.

Về D độ được 2 hôm, mình thấy anh em trong A sống không thật lòng với nhau. Mọi người còn ham chuộng thành tích và khen thưởng lắm. ít lâu nay mình có cảm giác mình không còn là người gương mẫu, tiên tiến như hồi còn nhỏ đi học nữa. Anh em không tín nhiệm là điều dằn vặt mình nhất. Dấu hiệu đó chứng tỏ rằng mình đang có chiều hướng đi xuống. Mình không ham chuộng một lời khen ngợi của thủ trưởng cấp trên, không màng lợi lộc gì hay 1 giấy báo công về gia đình. Có lẽ, mình đã sống quá riêng tư?

Nhưng mình rất không ưa việc mọi người tỏ ra quá sốt sắng tranh giành cái thứ tự nhất nhì. Để làm gì nhỉ, mấy bao thuốc lá giải thưởng ư? Hay là tiếng tăm? Trong B hình thành các nhóm khác nhau; nói bậy. nói tục… Lằng nhằng mình thật ghét. Những người đồng tình với mình sao ít ỏi như vậy nhỉ – Chẳng có ai cả – Mình nghe mãi mới lọc được câu nói của anh Mười: Người ta không thể sống riêng biệt với cá tính của mình! Không hiểu sao chính anh Mười lại là người tán thành lối biểu hiện thái độ dung hoà giữa hai cách sống. Người ta không thề chỉ nhìn nhận cuộc sống mà còn cần cả thái độ và làm việc để thay đổi cuộc sống đến hoàn thiện.

So kè thiệt hơn, tranh giành phần tốt – Mình chẳng thể nào hiểu được có những người lại tồi tệ như thế được! Lẽ ra, trong quân đội, khi cuộc sống của nhân dân ta gắn liền với Cuộc sỏng của đồng đội, người ta phải cao thượng, phải khiêm nhường hơn. Mình sẽ gắng sống như thế. Nhiều lúc mình chỉ thích chiều chuộng thằng Y thôi. Nó còn nhỏ tuổi quá mặt búng ra sữa, nhưng nhận thức nhanh và nhiệt tình sống, làm việc. Sung sướng thật, khi nình chiều được và được chiều Y. Nhưng có lẽ nó cũng chẳng thèm gì sự chiều chuộng ấy của mình.

Nhưng suy nghĩ ấy hình thành trên xe lửa từ Bến Tắm đến Bắc Giang. Cứ đi trẽn xe lửa lại nhớ Như Anh và các bạn đi học nước ngoài. Càng nhớ, càng thương Như Anh hơn, thương hơn và cứ vô hạn lần gấp lên mãi. Sao mình chẳng có đủ khả năng để diễn tả cái tâm trạng nhớ nhung đến cùng trời này.

Ngồi đây, trên là chiếc vọng bạt Trường Sơn này, nghe tiếng còi tàu từ xa quăng lại, thấy nao nao trong dạ. Trần Vàng Sao… Nơi tiếng còi tàu chẳng có cuộc chia tay nào cũng nhớ. Nhớ lắm? Nhớ lắm! Nhớ cái mùa hè đã đi qua như một đốm sáng. Nhớ bạn thương của lòng, nhớ cả dĩ vãng, gia đình, nhớ cả cái cành khô ở trước sân. Mùa hè gần lại vườn cây dâu Tàu, quả đỏ tím đỏ rực, ăn chua rôn rốt – Cả tiếng ếch ì ộp ở cái ao nhỏ trước nhà. Kỷ niệm bao giờ cũng nói thầm mà tron vẹn cả thanh âm thuở ấy.

Thêm một chuyến tàu đi, bánh chuyển sình sình. Đơn vị ngủ hết cả rồi, cả chiều nay ngủ để lấy sức mai đi.

10.4.72

Nghi Lộc – Nghệ An…

Dừng lại ở ga Quán Hành. Và bây giờ thì đang ngồi trong nhà dân. Điều bất ngờ nhất là gia đình mình ở có người con trai là thầy giáo của mình. Thầy Khang dạy Toán 2. Còn em nhỏ trong nhà lại là học sinh giỏi của miền Bắc. Mình chợt nhớ: đã đến đất Nghệ An, quê hương của Bác Hồ, của cà dằn mặn muối, của cụ đồ già. Đất này là đất học. Và chính vậy, trong nhà cũng có vẻ gì nho giáo. Cái bàn nhẵn bóng, mấy cuốn sách giáo khoa và cả cái địa chỉ của cô Kim Loan treo trên tường, sinh viên trung Đại học Sư phạm Vinh cũng nói được phần nào nhưng đặc điểm ấy.

Nhà vắng, chỉ có bà mẹ – bà mẹ Thung – và bé Hoà. Suốt ngày im ắng, cả ngoài vươn, ngoài ngõ, cả cánh đồng xa tít tắp đang xanh xanh màu lá ngô lon, màu khoai và bãi lạc. Quanh nhà cũng có hầm, nhưng hầu hết là lộ thiên và nông. Không ai có thể ngờ đây chính là đất lửa. Hay ít ra, gần đến đất lửa.

Ba giờ sáng, ở trên tàu giật mình thúc dậy, thấy bốn bề tối mịt mùng. Cửa sổ trên tàu chỉ thấy lờ mờ những dãy núi im lìm. Bật đèn mãi không sáng, mình bước chân qua chỗ bọn nó nằm ngổn ngang và kéo cầu dao điện – Vẫn không sáng. Có đũa đã hét toáng lên, đòi người đến chữa. Vẫn chẳng có gì cả. Chỉ thấy đằng chân trời hưng sáng lên, nhìn rõ cả dám mây hồng. Rồi tiếp theo là tiếng nổ. Tàu không chạy được nữa vì hướng tàu chạy đã bị ném bom. Các cửa chớp được hạ xuống và cấm bật đèn, y như hồi nào ném bom dữ dội ấy.

Thành phố Vinh còn xa, khoảng vài chục cây số nữa. Tối nay, bọn mình sẽ đến đấy, không hiểu có được đi ô tô không, hay là phải cuốc bộ với 30kg trên vai. Dẫu sao vẫn cứ thú vị, vì đây là lần đầu mình đi một chuyến xa Thư thế. Bây giờ thì xa Hà Nội thực sự rồi. Không còn phải mê ngủ, không còn phải tưởng tượng nũa. Mới hôm kia, còn đang tạm dùng chân ở bãi bạch đàn gần ga Phố Tráng, 4 giờ sáng đã dậy nấu cơm ăn, thì trời đổ mưa tắm tã. D. tập trung nghe tin chiến thắng của miền Nam, ta đã chiếm hoàn toàn cảng Cửa Việt – Và vùng đồng bằng sông Cửu Long đang ào ào khí thế nồi dậy của hàng chục vạn đồng bào. Lúc ấy, mình ao ước được đến hẳn chiến trường, đến giữa chiến trường mà tận mắt được thấy cảnh tượng hào hùng ấy. Hay ít ra, được đến gìn, rất gần chiến trường được đến Quảng Bình chẳng hạn – ở dó địch đang trắn phá mình dân cư cũng phải sơ tán về Hà Nội – và cũng ở đó đang thắng lớn có ngày bắn rơi 10 máy bay, có chiếc B.52… “cầu được, ước thấy” – Vừa ao ước thế, vừa buồn vì mình đang ngồi ở đây, dưới trời mưa thanh thản, rồi sắp lên tàu đến Mỏ Trạng, Yên Thế diễn tập. Nhưng ra ga, thì lính oà lên phấn khởi, đầu tàu hướng về phía Hà Nội – “Đi” rồi! Thế là nhất định vào trong ấy. Vội vàng viết thư – Tàu qua Cửa Nam những cánh thư trắng bay ào ạt xuống đường gửi hộ nhé, gửi hộ nhé – Báo cho những người thân của chúng tôi rằng, chúng tôi đã xa Hà Nội lúc ấy là 12 giờ trưa 9.4.72.

Biết bao nhiêu lần hành quân, nhưng chẳng lần nào xúc động như chuyến tàu này cả – Chuyến tàu đi đúng con đường dành cho nó – Vào Nam. ở đó, chiến trường đang cần đến những cánh tay khoẻ mạnh đang thò ra cửa sổ toa tàu mà vẫy gọi khách qua đường – Phải, lúc mà một anh bộ đội gặp được người nhà trên sân ga hay dọc theo đường sắt Thì đó không phải chỉ một mình anh xúc động và vui sướng. Mà đó là niềm vui và nỗi xúc động của tất cả đoàn tàu Con đi mẹ nhé! Đi nhé! Đi nhé! Những cô gái cũng hết cả rụt rè giơ cả hai tay lên vẫy, vẫy mãi,… rồi tinh nghịch lấy ngón tay nhỏ xíu trỏ lên đầu nhắc anh bộ đội hãy giữ gìn cuộc sống của mình. ù, chết làm sao được cơ chứ, đùa một chút cho vui. Ai cũng bị lây cái không khí rạo rực khí thế lên đường ấy, cả những em bé vừa đứng vững giấu mặt sau hàng rào xi măng mà vẫy. Y cứ xuýt xoa mãi vì ngồi bên cửa sổ, nó nghe rành rọt tiếng một đứa bé chỉ 5, 6 tuổi ở ga Phủ Lý. Các chú đánh xong giặc Mỹ mà về nhé!- Đấy tiếng nói của trẻ thơ, là ước muốn day dứt của hàng triệu, hàng triệu người trên trái đất.

Ta đi theo tiếng gọi của miền Nam, và cả sự thôi thúc của miền Bắc đang khôi phục – Một nhà ga Ninh Bình vừa dựng bên núi đá, một dòng sông Đáy xanh lững lờ trôi vào bài thơ trữ tình ngọt lịm của Tố Hữu, một chùa Non Nước còn âm vang chiến công của tổ ba người Giáp Văn Chương… Tất cả đang giục giã anh chiến sĩ, hãy đi đi, hãy đi và chiến thắng.

Thật đáng tiếc biết bao, tàu chạy thâu đêm và khi qua núi Ngọc, qua cầu Hàm Rồng vĩ đại, thì những anh lính trẻ đang ngủ mê mệt. Vả lại, có thức mà đễ ý nhìn cũng không thể nào thấy được cầu vì trời tối quá. Những chuyến tàu vào Vinh đã 1 llố chạy được ban ngày nữa vì máy bay địch bắn phá dữ dội.

Vào tuyến lửa, chưa gặp những cô thanh niên xung phong, nhưng đã gặp các “thím” bộ đội – ờ, rất lạ, các trạm dừng chân của bộ đội, hầu hết là bộ đội nữ – đều rất trẻ – Và điều này thì các cô gái Thủ đô không “hài lòng”(!) các cô gái bộ đội ở đây đều xinh và có duyên – Dễ mến, nhưng đừng hòng bắt nạt. Thí dụ như lúc lấy gạo ở binh trạm, gạo lụt nên xấu, có cậu lừa lúc chủ nhà cân đong, chạy vào kéo một bì gạo mới, ai dè chủ biết được, vậy là nắm luôn lấy bì gạo mà té tát: Ai cho đồng chí vào kho? Đồng chí chưa được học điều lệnh à? Cù nhầy mãi, cô ta mới tha cho và còn đe: Lần sau mà thế thì trói vào kho đấy? Ai trói mới được cơ chứ – Câu vô chủ rồi.

Mà cũng khó, gọi là cô, là các anh thì không được – Điều lệnh không cho nói thế. Vậy mà cứ các cô và các anh hoài, không thể đe được. Lại thêm một cái cớ cho lính đùa.

Mới biết, những người lính trẻ cần hết sức giữ gìn khi hiện tượng buổi sáng xảy ra ở ga tàu. Không thể coi thường được, phải giữ gìn mình ngay cả những điều nhỏ nhất.

12h5 rồi, 14h30 là “chuyển bánh”.

Cẩm Hưng – Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh

7 giờ sáng.

Ngủ trên võng bạt mắc trước cửa nhà. Nhà chật quá, chỉ đủ cho 3 người nằm giường. Đấy là 2 đứa nhỏ đã phải dồn vào chỗ khác. Đêm lạnh và mê mệt. Sau một đợt đi ô tô nhừ tử hôm qua 3h30 chiều lạ hành quân ra quốc lộ 1A. Tập trung trong một ngã ba đường đất đỏ kín đáo – ở đây đã tấp nập không khí khẩn trương của cửa ngõ mặt trận. Mũ tai bèo, quân phục mới toanh, nhưng khẩu pháo nòng dài ngoằng và những chiếc xe xích sắt nổ máy làm rung chuyển lòng đường, lòng người, cả đạn dược, nhà bạt, cả quân trang, quân dụng… lỉnh kỉnh, lỉnh kỉnh. Tưởng chừng đây là đoàn quân đang thật sự đi vào tiền tuyến. Mà có lẽ thật sự đang đi vào chiến trường, điều đó không thể nào khẳng định khi đang ở đất A này.

Lại tạm biệt Nghệ An, tạm biệt Như Anh. Sắp đến thành phố Vinh, thành phố Đỏ bên bờ sông Lam, con sông chảy qua quê hương cha Như Anh… Thành phố mà chỉ một lỗ thủng trên mái ngói cũng đủ cho Phạm Tiến Duật xúc cảm nên một bài thơ đặc sắc. Bên đường, còn những hố bom 3 giờ sáng qua giặc vừa ném xuống. Nhìn người dân thành phố đứng nhìn ngôi nhà tưng ngói và hố bom lở loét lở loét với vẻ thờ ơ bình thản lạ lùng, thấy vững lòng vô hạn – Đúng là ở đây “hố bom là chuyện thường không nói nữa (T.N.T).

Thành phố đổ nát nhiều, nhà 4 tầng, nhà 3 tầng sụp đổ và rêu đã lên xanh, nhưng cũng trong những ngôi nhà đó, là vết xi măng nâu nhạt loang lổ, là cần trục và giàn giáo vươn thẳng lên trời… Những ngôi nhà một tầng kiểu cổ, mái vẩy cá ẩn mình trong cây lá xanh um, bảo người qua đường biết lịch sử lâu đời của thành phố nên thơ. Mình nhìn núi Quyết, núi Hồng Lĩnh và nhà máy điện Vinh, những tên đất nước đã đi vào lịch sử, thế mà mọi cái đều đơn sơ đều giản dị như chính con người tuyệt diệu ở đây. Núi không cao, không lạ, vẫn cây cỏ ấy, vẫn con đường mòn lên núi. Nhưng là điểm cao nhất của thành phố. Ta đã chặn lũ cướp trời từ ở chỗ này! Điều đặc biệt nhất là ở bến phà Vinh, xe tập trung lại đông nhất – ô tô chở bộ đội được đồng bào ưu tiên, vượt qua hàng mấy chục chiếc xe xếp dọc bên đường. Lúc ấy trời đổ mưa, hạt nhỏ nhưng mau. Sông Lam dâng những đợt sóng mạnh và dài. Mình đứng ở bên trái đầu phà, chỗ ấy gió mạnh nhất và hứng nước mưa nhiều nhất. Mình muốn thả sức cho mưa gió sông Lam phả vào người, ướt hết cả nửa người, lạnh lắm. Ngoảnh lại nhìn bờ, thành phố hiện lên như một giấc mơ, trời rất mù, không thể nhìn thấy ống khói nhà máy, nhưng từ đỉnh sóng sông Lam mưa bụi, ánh điện loè nhoè như sao sa. Ừ, đúng đấy, thành phố đang hát bên bờ kia…

Mình bỗng nhớ câu hò của người con trai buồn man mác và tủi tủi, câu hò trả lời người con gái mênh mông trên dòng vừa trong vừa mát: “Trách em sao nỡ hỡi bạn lòng ơi . Sông đục và lạnh, trong gió mưa, một cánh buồm vút hình vỉ lủi thủi cuốn trên mặt sóng… Sông Lam của em đây…

Bắt đầu những con đường quanh co, lượn theo những ngọn đồi thấp và đen kịt trong đêm. Ngồi trong ô tô tải, giữa đống người và máy móc, chỉ nhận thấy con đường qua ánh đèn của xe sau. Hố bom, hố bom, hố bom. .. cứ lần lượt hiện ra qua khoảng nhỏ của cánh tay bạn níu lấy mui xe cho khỏi ngã. Mỗi hố bom là một lần xóc nẩy tưng người Đường vắng khách đi bộ, đi xe đạp, thỉnh thoảng mới thấy vài người vội vã trong áo mưa – à, đất áo tơi mà. Hà Tĩnh đây rồi. Lại có nhiều là những chuyến xe “vô ra” tiền tuyến…

Buồn nôn kinh khủng, và có lẽ sẽ không thể chịu được nữa.

Cẩm Lạc – Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh

Tưởng hành quân xa lắm. Nhưng quanh quẩn vẫn trong huyện Cẩm Xuyên – Bắt đầu tập trung từ 4 giờ chiều. Và chỉ 9 giờ tối đã tới nơi. Dọc đường hành quân, mình được nghe những đồng chí đi trước kể rất nhiều về tuyến đường giao liên quan trọng bậc nhất của chiến trường. Người ta nói rằng: những năm địch đánh phá ác liệt, không lúc nào ngớt máy bay trên đầu, bom giặc thả bên đường chi chít. Ban đêm pháo sáng như ban ngày và ô tô chạy thầm, chạy bằng đèn gầm thoi thóp. Bao nhiêu chiếc xe đã đổ, đã bị bẹp trên con đường huyết mạch ra tiền tuyến này. Nhưng hàng vẫn ra tiền tuyến, bộ đội vẫn ra tiền tuyến và thắng lợi cứ lớn dần lên mãi. Kỳ diệu vô cùng đất nước chúng ta.

Hành quân ban đêm giữa cánh đồng tối đen như mực, đeo nặng, mệt, nhưng khoan khoái biết chừng nào – Tháng 4, đom đóm bay ra sáng lung linh trong cỏ, trên những bụi cây ướt hơi sương. Bỗng nghĩ, đom đóm có tên riêng không nhỉ, con đang lượn dưới dòng suối cạn hẳn tên là Kiều Diễm vì nó trong sáng và hiền dịu lạ lùng, vì nó lấp lánh lấp lánh đến kinh ngạc đấy bạn ơi.

Mình hỏi Chương – Có biết bài hát Con đom đóm – Bởi đang nhớ tới hôm nào đi bên Như Anh. Như Anh cũng hỏi mình như vậy. Làm sao Chương có thể biết được bài hát ấy- bài hát trên đường Nguyễn ái Quốc, trong đêm tháng 7 yên tĩnh, êm.đềm. Chương bảo: Bài hát ấy thế nào? – Sao khi Như Anh hỏi, mình không biết đường hỏi câu như thế?- Bài hát ấy thế nào hở Như Anh? Vậy mà những con đom đóm vô tư lự ấy cứ múa lượn hoài – Nó biết đâu rằng, có anh lính trẻ đang mơ hồ nghĩ về một bóng dáng xa xôi qua ánh sáng mờ ảo xanh của nó…

Đang diễn tập, vả lại, cũng gần tới chiến trường thật sự nên người ta cấm bật đèn pin – Chỉ có những điếu thuốc lá Sông Hồng loại 4 hào là tha hồ đỏ ở đầu môi – Trong đêm khuya lố nhố bóng người đứng, ngồi, lố nhố ba lô xoong nồi và cả đòn khiêng chọc thoải mái vào những vì sao xa nhất…

Con đường vào làng bẩn đến kinh khủng. Bùn ngập đến mắt cá và nồng nặc mùi phân trâu. Thật là khó ngấn. Bộ đội vừa đi vừa rủa. Đường thì không hẹp lắm đâu, còn khá rộng là đằng khác. Ô tô vận tải có thể ra vào thoải mái. Nhưng chỉ tội bùn, phân. Gánh nặng, đường trơn – Sơn bảo: Đây là tình huống thứ 6(!). Mãi đến khi xuống một cái dốc nhỏ khô ráo, thoát khỏi con đường trâu đi mới cảm thấy thú vị và nên thơ một chút. Như một giấc mơ, khi qua ô cửa tò vò của vòm cây, lập tức hiện ra một bãi cát chạy khá xa. Đến sáng mới biết đó là dòng sông đang mùa rút nước – Chỉ còn ít ở bờ kia, lội đến đầu gối hay hơn một chút – Sông chắc là trong lắm, vì đáy và ven sông toàn cát mà thôi. Bộ đội qua sông lòng rất vui, hứng khởi – Thật giống như cảnh chiến trường mà mình đã xem trong bộ phim tài liệu… ở bờ kia, sau lá, lò đỏ ánh đèn, có o gái giao liên đứng chờ anh bộ đội. O cười nghe vui đáo để, và cứ nhất định giằng lấy ba lô của Vực để đeo hộ. Mình chợt nhớ dọc đường hành quân, Hùng đã ca kéo thế nào mà một o to người mới lớp 7 đã gánh hộ hai cuộn dây nặng chích. Gớm thật, các chàng trai của A hữu tuyến, giỏi mồm giỏi miệng!

Mới lần đầu, mình đã cảm thấy ưa dân khu 4. Thật thà, chất phác và giác ngộ. Mình và Y, hai đứa vào chung nhà ông Y – có một con trai đi bộ đội, anh đóng ở Nghệ An, gần thành phố Vinh, có 2 cô gái lớp 7 và lớp 5, còn đứa con trai gần nhất tên là Hùng thì rất vui, rất kháu, rất quí các chú bộ đội đến địa phương này.

Ở đây dù già, dù trẻ, đều gọi bộ đội là “chứ . Mình nghĩ, chữ “chú” ấy đã vượt ra ngoài khái niệm “chú em” và “cha chú” – Nó đã giành ra một địa vị đặc biệt kính trọng và âu yếm cho anh bộ đội – Cũng như chữ “bác” vô cùng độc đáo mà dân tộc đã dành riêng cho Bác Hồ. Như thế đấy ở đây ở vùng mà những đoàn quân vào ra chiến trường đều phải dừng chân, người dân chân đất này đã thấu hiểu, đã thương yêu và cảm phục anh bộ đội, con em của họ, ruột thịt của họ – niệm vui và niềm hy vọng của cả xóm làng.

Đến Hà Tĩnh, vào bất kỳ nhà ai, người ta cũng hỏi: Các chú đi vô hay đi ra? Như vậy nghĩa là: đã vào đến Hà Tĩnh là ít nhất cũng sẽ được nhìn thấy chiến trường. Ít nhất cũng phải được một lần nắm lấy hòn đất còn đượm hơi lửa napan mà suy nghĩ đến những điều lớn lao của cuộc sống. Suy nghĩ đến tương lai, đến chân lý của thời đại. Lúc đó, sẽ hạnh phúc biết bao.

Đến đâu, cũng phải đào ngay hầm. ở chỗ tạm dừng như Nghi Long – Nghi Lộc hay Cẩm Hưng, thì chỉ cần đào khoảng 80cm, nghĩa là ngồi ngập đầu là được. Đào xong đi là vừa, nhưng vẫn phải đào để sẵn sàng chiến đấu. Còn đến đây, chỗ ở tương đối lâu hơn thì phải đào sâu 1m50, có hàm ếch hoặc có nắp để tránh bom bi, bom phá và đạn địch pháo kích. Đêm qua, địch cho tàu chiến pháo kích qua cầu Hộ chỉ cách đây vài km. Cả trưa nay cũng vậy, lúc mình ngủ nghe có tiếng ì ầm, té ra tàu chiến đang pháo kích. Biền cách đây chẳng xa lắm, theo đường chim bay là 4km. Có dịp nào sẽ ra biển, mặc dù tình hình phòng không khá căng.

13.4.72

Sáng nay cả A, hầu hết lên “rú” kiếm củi, ở nhà có nình Y và anh Tr. làm bếp – Làm quanh quẩn buộc mấy cái nan tre lên mái là xong, tuy khói cũng um lên làm mình và Y ho sặc sụa. Mình cứ đữi anh Tr. cho chẻ lạt. Tục ngữ đã bảo: “Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác / Đàn ông không biết buộc lại là đàn ông hư” mà. Buộc lạt thì dễ dàng thôi, nhưng chẻ lạt thì quả là mình vụng lắm. Phải tập dần, rèn dần và chắc là làm tốt thôi.

Hôm nay cảm thấy thấm mệt và người hơi bải hoải. Mình nhớ đến buổi họp A tối qua. Thực tình mình cũng không ngờ bọn nó buồn cười như thế – chẳng qua Q. và Đ. là nhờ có sự lười họp của đồng đội mà này nọ thôi. Mình đã nghĩ và nhủ bao nhiêu lần. Tất cả những điều đó chỉ là trò trẻ con, nhưng vẫn cảm thấy buồn buồn và hơi nản chí. Người ta bảo rằng số phận càng ít chiều người nào thì người đó càng hạnh phúc. Càng gay gắt, càng nghiêm khắc với bản thân, thì càng tiến bộ nhanh. Mình cần gì một lời động viên hão huyền của một người cán bộ nào nhỉ. Làm việc là theo lương tâm, theo nhiệt tình cách mạng của mỗi người. Mình không thể chịu đựng được cái thái độ giả dối, bợ đỡ cấp trên và lấy lòng cấp dưới – Không thể chịu đựng được thái độ lên mặt kẻ cả, phát biểu với giọng khề khà nhạo báng của Đ. Nói chung, sống trong tập thể này không được thoải mái lắm. Gò bó và người ta sống không lành mạnh, giản dị, chân thành. B trưởng Lộc cũng không phải như mình suy nghĩ. Anh nhiệt tình, xốc vác, nhưng nhiều lúc lên tiếng cán bộ, hay cáu gắt.

14.4.72

Chuẩn bị đi lấy củi trên rừng. Hôm qua mình và Y định lên lấy mấy cây gỗ nhỏ về làm nắp hầm, nhưng nghe người ta nói thì rừng cách đây xa, 8km cơ, Thế mà hôm nay sẽ phải đến đấy lấy củi về đun. Hơi ngài ngại, nhưng chắc vào rừng sẽ thú vị hơn. Nghe tụi nó nói thì rừng có rất nhiều cây cơm nếp thơm lừng.

Nói chung, mình cảm thấy bây giờ đã quen sống thay đổi môi trường nhiều, nên không cảm thấy hết những điều mới lạ đang đến với mình. Chỉ nghĩ lại rằng, thuở nhỏ cứ mỗi lần chuyển chỗ ở (đi sơ tán hoặc chuyển nhà), là ít nhất một đêm mình khó ngủ – Cái cảm giác bồn chồn, rạo rực, cái cảm giác mới mẻ xoa dịu trôi trong cảm nghĩ như một đám mây bông. Để rồi buổi sáng, nhất định thằng bé lại mò ra ngõ, ngắm nghía cái lối đi về và cái cửa từ nay bắt đầu thân thương, quen thuộc… Song, giờ đây, không còn cảm giác lạ lẫm ấy nữa. Tới đâu cũng quen ngay và không cần có một thời gian nghiền ngẫm, sờ mó, tìm tòi hay kinh ngạc nữa. Dạo đến Đồng Châu lấy nứa, thảy những ngôi nhà lợp phên thấp thoáng trong cây lá bên dòng suối cạn, nước lay lức mà trong, nhìn thấy chiếc cầu vá víu bằng hàng trăm thanh gỗ xơ mướp… mình tưởng như không có gì lạ cả. Cái lạ lùng đối với mình là hàng rào quanh nhà chỉ gồm những thanh gỗ đặt gác lên một chạc cây ở đây cũng thế, nhà cửa cũng giống Nghệ An, bếp luôn luôn ở bên trái và kề sát nhà. Ngồi trong nhà thỉnh thoảng lại có mạng nhện đen bụi rơi vào cổ áo. Ngẩng lên nhìn thì cả mái trong đen ngòm – Người ta bảo như vậy thì đỡ mọt. Kể ra thì cũng hơi lạ một chút – ở đây chỉ khác một chút là sân phần lớn trát xi măng, bể nước hình trụ thấp lè tè. Người ta gánh nước ở sông theo một thói quen tốt: Ra giữa bãi cát giữa sông, khoét 1 lỗ và múc nước thấm vào đấy Như một cái bể lọc thiên nhiên vậy. Kể cũng sạch – mặc dù sông nhìn đã rất trong, thấy cả cát sỏi dưới đáy và những bụi cây gì đó mình chưa biết tên.

Thiên nhiên chỉ khác có vậy thôi, còn thì quen thuộc cả Cả lối vào nhà lối đi xuống sông cũng không có gì lạ. Vẫn là những âm thanh quen thuộc của con bìm bịp ở một quãng sông. Vẫn tiếng chim nhại theo tiếng lá tre rung trên môi anh bộ đội quen thuộc, quen thuộc như những con người ở đây.

Họ có lẽ cũng quen thuộc với cảnh bộ đội vào nhà ở và không coi đó là một hiện tượng đặc biệt. Bình thường như một nếp suy nghĩ, như một thói quen vậy. Và điều đó làm cho anh bộ đội dễ sống hơn, dễ quen hơn, dễ làm việc hơn. Nhưng liền đó, mình thấy thật sợ một điều, có lẽ, chẳng mấy chốc mà những cảm giác tươi mát, những cái nhìn trẻ dại sẽ chẳng còn ở trong con người mình nữa. Mới hiểu trước kia Xuân Diệu ao ước nhìn đời bằng đôi mắt xanh non mãi mãi, là một niềm ao ước chính đáng và hết sức khó thực hiện. Mình không tin rằng sẽ giữ được cái nhìn bỡ ngỡ quí giá ấy, vì giờ đây mình đã cảm thấy quen thuộc với mọi cái ở đây rồi. Người ta đi tìm cái mới trong cuộc sống cái tốt đẹp đang nứt nanh như thế nào nhỉ? Dạo lớp 10, nghe thầy Lưu kể và nói rất nhiều về việc đi thực tế của các nhà nghệ thuật. Người ta không tìm cái mới lồ lộ đập vào mắt, cái lạ của phong cảnh, của y phục của con người mà họ cắm sâu hàng năm trời, cắm sâu vào một vùng đất nước – Và ở đó họ sẽ sống, họ sẽ làm việc, họ sẽ hiểu con người và những sự tích kỳ diệu của họ trên mảnh đất này. Mình hiểu như vậy, biết như vậy, nhưng vẫn thấy lúng túng. Mình thấy mọi cái đều bình thường, bình thường đến mức độ chẳng có gì đáng nói. Không hiểu ở đâu đã và đang hiện ra những sự tích người ta hằng ca ngợi chứ ở đây, không, nhất định chẳng có gì ghê gớm cả.

Mình đi rừng hôm nay khá xa, nhưng phần lớn là qua cánh đồng và bãi cây thấp, chủ yếu là sim và mua. Buổi sáng nhìn ra cánh đồng thấy mù mịt sương. Sương mù làm nền cho bức tranh những con người đi làm, sắn quần quá gối. Dãy núi xa xa, xanh trang nghiêm, có những đám mây trắng ùn lên từ dưới thung lũng. Mặt trời nhô dần lên đấy. Và đến gần chân núi, càng thấy một cách rõ ràng: đây là phong cảnh thực, chứ không phải tranh vẽ. Bầu trời xanh mát và hơi chói rất xa đằng sau dãy núi gợi một cảm giác rất thực mà rất mơ hồ. Bên trái là hồ nước kéo dài, còn trước mặt là một khúc sông đáy toàn cát và sỏi. Tất cả cửa rừng giống hệt một bài thơ cổ trong sáng của Đỗ Phủ hay Lý Bạch. Rừng Hà 1 nh đây, cỏ rất cao, khiến người ta muốn thấy trên sườn núi một đàn bò sữa như ở nông trường. Chao ôi, cái sườn núi êm và mịn như nhung. Bỗng nhớ Câu ca dao, mà giờ đây mình mới hiểu rằng, nó chưa nói hết được cảnh đẹp mê hồn ở đây:

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”

Chính trong phong cảnh hữu tình đó, mình đã nghe tiếng gà rừng gáy trong một bùi cây thấp ở không xa con đường mòn vết chân người – Đã nhìn và nghe chim bách thanh hót, con chim đứng thèo đảnh trên một tảng đá, cái tảng đá như con cóc nghếch mõm lên trời.

Bọn lính quấy bên B vận tải vác cả súng lên rừng – Chúng nó bắn loạn xạ vào bầy chim đậu đầy ở bãi cát ven sông. Và lúc sắp về. chúng nó bắn được một con cáo con, màu đen có vằn xám, nom rất giống con mèo. Người ta bảo rừng này có nhiều thú, mình thấy bên suối nước đổ từ đỉnh núi theo một dải đá lớn, có nhiều vết chân lợn rừng. Ở những khu rừng già mọc trên đỉnh núi, mọc dưới thung lũng, còn ở sườn thì nhiều cỏ non như thế này, có lẽ sẽ có nhiều lươn. nai…

Nói chung. đi vào rừng với bọn trong A không thích lắm. Thiếu những người hiểu biết nhiều về rừng và những tay gan dạ. Chỉ có Được, đã ở rừng Nghĩa Lộ nhiều nên tương đối có kinh nghiệm, nhưng Được lại hơi “bo bo”, và không muốn giúp đỡ người khác. Mình cũng chẳng thích. Lúc rẽ ngang con đường mòn lên núi để vào thác nước nhỏ vì từ xa đã nghe tiếng nước chảy ầm ào và thấy cả những cây chuối rừng xanh mướt. Mình rủ mãi, chẳng ai muốn vào cả. Có lẽ vì họ sợ, sợ những cây gianh cao lút đầu người cứa vào da thịt những vết xước đáng sợ, họ sợ những cây mây gai dài như ngón tay út sẵn sàng đổ xuống cổ Và cái sợ nhất theo mình, có lẽ là mùi đất mốc trắng, ẩm ướt, tối, lạnh. Vậy là mình mặc dù gan cũng “thỏ đế” lắm, minh cũng cứ chui tọt vào trong – Đề thốt lên kinh ngạc. Những tảng đá to bằng tấm phản nằm gối lên nhau thành những bậc thềm cho dòng nước trong vắt xoa từ trên đỉnh xuống.

Sao chính những lúc như thế này, lại nhớ Như Anh đến bồn chồn, nhớ đến nghẹn thắt cả trái tim lại. Dòng nước trong vắt này đây Như Anh chưa và chẳng hề được thấy. Chỉ mình mình và tụi quỉ sứ hò nhau cởi quần áo xuống tắm – tắm và đùa nghịch, nhưng nhớ đến Như Anh, những suy tưởng ngày mai, khi mình đã trở về nguyên vẹn và gặp lại Như Anh. Mình nhớ đến ngày đầu hai đứa gặp nhau, dạo ấy là tháng 4 này đây, ngày 18. Như Anh đang đọc “Bốn mùa” của Pritsv. Mình trở lại cái không khí ấm cúng, rạo rực của buổi đầu, trở lại cái dịu dàng, cái dịu dàng của bàn tay Như Anh, của đôi mắt Như Anh, của cái miệng cười xinh xắn… Thương Như Anh hết sức, muốn chiều Như Anh mãi. Muốn hái cả rừng hoa này mà tặng Như Anh. Muốn giữ lòng mình thật trong sáng để đem hết cho Như Anh… Như Anh ăn quả mây không? Ăn quả dưa rừng không? Đỡ khát nước lắm đấy. Và Như Anh nếu có đến đây, cũng cẩn thận vào, vắt nhiều vô kể, đừng vội vàng mà ngã đấy, ướt hết… ù, nếu như mình còn đi học thì tốt biết bao nhiêu – Nhưng, đành vậy, dĩ nhiên mình đã làm Như Anh khổ rất nhiều – Có ai đến với Như Anh, nói hộ mình nhỉ…Bao nhiêu lần như thế. Và lần nào, ngày nào cũng như thế, mình nhớ đến Như Anh, nói chuyện và nghĩ đến Như Anh trong cái ồn ào, ầm ĩ và rối loạn của công việc hàng ngày. Chúng nó đang nói những điều buồn cười hết sức – Và nó chỉ nghiêm chỉnh với những nhà nghiên cứu sinh vật. Nó bảo, con ếch đực tiếng kêu trầm hơn, còn ếch cái tiếng kêu thanh hơn. Còn cua đồng thì cua đực bao giờ cũng to một cách phổng phao.

– Thế con người? – Một câu hỏi thế. Người ta nhìn nhau và cười Cuộc đởi tươi và buồn cười như vậy cơ đấy!

Đúng là đại bác bắn ruồi, vì đi suốt buổi sáng vào tận rừng mà chẳng lấy được tí củi nào. Củi thì nhiều, nhưng lượng sức, mọi người biết rằng không thề lôi cái khối ấy về đến bếp ăn được, nên đành chịu. Thế là mấy thầy trò kéo nhau xuống bãi sim, mua mà chặt. Tròng teng mỗi đứa 2 bó củi thế là tếch về. Vừa đi vừa ngượng, vì ít quá. Bộ đội thì toàn “gộc trà xề” mà gánh củi thì đứa trẻ con nó cũng chỉ cầm 1 ngón tay là đủ.

Trước kia, mình được phát viên thuốc sát trùng để uống nước suối. Mãi hôm nay mới dám uống 1 ngụm. Nói chung, cũng không có gì lạ lùng lắm. Vì mình đã có lần uống nước sông còn đục và bẩn hơn nhiều. Chỉ có điều hơi sợ là uống nước suối nhỡ nó chảy qua cây thuốc gì độc thì đáng ngại đấy.

Lúc về, trời nắng gắt, nóng nhiều, anh Truyền bảo: Trời thế này nó dễ ném bom lắm đây. Buổi sáng, mình nghe thấy phía Quảng Bình rất nhiều tiếng nổ ầm ì. Mấy hôm nay, ở đây, mình đã thấy tình hình chiến sự khá căng. Lúc ở Cẩm Hưng, nghe nói đích định đổ bộ xuống mấy điểm cao, dân đã được lệnh sơ tán và bộ đội chuẩn bị chiến đấu gấp lắm rồi.

Chiều nay, máy bay địch ra rất nhiều. Từ bên Lào và cả từ ngoài biển. Lúc ăn cơm xong, thấy ầm ầm trên đầu, mình chạy vội ra sân thì thấy 5 cặp máy bay rất chậm từ phía Quảng Bình ra. Nó bay như đi dạo vậy – phía núi thì 3 cặp. Rồi sau đó, rất nhiều, rất nhiều cặp bay vào dọc theo con sông nhỏ, nó phì khói đen ở đuôi, nghiêng cánh và bay rất thấp. Bọn mình đứng ở dưới mà ức lộn ruột: Đất nước của mình mà nó bay vào tự nhiên và láo xược như thế. Cái đáng băn khoăn nữa là lực lượng phòng không ở đấy lại quá mỏng. Trên bầu trời Hà Tĩnh, mình chỉ thấy có hai vệt tên lửa yếu ớt và lẻ loi bắn lên. cũng chẳng rơi chiếc nào cả. Còn thì tuyệt không thấy phát đại bác hay pháo cao xạ nào cả.

Cứ sau mỗi tiếng rú của máy bay tăng tốc là lại nghe rầm rầm tiếng bom. Máy bay vừa bay qua đấy, tiếng pháo mình bắn lịch bịch, lịch bịch. Thỉnh thoảng lại rầm, rầm tiếng bom và tiếng lẹt rét của máy bay.

Dân không cảm thấy đột ngột. Việc ai người ấy làm. Còn mình và tụi lính mới thì bồn chồn và cứ ra ngóng máy bay hoài. Nó bay chậm, rất chậm. Chậm muốn thét lên ấy. Rồi nhào xuống cắt bom. Nó ở trên đầu đây. Không thấy pháo bắn gì cả.

Tập 8

 

15.4.72

Nắng Hà Tĩnh oi và bức bối hơn ngoài mình. Sáng sớm, sương mù dày đặc, vào đến gần chân núi rồi mà vẫn còn ẩn trong sương. Ai mới đến đây lần đầu cứ tưởng đây là một cánh đồng xa tắp – Hồ nước chỉ khẽ trắng lên một chút dưới cái vệt đen của núi. Thế mà chỉ thoáng một cái, không hiểu từ bao giờ, nắng đã bàng hoàng đến gõ ở sau gáy Bây giờ, Hà Nội có lẽ mới là nắng mới, nhức đầu một chút, nhưng còn dịu và phải sáng một lúc lâu mới có nắng. Mình chợt nhớ rõ thì năm ngoái dạo này còn đang treo áo bông cơ mà. Và bức ảnh Như Anh gửi cho mình, Như Anh còn mặc áo bông…

Người ta bảo, vùng này là trung tâm của gió Lào, và cũng sắp có gió Lào đấy – chẳng mấy chốc mà cháy đen cả người Được cái có con sông trong vắt. nên thường được tắm luôn. Từ hôm đến đây, hôm nào mình chả tắm – Có ngày tắm đến 2 lần. Những ngày như thế này, chắc ở nhà cũng ít có.

Hôm qua, ta bắn rơi 6 máy bay: Hà Tĩnh bắn 1, Nghệ An bắn 1, Quảng Bình 2, Vĩnh Linh 2 – Kể ra như thế còn ít quá Riêng Hà Tĩnh hôm qua có vài chục chiếc ra, chúng nó bay bình tĩnh như đi dạo vậy – Hầu như không gặp một trở lực lào Cứ từng tốp 2 chiếc bay song song, nó lượn mấy vòng ngó mục tiêu chán rồi mới lao xuống ném bom Những chiếc AD6 nghiêng cánh phụt khói dài lê thê, nom tức lộn ruột mà chẳng làm gì được nó cả. Có lúc hắn bay thấp nhìn rõ cả buồng lái. Thật đáng tiếc, nếu lực lượng phòng không ở đây dầy đặc như Hà Nội hay các thành phố khác thì nhất định chúng nó không thể ngang tàng như thế được. Cầu Hộ hôm qua cũng bị sập, cái cầu phao bồng bềnh mà mình đã đi ô tô hôm qua. Bom nó ném rất nhiều, ném cả vào những chiếc máy kéo màu đỏ mới

chở đến nông trường đằng sau núi.

Còn hôm nay thì yên tĩnh lạ thường – Không có tiếng máy bay, không có tiếng nổ – Các cụ già ở đây bảo rằng những năm địch đánh phá ác liệt, không lúc nào ngớt tiếng máy bay ở trên đầu tiếng pháo địch kích từ ngoài biển vào tiếng bom ình ình – anh thoảng, một ngày trọn vẹn không có máy bay, mọi người thấy nhớ nhớ, thiếu thiếu…

Làm sao địch có thể gây được tình trạng căng thẳng ở đây, khi mà bom đạn trở thành điều không đáng nói trong cuộc sống?

Đêm qua, lúc đi lấy gạo, pháo ta bắn lên trời như pháo hoa đỏ rực cả một góc trời – Còn buổi chiều, phía ấy rực lên một màu chói lọi – Đúng là bom đạn không thể giết được chất thơ của đất nước. ở nhà lá dài chứa gạo, hồi chiều máy bay lượn quanh mãi, trời vừa sụp tối, ngồi sao Hôm cô độc của Như Anh vẫn hiện lên, nhoè trong sương, nhưng người ta vẫn nhận ra rằng: ngôi sao đó sáng và trong lắm – ở trên cái nền xanh biếc, chùm lá phi lao li ti sẽ đu đưa một cách thần thoại. Cuộc đời vẫn như chẳng hề có chết chóc, có đau thương…

O Hồng (Như Anh và cả mình, ghét cái tên ấy lắm đấy!) cũng lạc quan và vui như chính đất này. Cái nốt ruồi nhỏ xíu trên má là “ưu điếm” của o đấy – có duyên thầm, và tế nhị Mỗi lần o nói chuyện, mình phải bắt nhắc lại đến 4 lần mới thủng câu chuyện. O bảo: Các anh ở ngoài ấy ít đi bộ đội chứ trong này đi hết. Họp chi đoàn bói cũng không ra một người con trai. Mình bảo ở đó cũng đi chứ, và những người con gái cũng có chung 1 cảm nghĩ như vậy O ấy bảo: Chúng em chỉ thích đi bộ đội, nhưng khám sức khoẻ không đủ nên phải ở nhà – ở nhà và đi dân công hoả tuyến. Mình trố mắt ngạc nhiên vì người ngồi trước mặt mình kia, che miệng khi cười và chẳng bao giờ đi làm về dám bước thẳng vào nhà khi có bộ đội ở trong. Lại là người có mặt trong chiến dịch đường 9, Khe Sanh – Trị Thiên… Lại là người cõng thương binh, tiếp đạn, là người thu dọn chiến trường…

Vậy là lửa khói của mặt trận đã bao trùm lên người O đó Vậy là chính O đã là cô Thanh niên xung phong đẹp kỳ lạ trong bài thơ tuyệt diệu của Phạm Tiến Quật:

“Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn

Tiếng Hà Tĩnh nghe buồn cười đáo để

Anh lặng người anh như trôi trong tiếng ru…”

O vẫn thuỳ mị, dịu dàng. O chẳng đanh đá như mình quan niệm về những o gái trên tuyến lửa. O chẳng có chút gì tỏ ra “sống gấp”. O vẫn thương nhớ người con trai đi bộ đội đã 2 năm rồi và đêm nay, o ngồi gấp chiếc phong bì trắng muốt để gai cho anh. Nhìn O, mình thấy yên tâm lạ lùng mình thấy tin tưởng lạ lùng ở những cô gái Việt Nam. Không, họ nhất định vượt qua cái khoảng cách ghê gớm của không gian và thời gian. Ngồi nói chuyện với O, mình rất hài lòng về cách đối xử chân thật, mềm dịu và đứng đắn. O gái này đây, là niềm hạnh phúc đáng gìn giữ và trân trọng của đồng đội mình đang chiến đấu ngoài tiền tuyến.

Mình nghĩ đến những thế hệ đã qua thời chập chững. Những người giờ đã già lão, đã cao tuổi ấy cũng có lúc họ là thanh mền như mình, một ông già, một bà lão giờ đây, dạo ấy họ cũng trò chuyện thế này. Rồi người đi, người ở… Thời gian chạy hết bao nhiêu chặng đường dài, để bây giờ đội quân chủ lực của quân đội, của đất nước là mình, là lứa tuổi mình…

Tụi trẻ đang vây quanh chiếc bàn kia, chẳng mấy chốc lại rụt rè, e lệ khi nói chuyện với nhau. Cũng hay, Như Anh nhỉ. Mặc dù chẳng có gì ẩn ý, nhưng họ vẫn phải rụt rè. Và cái rụt rè ấy mới đáng quí chứ – chẳng thể nào mua được và chẳng phải ai cũng có.

Mà lạ, các o ở đây hay chế giễu bộ đội ngoài ấy. Hôm nào bọn mình đi lấy củi là y như xấu hổ đến chết – chẳng phải bọn mình không gánh được củi kết, hay không chặt được những cành khô. Nhưng rừng xa quá, vào chặt được gánh củi thì hết nửa ngày, phải vội vàng ra ngay kẻo đói. Vậy mà, hễ thấy anh bộ đội thấp thoáng lội qua dòng suối ở cửa rừng là các o lại bụm miệng cười – Như Anh chắc chẳng cười đâu nhỉ/ Như Anh thương cơ – Còn các o này cười hoài. Lại còn hỏi: Các chú bộ đội chặt củi ở đâu, bảo tui đi Chặt với – Làm cho lính xấu hổ đến đỏ nhừ mặt. Quả thực con gái, hay nói chung dân ở đây, làm ăn giỏi thật, khoẻ hơn dân khu 3 nhiều – Quần quật suốt ngày đêm, giặc bắn phá là thế mà có coi ra gì đâu. Con trai đi bộ đội hết, các o phải làm tất cả công việc của nhà nông. Bởi thế, cái dáng lùi lùi. hơi thô, cục mịch của các o chỉ làm cho bọn mình thêm quí, thêm thương. D nhiên, các o lẳng nghĩ gì đến các o cả, các o còn thương hơn chú bộ đội gian khổ và vất vả nhất. Có lẽ chính cái tình cảm tốt đẹp ấy đã làm các o đỡ ngại, và nhất là làm các chú bộ đội gìn giữ cho các o, cho mình, gìn giữ tình cảm quân dân trong sáng và rất đáng ca ngợi.

Mình rất tiếc rằng Như Anh không sống trong khung cảnh này. Như Anh còn đang vất vả học tập, và những cám dỗ mà Như Anh cần vượt qua chẳng phải dễ dàng. Mình rất tiếc Như Anh không ở gần mình như o gái Hà Tĩnh này, đế mình được dìu dắt, hỏi han và âu yếm, chiều chuộng. Có lúc cứ nghĩ rằng Như Anh còn rất trẻ dại, còn ngây thơ quá đỗi mà mình cần phải che chở, có lúc lại nghĩ rằng Như Anh là người dìu dắt mình vượt qua những chặng đường gian khó nhất – Có lẽ cả hai, ừ, đúng – Như Anh là như thế nhỉ?

Trong tay mình là chiếc quạt giấy, năm trước ngày 22- 4-71, Như Anh đã âu yếm viết tên mình trên nan quạt – những nan tre mỏng mảnh xoè ra cho 7 con cò trắng muốt vỗ cánh đọc câu thơ của Chế Lan Viên:

“Và cánh cò lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà, trong hơi mái câu văn”.

Thế là gần tròn 1 năm, chiếc thuyền căng tấm buồm xanh đi về trong giấc ngủ của mình… Cái quạt, theo mình hành quân từ những ngày đầu bộ đội, mấy lần định cất về mà lần nào cũng quên – Dường như là một sự cố ý – Quạt yêu quí nằm trong đáy sâu của ba lô, nằm trong đáy sâu của lòng mình, giờ đây đang dậy lên những làn gió mát – Hệt như hơi thở Như Anh, hệt như tiếng hát và những âm thanh đậm đà, xao xuyến cất từ trong trái tim em…

Sao mình lại viết những dòng này nhỉ – Mặc dù bao nhiêu lần khác, mình nhớ và nghĩ về Như Anh rất nhiều, da diết và bâng khuâng… Cũng không rõ nữa. Chắc là minh muốn bù cho Như Anh vì ở trẽn, mình đã viết và nói khá nhiều về o Hồng, o gái Hà Tinh sống sung sướng hơn Như Anh và khổ hơn Như Anh. ù, mình không muốn và sẽ chẳng bao giờ dành cho ai khác trừ Như Anh yêu quí, những tình cảm tốt đẹp nhất và trong sáng nhất – Cứ mỗi lần gặp 1 người con gái, dù quen hay chẳng hề biết họ, cũng gợi cho mình nhớ đến Như Anh, nhớ đến người thương nhất và tin nhất của lòng mình.

Như Anh đã biết mình vào đây chưa nhỉ? Và Như Anh sẽ nghĩ gì, đã nghĩ gì trong những ngày mình đi xa? Ai có được niềm hạnh phúc mình hằng ao ước, hái tặng Như Anh những bông hoa đẹp và tươi mát nhất vườn, thơm nhất vườn? Ai nhỉ?

Nhưng thôi, cái đó chỉ là điều rất nhỏ. Chỉ mong mỏi Như Anh thực sự học giỏi, làm được nhiều, cống hiến được nhiều. Có lẽ đó chính là niềm hạnh phúc chân chính nhất mà người ta hằng băn khoăn.

Những ngày mà mình nhớ rất nhiều đến các bạn cùng lớp cùng học với mình, cùng trường. Có người đi bộ đội đã hy sinh, có người còn ở tiền tuyến, có người ở nhà và có người đi học nước ngoài. Mỗi người một công việc quan trọng do đất nước phân công. Mình rất tin rằng mỗi người bạn ấy sẽ có lúc nhớ lại những mái trường các bạn đã đi qua, sẽ nhớ những kỷ niệm chẳng bao giờ có thể phai nhoà và những ước muốn xôn xao khi cửa đời rộng mở – Có thể mượn ý Tố Hữu mà nói ở đây: Ta chính là hôm nay và các bạn c mình là mãi mãi. Nhưng làm sao có thể có tương lai đẹp đẽ khi không có những người hôm nay đang cầm súng, đang gian khổ đánh giặc. Riêng mình, hình như đây là một phần thưởng. Đi bộ đội, với mình không chỉ là đánh giặc Được sống những ngày oanh liệt và vẻ vang nhất của đất nước, khi mà dân tộc ta đang thắng lớn và bước nhanh đến ngày thắng lợi hoàn toàn, mình phải viết. Phải viết với tất cả năng lực của mình có được. Phải viết với sự say mê, cố gắng hết sức của bản thân. Viết với bao nhiêu gửi gắm và tin tưởng của bạn bè đối với mình.

Mình rất khổ tâm và đau đớn vì chẳng viết được cái gì có hồn cả. Dòng sông chảy qua xóm làng đẹp là thế, với chiếc thuyền gỗ ngấm nước, những dải cát mơ màng mọc lờ đờ mặt nước, những bụi rong xoã tóc xanh cả sông… Chao ôi, giọng hò đầy thương, đầy nhớ trong đêm vắng trăng, đầy sao… Xóm làng sau một ngày thắng giặc như vậy đó Mình muốn viết một cái gì, một bài thơ, một bài tuỳ bút về những điều tương tự như thế – Mà không khi nào hài lòng cả – Khi nào cũng chỉ là những cảm xúc sáo mòn và cũ kỹ. Những hình ảnh mất hết góc cạnh của cuộc đời. Ý nghĩ của mình bao giờ cũng mơ hồ, hình thành

không rõ rệt. Chỉ khẽ thoáng, khẽ chạm vào là biến đi đằng nào không sao giữ lại được. Đến một lúc tình cờ nào, nó lại hiện ra, rõ ràng, khúc chiết như những dòng chữ chính xác của một cuốn sách giáo khoa.

Các bạn đi học, có cái khổ, cái vất vả của người đi học. Không ai có thể sống thoải mái nếu người đó muốn thực sự có kh muốn đóng góp một thành quả lớn lao cho đất nước. Phải nói rằng mình đã cố gắng rất nhiều, cố gắng rất nhiều để sống và làm những ước muốn mà thuở nhỏ mình hằng ao ước. Mình chỉ muốn làm tốt nhất, đúng đắn nhất, đầy đủ nhất câu kết luận của bài tập làm văn mình đã viết hồi học phổ thông. Chỉ muốn chứng minh đẹp nhất những điều mình đã nói với Như Anh yêu dấu trong những lá thư.

16.4.72

Hôm qua yên tĩnh, nhưng đấy là đối với cái tỉnh Hà Tĩnh mình đang ở, còn đối với miền Nam và những miền đất nước khác thì vẫn chẳng có chút gì là yên tĩnh cả. 2 giờ sáng nay, máy bay địch tới bắn phá Hải Phòng bị bắn rơi 5 chiếc. Đặc biệt nhất là có 1 B.52. Như vậy, địch đã dùng B.52 ra bắn phá các thành phố lớn, tiến hành một bước leo thang ở miền Bắc. ở miền Nam, thị xã Bình Long đã được hoàn toàn giải phóng.

Nhân dân tụ tập quanh người hàng xóm có chiếc đài bán dẫn nhỏ để nghe tin tức. Họ ngóng tin như 1 giá trị tinh thần không thể nào thiếu được – Và ở họ có một sự nhạy cảm rất đáng quí về chính trị. 13 giờ, địch ném bom ở Kỳ Anh, phía Tây – thì 14 giờ, họ đã biết rất chắc chắn. Rất chính xác. Ai cho họ biết được những tin tức ấy nhỉ? Bà cụ toàn hỏi mình tin tức. Mình thì mù tịt, chẳng biết gì cả. Không phải bộ đội là được biết hết tin tức chiến trường đâu. Họ cứ tưởng: có tin gì mới ở chiến trường là bọn mình lại được tập hợp để nghe báo cáo ngay. Thực ra, nguồn tin tức mà bọn mình nghe là mẩu báo của tiểu đoàn và cái đài Li do của ông cán bộ. Trong khi người dân còn có biết bao nhiêu nguồn tin vỉa hè phần lớn là chân thực nhất.

Phải nói, ở mỗi người sống trên đất Hà Tĩnh, đều có một mối quan tâm đáng quí đối với đất nước. Họ lo lắng cho vùng bị bom đạn địch tàn phá. Họ lo lắng cho cả nhưng vùng họ nghi rằng địch sắp đổ bộ – Đây là nơi đầu tiên mình thấy sự căm thù, khinh bỉ kẻ thù của dân tộc dữ dội nhất, mạnh mẽ nhất. Nghe tin địch đã đổ bộ xuống cầu Hàm Rồng, mọi người hỏi nhau để xác minh sự đúng đắn của nguồn tin ấy. Nhưng họ hỏi mà bên trong họ không tin. Làm sao địch có thể đổ bộ xuống đấy được. ở đó chúng nó ăn cướp gì được. Dân thì không có gạo, chỉ nhiều khoai – Những cụ già Hoẵng Hoá – Thanh Hoá sẵn

sàng cho chúng nếm khoai!

Sự quan tâm đến vận mệnh đất nước ở đây gắn liền với nỗi lo lắng của bản thân mỗi người và gia đình. Bởi vậy điều đó cũng là phải thôi, điều đó cũng hợp logic thôi.

O Hồng chiều nay bắt đầu đi dân công hoả tuyến ở Quảng Bình. O doạ ở nhà là phải làm cơm tiễn đi – Vì vào trong đó, o sẽ khám bộ đội và nhất định sẽ đi trong đợt này. Bà cụ lo cuống, và cứ vừa sửa soạn cho o đi, vừa mắng – Nào là: cái ngữ mày mà đòi đi bộ đội, đòi đi vác đạn cho pháo… Nào là nó chỉ bắn doạ cũng sợ rồi… Còn o ta, cứ tỉnh bơ. O bận rộn ra sông gội đầu và giặt cái áo xanh o hay mặc. Nó đã cũ và bạc trắng ở vai áo – O ra ngõ vặn đôi quang gánh bằng những sợi mây trắng nõn còn dính nhựa – Cả nhà ăn cơm rồi mà o còn đứng đó, o làm mê say, o mặc những cơn gió mùa hè thổi tung những lùm

lá tre… Mình đi ăn cơm và hỏi: O Hồng không ăn cơm để chiều đi à… O cười ngượng nghịu… Mình giật mình vì bỗng nhận ra rằng o còn nhỏ quá. O nhỏ như một em bé cấp hai. Và sự thật o chỉ mới là học sinh lớp 6. Dưới lớp tay mình là tờ bìa màu xanh hơi cũ – Cái bìa sách có dòng chữ Trường cấp 2 Cẩm Lạc – /ớp 6B – Lê Thị Hồng – Năm 1971 – 1972″ – Có phải o không? Đã tẩy đi dòng con số 1971-1972- Không, o đừng ngượng – năm nay o 16 hay 17 tuổi rồi, o chẳng đi học nữa – BỘ đội chẳng chê o học dốt đâu, bộ đội 12 năm đi học, sung sướng hơn o nhiều, và hiểu nỗi khổ của người không được đi học.

Vậy là o gái Hà Tĩnh này lại đi vừa lớn dậy, vừa thôi học mấy tháng thôi, mà cuộc đời đã phong phú lắm, đã đẹp lắm rồi – Mà cuộc đởi o đã có bề dày và cả bề sâu nữa. O đã và sắp đi hoả tuyến – O đi thanh thản, hào hứng – O tung tăng đi đến chiến trường…

Rất lạ, o nhắc mình nhớ đến Như Anh rất nhiều – Sao Như Anh không là một o gái Hà T nh thế này để hôm nay mình được bịn rịn chia tay và hẹn gặp Như Anh ở chiến trường? Mà đây lại chỉ là một o gái khác lạ, mình không muốn nói gì với o cả – chỉ thầm chào thôi. Chỉ mong o chóng lớn, trưởng thành trong thử thách ác liệt của tuyến lửa và trở về như hàng nghìn cô gái khác. Để lại nỗi ngẩn ngơ cho đời như bài thơ ca ngợi các o…

Như Anh học giỏi không? Như Anh học giỏi không? Như Anh có được chứng kiến, được biết những con người, những cô gái trẻ, yêu đời đang làm thay cho Như Anh, cho các bạn Như Anh ở nhà học tập – Phải đấy, họ sung sướng hơn Như Anh và gian khổ hơn Như Anh cũng chính là ở đấy. Họ hạnh phúc hơn Như Anh cũng chính ở trận tuyến này.

Mình chẳng muốn nói Như Anh và các bạn Như Anh phải chịu ơn những cô gái đi trên đất lửa – Họ cũng như Như Anh chỉ làm nhiệm vụ quan trọng mà đất nước trao cho. Nhiệm vụ nào cũng vẻ vang, cũng gian khổ cả. Mình rất hiểu Như Anh, rất hiểu rằng Như Anh mong muốn và đang cống hiến sức lực của mình cho đất nước. Rất hiểu rằng Như Anh không bao giờ muốn trốn tránh những nơi gian khổ, ác liệt, nơi cái sống và cái chết đang giằng co nhau… Mình chỉ muốn nhắc Như Anh rằng: Như Anh à, các o gái này có thể mất đi lắm. Còn Như Anh và các bạn thì chắc chắn sẽ tồn tại, sẽ sống, bởi vậy, nhiệm vụ của Như Anh rất nặng nề, phải làm tiếp những gì mà người ở chiến trường không sao làm được – ở chiến trường này, ta đã thắng và thắng to! Còn ở chỗ Như Anh, ta chưa thắng lớn – Nhiệm vụ của Như Anh nặng nề như thế…

Tất cả những điều đó hẳn Như Anh hiểu rõ và sâu sa. Hẳn Như Anh sẽ biến những suy nghĩ dằn vặt mình đang sống bình yên khi đất nước đang gian khổ thành quyết tâm lớn nhất để học giỏi, thật giỏi – Mình tin tưởng ở điều đó và mong chờ những tin vui nhất.

Mình sắp vào rừng, 1 giờ trưa. Chiều nay đi lấy gianh về làm bếp – Chắc là phải vào sau và tối mới về được. O Hồng đi rồi, chắc chẳng còn được gặp mình nữa – Mình ở đây không lâu rồi lại chuyển. Nghe đồn như vậy. Nhưng chắc rằng mình khó quên o. Người con gái bình dị trên đất Hà Tĩnh, cô thanh rên xung phong mà Phạm Tiến Duật hằng ca ngợi.

Hôm nay, máy bay ra ít, nhưng có ra và không yên tĩnh như đêm qua. 9 giờ đêm qua, báo động di chuyển, như ở chiến trường vậy. Mình chợt nhớ rằng: ở đây có 1 điều đặc biệt là nhiều chó. Chó sủa ran khi có người qua đường và cũng làm ầm cả xóm khi ở sân kho. Bộ đội vỗ tay hoan hô nhưng người được tuyên dương (!). Buồn cười thật.

Y và anh Tí. đi chợ, mình định viết xong thư rồi đi, nhưng lại bận. Nó bảo chợ không thú vị lắm, mà có khi còn đắt – Y định mua một con cua bể lớn về nấu bát canh cua cho tiểu đội.

17.4.72

3 giờ chiều nay lại hành quân đến thị xã Hà Tĩnh để chuẩn bị diễn tập. Mỗi người mang lương thực đủ 4 ngày ăn Giao liên bảo rằng từ đây đến đó khoảng 30 km. toàn tập đánh quân đổ bộ. B trưởng và D trưởng đã ở đó rồi. Sáng nay, mình đến C18 lấy đôi acqui, đã thấy bên đó rậm rịch chuẩn bị đi, dây điện thoại đã cắt ra rồi.

Buổi sáng, mình được phân công đi lên E. Nghe a. T chỉ đường thì thấy sao mà đơn giản thế – “Đến cái khe củi của cao điểm 50 – Rồi sau đó đi 200m, rẽ tay trái, qua chiếc cầu, v.v… Hỏi thăm xã Cẩm Sơn. Ai ngờ, qua khỏi điểm cao 50, chỗ ấy có pháo 37 trực tuyến, là lạc quách – ở vùng này, xã Cẩm Sơn chính là 3 xã hợp lại – Mình đi vòng quanh,

qua tất cả các C trực thuộc rồi mới đến Đoàn bộ và theo đường dây về C18 – Đoạn đường không phải 5km mà lại gấp 2, gấp 3 lần. Nắng to, gắt và chói chang, đường không có một bụi cây nhỏ, không có một vũng nước. Ngẩng đầu lên thì trời xanh ngút ngàn, cái màu xanh đến thương, và những đám mây trắng xốp. Từ hôm đến đây, hôm nào mình cũng say mê ngắm núi mà hôm nào cũng thấy đẹp, thấy lạ Núi ở gần xanh màu lá cây rất trang nghiêm. Nhưng càng xa thì càng nhiều mây và sương phủ – Có một lớp màn rất mỏng choàng từ ngọn núi – Cái màu lờ đờ như nước luộc trai, nom thật dịu. Quả là núi non ở đây nên thơ thật.

Mình ngẩng nhìn trời và xuýt xoa tiếc vì không đủ sức khỏe đi học lái máy bay. Cả E hôm khám chỉ được có 1 người Huy được về Hà Nội 1 tháng, điều dưỡng ở Bệnh viện 10. Thời gian đó nghỉ ngơi và kiểm tra sức khỏe. Nó đạt hết, vượt qua hết các phòng “ác liệt” và sau cùng bị loại vì viêm họng – Bọn mình tiếc thay cho nó. Từ các E các F, chọn được 13.đứa, chỉ còn 3 đứa lại khám tiếp để 29-4này có đợt đi Liên Xô. Mình nghe xong mà cứ ao ước hoài. Giá mình đủ tiêu chuẩn sức khoẻ, được đi học, chắc chắn sẽ gặp được Như Anh trên đất lạ và từ đó bao nhiêu mơ ước bé nhỏ, buồn ngủ và viển vông cứ quay cuồng trong óc…

Bỗng giật mình ngượng nghịu – Ô kìa, sao lình lại thế nhỉ? Mình chẳng đã từng ao ước được đi bộ… binh hay sao? Đi bộ binh là đi đất, anh bộ đội đi đất và gắn bó với đất này, gắn bó với người dân sống ở đất này. Mình chẳng đã từng ao ước và nói với Như Anh rất nhiều về hạnh phúc lớn lao mà Như Anh không được hưởng là: chính bản thân mình được sống chiến đấu trên trận tuyến giáp mặt quân thù, trong những ngày ác liệt nhất của đất nước- Thế mà bây giờ định đi đấy, ao ước đi học nước ngoài 6,7 năm đấy. Khi về thì hết Mỹ rồi còn gì nữa, tha hồ bay bổng trên trời nhé. Thật xấu hổ và hèn kém biết chừng nào! Sao nình không có được suy nghĩ như Vương Đình Cung, anh được chọn đi học rồi, nhưng vì đơn vị sắp bước vào chiến đấu vì anh không muốn để lỡ cơ hội được tiêu diệt giặc, nên anh đã từ chối và đi vào cuộc chiến đấu một cách tự giác và đáng phục vô cùng.

1h30 rồi. Đơn vị đã tập trung nghe phổ biến kế hoạch chiều đi. Bận rộn quá.

14h30. Nghe tin máy bay địch bắn phá Hà Nội. Mình nghe đài buổi trưa được biết địch cho nhiều tốp máy bay đến ném bom vào nội thành và cả ngoại thành Hà Nội. Phố Đội Cấn, bãi Phúc Xá – Khoa Hoá của trường mình sơ tán ở bãi Phúc Xá, không hiểu có làm sao không. Cả ở đất làm võng O Cách, Gia Lâm nữa – Bao nhiêu người đã chết? Bao nhiêu ngôi nhà đã đổ? Thế ra không chỉ trong này địch mới bắn phá mà chúng đã mở rộng các cuộc leo thang man rợ ra khắp miền Bắc. Hôm qua viết một lá thư về nhà ke chuyện giặc ném bom ác liệt ở “tuyến lửa”, cứ tưởng ở nhà bình yên lắm – Ai ngờ ở đâu cũng là đất lửa cả thôi – Và lá thư chưa gửi ấy đã trở thành lạc hậu.

Vượng và B. ở Đội Cấn, không hiểu có sao không? Báo và đài bảo, chết có 8 người. bị thương 25. Nhưng chắc là nhiều hơn thế. Bọn lính Hà Nội bồn chồn lắm, và rất lo cho gia đình, rất lo cho thành phố.

17.4.72

19 giờ. Nghe ồn ào ở sau nhà mới chạy sang xem. Hoá ra tụi lính đi xuống sông đã thấy 1 đàn lợn lòi con ngủ muộn trong bụi cây dại um tùm ở ven sông. Không hiểu tại sao chúng nó từ trên rtmg lại lạc xuống tận đây mà ngủ quên đi mất. Lợn lòi chạy rất nhanh, luồn qua những hàng rào gai, hàng rào duỗi và dây mây, chạy ngang sân nhà. Theo sau là bộ đội hò hét inh ỏi. Mãi sau mới tóm được 1 chú lợn và mệt quá người ta dừng lại, bỏ lại những con kia chạy thoát. Chú lợn lòi con con, khác nhiều so với lợn nhà. NÓ không ù ì và “ngu như lợn” nuôi ở trong chuồng. Ông già buộc chân nó bằng sợi dây thừng rất chắc, và nó chẳng eng éc gì cả, nó chỉ giãy giụa thôi, còn thì ngoan lắm. Con lợn rắn chắc, chạy nhanh và luồn qua hàng rào rất gọn. Bộ lông thì rất đặc biệt: không đen nhánh hay trắng bạc, hay loang lổ như lợn nhà; mà bộ lông hệt như một chiếc áo tù, có những vệt dài kéo từ đầu đến đuôi, màu nâu tím. Mấy anh lính tán: Có lẽ vì nó khoác áo tù nên mới bị bắt thê. Thằng tù binh còn rất trẻ con. Hắn chưa lòi ra chiếc răng nanh đáng ghét như cái tên của hắn! Không sao bắt tù nhỏ nó còn đỡ phá. Những nương sắn đẹp hung trên đồi, trên núi kia bị tụi này xuống phá phách hỏng nhiều. Mỗi lần vào rừng, vạch lau đi, bọn mình đã thấy những ống dài và hôi hám – lối đi của lợn rừng.

Bọn mình vào rừng mà cứ nghĩ mãi đến những con lợn ấy. Kể ra đi lấy gianh thế này, chỉ có trong tay một cái liềm cùn, một cái đòn sóc nhọn 2 đầu và một ít dây rừng nếu lỡ có 1 đàn hổ, báo hay 1 đàn lợn lòi từ trên núi lao xuống thì chẳng phải dễ dàng mà thoát được! Nhưng nói vậy thôi chứ sợ quái gì. Mình là con người ắt phải thắng hết mọi súc vật mọi rợ trong rừng hay ở đâu đi nữa. Đấy là ý kiến của các o gái Hà T nh khi nghe bọn mình than thở dọc lối vào rừng.

Kể ra, hôm nay mình cảm thấy hơi buồn, hơi nản vì các o gái Hà T nh. CÓ lẽ đây là quan niệm mới về các o. Đến đây được mấy ngày rồi, và quan niệm của mình về các o vẫn là tốt đẹp, cảm phục và thầm biết ơn. O Hồng ở nhà mình trú quân thật thuỳ mị, nết na. Nhưng 3 cô gái bọn mình gặp trong rtmg hôm nay thì thật là kinh khủng, mình đi trước cả toán mà vẫn phải né sang một bên để nhìn rõ mặt các o. Mình không muốn và không thể viết được tất cả hay một phần rất nhỏ những mẩu đối thoại của bộ đội và các cô vào đây được, vì nó táo tợn, nó thô lỗ và trần trụi quá. Trước kia khi ở nhà nghe người ta bảo rằng:con gái khu 4 thiếu thốn tình cảm một cách kinh khủng, nên họ thường đòi hỏi một cách thẳng thắn. Mình không tin. Làm sao người ta lại có thể chai sạn đến mức như vậy được nhất là cái chủ động” lại thuộc về người con gái. Bọn mình 5 đứa, đi lấy gianh. Vừa đến cửa rừng thì gặp 3 cô. Các cô còn trẻ. Nghe tiếng cười các o rúc rích sau lùm cây mua cao lớn bọn lính cứ tỉnh bơ – Cái tỉnh bơ của lính quân khu 3, dường như nói rằng. việc các cô cười thì cứ cười – việc chúng tôi đi thì cứ đi thôi và chẳng chút ít gì dính lnl đến nhau. Nói vậy thôi chứ lính vẫn nghe, vẫn chú ý nghe và bình luận tiếng cười ấy. Nghe ghê ghê – Bọn mình thống nhất với nhau như thế – Và im lặng đi qua. Nhung rồi các o cứ bám lấy, cứ bám lấy và tha hồ thả trí tưởng tượng bay loạn xạ – Các o nói đến tình trạng “con trai phân phối” của khu 4 – Các o từ gọi bọn mình là chú rồi chuyển sang gọi anh tự lúc nào. Các o gợi cảm một cách thô lỗ và cảm thấy rờn rợn khi nghe tiếng cười the thé ấy.

Lẽ ra mình thấy Hà Tĩnh đáng yêu hơn, khi không gặp 3 cô gái ấy, 3 cô gái quái quỉ ấy. Các cô cứ đòi “tự do” ở trong rừng và thật đáng sợ khi 1 trong các cô gái đã trả lời bộ đội khi Q. bảo các cô dẫn tới chỗ có gianh. Cô ấy bảo: Khu 4 có “tức lệ” vào rừng mà có 2 người con trai và con gái thì phải cởi hết áo quần (!). Thật kinh khủng quá! Mình cảm thấy nửa ghê ghê, nửa lại thương hại các cô. Ở đây rừng vắng, và ở chỗ vắng ấy nên người ta mới điên như vậy hay sao? Và không hiểu, o Hồng thùy mị, rụt rè ở nhà có lúc nào lại trở nên điên dại như thế hay không?

Đấy là những cảm giác khi mình đứng trên núi cao nhìn xuống thấy bóng áo lót màu trắng của các cô gái, nghe tiếng hò sông Lam của anh bộ đội nhỏ li ti đang men theo sườn núi và nhìn ra xa tít tắp/ biển đang dâng lên mênh mông…

18.4.72

Hành quân lúc 16h30 đi diễn tập. Đó là đợt 1 của thời kỳ diễn tập dài toàn E. Thằng Y bảo, 6 giờ tối mới đi, nên 1 lúc cứ vào ra mãi – Ai ngờ 4h30 chiều đã đi rồi. Bỏ quên cả lựu đạn, bỏ quên cả xẻng và ba lô thì buộc chưa chặt. Lúc cả đơn vị đi hết cả rồi mình mới đuổi theo. Mệt nhoài người Buổi sáng vừa lên C18 nạp acqui, buổi chiều lại đi ngay. Nắng rất gắt và choáng. Mặc dù mình đã gửi tất cả sách vở, chăn, áo rét ở chỗ tạm trú quân, mà ba lô vẫn nặng, 15kg gạo. Sau đó đeo hộ T. hai bao gạo, một khẩu súng = Cộng tất cả cũng đến 30 cân có thừa!

Lần hành quân này đi thật rời rạc, cả D đi thành mấy tốp lẻ tẻ lẻ tẻ, và mọi người đều mệt ngay từ những phút đầu tiên. Nắng Hà T nh, nhất là khoảng 3, 4 giờ chiều, nắng gắt kinh khủng, như thiêu như đốt, hoa cả mắt và đầu thì cứ ong ong – Con đường nồng nặc mùi phân trâu và lầy lội khi trời mưa, thì hôm nay trời nắng, cứ bụi lầm lên và khét lẹt – Cây cối thì không, cả hơi nước bốc lên từ con sông ngay cạnh đường cũng không đủ làm dịu bớt làn không khí nóng nực và bực bội ấy. Mới đi được vài Km mà rất nhiều người đã bị gục xuống rồi. Nhất là bọn B vận tải, cứ đầu trần, chân đất nằm thở dưới nắng hè. Thật thế, mỗi lần hành quân là một lần thử thách rất căng thẳng. Nếu như ai không có nghị lực, không đấu tranh thắng nổi sự cám dỗ nghỉ ngơi thì nhất định người đó không thể bám sát được đồng đội. Đã hành quân thì không thể nào nhẹ nhàng được. Mình thấu hiểu rất rõ điều đó – Bao nhiêu lần hành quân, và lần nào mình cũng rất tự hào rằng: mình không hề bị rớt lại, không 1 lần nào mình nhờ vả đến ai đeo hộ và lần nào mình cũng đeo vượt tiêu chuẩn yêu cầu. Không phải nhờ cái thân thằng người to kềnh càng. Không phải nhờ đôi chân “cầu thử như bọn nó thường nói – Chẳng phải đâu, lần nào cũng nặng, lần nào cũng phải cố, cũng phải đặt yêu cầu rất cao cho mình. Không được lùi bước, không được chậm lại, và phải đi đến cùng. Chỉ cần có một ý nghĩ nhỏ: giá như bỏ bớt được cái này, cái kia thì nhẹ hơn- Chỉ cần có một ý nghĩ nhỏ như vậy thôi là cảm thấy cái khối sau lưng kéo thít vào vai và rất khó đi đến đích – Là phải cố gắng rất nhiều mới xua được ý nghĩ tiêu cực ấy! Lúc nào mình cũng tự nhủ: không thể nào khác thế được còn phải đeo nặng hơn, đi dài và nhiều hơn nữa – Suốt dọc đường hành quân, không phải lúc nào cũng cảm thấy nặng nhọc và gian khổ. Mình hay đọc thơ, làm thơ, làm thơ trên đường hành quân. Và chính những lúc tâm hồn mình mơ mộng với nhưng vần thơ êm dịu hay da diết, tự dưng thấy thân mình nhẹ bỗng, tưởng chùng mình có thể bay lên được và chẳng cảm thấy chiếc ba lô nặng kinh đang đè dí hai vai – Nhất là những lúc nhớ Như Anh, những lúc đọc thơ cho Như Anh nghe và làm thơ tặng Như Anh – thì cảm thấy say thực sự và cứ ao ước con đường ấy dài ra vĩnh viễn, thì mọi khó khăn gian khổ sẽ trở thành niềm hạnh phúc rất tự nhiên:

“Khoảng trời em mưa thưa bóng mây

Mưa khoá hiền như tình ta buổi ấy

Cơn mưa giận, cơn mưa thương biết mấy

Nhớ nhung gì mà ướt áo người xa…”

Đấy là “Khoảng trời em” của Quang Huy – “Mưa khó hiểu như tinh ta buổi ấy” thì chán, Như Anh nhỉ – Ta nên chữa lại là “Mưa thủ thỉ như lòng em buổi ấy” thì hơn…

Cứ thế, cứ thế, ta đi hết chặng đường hành quân, và chính trên những chặng đường ấy mà nảy nở ra những tứ thơ, những tứ thơ chưa hay, nhưng thật – Vì nó sinh ra trong mồ hôi và axit lắctíc…

“Anh đã đi con đường ấy chưa?

Đường tôi đi đỏ bừng sắc lửa

Màu cây xanh chẳng có đâu, chỉ có màu quân phục

Khiến bước hành quân cứ bồn chồn thôi thúc

Như mỗi lần ta nhớ tới miền Nam…”

(Trên đường tôi đi)

Đi trong đêm khuya. những anh bộ đội hay tìm ngôi sao Hôm cô độc, một tinh cầu chói lọi. Sao Hôm thường mọc cách tầm tay với mặt trăng hiền dịu. Mấy đêm sáng trăng, đêm nào cũng vậy, mặt trăng lên, là thấy sao Hôm… Sao Hôm mọc từ lúc trời còn đỏ mờ, rồi xanh dần ánh thép, và khi bầu trời xanh màu mực cửu long thì ngôi sao mới sáng tỏ làm như đôi mắt em thao thức theo anh trên đường gian khó. Người ta tìm những chòm quen thuộc của làng quê việt Nam. Chòm Đại Hùng và Tiểu Hùng tinh cho người tìm phương Bắc, ngôi sao Bắc đẩu như ánh sáng của em tự lại từ xứ Tuyết xa xôi. Và ông thần nông tựa lưng vào bờ sông sao sáng rực nghĩ về đất nước, bỏ mặc con vịt bơi hoài trên dòng nước sóng sánh sao sa. Mình bỗng nghĩ tới 1 điều: Cả khuya trời cũng bộn bề những công việc nhà nông – Đất nước khổ đau và nghìn năm lăn lộn với ruộng đồng, người ta chỉ còn nghĩ đến gầu dai, gầu sòng chỉ còn nghĩ đến vụ cấy qua các chòm sao mơ mộng… Cả những năm tháng lửa cháy chống ngoại xâm đã để lại trên trời chòm sao Tráng sĩ, gài thanh kiếm ở ngang sườn…

Mình hay nghĩ vu vơ như thế về các ngôi sao. Các dân tộc khác mơ mộng hơn chăng khi họ nhìn sao Hôm là Thần vệ nữ, người con gái đẹp tuyệt vời đem tình yêu cho thế giới. Còn dân mình, thì sự tích về những ngôi sao cũng chỉ là những bài ca cảm động về tình anh em, về tình đồng đội…

Mình bảo với Y: Nhất định sẽ viết về những ngôi sao trong Nhật ký, y buồn cười lắm. Nó bảo: Ngôi sao thì có dính líu gì đến Nhật ký mà mình cũng viết. Y nó viết Nhật ký ít thôi, rất ít là khác, chỉ thỉnh thoảng nó mới vội vã và cẩu thả vào một cuốn sổ tay nhỏ xíu. Nó bảo Nhật ký chỉ nên ghi lại những ý nghĩ táo bạo và độc đáo, tiêu biểu nhất trong 1 ngày hay trong vài ngày. Những ý nghĩ đó đủ để gợi lên một cảnh đời rực rỡ, một ngày sống đáng ghi nhớ hay đủ gợi lên một quan niệm sống. Và cao hơn, đủ hiện lên một con người.

Mình không tin lắm vào ý nghĩ và lời nói ấy của nó. Uớc muốn của con người thật khôn cùng. Làm sao mà chỉ cần một vài dòng nhỏ những suy nghĩ thôi mà có thể thể hiện được những điều phong phú như thế. Không thể nào chỉ với những suy nghĩ, cho dù những suy nghĩ có tính chất triết lý sâu xa có thể làm trọn được trọng trách ghi nhận lại được cuộc sống của một con người. Mình đã đọc Nhật ký của nhiều người. Mình cảm thấy rằng: Nếu như người viết Nhật ký là viết cho mình, cho riêng mình đọc thì cuốn Nhật ký đó sẽ chân thực nhất, sẽ bề bộn và sầm uất nhất Người ta sẽ mạnh dạn ghi cả vào đấy những suy nghĩ tồi tệ nhất mà sự thực họ có. Nhưng nếu Nhật ký mà có thể có người xem nữa thì nó sẽ khác và khác nhiều. Họ không dám nói thật, nói đúng bản chất sự kiện xảy ra trong ngày, không dám nói hết và đúng những suy nghĩ đã nảy nở và thai nghén trong lòng họ. Mà đó chính là điều tối ky khi viết Nhật ký – Nó sẽ đay cho người viết tự lừa dôi ngòi bút của mình, tự lừa dối lương tâm của mình.

Người ta viết Nhật ký có rất nhiều phương pháp. Và mỗi người tuỳ theo ý thích và sự quen thuộc của mình mà ghi chép. Có người chỉ thích viết ý nghĩ, có người hoàn toàn ghi những sự kiện nhỏ nhặt hàng ngày. Còn mình, mình không Diết thế nào, có lẽ vừa ghi những sự kiện, vừa ghi những suy nghĩ – Nhiều lúc cũng khó mà phân biệt đâu là suy nghĩ, đâu là sự kiện. Và sự trộn lẫn ấy là một điều rất quí. Không hiểu mình đã ghi vào Nhật ký bao giờ chưa, rằng L. Tolstoi bao giờ cũng nhanh chóng tìm thấy một ý nghĩa nào đó từ trong những sự vật và sự việc hàng ngày. Việc rút ra những ý nghĩa từ trong hiện tượng ngay tức khắc có một tác dụng rất lớn lao – nó cho phép người ta tìm thấy và nắm chắc bản chất sự vật và không sa vào cái vụn vặt, không bị choáng trước những hình thức màu mè ở bên ngoài. Mình ao ước như thế, ao ước mình có được cái năng lực thú vị ấy đế sống sao cho đẹp và sâu sắc.

Nằm trên cánh đồng khuya, trên đường hành quân, mình và Y nói đến những điều như thế. Còn a. Mười thì chú ý nhiều quá đến số lượng những trang Nhật ký. Càng ngày mình càng hiểu rằng số lượng lớn không phải điều khó làm. Phải, chính Như Anh đã kế cho mình nghe về cô gái hoạ sĩ Nga mới 16 tuổi đã để lại hàng vạn bức vẽ cho đời phải nói rằng, số lượng cũng là 1 điều đáng kể, làm sao để cho rất nhiều trang đấy, mà không trùng lặp, mà mỗi ngày thực sự là một ngày mới, đẹp đẽ và tốt hơn ngày hôm trước. Nghĩ đi nghĩ lại thì vấn đề chủ yếu vẫn là anh viết Nhật ký để làm gì? Anh có lấy Nhật ký làm người bạn đường nghiêm khắc và tốt bụng để đưa đường cho anh. Hay là anh lấy Nhật ký làm đồ trang sức, làm một cái gì đó để khoe khoang. Hay tệ hơn, làm một cái bồ để trút vào đó những lời than thở, những suy nghĩ giả tạo, nhằm đắp điếm cho một con người giả tạo, sống rất tồi, rất nghèo nàn mà cứ tưởng mình phong phú và bận rộn lấm với công việc hàng ngày…

Trở lại với những chặng đường hành quân, nghĩ đến những khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi, đỏ bừng và nặng nhọc cất bước. Trong lòng bỗng dội lên một niềm thông cảm sâu sắc Cuộc đời bộ đội gian khổ thật, thật gian khổ (và đây chưa nói đến sự hy sinh). Không gian khổ và khó khăn thì tại sao, toàn những người con trai khoẻ mạnh, trẻ, sung sức và hăng hái mà phải chịu ngã xuống dọc đường mà thở Mệt lắm, nhất là đeo nặng. Ban đêm, sang đò, đeo ba lô đứng trên đò, tròng trành và ba lô nặng kéo ùm cả người xuống sông. Những lúc hành quân nặng nhọc nhất chính là lúc người ta hay gắt gỏng với nhau nhất và cũng chính là lúc người ta thương nhau nhất. Người ta thương nhau và san sẻ cho nhau lút nước trong bi đông, đeo hộ nhau một phần nặng nhọc. Không thể nào nói hết được, vì

cái gì cũng rất tế nhị và mới đáng yêu làm sao . Dành cho đồng đội một chỗ nghỉ tốt, một mảnh chăn, một tấm tang lành Dành cho bạn một chiếc hầm đào dở, dành cho bạn một khoảng thoáng khi đến chỗ tạm đừng chân – Trời ơi, tất cả những điều đó, trong khung cảnh đó, mới đáng yêu, đáng quí làm sao – Nhất là nỗi lo lắng. dáng tất tưởi khi có người rớt lại phía sau, cần phải đi tìm… chỉ có trong hàng ngũ quân đội mới có được những điều tốt đẹp đó chăng?

Ban đêm sang đò và vào nghỉ tạm ở nhà dân – Xã Cẩm Duệ, Cẩm Xuyên (Đi hơn 20km rồi mà vẫn Cẩm Xuyên!) A2W ở nhà ông cụ đã già rồi, 78 tuổi. Mệt quá, lăn luôn ra giường ngủ. Mình, Huệ, Y nằm cùng một giường. Mình nằm trong cùng và khi gác chân lên cái hòm gỗ dài kê sát tường, mình mới biết là 1 chiếc quan tài – ông cụ già rồi, đã “may sẵn áo” để chờ ngày chết đây? Dạo ở nhà mà thấy thì sợ chết khiếp đây. Mà bây giờ thì cảm thấy bình thường hết sức – Tuổi trẻ và sự già lão!

Ở đây còn rất nhiều người già. Mình đến mấy nhà xung quanh đều thấy những chiếc quan tài xếp chồng chờ đợi Gia đình nhà nọ có đôi vợ chồng già, ông cụ tóc bạc như bông pha trò bảo mình rằng, suốt đời, 2 ông bà sống hoà thuận với nhau, lúc cưới nhau, ông bà may một đôi gối cưới và bây giờ, sắp gần đất xa trời, ông bà lại đóng đôi quan tài chồng lên nhau. ông cụ cười bảo rằng: Cả đởi ông đã “ở trên” bà, nên ắt hẳn chiếc quan tài ở trên sẽ là của ông! Mà cũng đúng, con trai thường chết sớm hơn con gái. Thật tiếc vì khi ông cụ nói chuyện với bọn mình, bà cụ sang xóm bên chơi không có nhà – Không hiểu nếu có bà cụ thì cụ ấy có thái độ thế nào?

Dòng sông Ngân Mộ (hay Ngân Mậu gì đó, mình hỏi rồi mà không sao phân biệt được tiếng nói ở đây) chảy qua đây giữa hai bờ cây xúm xuê, xanh thẫm cả lòng – Dòng sông chảy nhẹ và sâu – Những dòng sông động đậy của Hà Tĩnh ánh sao đáng yêu kỳ lạ, nó làm mát đi rất nhiều cái nắng khổ sở của miền Trung và cái gió Lào khô cháy da thịt… “Em như bài thơ, em như đòng sông” – Thằng bé ngồi vắt vẻo trên cây sung nghiêng xuống dòng sông mà thì thầm như thế, những đợt sóng dài âu yếm lăn đều đến phía trời xa, chở đi cả tiếng nói, cả cái bóng xanh nghịch ngợm của nó. .. Người ở xa ơi, em hãy nghe nhé, dòng sông nên thơ này sẽ nói cho em nghe tất cả tấm lòng anh… Sao năm nay em chẳng chờ anh ở bến sông xa vắng này? Năm nay em đã ở đâu rồi? Cái cửa sơn xanh của Thư viện thành phố có đôi bạn nào hẹn chờ nhau ở đấy? Đêm nay anh không ngủ được đây, anh nằm trên chiếc quan tài gỗ mộc và đọc cái thơ, cái mộng của lòng em – “Lịch thiên nhiên – Bốn mùa” – Đây là mùa hạ em ơi, em đã lật đến trang thứ bao nhiêu rồi, tác phẩm của Prítsvin?

Mình không muốn ghi lại thêm một ngày giặc ném bom Hà rinh nữa – Buổi trưa nằm ngủ mà nào có ngủ được đâu Những cây cọ xoè ô xanh che giấc ngủ, nằm trong võng mà nghĩ hoài, mà thương hoài, thương từ cái gân lá xương xương, thương cả mảnh trời xanh nhỏ tí xíu qua vòm lá mà cũng bị rạch nát bởi đường bay của giặc – Đất nước, có bao giờ được ngủ yên đâu!

19/4/72

Thạch Hương – Thạch Hà – Hà Tĩnh

Đi qua đây với một ước mong

Gặp em, cô TNXP bao bài thơ ca ngợi

Chẳng phai ban đêm khi nào cũng tối

Đêm Thạch Hà thao thức một vành trăng.

Ở đâu rồi em, cô TNXP

Thạch Kim – Thạch Nhọn

Trời Hà Tĩnh là một trời đưa đón

O gái nào anh cũng ngỡ là em.

Có phải em là o giao liên

Đi vội vã giữa ồn ào lính trẻ

Đêm chẳng bình yên mà yên lành là thế

Quả bom lạnh lùng chúi theo dấu chân.

Đường rất thơ là đường hành quân

Bởi có em, đường thành trẻ lại

Đường đánh giặc chẳng bao giờ dừng lại

Đến nơi nào anh cũng thấy em.

Những con đường em mở trong đêm

Bỗng thành sáng rực

Đường em mở nơi đâu?

Cho anh biết với

Anh đi với em chẳng bao giờ biết mỏi

Cô gái đất này – Thạch Nhọn – Thạch Kim

Cô gái đất này, ơi em…

Ở đây đặc biệt có nhiều cô gái trẻ – nhiều một cách đáng ngại. Đất Thạch Hà, và Thạch Kim, Thạch Nhọn trong thơ của P.T.D còn cách đây không xa lắm! Đi đến Thạch Hà vào chập tối – làng xóm ở đây thật đẹp, nhất là vào đêm trăng sáng như đêm nay. Em nhỏ nhắc vó tôm ngoài con mương lừ đừ dọc đường đất rộng – Và khi vừa chớm đặt chân vào xóm, từ sau luỹ tre ướt át ánh trăng bỗng thon thả tiếng hát của người con gái. Tiếng hát bỗng trở nên gần gũi và quen thuộc khi ngó vào một ngôi nhà ngỏ cửa, vẫn thắp ngọn đèn con với trang vở học trò… Lại sắp thi rồi, tháng 4, mùa thi về đậu trên ngón tay em.

Đường đi trong xã thì đẹp, hàng phi lao cao, thẳng, mỗi cây treo một ngọn đèn trăng – Nhưng nhà cửa thì không gọn và đẹp lắm – Đất cát và nhiều nước, đào hầm một lát là nước ùa vào ngay thôi. Nhưng đó là mạch ngang. Bởi vậy, rất ít giếng và hồ – Gia đình mình có một con đi bộ đội – Trung sĩ Dương Nhung, vợ anh từ Bên Thuỷ sơ tán về đây, cháu còn rất nhỏ, nó nằm trên nôi tre cùng một gian với các chú bộ đội. Mỗi người qua đây trú quân ở đây đều thương và yêu nó, những bàn tay chưa hề làm bố cũng nhè nhẹ đưa nôi và ru cho cháu ngủ. Tự dưng, mình cảm thấy tha thiết muốn được như đứa bé, là

cơn của người chiến sĩ, và cứ sau mỗi lần quân đi, cháu lại được lớn lên…

Ở đây có tục lệ báo động rất hay. Từ rất xa, ở những vùng gần biên giới, khi thấy có máy bay vào họ đánh trống luân phiên, xã ở trong nghe xã ngoài và cứ như thế, tinh thân đoàn kết hiệp đồng của nhân dân đã thắng cả động cơ phản lực của quân thù.

Mình cũng không ngờ rằng đến đây lại được đọc tập 1 của “Con đường đau khổ”. Tác phẩm mà Như Anh yêu và quen thuộc nhất. Song, để được đọc non nửa, mình đã phải trả một cái giá “khá đắt” – Ban ngày trời nóng như nung, đến chiều dịu dần, cua bò mát; bọn trong A hò nhau đi bắt cua và hái rau khoai về nấu canh – Chúng nó cứ tị với mình và lúc thì sai giã cua, lúc thì sai đun bếp – Mà mình chỉ mượn được cuốn sách đến tối thôi – Vậy là cáu tiết mình bảo không ăn đâu, đừng tị nạnh nữa. Và quả thực, đến bữa ăn mình chẳng thèm ăn gì đến canh cả, chúng nó mời cũng mặc, tự ái mà! Vả lại cũng vì ghét cái tị nạnh xấu xa của bọn nó – Trẻ con thật. Khổ một điều hôm ấy cơm khô khan quá, chẳng có tí tẹo canh nào. Nhưng rồi cũng chẳng chết ai, mà mình lại biết thêm được nhiều điều mới mẻ.

À, giờ đây mình mới biết Bétxônốp và Êlidavêta là ai đấy. Êlidavêta ở đây chứ không phải Êlidavêta trong “Một ổ quí tộc” của Tuốcghênhép – Êlidavêta trong Tuốc là người con gái được yêu mà không cảm thấy niềm vui – Và như vậy là đáng thương – Còn Êlidavêta trong A. T thì cũng đáng thương không kém.

Mình cảm thấy rùng mình khi nhớ lại rừng 1 lá thư của Như Anh đã nhắc đến Bétxônốp và Êlidavêta – Chẳng lẽ mình là một Bétxônốp chăng?

27/4/72

Phải hết sức trấn tĩnh, tới mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và lung tưng. Còn tôi rời rã tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đởi là một điều xấu xa và không thể nào tưởng tượng được – Người ta đã chỉn rủa biết bao lần những thanh niên như thế – Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn – Con đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông cạn đang rút nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông.Không, chẳng có ai có thể đem lại cho tôi được chút gì niềm an ủi hay vui sướng cả. Mọi người không hiểu được tôi, mọi người gắt gỏng với tôi. Trời ơi, giá lúc này tôi có thể chết ngay đi được. Có thể quên hết nỗi phiền muộn và sầu não ngập tràn cả hồn tôi thì sung sướng biết bao. Thì sung sướng biết bao…

29.4.72

Tạm biệt! À quên, vĩnh biệt Cẩm Lạc – Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh – Chắc chẳng bao giờ mình quay lại đây nữa. Tuy thế. mình đã bỏ lại đây nhiều sách vở, 16 tập thơ chứ ít ỏi gì Toàn những tập thơ đáng giữ gìn cả. Nhưng không thể đem đi được. nặng quá. Vả lại, vào gần chiến trường rồi, sắp vượt Trường Sơn, mang đi nhiều ắt cũng phải vứt đi thôi

Ở Cẩm Lạc chưa được trọn 1 tuần – Vì đến đây có hơn 3 tuần. nhưng rồi đi diễn tập và công tác ở C18 nên không ở đây nhiều Hôm qua lên C18 định học tiếp tín, nhưng rồi chẳng học gì cả. Ngủ 1 ngày trên ấy rồi về. Đeo nặng. Tạm biệt dòng sông.

30/4/72

Kỳ Tây – Kỳ Anh – đội 8. Đến lúc 2h30 sáng. Ngủ ngoài rừng, con suối nhỏ, nước đen. Con đường rải đá trắng. Dân cư thưa thớt. Rừng rậm. Cành khô, mưa buổi sáng.

Nhắc nhớ đến 29.4. Ngày ấy 1 năm trước đây đang nằm trên gác 4 trường Tổng hợp. Thế mà năm nay lại ở đây rồi. Hôm qua thứ 71 hôm nay là chủ nhật, nếu như ở nhà đi học thì đã có bao nhiêu niềm vui và nói chung là thoải mái và có thể đi dạo trên những con đường rải đá trắng; hoặc mịn cát, hay là con đường nhựa dẫn ra ngoại vi thành phố – Hoa sữa ban đêm sẽ dắt tay ta sẽ dắt lòng ta đi trên hè phố – Và chắc sẽ nghĩ một chút gì tới bài học, nóng ruột mà – Còn thì lại nhớ cô gái phố Nguyễn Du cho mà xem.

29.4.71. Cũng không thể hình dung được một năm sau đó lại thay đổi ghê gớm như vậy! “Năm nay anh đã ở gần tiền phương” quả thật kỳ lạ hết sức.

Hành quân! Hành quân!… Những đoàn quân cứ đi thoải mái và không biết bao giờ mới dừng lại, quay ra ở đội quân chủ lực, cơ động trực thuộc Bộ, không ở đâu được lâu quá 2 tháng. Cứ đi, cứ đi…

Phải cái hành quân nặng! Lần nào cũng 30kg trên vai là ít. Đất nước rộng thì đẹp và cảm thấy tự hào – Nhưng lắm lúc nguyền rủa con đường vì nó quá dài đi. Đi mãi mà không tới. Chỉ có 20km thôi mà lời động viên phải dài hơn cả 30km nữa! Phút thú vị nhất là 10 phút nghỉ giữa đường hành quân – Nằm trên đồng cỏ rộng mênh mông, có ánh sao xanh biếc, những ngôi sao biết nói – Gió từ biển xa thổi vào, qua những rặng núi xanh đã phai hết vị mặn – Mát gió đến miên man, mình cứ ao ước phút này kéo dài đi mãi, đấy là phần thưởng đối với mỗi người sau một đợt hành quân dài – Mình hay nhớ đến Như Anh nhớ đến Như Anh vào phút sung sướng ấy Anh vắng em ở chặng đường này…

Điếu thuốc hay đỏ ở phút này. Một điếu thuốc ở đây mới quí giá làm sao. Lính ngồi vòng quanh, để điếu thuốc đi vòng mấy lượt – Đầm ấm và da diết biết bao. ở đây, trên núi rừng Hà Tĩnh, người ta kề về câu chuyện tình đầy hấp dẫn của Gơrigôri và Ắcxinhia trong “Sông Đông êm đềm”. Hôm ấy ăcxinhia mặc áo và váy mới, chiếc váy hoa dành cho ngày hội, hôm nay lướt trên bờ sông Đông êm ả. Cô nhìn Gôrigôri cưỡi ngựa và cặp mắt của họ nói hết với nhau những điều thật là khó nói… Gorigôri chạy như bay xuống bờ sông, trong gió thoảng tiếng cô gái xinh đẹp cuống quít – Anh Gơrigôri, em đi được mà, em đi được mà…

Còn ở đây, lính bảo chẳng hề được gặp cô gái nào giữa những người lính đi chiến trường – Toàn lính đực! Biết làm thế nào cơ chứ! Các cô gái làm sao mà chịu đựng nổi cảnh này.

Tìm phương Bắc qua ngôi sao Bắc đẩu mờ. Và nhớ những người thân ở phương Bắc – Ngày càng đi xa. 5 thằng lính đã đảo ngũ rồi – Hèn thật!

1/5/72

1/5/70. Hai năm rồi, kể từ ngày ấy.

Đừng có nhớ vớ vẩn.

Đóng quân ở Kỳ Lâm, bên cạnh dòng suối lừ đừ. Bên cạnh ngôi trường cấp 1.

2/5/72

Hôm nay dừng chân ở một trạm giao liên dọc đường ra tiền tuyến. Trạm giao liên mà mình hay ao ước được đi qua, được nhìn, được ngắm và được sống. Thì đây, trạm giao liên (có thể nói là đầu tiên) mà mình được đến. Bao nhiêu người đã đi qua đây, đã sống ở đây? Cơn gió mát lành qua vách lá, bao nhiêu lần đọc tên anh bộ đội? Mình cảm động biết bao lần, cứ nhìn cái cửa buộc bằng sợi dây rừng – Vách lá bơ phờ, nhưng dễ lọt vào chân núi, giữa một vòm cây mát rượi. Nước không nhiều, nhưng trong vắt và mát lạ lùng. Hoa rừng năm cánh rơi ở ven suối như sao trời buổi sớm, bậc đá dẫn người đến suối, có vết ám khói

Ngoảnh nhìn ra cửa là thấy núi – Núi Hà Tĩnh mát ngọt như một dòng sông – Cây lên xanh và tháng 4, hoa sim, hoa mua nở tím đất trời – Chỗ nào cũng thấy cỏ, cỏ gai và cỏ gà và cả cỏ mật thơm lừng – Bước chân lên cỏ dầy, cứ ao ước ở đây lập một nông trường chăn nuôi bò sữa – Rồi đất nước mình sẽ đẹp biết bao!

Gió đã hơi nóng, khi trời đã tháng 5 rồi, mùa hè rồi đấy em ơi. Rồi gió Lào sẽ về đốt cháy cây cỏ – Cốt sao đừng để lòng mình héo quắt queo đi – Buổi sáng, đi vào rừng lấy gỗ mình bỗng gai cả người vì tiếng trẻ hát trong trường cấp 1 bên cạnh nhà. Chúng đang hát và múa, chắc là để chuẩn bị kết thúc năm học và 15/5; 19/5 đây. Tuổi thơ… đã xa lắm rồi – Không còn được đi học, không còn được lo lắng vì bài toán chưa làm xong, vì một điểm kém – Xa lắm rồi…

Chưa bao giờ nhớ Như Anh như hôm nay – Khi từ dòng suối mát lành trở về lán. Bỗng như trở về cuộc sống thật hôm qua. Nghe rất rõ tiếng Như Anh cười, nghe rất rõ tiếng Như Anh nói – Tưởng chừng xoè tay ra là nắm được tay Như Anh rồi, cái bàn tay xinh xắn, cái bàn tay yêu thế…

Như Anh, sao Như Anh bạo thế? Sao Như Anh dám yêu một người con trai kém Như Anh về mọi mặt – Một người con trai nghèo nàn và ngu dốt. Người con trai ấy đi chiến trường và rất dễ chẳng bao giờ quay lại – Sao Như Anh dám chờm Không nghĩ đến những đòi hỏi của mình ư? Trời ơi, sao mình ngu dốt thế? Không thể nào nói rõ ràng được những nỗi xúc động đang trào lên, đang dâng lên. Không thể nào diễn tả nổi những cảm xúc này. Những cảm xúc rất thật, rất cụ the và khiến mình say sưa đến thế…

Mình sẽ làm gì đây? Làm gì đế xứng đáng với Như Anh? Không the than thở mãi, không thể cứ ao ước và mong mỏi một cái gì may mắn đến làm thay đổi cuộc sống hiện nay. Mới đó, mà đã 1 năm, sắp 1 tuổi quân rồi – Có cái gì mới đến với mình không, và mình đã làm được gì cho Như Anh? Đừng để Như Anh phải đau khổ vì mình, vì đã yêu nhầm 1 người không đáng để Như Anh phải quan tâm tới Đừng để sự ngu dốt ngăn cản TA, T. nhé.

Từ khi vào đất Hà Tĩnh, bọn ình rất ức vì máy bay địch chúng nó bay rất thấp, chậm rề rề và nghiêng ngó hết sức láo xược Cứ từng tốp 2 chiếc lượn lên lượn xuống quanh những chóp núi màu xanh lục phì khói đen ở sau và ngạo nghễ nhòm ngó. Bầu trời của chúng nó đâu mà dám làm như vậy! Nhưng súng phòng không của mình thì lại quá ít, hầu như không có. ở đây, chủ yếu là phòng tránh không bắn trả. Nấu cơm ăn phải không có khói lên, phơi quần áo cũng không được phơi ngoài nắng. Bỏ mặc bầu trời cho địch (!) Vô lý thật – Thế mà đó lại là chuyện thật!

Ta đang đánh lớn trên chiến trường – Giải phóng La Vang, Đông Hà rồi – Tới đây, nghe tin E3 đã đi chiến trường được 5 hôm – Bây giờ có lẽ đã đi được nửa đường – Bọn mình chắc cũng sắp đi thôi – Vào trong ấy, vào trong ấy . Biết có giữ được mình không? Mình sẽ bắn chết thằng lính Mỹ đầu tiên lúc nào nhỉ? Phải, nhất định phải bắn nhiều chúng nó đâu còn là người nữa!

Rừng ở đây đẹp tuyệt. Cây cao, thẳng và rậm. Vắt dĩ nhiên là nhiều rồi, nhất là trời mưa – Đi lấy gỗ, nó bâu kín cả các kẽ chân. Mình vẫn chưa có kinh nghiệm lấy gỗ, chặt toàn đu đủ rừng, trông thì rất thẳng mà vụng – Làm nhà cũng không được, khô là cứ tóp dần đi – Làm củi cũng không được, chỉ toàn khói và không hề có lửa! Dạo ở Nhã Nam đã bị nhầm 1 lần, lên đây vẫn cứ nhầm.

Đêm ngủ ở Hà Tĩnh, nghe tiếng chim “bắt cô trói cột” kêu mà rầu cả lòng. Tiếng khóc của người xưa đề lại dư âm hoang dại ấy đến tận bây giờ! Gà rừng te te gáy, gợi nhớ buổi sân ở nhà… Chao ôi, mình nghĩ gì thế này? Điên rồi đấy!

Sau này về, mình sẽ kế cho Như Anh nghe thật nhiều, chuyện về chú sóc con lần đầu mình nhìn thấy trên cây trám. Hai con mắt nó tròn và xinh ơi là xinh, cứ như hai viên ngọc ướt nước mưa vậy, cái đuôi bồng lên, nó chạy thoăn thoắt trên cành cây nhỏ, hệt như giọt nước thật trong lăn trên lá khoai vậy. Rồi cả con kỳ đà leo trên cây, Sơn nó. trông thấy – Cu cậu giương súng cao su bắn, trúng lưng, trúng đầu, chú kỳ đà lại nhô đầu lên ngó. Cái lớp da mới dầy và cứng làm sao – Hàng vây trên lưng nó như vây cá – Và cái đuôi như một con rắn, nom rờn rợn – Vậy mà khi Sơn nó đập, con kỳ đà rơi xuống ven suối đánh bộp, đem về thịt, ăn cũng ngon – Rất ngon là khác. Sẽ kể hết với Như Anh nhé, cả cái lá mâm xôi để nấu nước – Cả cây sa nhân sa mỏng mảnh mọc chòi bên bờ suối – Kể để Như Anh cùng vui trò chơi tuổi nhỏ của anh bộ đội, cầm đèn pin đi sợi cá Con cá chói mắt. đứng im giữa dòng nước chảy, chém nhẹ con dao và chú cá ngửa bụng lên ngay – Dễ thế mà đêm qua, mình bỏ mất một chú tôm thật to – Rồi còn để sổng 1 con cua đá nữa. Như Anh đừng có cười đấy. T. của Như Anh còn vụng về biết mấy. Đi bắt con cua đêm mà có bắt gì đâu, chỉ nhìn cái vòng sóng ánh sáng hắt lên người đồng đội và đốm sáng kéo từ mặt nước xuống những viên sỏi dưới lòng suối… để làm thơ – Bài thơ về cuộc sống rất thơ của anh bộ đội. Kể Như Anh nghe nhé, đồng ý không nào?

3/5/72

Người ta nói: “Nước sông, công lính” kể cũng phải thôi. Đi từ Cẩm Lạc đến đây, hành quân mất 2 ngày, 2 đêm. Mỗi ngày đi 20km vì không được đi theo quốc lộ 1 – Toàn đi đường rừng núi – Tuy vậy, đã thấy xa. Về đây, được nghỉ 1 ngày để ngủ – Hôm sau vào rừng lấy gỗ về làm nhà kho. Mỗi người theo tiêu chuẩn là 4 cây/ ngày, cây phải cao 4m! Kinh khủng! Mình và Ch. tuổi sáng vào rừng chặt được mỗi đứa 2 cây. Kéo từ đỉnh núi, theo con đường mòn vằn vèo – Rừng không xa, chỉ cách nhà chừng 1km, nh mợ cây ở dưới chân núi thì nhỏ. Phải trèo chót vót lên đỉnh, cây mới cao, thẳng, mới đủ “tiêu chuẩn” đề ra.

Chiều, định đi lấy nốt mỗi người 2 cây cho xong, thì được lệnh nghỉ chuẩn bị tối đi về Cẩm Lạc lấy số gạo gửi khi đơn vị di chuyển gấp. 5h30 bắt đầu hành quân. Mình cứ tưởng đi bộ không có ba lô ắt phải nhanh và nhẹ nhàng hơn. Nhưng chẳng nhẹ lắm đâu. Cũng vẫn mệt nhoài, đến nỗi bọn mình nằm la liệt dọc đường đi. Rồi rẽ ngang, rẽ ngửa, lạc cả đường. Khoảng 1 giờ sáng 4/5 thì mình tới nơi. Có đứa mãi 8 giờ sáng mới lò dò về. Hôm hành quân đến đây, đường còn nguyên vẹn. Hôm nay quay lại, những chiếc cầu gỗ khá vtmg chắc đã bị ném bom tan tành để trơ lại những khe sâu đen mò, lá lau um tùm. Trèo qua. Ô tô chạy ban đêm phải thắp đèn gầm, nhưng chạy với tốc độ kinh khủng. Cứ lồng lộn và cuốn bụi khét nồng.

Mình trở lại nhà cũ. Nhà o Hồng đấy. Cả nhà ngủ sạch – Chỉ có bà mẹ dậy nấu nước cho bọn mình ngâm chân. Trăng 17 giờ mới tỏ. Bọn mình quay ra ngủ, chẳng mắc màn gì cả – Vả lại, làm gì có màn – Không đem – Đêm ấy chắc muỗi nó khiêng đi còn gì.

4/5/72

Gia đình tỏ ra không xứng đáng với lòng tin của mình- Rất buồn vì những cuốn sách mình gửi lại đã bị lục tưng ra và vứt bừa bãi. Nó chứng tỏ chủ nhân không hề tôn trọng khách. Chứng tỏ một thái độ thiếu lịch sự của gia đình. Buồn hơn, nình đã nhờ hẳn o H. cất hộ. Thế mà khi gửi. mình cứ nghĩ và lo rằng, cho đến khi gián nhấm hết cả gáy sách rồi, mà gia đình vẫn không dám giở ra xem. Chán thật, lòng tin đối với con người.

Và thương biết bao cuốn sách mình yếu quí – Những bài thơ khiến mình xúc động – Thế là vĩnh viễn không còn gặp được nữa.

Trời nắng kinh khủng. Gió nóng rồi. Dạo này bên Lào bắt đầu có gió Lào – Nó sẽ thốc đến đây và mang màu đen cho anh bộ đội khu 3. Cả ngày không hề có dáng 1 chiếc máy bay. Nhân dân bảo: Từ khi bộ đội đi. máy bay không đến ném bom nữa – Rất lạ, nhân dân nhạy bén với cán bộ và bộ đội lắm – Họ bảo, bọn mình sắp vào Quảng Bình và ở đó rồi đi chiến trường thay cho 1 đơn vị vừa có lệnh ra Bắc – Không hiểu có đúng thế không – nếu đúng thì nguy hiểm lắm – Việc giữ bí mật trong đơn vị không tốt lắm.

5/5/72

Không ngờ bọn mình lại đi nổi đoạn đường dài đến thế với 20kg trên vai. Và liên tục mấy ngày hành quân, lao động mệt nhọc – Thế mà đến nơi đúng qui định – Chỉ rớt lại mấy người ngủ ở nhà dân dọc đường.

Đây là những điều mình thấy trong đêm hành quân.

Lại những cô gái Hà Tĩnh. Mình cảm thấy hơi sợ cái giọng hò Hà Tĩnh rất dai dẳng và chói tai. Các cô đi trong đêm khuya với công nhân nông trường nuôi bò dọc đường 24, vào tận sườn núi tối đen, qua cánh đồng khá rộng – Và các cô hò. Tiếng hò – Chao ôi…

 

Lại cái thái độ giả tạo, kiêu ngạo của a. M. Anh ta hay chế nhạo người khác một cách thô lỗ dưới một lớp vỏ ngoài khiêm tốn. Rồi thái độ bề trên, hách dịch, ra lệnh của Th.. Mình cảm thấy buồn chán rất nhiều. Con người sống với nhau chưa thực với mong muốn của mình. Phải nói rằng, mình chưa sống với ai được 3 tháng mà hoà thuận cả. Mình luôn luôn tìm thấy ở các bạn của mình những tính xấu Những tính xấu. Những tính xấu không thể tha thứ được ở người này là sự hợm mình – ở người khác là lòng đố ky, ghen ghét – Ở người kia là cái giọng nói cố ra vẻ hùng hồn – Tất cả những cái đó khiến mình cảm thấy con người có vẻ gì giả tạo – Nghi ngờ, và nghi ngờ mãi. Mình hay nghĩ tới Như Anh – Như Anh ra sao nhỉ – Phải Như Anh chính là người bạn nữ duy nhất mà mình còn gửi thư, còn thường nghĩ đến và nhớ nhung. Mình không muốn thế – Mình không muốn yêu một người con gái khác với Như Anh thực. Mặc dù người con gái đó chỉ là Như Anh trong tưởng tượng của mình. Hơn bao giờ hết, mình mong muốn hiểu Như Anh, hiếu rõ ràng và cặn kẽ Như Anh – Đồng thời, Như Anh cũng hiếu mình như thế. Cuộc sống còn có bao nhiêu điều phức tạp và trần trụi. Người ta cần phải sống với nhau trong cái gồ ghề, góc cạnh ấy và không thể nào khác thế. Người ta phải đau khổ, phải vui sướng với cuộc đời thực. Chứ không phải cuộc sống trong mơ. Như Anh ở cuộc sống thực ra sao? Liệu có làm cho mình thất vọng? Và tình bạn của TA, có bị tan vỡ khi sự thực ta sống ở bên nhau, ta gần gũi hay không?

Cũng chưa thể nào biết được. Từ xưa đến nay, đã có tình bạn nào làm mình hài lòng đâu – Bạn nào cũng vậy, chỉ trừ Như Anh là chưa rõ mà thôi. Bao giờ cũng đem đến cho mình một niềm sầu muộn, chao ôi, những tình bạn trên cuộc đời này. Nói vậy, không phải lúc nào cũng khiến cho mình buồn bã. Cũng có lúc nó đem lại niềm vui, đem lại niềm an ủi và sung sướng. Nhưng tách ra khỏi cái hoàn cảnh ít nhiều đặc biệt ấy – phần lớn, mình cảm thấy chẳng hài lòng. Hay là lỗi tại mình? Tại mình sống không tốt nên mình không cảm thấy hết được cái đẹp đẽ trong tình bạn- Nên mình không xây dựng được một tình bạn nào cao cả và đẹp đẽ cả.

Như Anh ơi, Như Anh… Như Anh đang ở đâu rồi nhỉ. Như Anh nghe T. nói chuyện không? Buồn lắm Như Anh ạ Tình bạn của chúng ta rồi sẽ đi đến đâu? Và nhất là có đẹp đẽ như những ngày qua, như những ngày hôm nay hay không? Phải đấy là tình bạn duy nhất mà mình còn giữ được.

Không, vấn đề không phải đơn giản như thế. Còn rất nhiều điều khác nữa tế nhị và rất đáng sợ nữa – Những vấn đề chỉ rất nhỏ nhưng không phải không quan trọng. Dễ thương,/ mình trở thành người vô tim!

Khi còn ở trường, thức đến 1 giờ sáng, và sung sướng nhận ra rằng, đấy là giờ khắc chuyển mình bước sang ngày mới. Thực ra phút chuyển mình sang ngày mới là sáng sớm. Đó là lúc chuyển ngày thực sự và phần thực thuộc về ánh mặt trời đỏ ửng viền đỉnh núi phía Đông. Còn phần mộng thuộc về ánh trăng 18 ban đêm… Ta đi giữa, bộ đội đi giữa.

*

* *

Nghĩ những điều vớ vẩn ấy làm gì khi ở nhà vừa xảy ra 1 việc, 8 giờ sáng ngày 4/5, máy bay địch đã bắn đúng khu nhà của B thông tin và D bộ. (Lúc ấy, mình còn ngủ ở Cẩm Lạc, đắp chăn dạ ngủ cho đỡ ruồi – trời nóng – an nhàn và hoà bình thế thì thôi). Vì về gần đến nhà bọn mình mới biết. 4 quả bom đã phá sạch, phá tan tành và xơ xác ngôi trường cấp 1 bên cạnh. Ngôi trường đẹp, thoáng và mát. Cô giáo mặc áo trắng, khoác khăn nguy trang xanh và những em bé hiền lành, hay nghịch ngợm. Hôm nào, mình còn nghe các em ca múa chuẩn bị cho ngày kết thúc năm học – Hôm nay, các em đã ở đâu – Và có em nào chết?

Bộ đội dừng lại trước ngôi trường hôm qua tan tác vì bom đạn địch. Hố bom đen kịt, gỗ ngổn ngang, đất đá tơi bời – Có mùi tanh tanh và khét lẹt. Hầm sập – 5 em nhỏ đã bị chết và 1 số bị thương. Rất may hôm đó bộ đội đi lấy gạo gần hết, chỉ còn một số ít ở nhà. 1 quả lao xuống nhà bếp. Mái bếp bị thủng 1 vết rất ngọt. Quả bom lao thẳng xuống làm bay mấy cái nồi quân dụng, cái ớ a thức ăn có mấy kg thịt, con cá bắt dưới suối và mấy cái nồi. Một quả cắm xuống cửa hầm, ở trong có 3 người: An, Toàn, Tốt (!) Mấy quả bom rơi vào lán đều không nổ! Người ta phát hiện, đấy là do công nhân Mỹ phản đối chiến tranh đã lắp bom không có kíp, bom không nổ. Cũng có thể.

Nhưng có ý kiến công binh cho rằng, máy bay bay quá thấp nên bom không nổ được – Chưa biết thế nào. Chỉ cần biết: nó không nổ – Thế là được.

6/5/72

Học chính trị và thảo luận chính trị. Tình hình và nhiệm vụ mới. Người ta nhấn mạnh một cách quá đáng tình hình ở chiến trường. Lẽ ra, với bộ đội, không cần phải động viên một cách chung chung và lạc quan một cách như thế. Nên cho những người ở chiến trường hiểu và những người sắp ra chiến trường hiểu cụ thể về tình hình chiến sự. Kể ra, cũng không còn nghi ngờ gì về chiến thắng của chúng ta cả. Ta đã thắng và đang thắng lớn. Nhưng có lẽ câu kết luận của các cán bộ chính trị chưa thoả đáng lắm đâu. Nên cho những người lính hiểu tất cả khó khăn đang chờ đợi họ. Chiến trường càng ác liệt trong suy nghĩ của người lính, họ càng chóng thích hợp khi giáp mặt với quân thù.

Thế là lần đầu tiên, ta đã thắng lớn, rất lớn vào chính tháng 4. Mình cũng hơi buồn vì những chiến thắng lớn như vậy mà mình chưa có mặt trên chiến trường. Nhưng cũng rất tự hào vì mình đang làm công việc cần thiết cho những thắng lợi ấy. Khi nghe tin chiến thắng giải phóng Quảng Trị, Đông Hà… tiêu diệt hàng vạn địch… chính là lúc mình đang hành quân về Cẩm Lạc lấy gạo – Đoàn người ùn lại xung quanh anh cán bộ, đeo cái đài Li do to cồ cộ, để nghe bản tin dài 90 phút của đài mình thông báo tình hình chiến thắng. Thị xã Quảng Trị đã được giải phóng, bộ đội ta đang tiến vào… và bản nhạc giải phóng Điện Biên nổi lên vừa hùng tráng, tự hào, cảm động, vừa quen thuộc. Mình bước như say trên đường, qua khe suối, qua bụi cây mua… Đêm nay đây, bao nhiêu người bước chân trên Trường Sơn?…

Nhìn những ngọn núi xanh xa xa, cây cối sùi lên như mây trên đỉnh núi, mình hiểu rằng, đấy chính là chân Trường Sơn – Khi nào mình được đứng hẳn trên Trường Sơn nhỉ đứng ở đó, nhìn ra bốn phía mênh mông, thấy những dải rừng cháy tan hoang vì bom napan và chất độc hoá học Mỹ – và được gặp những người chiến sĩ lăn lộn ngày đêm trên tuyến lửa. Mình đã ao ước từ lâu, được ngắt một chùm lá săng lẻ, được đi dưới rừng khớp và mắc võng trên những cây rừng đã mòn vết người đi trước. Mình cũng hiểu rằng, những cái đó đều phải trả bằng mồ hôi và cả máu nữa – Phải trả một giá khá đắt. Nhưng có hề gì,không dám hy sinh làm gì có hạnh phúc, niềm vui?

Bộ quân phục đầu tiên của mình đã sắp rách rồi. Mình rất yêu bộ quần áo này, hình như nó cũng gần là quần áo sinh viên. Dạo ấy, cứ nhìn anh bộ đội nào có bộ quần áo ấy, với độ phai màu ấy và diếc mũ mềm giặt vài lần đã bạc phếch… thì chắc người ấy đi bộ đội đợt 6.2.71, đợt của các trường.

Bây giờ đã là tròn 8 tháng tuổi quân. Vẫn binh nhì! Không sao lên được thêm một ngôi sao nữa. Trước kia ở ngoài quân đội, ông đại uý cảm thấy thường thôi – giờ vào bộ đội mới biết, thiếu uý cũng đã hét có khói rồi. Hôm qua, người ta đã bắt khai quân trang để chuẩn bị cấp phát đọt mới. Và thế là “coi như” 1 năm trong quân đội. Vả lại, sắp đi chiến trường nên phát rất nhiều thứ, nhiều đến mức độ muốn vứt cả đi.

Khi nào được quần áo mới, bắt đầu phải thêu lên ngực áo tên và ký hiệu đơn vị mình (Phòng khi bị ném bom mà đã ruồi!) Eo ơi, lính toàn đứa khéo mồm, vụng tay, thêu bố nhắng lên nắp túi ngực, chữ chẳng ra chữ. Mình nhớ Như Anh nhất là những lúc như thế – Chao ôi, sao mình chẳng hề được sự chiều chuộng ấy nhỉ, như Hảo trong “Vùng trời”ấy: Đêm khuya lắm rồi. Ngủ đi anh!”

Sao không có Như Anh ở đây, để Như Anh thêu lên ngực áo nình. Không/ Như Anh phải học chứ, phải học giỏi, và không nên bắt Như Anh làm những cái vớ vẩn như thế được.

7-5-1972

18 năm rồi ư? Từ ngày chiến thắng Điện Biên lừng lẫy địa cầu. Những ngày đó mình mới chỉ là đứa bé lên 2. Đã biết gì đâu. Người ta bảo rằng không ai khi nằm trong bụng mẹ đã hỏi được hoàn cảnh xuất thân của mình. Không thể hỏi được mình đã sinh ra trong gia đình thế nào, tư sản hay địa chủ cường hào! Song không phải ai cũng thế. Ngay cả trong thời đại chúng ta – Thời đại mà Đảng sẵn sàng dắt bất kỳ con người nào 1 lòng trung thành với Đảng để đi tới hạnh phúc của cả loài người.

Từ rất lâu rồi mình vẫn mơ hồ về gia đình của chính mình. Những người khác, những người bạn khác của mình họ thường tự hào về hoàn cảnh xuất thân của họ. Tự hào về các anh chị và các em, ông bác, ông chú xa xa, gần gần của họ. Rồi còn vô vàn cái để họ tự hào nữa. Mỗi khi nhắc đến lý lịch là người ta lại cảm thấy trào dâng lên một niềm vui, một nỗi sung sướng pha chút gì kiêu ngạo. Có lẽ bởi vì con người họ không có chút gì đáng tự hào nên họ phải làm như thế chăng?

Cũng phải thôi, vì bản thân họ rất sung sướng được sống và sinh ra trong một gia đình cách mạng, cha mẹ, ông bà họ là những người đã đổ xương máu cho dân tộc, cho giai cấp. Và giờ đây, Đảng đặt lòng tin vào con em các bậc tiền bối cách mạng ấy.

Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có người sẽ bảo: Thì đấy, anh được đi bộ đội đó thì sao? Chẳng lẽ anh không được Đảng tin cậy mà lại trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng ai nói thế! Chuyện gì cũng có điều tế nhị của nó. Nói ra ư, không khéo thì trở thành phản cách mạng mất. Có đi trong quân đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không phải Đỏ hoàn toàn. Không ở đâu có sự liên quan mật thiết về chính trị như trong quân đội cả. Nhiều khi mình có cảm giác bị bỏ rơi. Mình nhìn lại các bạn trong A đường như lý lịch của ai cũng có thể đảm bảo cho bản thân họ được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Riêng mình…

Khi còn ở trường phổ thông, dẫu sao quan hệ chính trị cũng còn bằng lặng. Tuổi thơ trong sáng biết chừng nào, nó chưa bị vết đen của quá khứ gia đình đè trĩu hai vai. Người ta hoàn toàn được bình đẳng với nhau trong mọi quan hệ. Chỉ vì hơi gợn một chút qua thái độ của cô hiệu phó cấp III một ít. Song, còn thoải mái lắm.

Ở trường đại học, nhất là Trường Tổng hợp, nhà trường chú ý nhiều đến chuyên môn và ít chú ý đến chính trị mấy. Người ta lao vào học tập, vào những cuốn sách, và cứ nghĩ rằng đó là chống Mỹ cứu nước rồi. Không nhiều lắm những người chỉ thích đi làm cán bộ lớp, cán bộ Đoàn như kiểu Thuỵ, Qui…

Phải, sống ở đó, mới mơ hồ về chính trị làm sao. Người ta dù đỏ trên lý lịch hay không, nhưng tiếng nói trước tập thể thì lúc nào cũng có thể đỏ bừng – Ai cũng có quyền nói mà không thấy ngượng. Không thấy đụng chạm vào một “cái gì đó” của mình. Vả lại, trong trường đại học, con em gia đình không cơ bản không phải là ít. Đầy rẫy ra đấy. Mà phần lớn lại là những đứa học giỏi, rất giỏi của lớp!

Còn giờ đây thì khác nhiều rồi – Đâu ra đấy cả – Cùng là 2 người không hề khác nhau gì về bản thân họ, nhưng lý lịch trong sạch, nhất là đỏ thực sự, là khác nhau lắm rồi. Không ở đâu sự đấu tranh giai cấp lại diễn ra quyết liệt như trong quân đội cả. Không khoan nhượng, không xuê xoa – Và Đảng thực sự nắm trọn vẹn và vĩnh viễn ngọn cờ lãnh đạo quân đội.

Rất nhiều khi đứng nhìn đoàn bộ đội đi qua, mình cũng thấy lẻ loi, lẻ loi quá đi mất! Khuôn mặt nào cũng đẹp, mình cứ nghĩ chỉ có những người cộng sản thực sự mới sinh ra được đoàn quân ấy. Họ đi, họ đi… và có lẽ họ chẳng biết rằng họ đang được hưởng một gia sản quí báu mà ông cha ruột thịt của họ mang lại.

Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn tận sâu xa. Anh Thục cảm tình Đảng từ lâu rồi mà chưa được kết nạp. Và cứ càng về sau, nói chuyện với anh, mình lại cảm thấy anh cứ đuối dần, cứ đuối dần. Anh cứ thất vọng dần.

8-5-1972

Thực tình đã có dấu hiệu gì chứng tỏ mình “bị loại ra khỏi đội ngũ” đâu! Nhưng linh tính cứ cho mình biết rằng mình không thể trở thành một đảng viên được. Mơ hồ thấy rằng khó khăn đến với mình sẽ nhiều đây.

Không sao hết! Miễn rằng anh sống thực sự như một đảng viên, thế đã tạm đủ rồi. Vào Đảng để làm gì nhỉ? Khi người ta đã sống và làm việc như một đảng viên rồi! Không nên suy nghĩ gì về chuyện ấy hết. Đảng khắc sáng suốt và dìu dắt mình. Điều cơ bản nhất, gia đình mình là gia đình lao động, cha mẹ mình là người lao động và hoàn toàn giác ngộ. Mình luôn luôn tin là thế.

9/5/72

Xem bộ phim “Ở phương Tây xa xôi”

Đức và Nga hoàn toàn có quyền tự hào về những đứa con của mình – Đại tá Xakharốp, người Nga hạnh phúc, như thiếu tá kỹ sư xây dựng Đức Boong le đã nói, quả xứng đáng với mềm hạnh phúc ấy – Dù ở phương Tây xa xôi, giữa quân giặc vẫn nhớ về quê hương có đàn lươn cao cổ, có cây to 3 người ôm không xuể, và mãi ghi lu lu tội ác của giặc đã tàn phá đất nước Nga. Không thể nào quên…

12/5/72

Mấy ngày nay, tình hình chiến sự căng thẳng hơn nhiều Hà Nội liên tiếp bị bắn phá. Hôm 10/5, 11/5 nghe tin địch bắn phá cầu Long Biên, Khu Ba Đình, Khu Hoàn Kiếm – Học sinh các trường cấp 1, 2, 3 đã phải đi sơ tán – Các trường Đại học cũng đi sơ tán một số rồi – Không nhận được thư nhà gì cả nên không biết chút gì gọi là “riêng”.

Mình đã nghiệm thấy, hễ trong này ngớt máy bay bắn phá là ngoài ấy lại bị bắn phá mạnh. Bởi thế, ngày mình yên tâm một chút là máy bay bay nhiều ở trong này. Kho xăng Đức Giang lại bị cháy lần thứ 2. V. ở đấy đấy. Không hiểu nó có làm sao không.

Địch đẩy mạnh chiến tranh ra miền Bắc – 1 1 /5 có cuộc họp kín của Nhà trắng, người ta bảo nó bàn riêng về Việt Nam.

Hôm kia, máy bay và tàu chiến địch đến nhiều trên bờ biển Việt Nam. Nó thả mìn phong toả bờ biển và khiêu khích tàu nước ngoài ra vào cảng Hải Phòng. Nichxơn gửi tối hậu thư cho tàu bè nước ngoài, hẹn trong 3 ngày phải rời khỏi cảng Hải Phòng – Nếu không sẽ phải chịu “hoàn toàn trách nhiệm” về mọi hậu quả có thể xây ra.

Thuỷ lôi và mìn trên bờ biển là sự khiêu khích rất lớn đối với đất nước và nhân dân ta.

Đơn vị cũng đang bước vào chiến đấu thực sự. Diễn biến tư tưởng bộ đội phức tạp hơn so với dạo còn ở ngoài Hà Bắc. Đảo ngũ, trốn tránh trách nhiệm, nằm ì. v.v… Đủ cả rồi. Minh cũng tự thấy dạo này trở nên bướng bỉnh hơn- Hay cãi hơn. Vả lại, hàng ngũ cán bộ B cũng khiến mình khó mà hài lòng hay kính phục mà tuân lệnh được. 9/5 ban đêm, C3 có vụ nổ lựu đạn – Đến bây giờ vẫn chưa tìm ra nguyên nhân. Tuy vậy vẫn phải đề phòng. Không hiểu có bàn tay phá hoại của địch ở đây không. Trong mấy ngày bị ném bom đơn vị, có người đã hy sinh – Hy sinh một cách không cần thiết chút nào. Bắt đầu phải gác 2người và 3 trạm. Không còn thoải mái và dễ dàng như trước nữa.

Đơn vị sắp di chuyển diễn tập. Lần này hành quân 3 ngày liền, vòng qua Quảng Bình và đến Đèo Ngang. Bọn 117 đi quan sát tình hình về cho biết ở đó rất đẹp – Sẽ đóng quân trong một cánh rừng chỉ cách biến có 100m. qua một cồn cát trắng và cơn mương nước ngọt. Sững cái chết lúc nào cũng đi bên cạnh. Máy bay ném bom, tàu chiến pháo kích – ở đó vắng và sự đi lại hạn chế hết sức. Mình đã vứt đi gần hết sách, vở, chăn, áo rét – Chỉ giữ lại 2 bộ quần áo dài, quần áo lót, tăng, võng màn, mấy tấm ảnh, 3 quyển sổ Gia tài chỉ còn có vậy thôi.

Có lẽ lần này, mình sẽ lên 425 ở 628 1007. Từ đó, nhìn ra biển chắc là rất đẹp – Chắc là sẽ thấy hết tầm rộng lớn của trùng khơi.

Mặc dù cuộc sống chiến đấu ngổn ngang, bề bộn và căng thẳng mình vẫn không bao giờ quên được Như Anh. Như Anh ở xa vậy, chắc không hề nghĩ rằng, có người lại nhớ Như Anh đến thế. Nỗi nhớ bây giờ không còn là niềm rạo rực, bồn chồn như năm trước – Mà im lìm, thấm thía – Mà là nỗi day dứt, trăn trở. Trăn trở hoài thôi. Sao thương Như Anh đến thế. Thương cả mình. cả mối tình vừa chớm nở…

Nhiều lúc mình muốn gửi cái gì đó cho Như Anh – cho Như Anh hiểu và tin rằng, mình mãi mãi thương yêu Như Anh – mãi mãi gìn giữ Như Anh yêu dấu trong trái tim mình – Song, linh cảm đẹp đẽ ấy không chỉ dừng lại ở đấy – Cũng như Như Anh bảo rằng: “Chẳng lẽ, chỉ có thế, chỉ có thế thôi mặc dù rất đẹp!”

Mình rất hiểu rằng: Phải, tình cảm ấy phải còn nhiều chuyện hơn nữa. Người ta không chỉ sổng với nhau mơ mộng – Mà còn phải thiết thực – Và còn nữa, nhiều nữa… Còn phải như đa sa và Têlêghin.

Nhưng, Như Anh ơi! Không thể nào thế được! Như Anh có hiểu rằng, người yêu Như Anh hơn hết, người yêu Như Anh đến nhức nhói cả trái tim lại chẳng bao giờ đủ sức mà gìn giữ Như Anh ở lại vĩnh viễn với mình. Cái “sức lực mỏng mảnh” của Như Anh chính là như thế đấy!

Càng mong ngày gặp lại Như Anh, mình hiểu rằng, ngày càng đi đến những ngày thất vọng thực sự của cuộc đời Thủ trưởng bảo rằng: Đừng nên nghĩ về chuyện “hậu phương” – Đừng vội nghĩ đến đòi hỏi và hưởng thụ. Không, mình có nghĩ đến hưởng thụ gì đâu. Chỉ vì yêu và thương người ở xa lắm lắm, mà mình cố tìm một con đường tốt nhất cho Như Anh đi, cho Như Anh hiểu, mình yêu Như Anh mãi, thương Như Anh mãi – Và mọi cô gái mình gặp trên cuộc đời này chỉ càng làm mình thêm nhớ, thêm thương Như Anh mà thôi!

Như Anh sẽ nghĩ gì khi càng ngày càng lâu có thư của nình? Như Anh có nghi ngờ gì lòng chung thuỷ của mình không? Nghi ngờ gì cũng được, giận dỗi gì cũng được, miễn là Như Anh làm tốt những điều mình dặn dò, ở xa, ở xa… phải, đấy là .hình là thử thách gay go và ác liệt nhất âm thầm, dai dẳng nhất – Như Anh có chịu đựng nổi hay không?

Mình không đòi hỏi gì nhiều cả – Mai sau có gặp lại Như Anh – Mình sẽ chẳng dám đòi hỏi gì ở Như Anh cả – Ta là đôi bạn thân nhất của cuộc đời riêng – Đôi bạn tin, quí và thương nhau nhất – Hiểu nhau nhất trong từng nẻo khuất của lòng. Đôi bạn nhớ nhau nhiều nhất – Nhưng, vĩnh viễn nó chỉ như thế thôi – Như Anh sẽ có một gia đình riêng nho nhỏ, với người bạn đởi nào đấy, chắc là người đó sẽ rất tốt, người đó sẽ cao thượng và đừng ghen tuông vì một tình bạn đẹp đẽ của mình.

Rồi cứ đến những ngày đáng nhớ, bọn mình lại đến nhà nhau chơi – Ta cùng giở lại quá khứ nên thơ, nên nhạc của mình, và vui sướng nhìn đến hiện tại đẹp đẽ, mà ở hôm nay thì đô là tương lai. Mình sẽ được tặng Như Anh những đoá hoa trắng muốt, những đoá hoa mà mình bắt đầu yêu khi biết rằng Như Anh rất yêu hoa…

Những ngày sống trong đời bộ đội, mình đã hiểu nhiều những tình cảm phức tạp và đa dạng. Người ta thường khuyên nhủ mình, đừng vội tin vào một người con gái. Nhưng mình vẫn tin – Tin một cách cuồng nhiệt và tự giác – Không hề phải bắt buộc, không hề phải tự gò bố, tự tìm lý do mà tin. Mình tin Như Anh không bao giờ phụ lại mình cả, khi mình suốt đời thương nhớ Như Anh và mình cũng chỉ mong có thế thôi. Chỉ mong, cuộc đởi mình cũng có 1 người con gái nhớ nhung bằng những tình cảm tốt đẹp nhất.

Người ta thường muốn phân biệt giữa người đi học nước ngoài và người đi bộ đội. Còn mình thì không muốn thế. Còn nếu như ai phân biệt thì mặc kệ họ – Và mình cũng chẳng lấy đó làm buồn phiền.

13/5/72

Chiều nay hành quân đến Đèo Ngang – Sẽ đi qua Quảng Bình và đi trong 3 hôm.

23/5/72

Mười ngày đã trôi qua. Mười ngày đầy rẫy gian khổ, khó khăn. Đầy rẫy mệt nhọc và vất vả. Và chiến trường có lẽ cũng chỉ gian khổ mức độ như thế hoặc có hơn thì chỉ hơn chút ít thôi. Đèo Ngang mình đã đến – Và quả thực, con đèo chạy dọc như nhà thơ mình thích đã nói:

“… Nhà như lá đa đậu lưng chừng núi

Sông suối ở đâu rơi xuống chân đèo

Đèo nhằm hướng Nam, đường nhằm hướng Nam

Xe đạn cũng nhắm hướng Nam vượt dốc

Bao nhiêu người làm thơ về đèo Ngang.

Mà quên mất con đèo chạy dọc!”

Biển đã ở ngay kia, dưới chân điểm cao nơi đơn vị mình đang chốt. Sắc biển thay đổi hàng ngày, hàng giờ. Còn những con sóng miên man của biến thì cứ vô hồi xô vào đất cứ xô mãi vào bờ mà chẳng bao giờ hết cả. Biến mênh mông, mênh mông, còn đất nhỏ hẹp – Vậy mà cứ như thế mãi thôi…

Không, mình cũng không hiểu định nói điều gì trong đấy nữa. Những ý nghĩ màu mè, những nghĩ suy giản dị, chân thực cứ chen lấn vào nhau và mình không sao tách bạch cho rõ ràng mà diễn tả. Tất cả cứ quyện vào nhau thành một mớ bòng bong thành một cục to sù. Kệ, chẳng thèm viết những điều ấy vào Nhật ký làm gì. Chuyện chiến trường – chăng có gì đáng kể đâu – Đại loại, ta xung phong và trước giờ xuất kích bao giờ cũng lo lắng vì vắt, muỗi, dĩn và cả con ve, con ve… hay con gì đó. Người thì gọi là ruồi trâu – người thì gọi là con ve bò – Chà, cái anh chàng Rivaret choàng cây thánh giá vào cổ ấy đáng sợ thật Hắn ta dùng vòi đâm qua lớp quần áo lính đánh nhói một cái và hút máu căng ca bụng – Ai ngủ không biết là gay, có khi gã hút máu xong, rút vòi ra không được, cứ để cả vòi trong da thịt bệnh nhân, gây cảm giác vừa buốt, vừa ngứa. Thảo nào Vôirútsơ lại dùng cái tên quái gở ấy cho con người chống đối ác liệt với thiên chúa giáo.

Nói điều gì huyên thuyên thế. Hành quân bao nhiêu đêm rồi, mắc võng bạt bao nhiêu lần trong thẳm sâu và gai góc của rừng mà chưa hề làm bài thơ nào về giấc ngủ quí giá trong rừng – Đáng ghét thế thì thôi.

Còn trời thì bây giờ nhập nhoạng. Hoàng hôn đây – Nếu như ở nhà thì đang làm gì nhỉ – Năm ngoái vào giờ này Như Anh sắp thi à, có lẽ thi xong rồi chứ, 6 giờ tối rồi còn gì), mà mình đang còn trong trường Đại học. Sắp dỗi nhau rồi đấy. 30/5 gặp Như Anh và thế là bông hoa quỳnh trắng trong sắp bị ruồng rẫy đây. Khốn khổ thân mình thế thì thôi – Bây giờ biết được những gì cần làm thì xa xôi với lắm rồi. Làm sao có thể trở lại được những ngày như xưa nữa. Như Anh đã ra sao rồi – màu tím của gói mực học sinh cứ làm mình nhớ đến Như Anh. Nhớ đến bài thơ nho nhỏ làm vội vàng dọc đường hành quân qua đất Quảng Bình – đặt tên bài thơ ấy là “Màu tím hoa mua” vậy.

“Cứ mỗi lần hành quân qua đây

Lòng tôi lại nhớ em da diết

Màu tím hoa mua chẳng phải chưa hề biết

Nhưng đến giờ tôi mới hiểu màu hoa

Chẳng giấu lòng, chẳng phải giấu lòng ta

Tôi biết cô gái nào chẳng khóc

Khi đưa tiễn người con trai thân nhất

Hoa tím chín chiều nói hộ với lòng anh.

Không dừng lại đâu giữa đất nước mông mênh.

Tôi cúi xuống với cành hoa lặng lẽ

Màu hoa tím như chưa bao giờ tím thế

Cánh mỏng cánh mềm mát ngón tay ta:

Những điều lớn lao trên đất ri ước bao la

Vẫn không quên niềm riêng nhỏ nhất

Chung thủy nhất là mối tình của đất

Mỗi màu hoa đều thấm đượm tình người.

Tôi đã đi rất xa em rồi

Chẳng dễ về thăm em trong phố nhỏ

E ấp cánh hoa mua vào trong sổ

Tím lòng mình và tím cả lòng em.

Đường tôi hành quân trong đêm

Hoa đã lẫn vào màu trời tím biếc

Có nhìn thấy hoa đâu mà tôi vẫn biết

Hoa mùa hè nhuộm tím cả trời mây.

Em ở đâu rồi. Bâng khuâng kẽ tay

Tháng 5. tháng 5 hẹn về thăm vườn nhỏ

Câu u th Ơ chép tay nôn nao ý nghĩ

Hoa tím chẳng lắm lời như những dòng thơ.

Tiếng hát ai đằng sau bâng quơ

Tôi ngoái lại chào hoa lần nữa

Rừng vắng lặng. . . mà tôi cứ ngỡ

Có đôi bạn nào mới đón đưa nhau… ”

(17/5/72 – QBình)

Như Anh ở xa, có nghe thấy mình đang thì thào đọc cho Như Anh nghe bài thơ gồ ghề này không nhỉ. Mình sẽ làm những bài thơ về hoa. Về những cánh hoa rừng, hoa dại mà có một màu sắc và hương vị thơ hết sức. Làm những bài thơ về hoa tặng người yêu yêu những bông hoa… Như Anh nhé, Như Anh đồng ý không nào?

Trời tối quá rồi – Đêm buông – Đêm nay gác đây. Trăng này là đầu tháng, chỉ hơi lờ mờ – ướt át ánh trăng, làm ướt cả lòng người. Như Anh ra sao rồi nhỉ? Như Anh đã ra sao rồi. Dẫu sao mình cũng còn yên tâm về Như Anh sẽ làm đúng và làm tốt những điều mình mong muốn ở Như Anh. Ngày mai, khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất Chúng mình sẽ gặp nhau, hai chúng mình sẽ gặp nhau. Con đường vẫn đưa hương – Như Anh nhỉ – Đêm

bây giờ buồn vì vắng những đôi bạn dạo chơi trong mùi hương của chúng.

Cái lo lắng bây giờ là lo cho gia đình – Cho những người thân yêu đang sống giữa Thủ đô căng thẳng vì hồi còi báo động. Tối quá rồi không thế viết hơn được nữa. Đành ghi lại một chút sự kiện trong ngày vậy. Ngày hôm nay đã bắt đầu khai lý lịch quân nhân – Mình chẳng nhớ cái gì cả – Chẳng nhớ điều gì hết – Để lý lịch trong ba lô mà bứt rứt trong lòng chán lắm đây.

24/5/72

Lại.nói tiếp ve những trang lý lịch – Người ta bắt khai tỉ mỉ hết sức – Nào là ông, bà, cô dì, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ – Ngay cả cái tên mình cũng khó mà nhớ được Nữa là phải nhớ cả ngày tháng năm sinh. Nhớ cả sinh hoạt vật chất và chính trị của các cụ ấy từ ngày mình có lẽ chưa có một chút gì trên trái đất này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên đơn sơ nhất!

Cứ mỗi lần giở lý lịch – mình lại càng thêm khẳng định trách nhiệm nặng nề của mình hôm nay. Hôm nay ra đi không phải chỉ là trách nhiệm của cá nhân mình cho trọn vẹn, mà mình còn phải làm cả phần gia đình, phần ông bà, cha mẹ.

Có lẽ vì do nghĩ như vậy mà mình không muốn ghen tị hay đòi hỏi gì dễ dàng về mình chăng. Phải khẳng định rằng mình đã cố gắng nhiều để trở thành một con người tốt, theo đúng ý muốn của mình.

Tuổi thơ ngây thơ, chưa làm gì được cho đời mà lại chỉ gây thêm phiền phức. Nhiều lúc ngẫm lại, cứ tự trách mình, dạo còn nhỏ, hẳn có nhiều lúc mình đã mặc chiếc áo mới đứng bàng quan ở bến tàu. Mình đứng trẻ dại ở bậc thang có làm buồn tận cõi sâu tâm hồn của một người lớn nào đã cảm thấy xa xôi cả một thời thơ ấu của nình?

Bây giờ lớn rồi – Mình đã hiểu nhiều hơn, đậm đà hơn lòng người. Mình hiểu được thế nào là lòng nhân đạo cao cả của lòng người – Người ta có thế hy sinh tất cả – Hy sinh là hết thảy những gì của riêng mình cho người khác. Mà sự hy sinh ấy là cần thiết, là đúng đắn, chứ không phải sự hy sinh một cái gì gò bó. Một sự hy sinh hò hét và không cần thiết.

Lòng tin tưởng ở con người cũng chính là một nét riêng rất độc đáo của lòng nhân đạo – Điều này thầy Lưu đã nói rất nhiều với mình từ 3 năm trước, từ hơn 2 năm trước – Nhưng đến giờ mình mới hiếu một cách sâu xa và đầy đủ nhất.

Có thế ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả – Biết yêu và biết ghét – Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn như thế – Đây là mơ ước là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm.

Thạc còn buồn không? Có còn buồn bã vì những năm tháng phải xa trường đại học, vì không được ra nước ngoài học tập – Vì các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với tập giáo trình. Ngày mai, các bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là các nhà bác học, còn Thạc sẽ chỉ là một con người bình thường nhất, nếu chiến tranh không cướp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay…

Cũng không ngờ rằng dạo lớp 7, bài văn học sinh giỏi của miền Bắc lại chính là lời tiên tri cho tâm trạng mình sau này: “Trước kia bị áp bức, bóc lột đau khổ đã đành. Bây giờ, cái dốt nát về khoa học kỹ thuật cũng phải xem là một điều rất đáng đau khổ!” (Lê Quẩn). Đấy, bình luận câu ấy đi.

Nếu như giờ đây, cho mình trở lại trường cấp 2 và làm lại bài văn ấy, mình tin rằng sẽ làm tốt bài văn đó. Vì bây giờ, mình đã thấm thía biết bao nhiêu nỗi khổ tâm, khi bản thân mình hoàn toàn mù tịt trước mọi vấn đề hôm qua mình hy vọng rằng sẽ nhanh chóng nắm chắc lấy nó.

Dạo ấy, có 8 đứa thân nhau, cùng đi thi học sinh giỏi văn miền Bắc trong đội Hà Nội. 8 đứa thì cùng phòng từ cụm, huyện, thành phố, và sau cùng, đều thi miền Bắc. 4 đứa con trai, còn lại là con gái: Lan – Hồng – Anh – Tấn – Bình – Lân – Hùng và tớ. Lan thì bị bom năm mình lớp 9 rồi- Vũ Hồng và Tấn, giờ đang học ở Nga – còn Phạm Kiều Anh hình như đi nước ngoài, ở nước ngoài, nước ngoài nào không rõ Bình và mình đi bộ đội – Lân học Triết học ở trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp. Hùng học bên Tiệp- Các bạn đã đi gần hết – Và bài văn thuở ấy hẳn hun đúc trong lòng mình niềm vui, trong lòng các bạn mình say mê học tập – ù, đúng đấy, dốt nát về khoa học là điều đau khổ vô cùng.

Hùng ơi, thằng bạn quê Sài Gòn, hôm nào ngồi trong phòng thi, nó cúi gằm mặt xuống bàn có đến 30 phút – Rồi ngẩng lên và tha hồ cắm cúi, cắm cúi viết, viết hoài. Nó tưởng chừng quên hết mọi người ở xung quanh và say mê với điều đang nghĩ ngợi. Hùng nghĩ gì nhỉ, Hùng hẳn nhớ đến ba má đang sống giữa Sài Gòn tăm tối, dưới ách quân thù. Phải, lòng khát vô tận ấy của những người thân yêu trên quê hương đã giục giã Hùng để nó làm bài văn được giải duy nhất của Hà Nội trong năm ấy. Hùng đang nghĩ ngợi điều gì nhỉ. Và các bạn kia nữa? Các bạn đang nghĩ ngợi điều gì? Hẳn các bạn đã quên tiệt mình rồi – Quên tiệt cái thằng bạn cứ hay ngồi lọt thỏm trong cái cống xỉ than làm hầm của người ta bỏ lăn lóc trên hè phố… Chỉ cần các bạn đừng bao giờ quên cái đề văn năm ấy, cái đề văn giờ đây đang trăn trở và day dứt tự đáy lòng mình.

Các bạn đi xa, các bạn ở lại còn được học hành, hẳn sẽ học thay cả phần mình còn bỏ dở. Mình nghĩ đến những tình bạn cao cả và đẹp đẽ của Mác-ănggen. Mình nghĩ đến vần thơ của nhà thơ trẻ Bế Kiến Quốc – bài thơ về tình bạn ấm cúng và tha thiết biết bao nhiêu:

“Ta thông với nhau như hai bình nước

Niềm vui từ ở bạn sẽ về tôi…”

(Tình bạn)

Mình nghĩ đến lớp người tìm nhau trên trận tuyến – Ao ước từ bao lâu rồi, mình ao ước từ bao lâu rồi đi trên đường Trường Sơn và gặp nhà thơ trẻ của quân đội – Phạm Tiến Duật – gặp anh và nói chuyện với anh về cái tổng đài nằm chênh vênh bên núi cao, về tiếng thở của rừng sâu, và cái tiếng hát không biết màu gì mà thiêu đốt lòng người.

Mình đi tìm Phạm Tiến Quật. Còn anh, anh đi tìm Ca Lê Hiến, nhà thơ mà tập thơ đầu là “Tiếng gà gáy” báo hiệu một tài năng:

Trong những căn nhà dã chiến. Hiến ơi.

Tôi hỏi chuyện về anh và không kìm nỗi nhớ

Tình đời thiết tha có thể nào để dở

Đất vẫn nặn mồi, nặn bát những triền sông…”

(Những dòng sông chảy mãi…P.T.D)

Còn Ca Lê Hiến, anh chẳng yên tâm ngồi trên giảng đường trường đại học, anh không thể nghe hết tập giáo trình lịch sử – Không thể ngồi nghe tiếng gươm khua trong những trang giấy. Anh đi tìm Giang Nam. Anh đi tìm tiếng thơ trong trẻo và khoẻ mạnh nhất của miền Nam thuở ấy Anh đi theo tiếng gọi của trái tim mình…

Ca Lê Hiến giờ đã nằm xuống. Tài năng của anh đang độ phát triển và anh chưa kịp làm những gì tuổi thơ hằng mong ước. Nhưng những dòng sông ấy, có bao giờ cạn được Tiếng thơ của anh vẫn tiếp sức cho những người sau đi tới.

Tôi nghĩ đến những điều vĩnh cửu của tình bạn chân thực nhất: Không, ở lịnh vực này nên tách rời tình yêu ra – mặc dù tình yêu cũng chính là một tình bạn chân thực và cao quí. Phải tách ra, vì đôi khi, tình yêu còn làm nhiệm vụ riêng của nó.

Bất kỳ một thứ tình cảm nào, bất kỳ mối quan hệ kỳ lạ và thiêng liêng nào nếu như không biết gắn cái riêng của mình vào sợi dây vô hình mà bền chắc vô cùng của công việc trên đường thực hiện lý tưởng của mình, thì tình cảm ấy không thề gọi là đẹp đẽ, không thề tồn tại lâu dài, không thể vượt qua được những thử thách gay go và ác liệt của cuộc đời.

Lúc này đây, mình muốn nghĩ đến Như Anh là một người bạn chân thành và đáng tin cậy nhất. Lúc chia tay, bên hàng cây mờ ảo con đường dẫn ra ngoại ô thành phố. Như Anh đã thận trọng bảo mình: “Tình bạn thôi, Thạc nhé! Tình bạn thôi ư? Khi ta đi hơi xa một chút khỏi cái ranh giới ấy của cuộc đời – Nếu như đây là đất Nga phủ đầy tuyết trắng – Ta sẽ làm Paven và Ria, đôi bạn, đôi bạn có tình cảm trong sáng và đẹp đẽ biết chừng nào…

Lúc ấy, quả thực, mình không đồng ý. Mình không đồng ý vì sao cũng không còn biết nữa. Linh cảm mơ hồ không cho phép mình gật đầu. Song giờ đây, mình sẽ nói với Như Anh như thế – Mình sẽ nói với Như Anh rằng: “ù,anh bạn thôi – chỉ cần tình bạn và mình chỉ muốn là người bạn theo đúng nghĩa sát thực của nó!”. Tình bạn ấy có chân thực hay không tuỳ thuộc mức độ tin tưởng của Như Anh đổi với mình – Như Anh có nghi ngờ chút gì về lòng chung thuỷ của mình hay không? Câu hỏi ấy, mình đã đặt ra bao nhiêu lần, và lần nào cũng khẳng định – Không, nhất định Như Anh sẽ không nghi ngờ gì cả. Như Anh sẽ tin rằng mình nói thật – Trong cuộc đời này, tình yêu chỉ có the nẩy nở với Như Anh và không thể với một người khác được Mình đã yêu Như Anh, cái tình yêu đầu tiên trong sáng nhất và cái tình yêu duy nhất trong cả cuộc đời mình – Cái tình yêu thanh bạch – không hề có gì bụi bặm của đòi hỏi hưởng thụ nhục dục – Như Anh còn mong mỏi điều gì hơn thể nữa?

Chúng ta sẽ là bạn. Chúng ta sẽ là bạn của nhau mãi. Và như vậy, tha hồ gặp nhau, tha hồ trò chuyện – Không còn sợ có gì ngăn cản dúng ta cả. Nhất là mình không muốn để một nỗi khổ dai dẳng và đau xót cho một người bạn nào trên trái đất này.

Con người có sức chịu đựng kỳ lạ vô cùng – Mình tin tưởng ở sức chịu đựng ấy có thể giúp cho mình vượt qua mọi cám dỗ, mọi đòi hỏi nhỏ bé và mốc thếch. Tuổi thơ lang thang trong tâm hồn, thì giờ đây, lang thang bằng đôi chân cầu thủ, mình đã cố gắng hết sức để tâm hồn mình trong sáng và đập nhịp với cuộc sống hào hùng, biến động Mình muốn mọi niềm vui, mọi nỗi lo lắng của mình đều là niềm vui và nỗi lo lắng của cả dân tộc, của thời đại mình đang sống.

Ch. hay nói mình, nó bảo mình nghĩ mọi điều đều đơn giản và thẳng băng. Nó bảo mình quá ư nhìn đời bằng một màu hồng – Nó bảo mình lý thuyết và nhất định vấp phải gai góc của cả cuộc đời. Với nó, nghi ngờ hết thảy! Nó nghi ngờ những người con gái đang đi học xa Tổ quốc. Rằng họ không hề có được sự chịu đựng cần thiết mà bạn bè mong muốn. Ch. bảo, đấy là sự thật, và theo nó, người ta nên có cách nhìn nhận riêng và không nên rập khuôn máy móc.

Mình nghĩ rằng, đến một tuổi nào đó, cả tuổi trẻ ngông cuồng và lắm ý kiến mới lạ, cứ thích tìm cho mình một quan niệm nào đấy mâu thuẫn in ít hay đôi khi đối lập hẳn với quan niệm chính thống của thời đại và cơi như mình đã tìm ra điều gì đáng quí lắm – Như một phát minh lớn. Họ kiêu ngạo nhìn những người khác đang theo đuổi khái niệm sách vở – Và tự bảo, chỉ có họ mới nghĩ được điều ấy mà thôi. Còn những người khác là sách vở, rập khuôn, là không có tính độc đáo, là tô hồng, v.v…

*

* *

Và bây giờ, tạm biệt cuốn Nhật ký đầu tiên của đời lính Không kịp xem lại được một lần. Không kịp chữa những âm bằng âm trắc trong cấu trúc một câu văn vội vàng và bụi bặm. Chuyện đời” mà thực ra, chẳng có chuyện gì. Một mớ tùm hum, xám xịt như căn bếp bỏ hoang.

Ngày mai, ngày kia… Phải để lại tất cả ở đằng sau. Tôi không thể để cho ai đọc những đòng suy nghĩ này. Trừ khitôi không còn sống mà gìn giữ nữa.

“Chuyện đời thì chưa viết hết vài chục trang giấy – Còn “Chuyện biển” thì chỉ được vài trang thơ – Nhật ký! Chao ôi, chuyện phiếm!

Kẻ thù không cho tôi ở lại – Phải đi – Tôi sẽ gửi về cuốn Nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn Nhật ký thân yêu của đời lính.

Ừ, nếu như tôi không trở lại – Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này? Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng đề trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.

Một ngày cuối tháng 5/72

Hà Tĩnh

Anh lính binh nhì

Kính chào Hậu phương – Chào gia đình, và người tôi yêu. Đêm nay tôi đi – Nhất định có ngày trở về Thủ đô yêu quí của lòng tôi.

3/6/1972

Ngã ba đồng lộc

Hết 

NHẬT KÝ ĐẶNG THUỲ CHÂM

Đặng Thùy Trâm sinh trưởng trong một gia đình trí thức Hà Nội. Bố là bác sĩ ngoại khoa, mẹ là dược sĩ, giảng viên trường Đại học Dược Hà Nội. Tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Thùy Trâm tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam với tư cách là một bác sĩ quân y và được điều vào công tác ở Đức Phổ, chiến trường Quảng Ngãi trong chiến tranh Việt Nam. Thùy Trâm vào Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 27 tháng 9 năm 1968. Ngày 22 tháng 6 năm 1970, bệnh xá Đức Phổ bị tập kích, Đặng Thùy Trâm hy sinh[1]. Hài cốt bà được mai táng tại nơi hy sinh, sau thống nhất được đưa về nghĩa trang liệt sĩ xã Phổ Cường. Năm 1990, được gia đình đưa về nghĩa trang Liệt sĩ Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội. Bà là tác giả hai tập nhật ký được viết từ ngày 8 tháng 4 năm 1968, khi phụ trách bệnh xá Đức Phổ, cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1970, 2 ngày trước khi hy sinh. Hai tập nhật ký này được Frederic Whitehurst, cựu sĩ quan quân báo Hoa Kỳ, lưu giữ cho đến ngày được trả lại cho gia đình tác giả vào cuối tháng 4, 2005. Sau đó được nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn biên tập thành quyển sách mang tên Nhật ký Đặng Thùy Trâm.

Nhật ký Đặng Thuỳ Châm

Tóm tắt truyện:

Thời chống Mỹ từng có một bác sĩ,

một con người, tên là Đặng Thuỳ Trâm…

Tác giả những dòng nhật ký sau đây bạn đọc sẽ đọc thuộc về một lớp người khá đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội ta từ sau 1945 – họ có mặt trong công cuộc chiến đấu chống Mỹ từ mấy năm đầu tiên, khi ở miền Nam, các cơ sở cách mạng triển khai đến tận nhiều huyện đồng bằng, và trên toàn quốc, cuộc chiến tranh dù đã gian khổ nhưng chưa có cái không khí bức bối khắc nghiệt như từ đầu những năm 70 trở đi.

Và một điều đáng nói nữa: trước đó, họ thuộc lứa thanh niên đầu tiên được đào tạo theo tinh thần của những người đi kháng chiến chống Pháp, cái tinh thần “cuộc sống mới”, ấp ủ từ những ngày Việt Bắc gian khổ mà hào hùng

Hà Nội trước chiến tranh thanh bình, yên ả lạ thường. Bao trùm xã hội là một không khí thiêng liêng, thành kính. Ngay đối với người dân thường mọi chuyện làm ăn sinh sống chỉ có ý nghĩa là sự chuẩn bị cho ngày mai có mặt ở chiến trường. Nền kinh tế tem phiếu chưa làm mấy ai khó chịu. Trong tâm trí đám học trò chúng tôi (tôi với Thùy Trâm vốn học cùng lớp trong suốt ba năm cấp ba ở trường Chu Văn An, nên dưới đây, việc dùng chữ chúng tôi là có một lý do chính đáng) lúc nào cũng thấm đẫm tinh thần lãng mạn của Ruồi trâu, của Pavel Korsaghin trong Thép đã tôi thế đấy và cả của Marius và Cosette trong Những người khốn khổ. Sách vở lúc ấy là đồng nghĩa với văn hoá. Thêm một điã nhạc cổ điển, với một vài bông hoa trên bàn nữa thì coi như mãn nguyện hoàn toàn. Có mặt trong đám đông dự mít tinh ở quảng trường Ba Đình trong một ngày lễ lớn (trước 1965, những ngày lễ lớn bao giờ cũng có mít tinh, đâu cả chục ngàn người), anh bạn tôi mặt ngẩng cao dõi theo mấy cánh chim bay mãi vào những đám mây xa. Đêm giao thừa ngay khi có chiến tranh rồi thì mấy ngày Tết vẫn có ngừng bắn, cũng như mọi người, chúng tôi dắt xe đạp đi bộ quanh Hồ Gươm trong tiếng nhạc dập dìu của mấy bài Hà Nội Huế Sài Gòn, Tiếng hát giữa rừng Pắc Bó…

Và có thể nói mà không sợ ngoa là từ đấy, nhiều người đi thẳng ra chiến trường.

Nhật ký tôi viết mấy năm ấy còn ghi lại được hình ảnh về những người lính ớ đánh Khe Sanh 1967: Quần áo ba lô người nào cũng tinh tươm, niềm tin sáng bừng trong mắt, chỉ sợ không đi thì lỡ mất dịp có mặt trong lễ chiến thắng.

Một niềm tin tưởng như chỉ có ở tôn giáo – thứ niềm tin mang đầy cảm giác thánh thiện – chi phối hành động mọi người. Lao vào chiến tranh lúc ấy không phải chỉ là nghĩa vụ mà còn là niềm ao ước, là vinh dự mà nhiều anh em chúng tôi cảm thấy phải giành lấu bằng được.

Tốt nghiệp đại học 1966, Thuỳ Trâm lại xung phong đi khá xa, vào tận Đức Phổ, Quảng Ngãi. Ở đó chị làm công việc đặc trưng cho người phụ nữ trong chiến tranh là phụ trách một bệnh viện huyện, và từ đó tạo nên cho mình một số phận.

Không phải ngẫu nhiên, hai người lính thám báo Mỹ hôm qua, trong bức thư gởi tới người mẹ của liệt sĩ vừa viết mới đây, khẳng định một cách chắc chắn như đinh đóng cột: “Trên bất cứ đất nước nào trên thế giới, điều đó đều được gọi là anh hùng”

Họ muốn nói tới cái sự việc từng ám ảnh họ một thời gian dài: người bác sĩ này đã đứng ra cầm súng bảo vệ cho những thương binh, và đã ngã xuống như một người lính vừa rời tay súng.

Tuy nhiên, theo tôi, trước khi để cái hành động dũng cảm cuốn cùng Thùy Trâm “đóng đinh” vào tâm trí mình, những người lính bên kia chiến tuyến thật ra đã bị chinh phục. Phải có một nhân tố nào nữa, thiết yếu hơn, khiến họ tự nhủ phải cứu bằng được cuốn nhật ký rồi bị hút theo chị, mải miết tìm cách giải mã những dòng chữ chị ghi và sau này còn để rất nhiều thời gian lần theo dấu vết của chị.

Chỉ có toàn bộ con người Thùy Trâm mới đóng nổi vai trò đẹp đẽ đó.

Gần đây, khi đi ra với thế giới, nhiều người trong chúng ta chợt hiểu ra một sự thực: Hai chữ Việt Nam bấy lâu mới chỉ gắn với một cuộc chiến tranh. Và chúng ta còn phải phấn đấu nhiều để người ta hiểu rằng việt Nam còn là một xã hội, một đất nước, một nền văn hoá.

Ngay từ lúc ấy, trong vai trò một chiến sĩ, Thuỳ Trâm đã tự chứng tỏ mình mình còn là một con người với nghĩa rộng rãi nhất của từ này.

Một mặt, chị có ý thức về bổn phận. Chị yêu thương mọi người. Chị đau nỗi đau của mỗi bệnh nhân đến với mình. Chị muốn trở thành một người tốt. Những cách nói mà với một số bạn trẻ ngày nay tưởng như là công thức (chẳng hạn trái tim đập cùng một nhịp với nhân dân đất nước, chẳng hạn niềm yêu thương vô hạn độ) chính là những lẽ sống đã được Thuỳ Trâm tự nguyện chấp nhận.

Mặt khác,chị vẫn dành riêng cho mình một cuộc sống riêng tư. Chị tha thiết với thiên nhiên cây cỏ. Một phần tháng ngày của chị được dệt bằng những vui buồn của quá khứ. Trong khi thất bại trong tình cảm riêng. con người này lại biết tìm ra ngay từ bằng người chung quanh những yếu tố tốt đẹp, rồi lý tưởng hoá thêm lên để biến họ thành những biểu tượng sinh động, bù đắp cho một cuộc đống nội tâm vốn quá dồi dào, quá nồng nhiệt.

Có một quy ước những ai ở vào lứa tuổi chúng ta đều biết và tự nguyện ghi nhớ, tự nguyện tuân theo, đó là không nên nói nhiều đến cô đơn cùng nỗi buồn. Sự phức tạp của tình cảm lại càng là điều cấm kỵ.

Cái gì cũng phải rành rẽ. Đơn giản. Rõ ràng – cái kiểu rõ ràng thô thiển một chiều. Về phần mình mặc dù là con người hết lòng tin vào lý tưởng, song Thuỳ Trâm không bị những luật lệ không ghi thành văn bản ấy ràng buộc. Với sự nhạy cảm của một trí thức, chị lắng nghe trong mình mọi băn khoăn xao động. Chị không xa lạ với những phân vân khó xử. Trong nhật ký, người nữ bác sĩ ghi ra gần hết tất cả những cung bậc tình cảm mà ai người ở vào địa vị ấy đều trải qua, và có cảm tưởng chỉ làm như vậy mới tìm được sự cân bằng cần thiết.

Tuy cái chết không được miêu tả nhiều trong nhật ký, nhưng trong tâm trí Thuỳ Trâm, nó luôn luôn có mặt. Nó đứng thấp thoáng đằng sau các sự kiện, và cuộc đối diện với cái chết làm nên một phần nội dung cuộc sống, tức cũng là làm nên vẻ đẹp cao thượng của con người lúc đó mới 27 tuổi này. Đọc nhiều trang, nhất là nửa phần viết về sau, khi đề cập tới nhiều hy sinh mất mát, tôi không khỏi liên tưởng đến nhiều tác phẩm văn học có liên quan tới cùng một chủ đề.Đây là một bài thơ mà nhà thơ Nga Aleksei Surkov đã viết trong cuộc chiến tranh chống Phát xít:

Trong hầm ta ánh lửa sáng ngời

Từng thanh củi bọt sùi như lệ ứa

Tiếng đàn dạo một điệu trầm và nhẹ

Ca ngợi mắt em ca ngợi nụ cười em

Anh ở đây trên tuyết gần Mạc Tư Khoa

Những hàng dương đang ngọt ngào thầm thĩ

Cái bản tình ca anh vừa hát ấy

Bản tình ca buồn anh mong được em nghe

Giữa đôi ta dù xa cách mênh mong

Dù cái chết đến gần anh mấy bước

Dù có cả một cánh đồng băng tuyết

Trên đương dài ta vẫn đến gặp nhau

Ta hát ta đàn ta dẹp yên bão táp

Hạnh phúc mất ở ta dẫn nó trở về

Tình yêu sưởi chiến hào thêm ấm áp

Tình yêu này sáng mãi giữa tim anh.

Tôi dự đoán là đã có những lúc Thuỳ Trâm sống cái cảm giác mà bài thơ diễn tả, dù là không biết gì về nó. Hồi ở Hà Nội, chị cũng rất thích âm nhạc và thường quan âm nhạc để hình dung ra những gì thiết yếu của đời sống – sự hoà hợp, tình yêu, hạnh phúc.

* * *

Ngoài những Thép đã tôi thế đấy, Ruồi trâu, thơ Từ ấy của Tố Hữu , thơ Đợi anh về của Simonov, vào những ngày đọc lại nhật ký của Đặng Thuỳ Trâm để góp phần chỉnh lý và biên tập lại thành một cuốn sách, thường trong đầu óc tôi còn trở đi trở lại một vài tác phẩm nước ngoài khác, đặc biệt là trường hợp Nhật ký Anne Frank.

Chỗ giống nhau đầu tiên: Đây đều là những tác phẩm viết về con người đối diện với chiến tranh. Trong cuộc sống khó khăn của một người bị ép phải chui nhủi trong một nơi ẩn náu, cô thiếu nữ Do Thái mang tên Anne Frank vẫn tìm đủ không gian để thể nghiệm mọi cảm giác làm người bình thường, và điều đó làm cô tự hào.

“Tôi có cái can đảm sống khác thường. Tôi luôn luôn cảm thấy mình sao khoẻ thế, sao tự do và trẻ trung thế.”

“Thật lạ cho điều này: tôi chưa bao giờ rời bỏ hy vọng. Chúng có vẻ phi lý và khó thành tựu. Song mặc tất cả, tôi vẫn bám vào chúng. Vì tôi tiếp tục tin vào lòng tốt thiên bẩm của con người.”

Những dòng chữ đơn giản đó hoàn toàn có thể đặt lẫn vào nhật ký Thuỳ Trâm mà không gượng gạo.

Còn một đếm nữa làm nên sự gần gũi giữa Thuỳ Trâm với Anne Frank, nó cũng là lý do khiến bọn tôi chọn cho tập ghi chép của chị cái tên đơn giản như hiện nay, đó là cái thể loại mà họ sử dụng – thể nhật ký.

Trong đời sống không thiếu gì những người khi bước vào đời háo hức định ghi nhật ký để rồi nửa đường đứt gánh bỏ dở. Khi bắt tay viết họ thường tự nhỉ mình sẽ thành thực với mình. Có biết đâu cái tôi của họ nghèo nàn nên đó là một sự thành thực vô nghĩa. Và họ không sao tìm đủ nghị lực duy trì nhật ký đến cùng.

Anne Frank thú nhận:

“Điều tuyệt diệu nhất là tôi có thể viết ra tất cả những gì cảm nghĩ bằng không sẽ chết ngạt mất”.

“Những người nào không viết không biết được những kỳ ảo của nó. Ngày xưa tôi luôn luôn đau đớn vì không biết vẽ; nhưng bây giờ lòng tôi phơi phới vì ít ra tôi đã có thể viết”.

Thuỳ Trâm không có những tuyên bố hùng hồn như vậy, nhưng quả thật với chị, nhật ký đã trở thành một phần cuộc đời. Trong nhật ký chị tìm ra một con người khác với một Thuỳ Trâm mọi người vẫn biết hằng ngày. Để chia sẻ. Để thú nhận. Để tìm thêm niềm tin. Và đôi khi như là để làm nũng với mình một chút, lối làm nũng chỉ chứng tỏ rằng vẫn có một thế giới riêng của mình mà không ai thông cảm hết.

Tất cả những yếu tố đó làm nên sức hấp dẫn của những trang nhật ký. Với chị, cái hấp dẫn ấy giúp chị có đủ hào hứng ghi chép một cách đều đặn. Với người đọc hôm nay, nó làm nên sức cuốn hút của những tâm sự, mặc dù trong hoàn cảnh đổi khác, mọi người đã nghĩ khác.

Do đặc điểm riêng của chiến tranh, ngay từ những ngày ấy, bao nhiêu công sức chúng ta để cả vào việc động viên nhau ra trận. Còn chính cuộc sống mỗi người trong lúc đó thì mới được ghi chép rất ít. Ba mươi năm sau, sự “tiêu hoá” vẫn dừng lại ở trình độ cũ. Mỗi khi nói về chiến thắng, ta vẫn chỉ biết nói với nhau những lời lẽ mọi người đã từng nghe mấy chục năm trước. Tại sao? Phần thì những sôi động để kiếm sống để tồn tại lúc nào cũng cuốn hút mọi người. Phần nữa cũng là bởi ta chưa có ý thức đầy đủ về lịch sử, về sự có mặt của quá khứ trong hiện tại. Công tác tổng kết về chiến tranh quá chậm, các bộ phận lịch sử chiến tranh không hoạt động như đáng lẽ phải hoạt động. Mỗi người bình thường chưa được gợi ý thu thập lại các tài liệu đã ghi hoặc tìm tòi lại lục khi lại trong ký ức những kỷ niệm xưa để viết ra thành những hồi ký có giá trị chân thực.

* * *

Ngay sau khi biết rằng đây là một cuốn nhật ký viết trong chiến tranh, có thể có bạn đọc – nhất là bạn đọc trẻ – sẽ hỏi: Lại cho chúng tôi một tấm gương để bảo chúng tôi học theo chứ gì?

Không đâu bạn ạ! Ở đây bạn sẽ không tìm thấy những lời khuyên nhủ mà chỉ bắt gặp một con người với một cuộc sống cụ thể của thời chiến. So với lớp thanh niên ngày nay, người thanh niên của gần bốn chục năm trước có một cách sống khác, một cách sống không lắm chiều cạnh phong phú, không tự do nhiều vẻ, nhưng lại trong sáng thánh thiện đến kỳ lạ. Sự tận tụy làm người của Thùy Trâm là nhân tố khiến cho những người lính Mỹ khác hẳn về lý tưởng cũng phải kính trọng. Còn với chúng ta, tin rằng nó cũng có những hiệu ứng tương tự.

Trong cuốn lịch sử văn học thế kỷ XX đang có trong tay, tôi bắt gặp một nhận xét của A. Malraux: “Điều huyền bí hơn cả không phải là chúng ta bị ném vào mớ hỗn độn vật chất cùng với hành tinh, mà là trong “lao tù” đó, chúng ta rút tỉa từ bản thân cá nhân mình những nhân tố con người – nó cần vừa đủ để cái hư không sẵn có trong chúng ta bị phủ nhận”

Câu nói mang trong mình nó nhiều triết lý, mà một trong những triết lý đó là: trong sự muôn mày muôn vẻ của thực tại, con người vẫn là mẫu số chung làm nên những giá trị vĩnh cửu.

Nhật ký Đặng Thùy Trâm có cái nhân tố nhân văn đầy bí mật đó. Nếu cuốn sách có thể giúp mỗi người sau khi đọc xong quay trở tại tìm ra những thiết tha cao đẹp và cả những cay đắng bi thảm có thể có trong kiếp người của chính mình, tức là sự hy sinh của một con người ở 27 có thêm một ý nghĩa chân chính.

                                                                              VƯƠNG TRÍ NHÀN

Chương 1

1968

8.4.68

Một cas ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn. Thuốc giảm đau chỉ có vài ống Novocaine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng. Anh còn cười động viên mình – nhìn nụ cười gượng trên đôi môi khô vì mệt nhọc, mình thương anh vô cùng. Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ. Tìm kiếm gần một giờ không thấy nguyên nhân, mình đành đóng lại, cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng. Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc + nỗi thương xót mến phục người thương binh ấy làm mình không thề yên bụng. Vuốt nhẹ mái tóc anh, mình muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không cứu chữa được thì đó là điều đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời phục vụ của một người thầy thuốc.

10 4.58

Vậy là chiều nay các anh lên đường để lại cho mọi người một nỗi nhớ mênh mông giữa khu rừng vắng vẻ. Các anh đi rồi nhưng tất cả nơi đây còn ghi lại bóng dáng các anh: những con đường đi, những chiếc ghế ngồi chơi xinh đẹp, những câu thơ thắm thiết yêu thương. Nghe anh Tuấn ra lệnh: “Tất cả ba lô lên đường!”. Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai, mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình bắt tay chào mình một lần cuối. Bỗng dưng một nỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong mình như mặt sông những ngày mưa lũ và… mình khóc ròng đến nỗi không thể đáp lại lời chào của mọi người. Thôi! Các anh đi đi, hẹn một ngày gặp lại lại trên miền Bắc thân yêu…

Suốt một đêm một ngày lo lắng vì cas mổ của San, chiều nay lòng mình vui sướng xiết bao khi thấy San ngồi dậy, nét mặt anh còn in nỗi đau đớn mệt nhọc nhưng nụ cười ngượng nở trên môi. Bàn tay anh khẽ nắm bàn tay mình mến thương tin tưởng ơi người thương binh trẻ tuổi dũng cảm kia ơi, tôi thương anh bằng một tình thương rộng rãi nhưng rất sâu xa: tình thương cửa một người thầy thuốc trước bệnh nhân, tình thương của một người chị đối với đứa em đau ốm (thực ra San bằng tuổi mình) và tình thương ấy đặc biệt hơn đối với mọi người vì cộng thêm că lòng mến phục. Anh có thấy điều đó trong cái nhìn lo âu của tôi không? Có thấy bàn tay tôi dịu dàng đặt nhẹ trên vết thương, trên đôi tay xanh gầy của anh đó không .Chúc San mau bình phục để trở về với đội ngũ chiến đấu, trở về với bà mẹ già đang vò vo ngóng trông con từng giờ, từng phút.

12.4.68

Rừng chiều sau một cơn mưa, những lá cây xanh trong trước ánh nắng, mỏng mảnh xanh gầy như bàn tay một cô gái cấm cung.

Không khí trầm lặng và buồn lạ lùng. Cả khu nhà bệnh nhân im lặng, bên khu nhân viên cũng chỉ nghe thấy tiếng Hường rì rầm trò chuyện với ai. Một nỗi nhớ mênh mang bao trùm quanh mình. Nhớ ai? Nhớ ba, nhớ má, nhớ những người vừa ra đi… và nhớ cả một người bệnh nhân đang chờ mình đến với anh nữa. Bên trong nỗi nhớ hình như có một nỗi buồn sâu kín, thầm lặng nhưng rất nặng nề. Dù sao vết thương lòng vẫn đang rỉ máu, dù mình có muốn lấy công việc lấy mọi nỗi nhớ khác đè lên trên, nó vẫn trỗi dậy, xót xa vô cùng. Hãy quên đi Th. ơi! Hãy quên đi mà tìm lại niềm hy vọng mới mẻ xanh tốt trong lành hơn. Hãy lấy niềm tự hào mà quên đi thất vọng. Con người ấy đâu có xứng đáng với tình yêu trong trắng, chung thuỷ của Thuỳ.

Ơi những người thân yêu của tôi trên quê hương Đức Phổ này, có ai hiểu và cảm thông hết nỗi lòng tôi chăng? Nỗi lòng một cô gái đay ước mơ hy vọng mà không được đáp lại một cách xứng đáng?

13. 4. 68

Thư từ từ khắp bốn phương gửi về. Cảm ơn tất cả mọi người đã dành cho tôi những tình thương mến thiết tha. Đọc thư niềm vui chen lẫn với nỗi buồn. Tại sao mọi người có thể dành cho mình những tình thương ấy mà một người – một người đã được hưởng một tình yêu trong trắng, chân thành lai không xứng đáng với mình? Buồn làm sao hở M.?

Mình nhũng muốn lấy tình thương của mọi người đền đáp cho chỗ trống của tâm hồn mà không sao làm được. Trái tim mình vẫn cứ bướng bỉnh đập theo nhịp độ của tuổi hai mươi tràn đây hy vọng, tràn đầy thương yêu. Thôi hãy bĩnh tỉnh lại với nhịp đập yên bình của mặt biển những buổi chiều lặng gió đi tim ơi!

14. 4. 68

Một bài thơ làm tặng cho mình, bài thơ của một thương binh đang nằm viện, xuất phát từ lòng mến thương cảm phục đối với một người bác sĩ đã chăm sóc anh và mọi bệnh nhân khác một cách tận tình. Anh ta tìm hiểu kỹ về mình và viết bài thơ tặng. Bài thơ tràn ngập niềm mến yêu chân thành và nỗi đau xót trước mối tình tan vỡ của mình. Anh ta nói lên những lời nói xót xa cay đắng của một cô gái bị người yêu phụ bạc.

Đọc bài thơ… mình buồn vô hạn, không thề kìm được mình ghi ngay dưới bài thơ đó một dòng chữ “Cảm ơn tình thương mến của anh, nhưng hình như anh chưa hiểu Trâm. Hứa với anh rằng sẽ có lúc nào đó để anh hiểu về một người con gái của XHCN”, và mình đưa trả lại bài thơ.

Ôi! Đây mới là điều đáng buồn nhất trong quan hệ với M.. Mọi người đều trách M., đều thương mình, nhưng mình xót xa biết bao nhiêu khi thấy người ta thương mình bằng một tình thương có cả sự thương hại nữa! Dù anh Thiết, dù Hào, Nghinh… ai ai đi nữa đã cảm thương san sẻ với mình, mình vẫn không muốn. Một mình đã đủ giải quyết rồi, một mình đủ sức chôn sâu cả nhiều năm thương yêu yêu hy vọng ấy xuống tận đáy đất sâu rồi – mảnh đất tâm hồn mình vẫn màu mỡ, vẫn đủ sức để gieo lên đó một mùa hoa tươi đẹp được kia mà. Hỡi tất cả mọi người, không cần tưới lên mảnh đất ấy những giọt lệ xót thương đâu. Hoa thơm phải được tưới bằng nước mát trong lành.

Mỗi ngày tình cảm với M. càng lạt phai đi và nỗi trách móc càng lớn dần lên. Mình đã và sẽ xa dần người bạn ấy. Anh đâu có xứng đáng với mình?

…68

Không khí im lặng của buổi trưa trùm lấy khu rừng. Nghe San đau, mình lên thăm. Cả phòng cũng đang yên ngủ, kể cả người bệnh nhân mình tới thăm. Không muốn làm thức giấc San, mình rón rén trở ra nhưng tiếng San khẽ rên làm mình trở lại anh cười bẽn… (mờ không đọc được). Anh không đau nhưng có lẽ muốn gặp mình. Cả ngày hôm nay mình bận.

Câu chuyện không phải là chuyện thương tật mà anh lại hỏi: “Hôm nay đúng là ngày chị về Đức Phổ phải không?”

– Vừa tròn một năm San à!

Mình trả lởi mà không khỏi ngạc nhiên vì câu hỏi của San. Muốn ngồi với San nói chuyện về cả một năm qua, một năm chiến đấu gian lao vất vả nhưng rất đáng tự hào trên mảnh đất quê San. Nhưng mình lại thấy khó nói. Có nghĩa lý gì đâu nhưng việc mình làm so với San, với tất cả bà con Đức Phổ đã kiên cường chiến đấu suốt hai mươi năm ròng. Còn nói với San về nỗi nhớ thương với gia đình trong những ngày xa cách lại càng vô lý hơn. San chỉ còn một mẹ già. Cha San chết từ lúc mẹ anh mới hai hai tuổi đầu, người vợ trẻ ấy đã hy sinh cả tuổi xuân của mình ở vậy nuôi San cho đến khi anh được mười chín tuổi thì cho anh đi bộ đội. Năm năm qua vào sinh ra tử San vẫn còn sống, vừa mới cách đây một tháng địch tập kích vào vị trí, San đã thoát khỏi nanh vuốt của quân thù. Mười lăm đồng chí của anh hy sinh. Chỉ một xíu nữa thôi có khó khăn gì đâu, San cũng đã ngã xuống dưới chân hòn núi Cửa ấy rồi. Lúc đó mẹ San có khóc cạn nước mắt cũng không bao giờ có được một đứa con như San nữa. Vậy mà hôm nay San đến đây với mình, có lẽ nào mình lại để thần chết cướp đi người con yêu quý của một bà mẹ đang lo âu hy vọng tất cả vì đứa con duy nhất ấy. Không bao giờ đâu! Mình sẽ phải cố hết sức vì San cũng như vì tất cả những người bệnh nhân! Đó chẳng phải là niềm tự hào của một người thầy thuốc đó sao?

* * *

Nhận được thư và quà của Vân. Thương Vân làm sao. Cuộc đời Vân sao đủ mọi đắng cay, những đắng cay mà một người như Vân lẽ ra không bao giờ phải chịu. Vân sống giàu lòng vị tha, giàu niềm hy vọng, giàu tình cảm cách mạng. Phải đền đáp cho Vân những điều đó chứ. Cớ sao cuộc đời cứ dành cho Vân hnững sự rủi ro? Đã thấy được điều đó mình phải có trách nhiệm. Phải đem lại cho Vân niềm vui, tin tưởng bằng những hành động cụ thể.

17.4.68

Chia tay anh Kỳ và chị Phượng. Sống với nhau cả một năm tròn, hôm nay mình mới hiểu hết tình thương của những người thân thiết đó.

Đêm đã khuya sau buổi liên hoan, anh Kỳ sang phòng mình chơi. Hai anh em chẳng biết nới gì, quyển vở để trước mặt, cây bút cầm trong tay mà những dòng chữ dưới ngòi bút anh đều vô nghĩa. Thời gian còn rất ít, anh cần nói cần viết những chuyện quan trọng. Vậy mà sao anh làm thinh hở anh? Phải chăng anh muốn nói với em bằng đôi mắt đỏ vì thức khuya bao đêm ròng, bằng nụ cười buồn rười rượi trên khuôn mặt gầy ốm? Anh ôm mình trong đôi tay mảnh khảnh, hành động đó rất bình thường với anh nhưng hôm nay sao làm mình cảm động. Tiễn anh đi rồi. Tiễn anh ra đến suối mình bần thần trở về thấy mảnh giấy lưu niệm anh gửi cho Liên. Mấy dòng chữ ngắn ngủi trong đó anh có dặn: “Em và Trâm phải thương nhau chân thật. Trâm vào đây xa gia đình chỉ có bạn….”. Anh Kỳ ơi! Cảm ơn anh, em không bao giờ quên tấm tình của anh đối với em đâu!

Và buổi cuối cùng nằm trong cánh tay của chị Phượng, nghe những lời dặn lại mình lặng yên không nói, những giọt nước mắt âm ấm chảy trên mặt mình và rơi sang mặt chị. Chị ơi, đến hôm nay em vẫn chưa là Đảng viên, buồn đến vô cùng…

22.4.68

Hường ơi! Hường đã chết rồi sao? Mình nghe tin mà bàng hoàng như trong cơn ác mộng. Bao giờ cho hết những đau xót này – nay một người ngã xuống, mai lại một người ngã xuống. Xương máu đã chất cao như ngọn núi căm thù sừng sững trước mắt chúng ta. Bao giờ! Bao giờ và bao giờ hỡi các đồng chí. Bao giờ mới đuổi hết lũ quân uống máu người không tanh ấy khỏi đất nước chúng ta.

Vậy là hết, những đêm rì rầm tâm sự bên nhau không bao giờ có nữa. Bên tai mình còn nghe rõ giọng Hường trầm trầm tình cảm, Hường khen ngợi động viên mình, ca ngợi mối tình chung thủy cửa mình. Vậy là hết, những buổi cùng nhau tắm dưới suối nước, cùng nhau ăn một chén chè. Mình bỗng nhớ hôm nào gặp Hường bên bờ suối ở Nghĩa Hành, Hường ôm mình trong tay, hôn lên mái tóc, hôn lên má mình và cả hai cùng rưng rưng nước mắt.

Nhìn chú Công vẫn bình thản không hay biết gì về tin sét đánh ấy, mình thấy xót xa như ai xát muối vào trong ruột. Mất một đứa con như Hường còn đau hơn mất cả khúc ruột. Chú ơi, hãy nén đau thương lại đi chú, nếu biết tin này! Và anh Quang, người con trai đã thuỷ chung chờ đợi Hường trong bao nhiêu năm nay cũng không bao giờ thực hiện được mơ ước nửa. Hường của anh đã vĩnh viễn nằm yên dưới nắm đất quê hương anh rồi.

23.4.6S

Một ngày mệt nhọc vô cùng. Ba cas thương nặng vào một lúc. Suốt một ngày đứng bên bàn mổ đầu óc căng thẳng vì những vết thương, vì tiếng khóc xé ruột xé lòng của chú Công (cha Hường) và vì những tin buồn dồn dập.

Hường đã bị bắt sống trên đường công tác. Cậu bé sôi nổi nhiệt tình ấy không hiểu có chịu nổi những đòn tra tấn của quân thù hay không. Thương Đường vô tận. Lá thư viết gửi Đường vậy là chưa đến nơi. Người cầm thư đã chết còn người nhận thư thì bị bắt!!! Một giọng hát buồn từ đâu văng vẳng bên tai mình “Lòng mẹ bao la như biển thái bình rạt rào. Lời ru êm ái như dòng suối hiền ngọt ngào”. Lời hát của Đường trong buổi tối hôm xưa hay là lời than đau xót của Đường trong ngục tối lúc mà Đường nghĩ đến người mẹ già đã suốt đởi cặm cụi nuôi con, đặt tất cả niềm vui, hy vọng vào đứa con cưng ấy?

Biết bao nhiêu bà mẹ như mẹ Đường sẽ còn đau khổ khóc than đến cạn dòng nước mắt. Ôi nếu mình ngã xuống, mẹ mình cũng sẽ như bà mẹ ấy thôi, cũng sẽ là một bà mẹ suốt đời hi sinh vì con để rồi mãi mãi đau xót vì con mình đã ngã xuống nơi chiến trường khói lửa. Mẹ ơi! Con biết nói sao khi lòng con thương mẹ trăm nghìn triệu mà cũng đành xa mẹ ra đi. Quân thù đang còn đó, bao nhiêu bà mẹ còn mất con, bao nhiêu người chồng mất vợ. Đau xót vô cùng.

25.4.68

Cũng vẫn là những tin buồn, trên đường đi học ở tỉnh về, đoàn cán bộ của Đức Phổ bị địch tập kích nghe nói có hy sinh một số. Nghĩa cũng đi trong số đó, chẳng hiểu em mình có làm sao không. Em mình xông xáo, dũng cảm dễ có khả năng đi đầu bám đường lắm. Em ơi! Nếu em có làm sao thì chị biết nói gì nữa hở em? Chị sẽ khóc ròng bao đêm vắng hay là nước mắt khô lại thành ngọn lửa thù rực cháy trong tim chị? Mấy ngày này chị vẫn mong em về thăm, bây giờ!…

26.4.68

Nhận một lá thư từ H8 trở về, không phải thư của M. mà là của anh Tâm. Đọc thư chỉ thấy buồn vô hạn. Những ngày qua đã lùi vào dĩ vãng lâu rồi xa rồi, còn khơi lại làm gì nữa hở anh Tâm? Anh thương em nhưng vô tình đã làm em đau khổ. Anh báo tin rằng M. đang đau yếu, anh nói rằng anh hiểu em, thương em nhưng thực ra anh có hiểu gì em đâu. Anh chưa hiểu hết lòng tự ái của một cô gái xuất phát từ tầng lớp học sinh như em sao? Còn nếu đã hiểu thì… tốt hơn hết là hãy nói với em về những điều cần thiết trước mắt công tác tốt, cảnh giác tốt. Vậy thôi!

Chương 2

30.4.68

Vẫn buồn ư Th? Mấy cas thương nặng tưởng không sống nổi hôm nay đã ổn định cả rồi, những nụ cười trên khuôn mặt còn xanh mướt vì mất máu chẳng làm Th. vui đó sao? Vậy mà vẫn cứ buồn. Nỗi buồn thấm sâu trong lòng mình như những giọt mưa thấm sâu trong lòng đất của những ngày mưa dài rả rích này. Muốn tìm lấy những niềm vui vô tư nhưng không sao tìm được, bộ óc mình đã hằn những nếp nhăn suy nghĩ rồi, có cách nào xoá mờ được đâu. Có chăng chỉ làm được điều đó nếu bây giờ chỉ có một yêu cầu: điều trị cho thương binh, xây dựng bệnh xả cho tốt ôi sao mình lại sinh ra làm một đứa con gái giàu mơ ước yêu thương và đòi hỏi với cuộc đởi quá nhiều như vậy?

Hoàn cảnh của mình là sự ao ước của bao nhiêu người: gia đình êm ấm đầy đủ, bản thân đã và đang có điều kiện tiến bộ, được công tác hợp khả nàng, được chiếu chuộng… Nhưng vậy thì có phải tại mình quá đòi hỏi hay không? Hãy trả lời đi hỡi cô Thùy khó tính và bướng bỉnh.

1.5.68

Một lần nữa đón ngày Quốc tế Lao động giữa rừng – đó là một ngày im lặng, dài và chìm ngập trong nỗi nhớ thương. Nhớ Hà Nội, nhớ ba má và các em vô kể, vừa chóp mắt giữa trưa mình đã thấy mình về gặp má và em trong ngôi nhà ở trường Cán bộ Y tế, vẫn con đường nhỏ ấy, vẫn chiếc cổng nhà ông Nghiệp ấy, mình chui qua những song cửa gãy để lọt ra ngoài đường hồn nhiên như những ngày còn nhỏ. Xa nhà hơn một năm rồi, đây có phải là năm cuối cùng xa cách không? Bỗng dưng mình nhớ đến những ngay trước KN (không đọc rõ) vui và hy vọng tràn ngập… bây giờ (?)!… Thì hãy cứ như những hồi ấy đi, hãy nhóm lên niềm vui của kẻ chiến thắng đã cầm trong tay ấy đi, bài hành khúc khởi nghĩa còn vang bên tai đó “Xuống đường, xuống đường… dù phải hy sinh ta nào xá, giành lấy chính quyền về tay nhân dân”.

 

4.5.68

Mình cắt đứt câu chuyện bằng sự im lặng. Trong bóng tối mình vẫn nhận thấy sự băn khoăn của hai người bệnh nhân đang nói chuyện với mình. Hình như họ thấy được cái im lặng nặng nề đẫm nước mắt ấy của mình. Họ thương mình một cách chân thành thắm thiết, nhưng họ càng nói mình càng thấy khổ đau. Họ hỏi mình vì sao không đấu tranh cho quyền lợi chính trị, tại sao mình rất xứng đáng là một Đảng viên mà chi bộ không kết nạp. Vì sao, vì sao và vì sao ư? Ai mà trả lời được hở hai bạn mến thương. Quả tình tôi không thể trả lời được. Cái im lặng nặng nề của tôi cũng nói được với các bạn nhiều về sự bế tắc đó. Hầu như tất cả mọi người đều nói: “Trâm rất xứng đáng là một người Cộng sản” vậy mà vẫn không được đứng trong hàng ngũ ấy. Nào phải mình không thiết tha nhưng càng thiết tha chỉ càng thấy khổ đau mà thôi.

Mấy hôm nay rất buồn, ngày ngày những lá thư, những lời nói, những hành động tỏ lòng thương mến thiết tha vẫn đến với mình: Nhưng chính những tình thương ấy lại là những mồi lửa châm vào một đống củi đã khô từ lâu. Tại sao mọi người thương mến cảm phục mà Đảng lại khắt khe hẹp hòi đối với mình?

 

5.5.68

M. ơi, Th. biết nói gì với M. đây? Vẫn thương yêu M. vô hạn nhưng tình thương trộn lẫn sự giận hờn trách móc. M. nói Th không hiểu M. ư? Đâu có, Th. hiểu M. nhưng hiểu hết chưa thì quả thật là chưa. Cho nên không thể nào không đau xót khi tất cả mọi người xung quanh vẫn nhìn Th. bằng đôi mắt xót thương. Cái đó đã làm Th. tự ái rồi. Một vết thương không thể hàn gắn. Đành vậy suốt đời ta sẽ mang nặng vết thương trong lòng!

Nghe M. đau nặng, buồn thương M. quá đỗi. Giá có Th. ở bên, Th. sẽ chăm sóc M. như vai trò mà người ta đã định cho chúng ta (mặc dù sự thực không như vậy). M. ơi, anh không phải là của em, nhưng em muốn đem yêu thương xoa dịu đau đớn cho anh. Bằng cách nào bây giờ? Một cái gì giống như linh cảm bảo với Th. rằng rồi sẽ không được gặp M. nữa, lần chia tay ấy sẽ là lần cuối cùng. M. đứng nhìn theo, Th. đi không ngoảnh lại, mặc dù biết rằng một đôi mắt đen đang dõi theo Th. Những giây ở trong cánh tay người đồng chí thân yêu ấy chỉ còn là một hình ảnh dĩ vãng xa xưa mà thôi.

 

6.5.68

Rất nhiều chuyện đau đầu hàng ngày vẫn xảy ra quanh mình. Thì đã tự nhủ rằng không thể đòi hỏi ở đâu chỉ có toàn người tốt kia mà, đã khẳng định “đời phải qua giông tố nhưng chớ có cúi đầu trước giông tố” mà. Thực ra giông tố đến với mình vẫn là những cơn giông của ngày cuối hè, nhẹ nhàng âm ỉ mà thôi. Hãy vui lên đi, vui lên với những nụ cười trìu mến của những bệnh nhân đã dành cho mình. Vui lên với những tình thương chân thực mà đa số những cán bộ trong huyện, trong tỉnh, trong khu quen biết đã dành cho mình. Vậy là được rồi, Th. ơi, đừng đòi hỏi nữa. Đảng ư? Rồi Đảng sẽ phải thấy. Quanh mình nhiều người thương mến cảm phục hơn là số người thù ghét. Xét cho cùng, họ có ghét mình cũng chỉ vì lòng ghen ty mà thôi.

 

9.5.68

Sống ở đời phải biết khiêm tốn nhưng đồng thời phải có một lòng tự tin, một ý thức tự chủ. Nếu mình làm đúng hãy cứ tự hào với mình đi. Lương tâm trong sạch là liều thuốc quý nhất. Phải hiểu điều đó để lấy điều đó làm cơ sở tự tin cho mình. Tại sao Th. cứ suy nghĩ hoài khi mà Th. biết rằng chuyện đó Th. làm đúng? Cuộc sống đâu phải chỉ có tình cảm mà phải có lý trí, có hiểu thế hay không hở cô gái bướng bỉnh?

12.5.68

Hội nghị Pans! Đây là những ngày tháng năm của 1954 đấy chăng? Mình hồi hộp theo dõi tin tức, biết chắc chắn rằng thắng lợi có được trong hội nghị này phải do thắng lợi trên chiến trường quyết định. Vậy thì hãy chuẩn bị tinh thần bước vào một đợt chiến đấu quyết liệt cuối cùng rồi sau đó ai còn, ai mất hãy hay. Dù còn dù mất cũng là những ngày vui bất tận khi hoà bình chân chính trở lại trên đất nước chúng ta. Hơn hai mười năm rồi khói lửa đau thương vẫn trùm lên dải đất hiền lành. Nước mắt chúng ta chảy nhiều rồi, xương máu cũng đổ nhiều rồi. Chúng ta có tiếc gì đâu để đổi lấy độc lập tự do.

 

14.5.68

Một dòng chữ ghi trên bàn: “Chị Trâm thương nhớ của em…”. Dòng chữ của San. Một chuyện giản đơn vậy mà mình cảm động. Tình thương với San ngày càng thắm thiết. Có lần ngồi nói chuyện với San, hai chị em (chị mà nhỏ tuổi hơn em) cãi nhau về chuyện nếu phải chết thì ai nên chết. Mình nhường cho San sống bởi vì đời San chưa hề được hưởng sung sướng và bởi vì San là đứa con duy nhất của một bà mẹ goá đã ở vậy nuôi con từ năm hai mốt tuổi đến giờ. Vậy mà San cứ khăng khăng rằng mình phải sống, phải trở về với mẹ, với em, với Miền Bắc thân yêu đang trông đợi mình. Rõ vớ vẩn, chuyện không đâu vào đâu cả nhưng sao hai chị em đều cảm thấy thương nhau hơn. Mình muốn đối với San bằng một tình thương chân thực, trong lành mà e rằng có ai hiểu lệch vấn đề đi không. San năm nay hơn mình ba tuổi, đã có vợ và con năm tuổi.

 

17.5.68

Chiến tranh còn tiếp diễn, chết chóc vẫn diễn ra hàng ngày, từng giờ từng phút, dễ như trở bàn tay vậy. Mới tối qua Thìn và anh Sơn còn cùng bọn mình trò chuyện. Thìn còn dặn Lệ mua vải may áo, đêm nay hai người ấy chỉ còn là hai cái xác nằm dưới nắm đất của đất Đức Phổ mà lần đầu họ đặt chân đến ấy rồi. Chết quá dễ dàng, không có cách nào đề phòng được những tổn thất ấy cả. Buồn làm sao!

Liên nói vậy mà đúng: Hãy sống với nhau bằng tình thương chân thành đi kẻo rồi hối hận khi bạn mình đã chết rồi mới nghĩ rằng hồi còn sống mình đã không thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Riêng mình đã làm như vậy. Mà thật ra xưa nay mình vẫn giàu tình thương với tất cả mọi người, một tình thương yêu rộng rãi nhưng rất đỗi chân thành. Tất cả bệnh nhân trong bệnh xá này trong những lúc đau ốm nặng mình đều đến với họ bằng tinh thần trách nhiệm, bằng tình thương thắm thiết đó cho nên dù xa lạ bao nhiêu rồi cũng thấy có một cái gì gắn bó với người thầy thuốc mà họ thấy rất gần với họ ấy. Họ gọi mình bằng hai tiếng “Chị Hai”, họ xưng em mặc dù lớn tuổi hơn mình và họ vui đùa, làm nũng với mình nữa. Giữa những ngày gian khó ác liệt này, mình đã tìm lấy niềm vui, sự an ủi nơi họ. Còn riêng tư, không Thuỳ ơi, đừng nghĩ đến nữa, hãy gạt đi những áng mây đang nhóm lên ở cuối góc trời, đừng đề nó nổi cơn phong ba bão táp giữa tâm hồn Thuỳ nhé.

 

20.5.68

Tiễn chân những bệnh nhân lên đường trở về đội ngũ chiến đấu, lẽ ra chỉ là niềm vui, vậy mà cả người đi lẫn người ở đều buồn thấm thía. Hơn một tháng nằm lại bệnh xá, những bệnh nhân ấy đã gắn bó với mình không phải chỉ là tình thương giữa người thầy thuốc với bệnh nhân mà trong tình cảm ấy có cả nỗi cảm thông sâu sắc giữa những người bạn. Hôm nay họ đi rồi, người ra đi còn nhớ chăng những đêm dài trò chuyện những đêm mình đi trực. Nhớ chăng những buổi cả cơ quan đi cõng gạo họ đã cùng mình xử trí một cas thương, họ làm như những nhân viên thực thụ, đêm đến trong ánh đèn dầu họ ngồi hí hoáy lau dụng cụ… những ngày ấy vui sao! Bao giờ gặp lại nhau và có còn được gặp nhau không hở những người bạn mến thương?

 

25.5.68

Những ngày u uất của tâm hồn. Có gì đè nặng trên trái tim ta. Đâu phải chỉ có một nỗi buồn của vết thương rỉ máu của con tim đó đâu? Mà còn có những gì nữa kia? Những sự thiếu công bằng vẫn còn trong xã hội, vẫn diễn ra hàng ngày; vẫn có những con sâu, con mọt đang gặm dần danh dự của Đảng, những con sâu mọt ấy nếu không bị diệt đi nó sẽ đục khoét dần lòng tin yêu với Đảng. Rất buồn mình chưa được đứng trong hàng ngũ của Đảng để đấu tranh cho đến cùng. Có lẽ vì thế mà những người đó vẫn chần chừ không đám kết nạp mình mặc dù tất cả Đảng viên trong chi bộ và rất nhiều người có trách nhiệm trong huyện, trong tỉnh này đã đôn đốc, thúc giục việc giải quyết quyền lợi chính trị cho mình. Càng nghĩ càng buồn. Muốn tâm sự với những người thân về nỗi bực tức ấy nhưng rồi mình lại lặng thinh. Nói ra liệu có ai hiểu hết cho mình hay không? Có ai phải sống những ngày nặng nề, u uất như mình hay không? Sống giữa những yêu thương mà không hề cảm thấy hạnh phúc, bởi vì luôn luôn có người ghen ghét trước lòng yêu thương mà nhiều người đã dành cho mình. Đã đành rằng đời bao giờ cũng có hai mặt tốt và xấu, không bao giờ có toàm một mặt tốt, vậy mà sao Thùy cứ xót xa cay đắng mãi hở Thùy?

 

29.5.68

Ngày từng ngày vẫn trôi qua nặng nề. Công việc bận rộn làm mình quên đi những chuyện bực bội nhưng rồi nó vẫn lại đâm nhói vào suy nghĩ như những cây gai nhức nhối. Tại sao vậy hở tất cả mọi người? Tại sao trong tay ta đã có vũ khí phê và tự phê mà không sử dụng để cho những ung nhọt của tư tưởng cũ cứ mọc dần trong một số cái đầu óc? Tại sao khi ta là kẻ đúng, khi ta là số đông mà không đấu tranh được với một số nhỏ, để số người đó gây khó khăn trở ngại cho tập thể? Đành rằng ở đâu cũng có kẻ xấu người tốt, đành rằng sự mâu thuẫn là quy luật tất nhiên của xã hội nhưng không thể vì thế mà đầu hàng. Nhiệm vụ của ta là phải đấu tranh cho lẽ phải. Mà đã đấu tranh thì phải bỏ sức lực, phải suy nghĩ vàphải hy sinh quyền lợi cá nhân, có khi là cả cuộc đời mình, cho lẽ phải chiến thắng. Vậy đó Thùy ơi! Khi đã giác ngộ quyền lợi của giai cấp của Đảng thì suốt đời Thùy sẽ gắn bó với sự nghiệp ấy! Th. Sẽ đau xót khi sự nghiệp ấy bị tổn thương, TH sẽ sướng vui khi sự nghiệp ấy lớn mạnh – Có gì nữa đâu hở Th.?

 

31.5.68

Một cuộc chạy càn quy mộ nơi căn cứ, toàn bệnh xá di chuyển, vất vả vô cùng. Lòng mình nao nao thương xót khi nhìn thấy thương binh mồ hôi lấm tấm trên gương mặt còn xanh mướt, ráng sức bước từng bước một qua hết đèo lại dốc. Sau này nếu được sống trong hoa thơm nắng đẹp của Xã hội Chủ nghĩa hãy nhớ và nhớ mãi cảnh này, hãy nhớ sự hy sinh của những người đã đổ máu vì sự nghiệp chung, vì ai mà chúng ta vất vả thế này hở các đồng chí? Vì bọn quỷ cướp nước còn đang ở trên đất nước chúng ta cho nên… Ơi những người thương binh mà tôi thương yêu như những người ruột thịt, hãy cười lên trong gian khổ, hãy giữa mãi mối lạc quan vô bờ bến mà từ lâu nay các đồng chí đã giữ được dù trong hoàn cảnh khó khăn đến thế nào!

 

1.6.68

Một buổi sáng như sáng nay, rừng cây xanh tươi sau một trận mưa rào. Không gian trong lành mà sao lòng mình lại ngập tràn thương nhớ, nhớ miền Bắc vô vàn. Nhớ từ những hàng cây bên đường phố, những cây bàng, cây sấu lá xanh bóng sau những cơn mưa và con đường nhựa sạch sẽ vào những buổi sáng. Nhớ một căn phòng đơn sơ nhưng đầm ấm, buổi sáng râm ran tiếng cươic nói chen lẫn tiếng phát thanh từ chiếc radio để giữa nhà. Nhớ mẹ, nhớ ba, nhó Phương12 và tất cả những người thân yêu ngoài ấy. Bao giờ tiếng súng chiến tranh chấm dứt để ta trở về với miền Bắc yêu thương? Liệu còn có được những ngày đoàn tụ ấy không? Chiến tranh là mất mát. Trên mảnh đất miền Nam nóng bỏng lửa khói này, hầu như 100% các gia đình đều có tang tóc. Chết chóc đau thương đè nặng lên đầu mỗi người dân. Nhưng càng đau xót, họ càng căm thù, càng thêm sức chiến đấu. Cuộc đời và hoàn cảnh mỗi người ở đây là một bài học quý giá đối với mình. Đó chẳng phải là niềm vinh dự mình được hưởng hay sao?

Như trong lá thư cậu Thao đã nói: “Đừng buồn Th. Nhé. Tất cả ngoài này đều hướng về miền Nam thân yêu, ở đó ai ai cũng có ít nhất là một người thân đang chiến đấu”.

Th. ra đi bao nhiêu người ngoài đó đang dõi theo từng bước của Th. mong đợi và tin tưởng rằng Th. sẽ chiến thắng. Th. đã chiến thắng trong mùa khô ác liệt vừa qua nhưng còn cần cố gắng nữa để chiến thắng cùng với cả đất nước và … Th. ơi hãy vượt qua mọi đau buồn đang đè nặng lên trái tim. Hãy vui như nụ cười Th. vẫn ngụy trang trên nét mặt hàng ngày, đừng để có ai đó khẽ hỏi tại sao lại buồn, vì sao mà đã ngụy trang rồi vẫn không giấu được nỗi buồn sau nụ cười luôn mở ấy.

Chú Thích

12. Em gái Phương Trâm, kế liền Thùy Trâm

 

Chương 3

2.6.68

Chiều mưa, những giọt mưa rả rích rơi từ trên mái lá, từ những lá cây tạo thành một âm thanh đều đều buồn đến lạ lùng. Lâu rồi mình quên đi cái cảm giác của một cô học sinh Chu Văn An ngồi ngậm chiếc đuôi bút quên nghe thầy giảng bài, lơ đãng nhìn ra mặt hồ Tây mờ mịt trong mưa phùn mà nghĩ vớ vẩn. Cái cảm giác xa xưa vừa tiểu tư sản, vừa trẻ con mới lớn ấy sao hôm nay lại sống dậy trong mình – một cán bộ đang lặn lội trong cuộc kháng chiến sinh tử này. Một năm qua đã cho mình hiểu thêm về hai chữ thực tế. Không, cuộc đời thực tế gồm hai mặt. Cuộc đời vẫn bao la niềm ưu ái, người ta vẫn dễ dàng tìm thấy niềm thương yêu, miễn là chân thành và có lòng vị tha. Nhưng… dù anh có chân thực bao nhiêu đi chăng nữa rồi vẫn có lúc anh đau xót thấy rằng vẫn có những kẻ dùng mánh lới khôn khéo, lừa đảo anh để giành cướp với anh từng chút uy tín, từng chút quyền lợi, có khi chỉ là những chuyện vô cùng nhỏ nhặt như miếng ăn, đồ vật. Anh muốn sống vô tư hoàn toàn chỉ biết có lẽ phải, có tình thân ái thôi ư? Không được, sẽ có kẻ cho anh là ngốc là để cho kẻ khác đè đầu cưỡi cổ dễ dàng. Vậy thì phải đấu tranh, mà đấu tranh phải có lý cộng với kinh nghiệm sống. Cuộc đấu tranh ấy đâu phải giữa một cá nhân này với một nhóm người khác mà đó là một cuộc đấu tranh giữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ.

 

4.6.68

Càng đi vào thực tế càng thấy phức tạp. Con người sao sống với nhiều đòi hỏi quá đi. Không bao giờ thỏa mãn được cả. Càng ngày càng muốn hoàn chỉnh, càng ngày càng lắm yêu cầu và trong những bước tiến lên ấy bao nhiêu là gai góc cản trở, nếu không vững trí bền tâm sẽ dễ dàng thất bại.

Ơi cô gái sống với bao suy nghĩ kia ơi, nghĩ làm gì cho nhiều để rồi phải nặng những đau buồn. Hãy cứ tìm lấy những niềm vuiđi, hãy cứ sống giàu lòng tha thứ, giàu sự hy sinh một cách tự giác đi. Đừng đòi hỏi ở cuộc đời quá nhiều nữa.

Mưa vẫn cứ rơi hoài. Mưa càng thêm buồn thấm thía và mưa lạnh làm cho người ta thèm khát vô cùng một cảnh sum họp của gia đình. Ước gì có cánh bay về căn nhà xinh đẹp ở phố Lò Đúc để cùng ba má và các em ăn một bữa cơm rau muống và nằm trong tấm chăn bông ấm áp ngủ một giấc ngon lành. Đêm qua mơ thấy Hòa bình lập lại, mình trở về gặp lại mọi người. Ôi, giấc mơ Hòa bình lập lại đã cháy bỏng trong lòng cả ba mươi triệu đồng bào ta từ lâu rồi. Vì nền Hòa bình độc lập ấy mà chúng ta đã hy sinh tất cả. BIết bao người đã tình nguyện hiến dâng cả cuộc đời mình vì bốn chữ Độc lập Tự do. Cả mình nữa, mình cũng đã hy sinh cuộc sống riêng mình vì sự nghiệp vĩ đại ấy.

 

15.6.68

Nhật ký ơi! Đừng trách Th. nghe nếu như Th. cứ ghi vào nhật ký những dòng tâm sự nặng trĩu đau buồn. Tiếng súng chiến thắng đang nổ giòn khắp chiến trường Nam Bắc. Thắng lợi đã đến gần chúng ta rồi… Nhưng trên mảnh đất Đức Phổ này vẫn còn nặng những đau thương, ngày từng ngày máu vẫn rơi, xương vẫn đổ. Điều đáng buồn nhất là trong những hy sinh gian khổ ấy, Th. chưa thấy được sự công bằng, sự trung thực. Chưa có một sự đấu tranh để thắng được những cái ti tiện, đớn hèn cứ xảy ra làm sứt mẻ danh dự của hai chữ Đảng viên và làm mòn mỏi niềm vui say công tác của mọi người trong bệnh xá. Cả mùa khô ác liệt không một lúc nào mình thấy bi quan, mình luôn cười trong gian khổ vậy mà bây giờ mình đau khổ quá đi. Kẻ thù phi nghĩa không sợ, mà sợ những nọc độc của kẻ thù còn rớt lại trong đồng chí của mình.

Hãy giữ vững tinh thần đấu tranh, hãy tìm lấy niềm vui của kẻ chiến thắng, hãy tự tin ở mình. Mong Th. hãy giữ vững nghị lực để đấu tranh đến cùng vì sự nghiệp cách mạng.

 

20.6.68

Thư Đường gửi về, lá thư đẫm nước mắt từ ngục tù lọt qua bàn tay hợp pháp về đây với mình. Đường viết: “Lá thư tay đơn sơ, nhưng xin chị hãy giữ làm kỷ vật, vì nó gói trọn cả tấm chân tình của em trong đó, nếu em không còn nữa thì chị hãy nhớ rằng mãi mãi cho đến lúc chết em vẫn tôn thờ yêu quí chị”.

Mình gặp Đường vào một buổi chiều nắng gắt khi mình xách ba lô từ tỉnh tìm về Đức Phổ. Mảnh đất Phổ Phong lạ lùng đã đón mình bằng tất cả mến thương, điển hình là Đường. Chỉ một ngày sống cạnh Đường, cậu bé ấy đã quấn quít bên mình. Đó là một cậu bé học sinh thông minh, can đảm, nếu ở chế độ Xã hội Chủ nghĩa có thể đó là một cây bút trẻ có triển vọng. Nhưng ở đây dưới mái trường của địch có những hạn chế đau xót đối với tâm hồn ham hiểu biết, giàu ước mơ như Đường. Mình đã cảm thông với tâm tình của cậu học sinh ở đó. Trong một thời gian ngắn, hai chị em đã cảm thấy gắn bó. Chiều hôm sau, mình trở về vị trí, Đường ở lại. Ít lâu sau em bị bắt trong lúc đi làm công tác trở về. Chúng đã đánh đập Đường dã man tàn ác hết sức, nhưng Đường không nửa lời khai, chúng lập hồ sơ đưa đi Côn Đảo may nhờ có một thầy dạy cũ xin cho Đường ở lại. Bây giờ, chúng đưa Đường đi lính, đang trong thời kỳ luyện tập – liệu đến lúc ra chiến đấu Đường có trở về được với đội ngũ cách mạng hay không? Hay một viên đạn nào đó sẽ làm đứt đoạn cuộc đời đầy hy vọng của Đường?

 

28.6.68

M. ơi, M. lại vô đó ư? Lại là M. của những tối thứ tư trên con đường cũ đó ư? Nếu M. nói rằng trong quan hệ chúng ta, M. chưa hề phạm một sai lầm nào đối với Th. cả. Nếu là như vậy thì.. cuộc đời sẽ ra sao M. nhỉ?

Th. đây phải đứa hẹp hòi, cũng không là kẻ thiển cận, vậy mà Th. đã đi đến kết luận như thời gian qua, nghĩa là đã có cả một quá trình suy nghĩ. Cũng chẳng biết sẽ nói với M. như thế nào. Không! M. ơi, hãy đi đi, đừng gieo đau buồn lên con tim rớm máu của Th. nữa. Giữa chúng ta không thể nào có một hạnh phúc vĩnh viến dù cả hai chúng ta còn sống sau cuộc chiến tranh này.

 

30.6.68

Mùa thu chưa đến mà lá vàng chìm ngập cả không gian. Chưa bao giờ mình cảm thấy đau khổ và cô đơn đến mức này. “Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giông tố”. Thì hãy đứng dậy Th. ơi, dù gió mưa giông bão đang nổi lên, dù nước chảy tràn suối nguồn đau khổ thì cũng hãy giữ vững tinh thần. Th. hãy bằng nghị lực, bằng niềm tin ở chính nghĩa, bằng lí tưởng cuộc đời mình mà đi tiếp những bước đường gai góc gian lao. Có thắng lợi nào đến với chúng ta mà khong phải đổi bằng mồ hôi nước mắt, bằng suy nghĩ khổ đau, có khi bằng cả xương máu nữa Th. à.

Khi biết tình yêu tan vỡ, Th. không rơi một giọt nước mắt vậy mà sao bây giờ lại yếu mềm đến vậy hở Th.?

 

3.7.68

Tháng Bảy lại về với những cơn gió nam xào xạc thổi rung cây, từng buổi sớm mai dịu mát và từng đêm trăng êm ả giữa rừng. Trong cái nắng chói chang cháy bỏng, tháng Bảy năm vẫn nặng trĩu đau thương căm thù. Từ những năm xa xôi, mình đã biết tháng Bảy với những ngày 20, ngày Hội nghị Hiệp thương. Nhưng nhận thức cho đầy đủ về ngày đó, về cả một quá trình cách mạng vĩ đại trên mảnh đất Việt Nam ngàn lần anh hùng này thì hình như mới độ sáu năm nay. Đó là một mùa hè ở Hà Nội, khi đêm tháng Bảy êm dịu ôm trùm lấy không gian, trên con đường vắng mình từ giã người chiến sĩ giải phóng quân, tiễn anh lên đường đi vào cuộc kháng chiến thần thánh. Từ đó đến nay mình đã lớn lên mỗi khi tháng Bảy lại về.

Giờ đây, cũng là một ngày tháng Bảy – giữa núi rừng mình cùng thương binh chạy càn, chạy càn ở tư thế chiến thắng. Chỉ có những người Việt Nam chúng ta mới thấy được khí thế chiến thắng dù địch đang đuổi sau lưng, dù vai nặng trĩu ba lô, dù chân đạp rừng băng suối đi lánh địch.

Bỗng nhớ đến câu thơ của Tố Hữu:

Có nơi đâu trên trái đất này

Như miền Nam đắng cay chung thủy

Như miền Nam gan góc dạn dày,

 

Nhà thơ của chúng ta đã nói đúng vô cùng. Vì có nơi đâu như mảnh đất này không? Có nơi đâu mà mỗi người dân đều là một dũng sĩ diệt Mỹ, mảnh đất thấm máu kẻ thù, mỗi gia đình đều mang nặng khăn tang mà vẫn kiên cường chiến đấu với niềm lạc quan kỳ lạ.

Thùy ơi, vinh dự biết bao khi Thùy được đứng trong đội ngũ chiến đấu ấy.

 

5.7. 68

Một người bạn của M. về bệnh xá. Câu chuyện mà anh nói với dụng ý vun đắp cho quan hệ giữa mình với M. người lại chỉ làm mình thêm tự ái và buồn. Quả thực M. không xứng đáng với tình yêu chung thủy của mình, tại sao mọi người lại khuyên mình hãy tha thứ và trở lại vơi M.? Không đâu, mình không bao giờ chịu một tình yêu chắp vá. M. cũng phải là kẻ chịu van xin mình tha thứ để được một tình yêu chắp vá. M. nói rằng anh không hề phạm một sai lầm nào dù nhỏ đối với mình, đó là một lời nói không thực, chính buổi chia tay nhau cách đây tám năm về trước M. đã nhận sai lầm là tại sao lại ngỏ tình yêu với một người con gái mà anh biết không nên đặt vấn đề yêu đương và xây dựng gia đình. Sai lầm đó là khởi đầu để rồi sau này M. tiếp tục sai lầm nữa.

M. ơi, Nếu anh đọc những dòng này anh sẽ nói sao? Sẽ mất bao nhiêu đêm để tranh luận cùng em cho ra lẽ.

 

6.7.68

Những lá thư mộc mạc chân thành vẫn không sao an ủi và làm vơi đi nỗi nhớ thương của mình. Anh em bè bạn ở đâu cũng nhớ, cũng thương mình vậy mà sao mình vẫn thấy cô đơn. Mình chưa được đứng trong một tập thể tiên phong nhất. Trái tim mình thiếu ngọn lửa của Đảng và của tình yêu sưởi ấm. MÌnh đã đến với Đảng bằng cả con tim chân thành tha thiết, nhưng hình như sự đáp lại lại không hề như vaỵa.

Và với M. – anh cũng đã không xứng đáng. Cuộc đời có ba việc lớn” Lý tưởng, Sự nghiệp và Tình yêu, chưa việc nào mình đạt được cả. Vì vậy không buồn sao được.

Những ngày này nhớ nhà vô kể, trong gió rừng mình nghe tưởng như khóm mía sau nhà đang xao xác trở mình cọ lá vào nhau. Nắng hè chói chang, mình tưởng như đang cùng bạn bè học tập và vui đùa trong những chiều hành lang đầy nắng ở bệnh viện Bạch Mai. Bất cứ một hình ảnh, một âm thanh nào cũng đều có thể gợi lại những ngày sống trên miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa. Bây giờ ngoài ấy ra sao? Ba má làm việc có thoải mái không? Có gặp vướng mắc gì trong công tác không? Ba má yêu thương ơi, đứa con gái mà ba má đã cưng từ thuở nhỏ ấy bây giờ đang thật sự bước vào một cuộc đời, một cuộc đời thực tế hết sức với đầy đủ mọi mặt: Yêu thương, căm giận, tin tưởng, đau buồn, một cuộc đời có đầy đủ máu, nước mắt, mồ hôi và cả thắng lợi giành được từ trong muôn vàn gian khổ ấy.

Ba má có tin rừng con sẽ vượt qua được không? Đứa con gái đa sầu đa cảm nhưng lại giàu niềm vui và nghị lực của ba mé sẽ thắng. Đó là một lời hứa nghiêm túc đó ba má à.

 

8.7.68

Mấy bức tranh và dòng chữ đơn sơ của Mùi gửi tặng làm cho mình cảm thấy bâng khuâng. “Lần này mình không viết cho TT một bức thư không phải vì mình không thương yêu người bạn gái rất quý của mình…”. Vậy thì vì sao hở Mùi? Tâm tình những đứa tiểu tư sản bao giờ cũng phức tạp. Có điều lạ là mình vẫn muốn như vậy hơn chỉ giản đơn rành mạch chất phác như người nông dân.

Tính tiểu tư sản của mình còn ở đó đó, chứ không phải như họ nói mình tác phong tiểu tư sản đâu. Tiểu tư sản gì đâu trong tác phong khi mà mình hòa mình được khắp trong mọi tầng lớp nhân dân.

 

11.7.68

Một đêm dài nói chuyện với Luân – một học sinh trong lớp bổ túc y tá. Những buổi nói chuyện thế này đã bồi đắp cho tình thương của mình thêm phong phú, đã xây dựng cho mình một ý thức về sự giác ngộ cách mạng và về nhân sinh quan của một người Cộng sản.

Hơn những bài lý thuyết, cuộc đời Luân là một bài học về những vấn đề ấy. Từ mười tuổi đầu, Luân đã biết làm cách mạng, em biết nỗi căm thù của một gia đình bị cô lập trước chính quyền Mỹ, em biết nỗi thương bà già, thương mẹ trẻ em thơ đang chịu muôn vàn đau khổ dưới chế độ của chúng. Và em đã đi, đêm đêm băng rào của ấp chiến lược, đưa tin cho cán bộ. Rồi mới mười lăm tuổi đầu em cầm súng tham gia du kích, từ ấy đến nay bàn tay của cậu bé hai mốt tuổi ấy đã bao lần bắn gục giặc Mỹ và cũng đã bao lần đỡ trên tay những đồng chí của mình ngã xuống trên mảnh đất quê em. Cả mùa khô năm qua Luân đã trụ bám cùng đồng đội du kích Phổ Vinh, ngày nằm công sự, đêm đi làm công tác. Mưa gió phong sương đã đọng lại trên khuôn mặt của tuổi hai mươi. Luân hơi già trước tuổi và già hơn rất nhiều so với tuổi đời. Mình thương Luân, phục Luân, tuy Luân còn có một số nhược điểm nhưng đó là một trong những người dân Việt Nam anh hùng.

Đêm khuya, đài phát thanh đã hết nói từ lâu nhưng hai chị em vẫn còn thao thức, mỗi người một ý nghĩ. Mình nghĩ đễn ngày hòa bình, mình mong ước Luân cũng như muôn nghìn thanh niên miền Nam đã hai mươi năm ròng đắng cay gian khổ sẽ còn sống còn được hưởng những ngày hạnh phúc ấy. Còn Luân, em nghĩ gì hở em? Hãy nuôi mãi niềm tin hy vọng của tuổi trẻ. Chị không muốn thấy sự khổ đau đọng lại trong đôi mắt còn thoáng nét thơ ngây của em đâu.

 

14.7.68

Được tin cha chết, Thuận ngã trên giường khóc nức nở. Tiếng khóc cố kìm lại vẫn bật lên, tiếng khóc của một người con trai đầy nghị lực như Thuận làm mình thấy xót xa như thấy ai đó xát muối vào ruột. Thương Thuận vô vàn mà chẳng biết nói gì với Thuận.

Thuận mồ côi mẹ từ nhỏ, người cha cặm cụi nuôi ba đứa con, người chị gái của Thuận mới bị pháo bắn chết cách đây hơn nửa tháng, bỏ lại bốn đứa con thơ dại. Đó phải chăng là nỗi buồn thỉnh thoảng hiện lên trong đôi mắt rất đẹp của người con trai trẻ tuổi ấy. Thuận còn một em gái, đứa em từ lúc chưa đến tuổi trưởng thành cũng đã từ lâu thoát ly đi theo du kích và theo anh đi làm cách mạng.

Ngay từ buổi đầu gặp gỡ, mình đã cảm thấy mến thương Thuận, không phải vì thấy Thuận có gương mặt của Ác tơ (13)khi anh còn là sinh viên, mà vì tính nết chăm học chăm làm, biết đối xử có tình có lý với mọi người xung quanh của Thuận.

Bây giờ biết nói gì để an ủi Thuận được đây? Cha Thuận chết, ai sẽ nuôi mấy anh em thoát ly đi công tác, nhà cửa ruộng vườn sẽ bỏ cho ai. Chính mình mình cũng chẳng hiểu sẽ giải quyết ra sao để trọn vẹn đôi đường. Thuận đang ngồi trước mắt mình, đôi mi dài chớp chớp cố giấu nỗi nghẹn ngào nhưng giọng nói vẫn hơi đứt quãng. “Chị cho em về nhà giải quyết sắp xếp việc gia đình mấy bữa rồi sẽ lên, nhà em bây giờ trâu bò ruộng đất chỉ còn em giải quyết, chị thông cảm cho em”. Không hiểu Thuận còn định nói gì nữa không mà câu nói dừng lại tại đó.

Vuốt nhẹ trên đôi tay đang nóng bừng vì sốt rét của Thuận, mình cũng nghẹn lời: “Em cứ về lo giải quyết cho xong công việc nhà, vấn đề học tập em đừng lo, chị và lớp sẽ lo tất cả cho em. Mong sao em vững vàng trong công tác và học tập”.

Đi nghe em, đi cho vững trên con đường máu lửa nhưng vô cùng vinh quang mà em đã chọn.

 

18.7.68

Nhận được mười lá thư miền Bắc một lúc. Mỗi người một vẻ nhưng tất cả đều toát lên niềm thương yêu tha thiết đối với mình và mỗi người mỗi nét vẽ thành một bức tranh sôi động về miền Bắc anh hùng. Miền Bắc thân yêu vẫn khỏe mạnh vươn lên trong bom rơi lửa đạn. Chiến tranh không hề làm chậm bước đi của đất nước ta trên đường chiến thắng. Đất nước như một người trai đầy nghị lực, dù vết thương đau nhưng chàng trai vẫn đi nụ cười trên môi và niềm tin trong đôi mắt. Mình đã gặp biết bao người trai như vậy trên đất miền Nam anh hùng này và hôm nay, qua những lá thư miền Bắc, hình ảnh chàng trai ấy lại hiện lên vĩ đại và sinh động.

Chú thích

13 Ác tơ: Nhân vật trong tiểu thuyết “Ruồi trâu” của Ê ten Li-li-an – Voi-ni-sơ

 

Chương 4

20.7.68

Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương ít, mọi người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến đêm khuya. Khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình mình vừa phải phụ trách bệnh xá, vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả và cũng còn nhiều khó khăn trong công việc, nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng. Đôi mắt người thương binh hôm nào đau nhức tưởng như bò hôm nay cũng đã sáng lại một phần. Cánh tay anh bộ đội sưng phù đe dọa chảy máu bây giờ cũng đã lành lăn. Những cánh tay xương gãy rời cũng đã liền lại… Đó chính là nhờ sức lực của mình và những người y tá đêm ngày lăn lộn trong công tác bên giường bệnh.

Và với những học sinh, mình cũng đã đem lại những điều quý giá trong lý luận về y học. Mình đến với lớp không phải chỉ vì tinh thần trách nhiệm mà bẳng cả tình thương của một người chị đối với những đứa em đã chịu biết bao thiệt thòi đau khổ vì bọn bán nước nên không tìm đến với khoa học được. Thương biết mấy những Thuận, những Liên, những Luận, Xuân, Nghĩa mỗi người một hoàn cảnh nhưng đều rất giống nhau: Rất ham học, rất cố gắng để đạt mức hiểu biết cao nhất. Thuận mới vừa khóc cha chết, hai chiếc tang còn nặng trên ngực nhưng nụ cười đã trở lại trên đôi môi nhợt nhạt – Thuận đã hát đã cười đã sôi nổi thảo luận, nhìn Thuận mình biết bao mến thương và cảm phục.

Liên vừa lo học vừa lo làm việc trong bệnh xá. Liên lặn lội trong mọi công việc từ sớm đến tối như một con chim nhanh nhẹn vui cười đi đầu trong mọi gian khổ – đó cũng là hình ảnh mình cần học tập.

Kể làm sao cho hết những người anh hùng vô danh mà mảnh đất miền Nam đau thương khói lửa này đã tạo nên họ.

 

25.7.68

Một buổi ngồi trên giường bệnh của Lâm, Lâm bị một mảnh đạn cối cá nhân xuyên vào tủy sống, mảnh đạn ác nghiệt đã giết chết một nửa người Lâm – từ nửa ngực trở xuống. Lâm hoàn toàn bại liệt, lở loét và biết bao nhiêu đau đớn hành hạ Lâm.

Lâm năm nay hai tư tuổi, là một cán bộ y tế xuất sắc của Phổ Văn. Ban Dân y huyện mới rút Lâm về bổ sung chưa được một tháng, trong lần đi công tác vừa qua địch càn đến, Lâm xuống công sự nhưng khi tay anh vừa mở nắp hộp công sự thì bọn Mỹ đã đến sát sau lưng, một mảnh đạn nhỏ đã giết hại đời Lâm một cách đau đớn. Lâm chưa chết nhưng chỉ còn nằm để chờ chết. Đứt tủy sống trong điều kiện ở miền Bắc còn bó tay nữa là ở đây.

Lâm biết điều đó nên đau khổ vô cùng. Chiều nay ngồi bên Lâm, Lâm đưa lá thư của Hạnh (người vợ trẻ của Lâm) cho mình coi rồi khẽ nói với mình:

“Chị ơi, các chị tận tình, gia đình tần tình nuôi em để làm gì? Trước sau em cũng chết, em có sống cũng chỉ làm khổ các chị và gia đình mà thôi”. Một giọt nước lăn dài trên gò má gầy ốm của Lâm.

Thương Lâm vô cùng mà chẳng biết nói sao. Nếu đặt mình vào hoàn cảnh của Lâm chắc mình cũng nói như vậy mà thôi. Nhưng không lẽ không động viên Lâm… Ôi! Chiến tranh! Sao mà đáng căm thù đến vậy và đáng căm thù vô cùng là những con quỷ hiếu chiến. Vì sao chúng lại thích đi tàn sát bắn giết những người dân hiền lành, giản dị như chúng ta. Vì sao chúng đang tâm giết chết những thanh niên còn đang tha thiết yêu đời, đang sống và chiến đấu với bao mơ ước như Lâm, như Lý, như Hùng và nghìn vạn người khác nữa?

 

27.7.68

Anh Khả (14) bị bắt rồi!

Buồn biết bao nhiêu, anh Khả mới hôm nào đó nắm tay Thùy thân thiết, bàn tay của người anh đồng hương, đồng nghiệp ấm nóng thân tình. Mới hôm nào đó hai anh em lui cui bên bàn mổ, nét chữ anh còn in đậm trên bệnh án. Hôm nay anh đang nằm ở đâu? Trong một chiếc cùm nặng trĩu hay trong phòng tra tấn của một nhà giam nào? Buổi sáng hôm ấy (20 tháng 7) ra đi, chắc anh không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ sa vào tay giặc nên anh chào mọi người với nụ cười đùa vui. Anh nắm tay mình nói khẽ “Anh đi nghe Thùy”, rồi đi xa mấy bước anh nói to hơn “Độ mười bữa nữa anh về, nhiều lắm là mười lăm bữa”. Anh Khả mến thương ơi, đến bây giờ Th. càng thấy quý anh, thương anh hơn bao giờ hết. Tình thương mộc mạc rất đỗi chân tình ấy có từ những buổi Thùy còn quàng chiếc khăn đỏ trên vai, từ những ngày anh còn là chú Khả. Nhớ anh, Thùy nhớ cả một chuỗi ngày êm ấm. Ở đó có một căn nhà xinh, có đôi mắt đen tròn của bé Kim… Có bao giờ gặp anh nữa không hở anh? Ba lô anh còn đây, mỗi khi nhìn thấy nó, Thùy thấy đau nhói trong lòng.

 

4.8.68

Vẫn là những ngày công tác dồn dập, khó khăn vẫn đến từng giờ từng phút vậy mà sao lòng mình lại thấy ấm áp niềm tin. Phải chăng nụ cười trên đôi môi còn thoáng nét đau buồn của người học sinh trẻ ấy làm mình dịu đi mọi suy nghĩ về riêng tư? Phải chăng vì tiếng hát lạc giọng vẫn vang lên khi lòng người trai ấy vẫn đang rớm máu vì hai cái tang đè nặng lên ngực. Đó là lời nhắc nhở rằng mình hãy học tập cho được tinh thần lạc quan kỳ diệu. Vâng tôi xin học tập và học tập không ngừng để giữ vững niềm tin cách mạng mà các đồng chí đã dạy tôi bằng cuộc sống chiến đấu kiên cường của các đồng chí.

Và mình đã vui, lời ca lại cất lên sau những giờ lao động mệt nhọc.

Lòng sung sướng biết bao khi thấy rằng có rất nhiều đôi mắt nhìn mình cảm thông thương yêu mến phục. Đó là đôi mắt của những học sinh mong đợi mình lên lớp. Đó là đôi mắt của các bệnh nhân mong mình đến bệnh phòng… Vậy là đủ rồi Th. ạ, đừng có đòi hỏi cao hơn nữa. Cả Đức Phổ này đã dành cho mình một tình yêu thương trìu mến. Đó là một ưu tiên rất lớn rồi.

***

Chị Hai về mang tin buồn: Anh Dũng đã chết vì bị Mỹ bắt sống và giết tại chỗ.

Đau xót biết chừng nào!

Không lẽ quyển sổ nhỏ này cứ ghi tiếp mãi những trang đầy máu hay sao. Nhưng Thùy ơi! Hãy ghi đi, ghi cho đầy đủ tất cả những máu xương, mồ hôi nước mắt của đồng bào ta đã đổ hai mươi năm nay. Và ở những ngày cuối của cuộc đấu tranh sinh tử này, mỗi sự hy sinh càng đáng ghi, đáng nhớ nhiều hơn nữa. Vì sao ư? Vì đã biết bao nhiêu năm rồi ta chiến đấu hy sinh và niềm ky vọng đã như một ngọn đèn rực sáng trước mắt, ở cuối đoạn đường, hôm nay gần đến đích thì ta ngã xuống.

 

8.6.68

Trời chưa sang thu nhưng mỗi buổi sáng về đã thấy lành lạnh. Phải chăng cái lạnh giữa núi rừng đã khiến mình cảm thấy cô đơn? Không đâu Thùy ơi, Thùy đứng dối với chính mình. Thùy đang buồn – một nỗi buồn mà dù Th. có được biết bao nhiêu yêu thương của bao nhiêu người cũng không che lấp nổi. Thùy ơi! Biết trả lời sao khi đời vẫn có những người ti tiện nhỏ nhen. Làm sao mà biết được? Và như một dòng suối nước chảy trong veo nhưng đôi chỗ vẫn có những vũng nước đọng ven bờ đá. Dù sao dòng suối vẫn đẹp, ta nhìn cả dòng suối và yêu cái nên thơ của nó chứ ai lại vì một vũng nước nhỏ mà ghét bỏ nó.

M. ơi, M. cũng như dòng suối ấy chăng? M. cũng là dòng nước chảy rì rào êm đẹp và cũng còn những vũng nước đọng ven bờ? Thùy là người đi giữa rừng, nghĩ sao đây? “Mong rằng đó là một lời thề độc trong truyện cổ tích trớc những dư luận phù thủy. Mà những chuyện như vậy không nên có ở tâm hồn trong sáng và tế nhị như Th.”.

M. bảo Th. quên đi những điều đã làm ảnh hưởng niềm tin ở nhau ư? Không đâu M. ơi! Niềm tin bằng mười năm thương nhớ đợi chờ đâu phải dễ sứt mẻ, nhưng khi đã sứt mẻ lại không dễ gì mà hàn gắn.

Cho nên chẳng biết nói sao. M. ơi, nếu trong chuyến đi này, M. không trở về nữa thì sao? Ôi, sao chúng ta chỉ đem đến cho nhau những đau buồn, mà nói cho đúng hơn là sao M. cứ gieo đau buồn lên trái tim một người con gái sôi nổi yêu thương và tràn đầy hy vọng ở cuộc đời?

 

14.8.68

Những buổi chiều như chiều nay, nắng vàng yếu ớt đang xuyên qua khung cửa. Rừng cây im lặng… Cái nóng bỏng của cuộc chiến đấu ngoài kia không về đến đây chăng? Mình lặng yên lắng nghe tiếng rì rầm thảo luận của các nhóm học sinh đang ôn thi. Học sinh! Sao lòng mình tràn ngập mến thương đối với những người em ấy. Nhất là đối với Thuận một cán bộ của lớp. Thuận ham học, chăm làm, hồn nhiên và rất tế nhị. Điều cơ bản làm mình thương Thuận là hoàn cảnh đau xót của Thuận và cái nghị lực phi thường của Thuận – hai chiếc tang còn trên ngực, mình vẫn thấy Thuận có những phts ngồi lặng yên một mình đăm đăm suy nghĩ và khẽ thở dài. Nhưng trước mặt mọi người và trong mọi lĩnh vực công tác Thuận luôn giữ được vẻ hăng say, sôi nổi. Nhìn Thuận học và làm ít ai hiểu được điều gì đã xảy ra với Thuận. Bỗng dưng mình so sánh Thuận với Nghĩa – đứa em trai mới của mình và thấy ở Thuận có những nét đáng yêu, đáng quý như Nghĩa. Muỗn xem Thuận như một đứa em để mình sưởi ấm cho cuộc sống tình cảm cô đơn đau xót của Thuận. Mà có nên như vậy không nhỉ? Xét kỹ đi.

Buổi chiều hôm ấy 26 tháng 1 năm 67 mình rời Phổ Hiệp ra đi. Sân nhà Thường đông nghịt những người đến đưa tiễn mình. Xúc động làm mình lúng túng, chẳng biết làm gì mình ngồi xuống cạnh mẹ Thường bốc củ bảo vào thúng. Lúc ngẩng lên mình bỗng sửng sốt vì một đôi mắt đăm đăm nhìn mình, đôi mắt đen to rất hiền, long lanh nước mắt. Đôi mắt nhìn mình buồn vô hạn và tràn ngập một tình thương yêu thiết tha. Đó là đôi mắt của Khiêm.

Mình quen Khiêm trong những ngày ác liệt của mùa khô 1967 khi mình về công tác tại Phổ Khánh. Người giáo viên trẻ ấy đã đến với mình bằng cả tình thương mến và cảm phục rất chân thành. Tâm hồn những người đã qua thời học sinh có những nét dễ cảm thông nhau. Những ngày nằm dưới công sự mình kể cho Khiêm nghe về Paven15 và Ruồi Trâu, về những bài thơ mình yêu thích

Ai viết tên em thành liệt sĩ

Bên những hàng bia trắng giữa đồng

Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí

Một tấm lòng trong vạn tấm lòng

Khiêm cũng rất thích các bài Núi Đôi, Quê Hương.

Rồi Khiêm kể cho mình nghe cuộc đời học sinh vào tù ra tội của Khiêm. Khiêm đã ở tù ba năm, đi khắp nhà lao tỉnh, Huế… Bọn giặc đánh đập nhiều lần làm Khiêm gầy yếu.

Mới đầu chỉ là mến nhau nhưng sau mình trở nên thân với Khiêm bằng một tình bạn rất đỗi trong trắng và chân thành. Công tác đồng bằng được một thời gian, mình về căn cứ. Từ buổi xa Khiêm đến nay gần một năm rồi nhưng mình vẫn cảm thấy có một đôi mắt đen buồn, long lanh nước mắt đang nhìn mình trong buổi chia tay.

Ai có ngờ lần chia tay đó lại là vĩnh biệt. Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi đi càn giặc Mỹ đã tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp cống sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống. Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát. Những hạt cát của quê hương quyện vào mái tóc của người thanh niên anh dũng. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu. Chiếc áo ấy Khiêm đã mặc hôm đầu tiên gặp mình, cũng chiếc áo ấy Khiêm đã cùng Th. len lỏi trên con đường nhỏ hẹp đầu gai lưỡi hùm của 31, 32, 33, Quy Thiện của 15, 19 “chú trung hải”16. Và cũng chiếc áo ấy một đêm trăng đẹp từ Phổ Khánh trở về. Gió lạnh từ biển thổi vào làm Kh. khẽ run. Th. đã đưa chiếc áo của Quế cho Khiêm mặc, trên nền áo xám giản dị nổi bật màu đỏ đậm đà như lời Khiêm hôm ấy: “Thùy ơi! Trên đời này trừ ba má, Khiêm không ai thương ai hơn Thùy, kể cả người yêu Khiêm”.

Khiêm đã hy sinh rồi! Nghe tin mình bàng hoàng không tin là sự thực. Khi đã chắc chắn Kh. chết, mình không khóc, có phần bình thản nữa. Mình đã dùng nghị lực khống chế nỗi xúc động. Nhưng mỗi giây phút qua đi, nỗi đau thương mới lớn dần và giờ đây nước mắt mình giàn giụa. Mình khóc một mình bên ngọn đèn khuya, những gọt nước mắt mằn mặt chảy dài trên mặt rồi rơi xuống lăn trên vạt áo mình. Khiêm ơi, có cách nào nghe được lời Thùy nói một lần nữa hay không? Hãy nghe đây lời hứa trả thù cho Khiêm. Hứa bằng đau thương xé ruột, bằng căm thù bầm gan. Và hứa bằng cả thương nhớ không bao giờ phai nhạt. Nghe chăng Khiêm, người bạn bất tử trong lòng tôi!

Chú Thích

14 – Anh Khả trước cùng công tác với ba của Thùy Trâm ở Hà Nội. Lần ấy anh bị địch bắt và đày đi Côn Đảo. Sau khi được trao trả, anh về công tác tại Cần Thơ và là bạn thân thiết của gia đình Phương Trâm

15- Nhân vật chính trong Thép đã tôi thế đấy của N.Ôxtơrôpxki

16 – Có lẽ là bí danh của một số cơ sở

 

Chương 5

20.8.68

Viết đơn vào Đảng, niềm vui thì ít mà bực dọc thì nhiều. Tại sao con đường đi của một đứa tiểu tư sản bao giờ cũng nhiều chông gai đến vậy? Đành rằng vì tính chất giai cấp, nhưng mình vẫn thấy rõ một điều ngoài cái lẽ dĩ nhiên ấy. Có một cái gì đó bắt bẻ, gọi là bắt bí của một vài cá nhân có trách nhiệm. Chẳng biết nói sao, đời nó là như vậy đó. Dù thành tích anh có cố gắng bao nhiêu cũng không bằng một anh khác ở thành phần cơ bản chỉ vừa mới giác ngộ bước đầu. Hường hồi còn sống thường động viên mình rằng đó là chỗ hơn của một người tiểu tư sản!!! Hơn gì? Hơn khó khăn, hơn cực nhọc hở Hường? Mình như một đứa con không gia đình lâu ngày tìm về mẹ nhưng người mẹ ghẻ còn bận nâng niu những đứa con riêng nên thờ ơ lạnh nhạt với đứa con chồng. Muôn người đã tạo nên một người hiền vĩ đại là Đảng, nhưng trong muôn người mẹ ấy có một người mẹ (và chắc không phải một người đâu) y hệt là một bà mẹ ghẻ trong câu chuyện cổ tích!

 

27.8.68

Một cas mổ quan trọng đã kết quả: thận giập nát đã được may lại. Máu ngừng chảy, nước tiểu người bệnh nhân ấy đã trong lại bình thường. Lẽ ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao mình rất bình thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh nhân ấy. Một dòng máu đã ngưng chảy nhưng bao dòng máu khác đã chảy và đang chảy? Phải hàn gắn được vết thương trên mình tổ quốc chúng ta kia. Bọn Mỹ như những con quỷ khát máu đang cắn trộm chúng ta. Bao giờ đuổi được hết chúng ra khỏi đất nước Việt Nam lúc đó máu mới ngừng chảy.

 

29.8.68

Nhận thư Thúy Phượng từ Quy Nhơn gửi về. Chưa hề được gặp cô cháy xinh đẹp ấy, nhưng mình thương Phượng vì lòng nhiệt tình, vì cuộc đời của Phương. Trong dịp đầu xuân, Phượng trên đường đi tòng quân đã bị Mỹ tập kích bắn bị thương và ở tù từ đó đến nay. Vừa rồi Phượng đã thoát khỏi lao tù nhưng còn suy yếu nên chưa về được.

Cầm lá thư Phượng gửi về, một tờ pơ luya dài nét chữ mềm mại bỗng nhiên mình nhớ tới Khiêm và thương Khiêm vô hạn. Phượng là bạn học của Khiêm, rất quý Khiêm. Nếu còn sống mình hy vọng một tình cảm tốt đẹp sẽ đến với những người ấy. Hôm nay Phượng ở tù về nhưng Khiêm không còn nữa. Phượng ơi, nói như cháu đó, những người đã ngã xuống một cách vẻ vang như vậy là hạnh phúc rồi. Còn chúng ta… chúng ta cần phải sống với ngọn lửa căm thù cháy rực trong tim, phải dùng ngọn lửa ấy đốt cháy kẻ thù. Nhớ nghe Phượng, hãy nhớ rằng trên mảnh đất hôm nay đã thấm đượm máu và nước mắt chúng ta hai mươi năm rồi.

 

30.8.68

Mỗi ngày nghe tin thắng lợi trên hai miền đất nước, niềm vui tràn ngập nhưng nỗi buồn cũng nặng trĩu tâm tư.

Vì sao ư? Vì còn giặc Mỹ thì còn đau thương tang tóc, vì còn giặc Mỹ thì không có một hạnh phúc nào cả.

Anh Liên vào chơi hỏi vì sao mình xử sự như xưa nay đã đối với M.? Vì sao hở anh, có trăm ngàn lý do mà chẳng hiểu nên giải quyết cách nào khác cách giải quyết của em. Anh tưởng rằng em không đau khổ ư? Không đâu, nụ cười trên môi không phải là nụ cười trong lòng. Em không muốn nghĩ tiếp những điều mà càng nghĩ chỉ càng thấy buồn da diết. Em biết tin ai. Tin M.? Hay tin trăm nghìn dư luận quanh chuyện riêng tư của em? Em làm theo ai? Theo mơ ước của em hay theo một thực tế mà rất nhiều người đã chỉ cho em thấy?

Đừng hỏi nữa, tiếng súng trên chiến trường đang vang dậy, hãy lắng nghe tiếng súng ấy và làm như khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” ấy.

 

1.9.68

Gửi một món quà cho người bạn ấy, buồn vô hạn. Mình không muốn gửi cho ai một vật gì chỉ là vật chất, và chắc người nhận cũng không bao giờ muốn nhận một vật gì chỉ là vật chất. Vậy mà tại sao mình chỉ gửi một món quà không một chữ kèm theo, không một lời giải thích, không một câu thân thiết dặn dò.

Có ai hiểu được lòng tôi không? Lòng một cô gái giàu yêu thương, rộng lượng trong tình cảm, đồng thời cũng khắt khe và đầy tự ái trong vấn đề đó.

Mẩu chuyện nhỏ hôm nay nói với mình những gì? Đó là bài học ư? Không, làm gì có bài học cay đắng và vô nghĩa ấy, đó chỉ là lòng ghen tị hầu như tất yếu của người đời. Đã gọi là tất yếu thì sao Th. còn thấy buồn đến xót xa thấm thía hở Th.? Đây là cơ quan, một môi trường mà khó khăn gian khổ đang từng giờ từng phút thử thách với một cô gái tiểu tư sản như mình. Có gì đâu, nếu Th. đã sướng nhiều rồi thì bây giờ hãy nếm mùi chông gai cay đắng của cuộc đời. Biết sống sao đây, tốt hơn hết là Th. hãy ngẩng cao đầu mà sống, sống với tình cảm trong sáng, với lý tưởng cao đẹp của mình. “Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản, tinh thần trong suốt như pha lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng…”.

Nói vậy mà vẫn thấy xót xa, cay đắng và cô đơn lạ lùng. Quanh mình, M. xa rồi, Khiêm hy sinh rồi, Vân xa, chị Hai xa, Nghĩa, Thường xa… Nỗi niềm tâm sự không phải dễ dàng thổ lộ với mọi người.

 

5.9.68

Đêm chia tay với các học sinh. Lòng mình cũng bồi hồi xao xuyến. Trên chiếc ghế quen thuộc đêm nay, chị ngồi bên em, nghe em nói những lời thắm thiết tin yêu, nhưng ngày mai em đi rồi. Em về chiến đấu với trăm nghìn khó khăn gian khổ. Mong em hãy vững vàng. Chị rất hiểu em, người em đầy nghị lực, đầy niềm tin và sức mạnh, nhưng… lấy gì để đảm bảo rằng em sẽ còn sống cho đến ngày chiến thắng! Em dũng cảm vô cùng – chị tự hào vì em nhưng tự đáy lòng chị vẫn lo âu… Sự lo âu rất chính đáng mà cũng rất sai. Sự lo âu của một người đứng nhìn người thân của mình lăn vào cuộc chiến đấu sinh tử.

Chào em, chị nhìn thẳng vào đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài của em và đã đọc thấy trong đó tất cả những điều em muốn nói. Đó là lòng tin yêu, sự lo lắng cho chị và sự nhớ thương khi xa cách. Chị hiểu rồi, hứa với em là chị sẽ xứng đáng là người em đã tin cậy.

 

6.9.68

Chiều nay khu rừng ồn ào những tiếng người bỗng dưng vắng lặng. Chỉ còn lại tiếng gió gào rít trên ngọn cây, tiếng ve sầu kêu rền rĩ khắp khu rừng. Gió đã lạnh, ngọn gió của cơn bão hay ngọn gió lạnh của mùa thu đã về? Mình bỗng thấy lạnh, cái lạnh làm tê da thịt và tê tái cả lòng. Nỗi nhớ nhung tràn ngập cả tâm hồn. Đây phải chăng là buổi chiều mùa thu khi sương chiều giằng mờ trên những cánh đồng ngoại thành Hà Nội, một mình mình đạp xe từ ký túc xá về trên con đường vắng. Gió lạnh vi vút qua các ngọn cây ven đường, mình khẽ run khi qua một thân cây có hai nhánh.

Không, chiều nay gió lạnh nhưng lòng mình lạnh không phải vì thiếu một người thân yêu mà là thiếu nhiều người thân yêu. Những người đó là ai ư? Là ba má, là các em, các cậu ngoài Bắc, là những đứa em ở dưới đồng bằng đang ngày đêm lăn lộn trong cuộc chiến đấu sinh tử, là những người đồng chí thân yêu đã ngã xuống vì ngày mai thắng lợi. Và còn ai nữa ư? Phải chăng là những đứa em, những người đồng nghiệp trẻ mà bấy lâu nay vẫn quấn quít bên mình hăng say học tập. Tất cả mọi người đã tạo nên một tình thương vĩ đại đối với tôi… Xa mọi người sao htấy nhớ đến da diết vô vàn.

Tố Hữu nói:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương

Nhà thơ của mình sao lần này nói không đúng với riêng mình nhỉ? Bởi vì nỗi nhớ với M. rất mờ nhạt, thậm chí Th. đã bắt mình quên đi nữa. Hay Tố Hữu đã nói đúng, bởi vì… M. đâu phải người yêu! Có ai yêu nhau mà lại như M. đối với Th. đâu. Đó chỉ là một người bạn. Và đã là người bạn thì chỉ có như vậy! Đâu phải là dễ dàng gì để mình nói như hôm nay hở M.?

 

8.9.68

Cơn bão số bảy. Năm nay bão nhiều, toàn những cơn bão lớn. Ở đây khu rừng im lặng mà ở đó gió gào rít, những nhà sẽ đổ, những cây sẽ ngã. Có tai nạn gì không hở miền Bắc thân yêu? Bão ngoài đó mà lòng mình cũng bão. Lo âu, thương nhớ. Miền Bắc ơi, hãy vững vàng nhé, hãy hiên ngang như những ngày chiến thắng. Dù sao chắc chắn cũng nhiều khó khăn. Trai tráng đã lên đường ra trận tuyến, những bàn tay phụ nữ ở nhà chống chọi với bão chắc sẽ khó khăn.

Chiều nay sao mình tưởng như mình đang ở trong căn nhà nhỏ của một xóm gần ven biển. Gió chiều se lạnh, cầm chiếc áo len đan trong tay mà lòng xao xuyến nhớ thương. Gió lạnh đầu thu đã về rồi đấy, mùa thu thứ hai xa gia đình, mùa thu thứ hai lăn mình trong cuộc chiến đấu.

Và chiều nay những người thân yêu của ta đâu nhỉ? Những đứa em thân yêu dưới đồng bằng. Một người bạn đang xông vào tuyến lửa. Và một người thân đã yên nghĩ dưới nắm đất quê hương. Khiêm ơi, trời chiều đã đổi sang tím nhạt. Ở đó chắc Khiêm nghe được tiếng sóng vỗ rì rào. Ở đó Khiêm có thể nhìn thấy con đường quen thuộc từ Qui Thiện ra xóm mới. Có nhớ chăng những buổi chiều tím nhạt ấy hở Khiêm? Sao Khiêm im lặng? Khiêm đã im lặng vĩnh viễn không trả lời Thùy nữa rồi.

 

10.9.68

Đọc thư Thuận. Bồi hồi cảm động trước tình thương nhớ thiết tha và rất đỗi chân thành của Thuận. Lòng mình bỗng thấy ấm áp như có thêm một ngọn lửa nhỏ. Thuận ơi, tình cảm của em là một trong những nguồn cổ vũ chị trước mọi khó khăn, giục chị đi lên hoàn thành nhiệm vụ. Hoàn cảnh và nghị lực của em là một tấm gương cho chị học tập và học tập mãi mãi.

Em buồn và hỏi tại sao chị không nhận em là em trai như Thường và Nghĩa ư? Vì chị muốn rằng tình chị em phải thiêng liêng cao cả. Chị thương em nhưng chắc là chưa hiểu hết hoàn toàn về em và ngược lại chắc em chưa hiểu hiết về chị. Vậy thì khoan đã nghe em.

Đêm nay chị ngồi bên ngọn đèn khuya nghĩ nhiều về đứa em thông minh đầy nghị lực. Hãy biết trân trọng những tình cảm cao đẹp mà ta đã dành cho nhau. Hãy thủy chung trong tình cảm cao đẹp mà ta đã dành cho nhau. Hãy thủy chung trong tình cảm và hãy xứng đáng với lòng tin cậy của nhau.

 

15.9.68

Về dự đại hội phụ nữ huyện. Sống giữa tình thương của các anh chị mình cảm thấy sung sướng. Đời là vậy! Đâu có phải chỉ là những lúc cô đơn.

Đường về đi bên suối nhỏ bỗng nhiên mình nhớ và thương Thuận lạ lùng. Tình thương ấy chỉ là tình chị em mà sao cũng làm mình nao nao một cách kỳ lạ. Mình ìhnh dung như thấy một căn nhà lạnh lẽo với ngọn đèo hiu hắt trên bàn thờ. Thuận đi công tác về lủi thủi một mình ăn khuya rồi cột võng nằm, điếu thuốc trên môi và khói vương trong gian nhà vắng. Còn ai nữa đâu ngoài bạn bè anh em đồng chí. Khi trở về nhà, Thuật một mình một bóng. Muốn dùng tình cảm chân thành động viên và sưởi ấm cuộc đời đứa em tội nghiệp đó. Gửi thư cho Thuận rồi vẫn thấy rằng nói chưa được một phần ý nghĩa. Thuận ơi! Em có xứng đáng với tình thương của chị không?

 

17.9.68

Nghe chị Cấp kể lại ngày Khiêm hy sinh càng thương Khiêm đến đứt ruột. Khiêm chết rồi, đầu giập nát, chân tay bay mất một bên. Khiêm nằm phơi trên bãi cát quê hương. Cha Khiêm hai tay bị trói chặt, vai ròng ròng máu vì vết thương. Khi nhìn thấy xác Khiêm dòng nước mắt ông tuôn trào, trong đôi mắt rực lửa căm thù và đau xót ấy người ta đã thấy tình thương vĩ đại của người cha.

Khiêm chết rồi, mẹ Khiêm đứng trước xác con mà không còn biết gì nữa, cho đến hôm nay bà vẫn chưa hồi phục lại. Những lúc tỉnh táo là những lúc bà khóc thương con.

Khiêm ơi! Ở bên kia thế giới có thấy hết nỗi đau buồn của những người còn sống không Khiêm? Ba má Khiêm chưa cạn dòng nước mắt và một bạn gái Khiêm chưa cạn dòng máu chảy trong tim.

 

19.9.68

Đại hội huyện đoàn Thanh niên, sống giữa niềm vui của lớp thanh niên lớn lên trong chiến đấu. Được gặp và nghe các em thiếu nhi báo cáo điển hình.

– Em Hoàng 14 tuổi trong sáu tháng đầu năm giết được 6 lính Mỹ, đánh lật 2 xe tăng bằng vũ khí tự tạo, lấy được 7 súng giặc trong đó có 2 cối cá nhân và các loại khác.

– Em An Phổ Châu lấy 5 súng, có 2 cối cá nhân, một đài RC.

Các em đã anh hùng từ trứng nước.

Tự hào thay tuổi trẻ của chúng ta.

 

27.9.68

Kết nạp Đảng.

Cảm giác rõ nét nhất của ngày hôm nay là: Phải phấn đấu để sống xứng đáng với cái tên “một người cộng sản”.

Còn niềm vui, sao nhỏ quá so với ý nghĩa của ngày vui. Vì sao vậy hở Thùy? Phải chăng như hôm nào Thùy đã nói: như một đứa con khát sữa mẹ khóc đã mệt rồi, miếng sữa nuốt vào không còn nguyên hương vị thơm ngon và cái thú vị của nó nữa.

Và trong giờ mặc niệm những người đã hi sinh vì sự nghiệp của Đảng, mình đau xót nhớ thương những người thân yêu trên đất Đức Phổ đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh sinh tử này.

 

5.10.68

Một cas tử vong phẫu thuật cắt đoạn(17). Đó là một bệnh nhân già sáu mươi sáu tuổi nhưng sức còn khỏe, đó là một Đảng viên già đã hai mươi ba năm trời liên tục chiến đấu. Gia đình và bệnh xá đã tận tình cứu chữa mà cũng không sao cứu thoát cho ông già. Riêng mình – dù tập thể và chính con trai ông già đã xác định và thừa nhận mình không có lỗi mà chỉ có lòng tận tình cứu chữa – nhưng mình vẫn thấy xót xa. Vì sao ông chết? Vì kỹ thuật? Cũng không phải, tuy là cas đầu tiên cắt cụt nhưng mình cũng vẫn bình tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật. Vậy thì vì sao? Vì không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này cũng không biết nói sao, cứ truyền đúng vào, ven lại trật ra do ông già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Sao một cas tử vong không đáng tử cong lại không rút ra được bài học gì đích đáng cả?

 

6.10.68

Có những lời nửa đùa nửa thật ghen với tình thương mà mọi người đã dành cho mình. Mình cũng suy nghĩ về những lời nói đùa đó nhưng suy ra cho cùng đâu phải mọi người thương mình vì hai chữ Bác sĩ. Những lá thư thắm thiết, những món quà gửi đến mình gói ghém tình thương của nhiều người với một người thân, hoàn toàn không phải là một lễ vật đối với một thầy thuốc mà chỉ là tình cảm của những người chị, người em, người anh, người bạn đối với mình mà thôi. Có điều đôi lúc mình cũng tự hỏi rằng người ta có thực hay không, sao mà nhiều đứa em, nhiều người bạn dành cho mình một vị trí duy nhất thương yêu trong tình cảm như vậy?

 

8.10.69

Nắng đầu thu tươi vàng óng ả tràn ngập cả khu rừng. Nắng đầu thu với những cơn gió se môi và se cả lòng người. Lại nhớ… nhớ mênh mông sâu thẳm như lòng đại dương đang ôm tròn thân mình dải đất Việt Nam. Nhớ từ một người bạn hiền lành, kín đáo có ngôi nhà nhỏ cuối phố Đội Cấn, nhớ đến đứa em tinh nghịch có mái tóc mềm kẹp bổng lên cao, nhớ một đứa em trai miền Nam vừa gửi thư tạm biệt trước lúc lên đường đi học, nhớ một đứa em thân thiết có đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài và nhớ sao một người thân yêu đã vĩnh viễn nằm yên nghỉ trên bờ biển quê hương.

Đất nước ơi! Bao giờ cho nhớ thương nguôi bớt, bao giờ cho đất nước thanh bình? Mình biết ngày thắng lợi không xa nữa nhưng sao vẫn thấy hạnh phúc xa vời quá. Liệu có được thấy ngày hạnh phúc ấy nữa không? “Người cộng sản rất yêu cuộc sống nhưng khi cần vẫn có thể nhẹ nhàng mà chết được”. Chết mà vẫn yêu sao cuộc sống, cuộc sống mà người ta đã đổi bằng mồ hôi nước mắt và máu xương suốt hai mươi ba năm nay.

 

10.10.68

Kỷ niệm ngày giải phóng thủ đô trên đất miền Nam rực lửa. Một cảm giác bồi hồi xao xuyến. Hà Nội giải phóng… Hình dáng tiều tụy của những tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội qua chiếc cầu Long Biên đi về hướng bắc. Hà Nội giải phóng mười bốn năm rồi, dù trong bom đạn Hà Nội của ta vẫn đứng lên mạnh khỏe. Mình vẫn nghe được tiếng cười trong trẻo của các em học sinh trên sân trường. Mầm non ở đường Hàng Bông Nhuộm(18), vẫn như nghe thấy tiếng tàu điện chạy leng keng trên đường phố. Hà Nội ơi, nhớ Hà Nội bao nhiêu lại thương Sài Gòn, Huế và hàng trăm thị xã thành phố trên mảnh đất còn đau thương khói lửa bấy nhiêu. Cuộc đấu tranh này ác liệt chưa từng thấy và trong ác liệt ấy chúng ta đã chiến đấu dũng cảm kiên cường chưa từng thấy. Ai còn ai mất khi nước nhà được độc lập? Nếu như mình có chết cũng đã được hưởng những ngày XHCN rồi. Còn trăm nghìn vạn những người lớn lên chỉ biết có đau thương gian khổ khư Khiêm, Hường, Lý, Tuấn, Hùng, Thọ… và còn nhiều nữa ngã xuống mà chưa hề được hưởng một ngày hạnh phúc. Đau xót biết chừng nào!

 

11.10.68

Nghe tâm sự một người bạn muốn gửi niềm hy vọng ở mình và yêu cầu mình trả lời. Không do dự mình trả lời chỉ xem anh như một người bạn, không có gì hơn. Mình nói thêm: Lòng mình đã dẹp mọi mơ ước riêng tư để tập trung vào công tác.

Mình đã nói thực với lương tâm nhưng chưa thực với con tim mình. Thực ra mối tình với M. vẫn làm trái tim mình rớm máu. Muốn quên đi, lòng tự ái đã giúp mình quên M. nhưng vẫn có những lúc mình nhìn lại đau xót như người vừa đánh vỡ một vật quý vô giá mà không sao tìm lại được nữa. Đêm nay mở lại những trang thư cũ lòng biết bao cay đắng xót xa. M. ơi, nét chữ anh chưa nhòa trên trang giấy mà sao hình ảnh anh đã phai nhòa trong cuộc sống của em. Anh đã chôn vùi một mối tình đẹp đẽ, anh đã làm trái lại điều mà em nâng niu trân trọng suốt tám năm ròng. Ai cũng nói với em rằng chắc rồi mọi chuyện sẽ qua đi, rồi ta lại về với nhau như bao người mong muốn. Nhưng riêng em, em hiểu rằng vậy là hết – một tấm gương đã vỡ làm sao cho lành lại được nữa? Một chén nước đã đổ rồi làm sao hớt lại được nữa đâu?

 

Chương 6

12.10.68

Đọc thư anh Phục giận anh ta vô cùng. Anh ta ăn nói hồ đồ quá. Dù sao đó cũng là một bài học cho mình trong giờ phát biểu.

Qua thăm và thăm một số người trong đại đội du kích chiến tranh lòng mình bỗng cảm thấy biết bao thân tình với cả mảnh đất Đức Phổ anh hùng mà hôm nay thu gọn về đây trong những chiến công oanh liệt. Mình vui vì được xem như người quen thân với rất nhiều người từ Phổ Phong cho đến Phổ Thạnh, suốt cả dải đất dài của Đức Phổ vui tươi nồng hậu đón mình…Và một đứa em với trang thư ngập kín đáo mà đượm những mến thương đã đặt trong tay mình. Phải làm gì để xứng đáng với tình thương của nhân dân Đức Phổ.

 

13.10.68

Gặp Thuận sau hơn một tháng xa cách. Hơn một tháng mình tưởng như lâu lắm. Gặp em mừng rỡ xiết bao khi thấy em vẫn khỏe, trưởng thành trong công tác.

Sống bên em mình cảm thấy quý mến vô cùng những phút giây sum họp. Bởi vì cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn, biết ai còn ai mất hả em?

Mình còn có cảm tưởng rằng có những điều nào đó trong cuộc sống riêng tư mà Thuận chưa nói hết với mình. Vì sao vậy nhỉ? Lẽ nào em không tin chị? Còn ngần ngại thì vô lý quá. Em chẳng đã nói với chị rằng em thương chị bằng một tình thương thắm thiết chân thành hết sức đó sao? Vậy thì hãy trả lời đi em nhé.

 

22.10.68

Chia tay Thuận, hai chị em đều cảm thấy khó nói mà cũng không thể nào nói được những điều đang làm xao xuyến cả tâm tình. Em ơi, chi lo lắng dõi theo từng bước chân em, tiếng súng địch vẫn gầm gù ở mạng Phổ Cường. Em đi, trăm nghìn nguy hiểm đang chờ em, làm sao chị có thể yên lòng được.

Còn chị ở lại, chị hiểu cái lặng im không nói nên lời của em. Em đứng đó tay cầm chiếc dù, mắt nhìn chị mà chẳng biết nói sao. Có nghĩa gì đâu một câu chào, bởi vì nó không thể nói hết tình thương hơn hết cả mọi người trên đời như trước đây Khiêm đã thương chị. Em nói rằng hiện nay cuộc sống của em chỉ tập trung vào công tác và sao cho tròn tình thương đối với chị. Nghe em nói chị cảm động vô cùng, chị tin em những vẫn tự hỏi: có sự thực nào như vậy không nhỉ? Có lẽ nào chị được hưởng một tình thương sâu nặng như vậy của em không? Đó là phần thưởng cao quý của những người đi làm cách mạng? Chỉ bỗng hiểu vì sao người ta có thể hy vọng trọn đời cho cách mạng, trung thành tuyệt đối với cách mạng. Bởi vì cách mạng đã rèn đúc nên những con người cao đẹp và gắn họ với một khối bền vững và gắn bó hơn với bất kì một vật gì trên đời này. Sống trong gia đình cách mạng có gì vinh dự hơn đâu.

 

23.10.68

Sau những ngày mưa trời trở lạnh.

Trong cái lãnh đầu mùa hôm nay mình cảm thấy hơn bao giờ hết quý giá những giây phút sum họp với người thân.

Cuộc chiến đấu ngày càng đi vào gay go ác liệt. Biết bao giờ mơ ước đó mới trở thành sự thực hở tất cả những người thân yêu trên cả hai miền? Không bi quan chán nản mà đó chỉ là mơ ước chân chính của mình và ba mươi triệu nhân dân Việt Nam. Ước mơ nung nấu từ bao nhiêu năm nay đã chín mọng rồi!

Những đêm dài gió lạnh, tấm vải mỏng không làm đủ ấm, mình thức giấc và thao thức nhớ thương. Trăm nghìn hình ảnh của những người thân yêu hiện lên trước mắt. Có điều không hề thấy một mái tóc xoăn trước trán và một đôi mắt đen biết nói hiện lên nữa. Đó có phải là một điều đáng trách hay không? Không! Thùy không phải là người khô khan trong tình cảm. Chỉ là tình chị em, bè bạn còn đủ làm rung động trái tim Th., huống chi là một tình cảm nào cao quý hơn. Nhưng…mái tóc xòa đã che hết những gì đẹp đẽ trên vầng trán người ấy, đôi mắt đen biết nói đã lặng im từ lâu rồi. Cho nên trách Thùy sao được người bạn cũ mà em từng nói hai chữ yêu thương?

Một cas cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điểu kiện thô sơ mình cũng đã mổ thăm dò nhưng rất tiếc rằng K. đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nhìn người bệnh nhân đi dần đến cái chết. Chiều nay đứng bên giường bệnh anh, lòng mình đau như cắt. Anh nói với mình miệng cố cười mà những giọt nước mắt vẫn tràn trong đội mắt anh. “Tôi không oán trách gì đâu, biết chị và các đồng chí trong bệnh xá đã tận tình cứu chữa nhưng bệnh tôi không thể nào khỏi được. Thì đành vậy. Nếu tôi còn ở đây thì rổi sẽ ra đồi sim an nghỉ với các đồng chí. Nếu tôi về dưới đó thì cũng chỉ được nhìn ông bà già một lần nữa rồi cũng xuống đất thôi”.

Biết nói gì với anh đây, mình đứng yên hổ thẹn và tủi cực vô cùng. Đành rằng dù ở đâu rồi cũng đành bó tay trước bệnh của anh nhưng còn có điều kiện để kéo dài thêm chút ít cuộc sống của anh. Còn ở đây mình như tên lính bại trận giơ hai tay để cho kẻ thù tước bỏ vũ khí.

 

26.10.68

Đừng bao giờ đòi hỏi quá nhiều dù trong mặt nào cũng vậy. Có cái gì không có hạn độ đâu hở Thùy? Vậy thì hãy nghĩ lại đi, đứng trên khách quan mà đánh giá cho hết, đặt mình vào trường hợp đó để thấy cho hết.

 

1.11.68

Không khí ở cơ quan mỗi ngày một thêm đầm ấm. Phải chăng mình đã là người của Đảng nên đã về sống trong lòng mẹ? Phải chăng vì những bước trưởng thành trong công tác. Tổng kết năm qua, bệnh xá Đức Phổ được báo cáo điển hình trong tòan tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác. Và trong số những người suất sắc ấy có cả mình. Đó là một thắng lợi chung trong đó mình có một chút.

Nhìn lại bước đường đi thấy không đến nỗi phải ân hận, giữa mùa khô năm 67 mình đã vững vàng và ở đây giữa trăm nghìn thử thách với một đứa tiểu tư sản, một cô bác sĩ mới rời ghế nhà trường tập sự làm cán bộ lãnh đạo mình cũng đã vượt qua. Mong Th. hãy phát huy những ưu điểm, khắc phục nhược điểm, đừng thỏa mãn với các thành tích của mình, cố gắng công tác để tiến bộ hơn nữa.

Kỳ lạ thật, giữa núi rừng âm u mưa dầm rả rích sao trước mắt mình cứ hiện lên rõ một vườn hoa rực rỡ trong ánh mắt mùa xuân tươi đẹp. Những luống hồng, la dơn, cúc, đào chen chúc những hoa…mình và một người bạn thân thương cùng nhau dạo bước. Cảnh hòa bình ấy quá xa vời rồi Th.ơi! Bao giờ cho miền Nam được hưởng những mùa hoa tươi thắm ấy? Ở đây bom đạn đau thương tang tóc còn nặng trĩu trên cuộc sống của mỗi người. Mới hôm qua đó một thanh niên hai mốt tuổi thương tích đầy mình. Anh ta gọi tên mình mong được cứu chữa, nhưng mình cũng đành rơi nước mắt nhìn anh chết trong đôi tay bất lực. Vậy đó Th.ơi, ở miền Nam này hoa chiến công, hoa anh hùng vẫn đua nở nhưng hoa ấy bằng máu xương, bằng cả cuộc đời thanh xuân của bao nhiêu người. Thùy đang đi giữa miền Nam đi giữa vườn hoa ấy, lòng biết bao nhiêu cảm phục tự hào và cả niềm đau xót vô hạn khi những bông hoa ấy rụng xuống. Trước đây Th. yêu hoa, bây giờ Th. vẫn yêu hoa nhưng mỗi bước đi qua, Th. đã hiểu thêm bao nhiêu về cái đẹp của HOA- và tình yêu hoa ấy đã trộn thêm về ý thức yêu thương, căm thù và tự hào của một người dân Việt Nam nữa Thùy ạ.

(Em cũng là một bông hoa đẹp phải không em của tôi?)

 

2.11.68

Nghe những lời tâm tình của em nói qua thư mình hơi hối hận về lá thư gởi đi. Thư chưa đến, nếu đến chắc em cũng đau buồn vì những câu hỏi của mình. Em ơi, chị xin lỗi em nhé. Chị đánh giá lầm một tình thương hết sức chân thành và tha thiết mà em đã dành cho chị.

Được rất nhiều thư, thư của ai cũng là những niềm thương nỗi nhớ đối với mình. Lòng cảm thấy ấm áp vô củng vì được sống giữa chiếc nôi tình cảm.

3.11.68

Miền Bắc đã hòa bình! Tiếng bom rơi phi nghĩa đã câm hẳn rồi trên miền Bắc thân yêu của ta.Miền Bắc ơi! Niềm vui đang rạng rỡ trên mười sáu triệu khuôn mặt ấy còn đọng một nét khổ đau. Vì miền Nam, miền Nam còn đau thương khói lửa, vì miền Nam còn nặng những tiếng gầm gào của bầy quỷ dữ.

Ba má và những người thân thương ngoài đó trong niềm vui hôm nay không thể không chạnh lòng nghĩ đến miền Nam và nghĩ đến mình. Thì hãy cứ vui đi, dù niềm vui chưa trọn vẹn.

 

8.11.68

Ngồi bên em, cầm bàn tay em ấm nóng thương yêu, bỗng dưng mình thấy đau xót vô cùng khi nghĩ rằng không có cách nào để bảo vệ cho em cả. Nếu trong cuộc chiến đấu ác liệt này em ngã xuống thì em ơi! Sẽ suốt đời chị nhớ giây phút hôm nay, nhớ suốt đời đôi mắt của em rực sáng tình thương và cũng nhớ suốt đời lời em ấm áp. Em ơi, nếu vậy bao giờ cho nguôi đau đớn. Cứ mỗi lần nghe em nói về tình thương của em với chị, chị lại thấy kỳ lạ. Tại sao những người cách mạng lại có thể thương nhau đến mức ấy nhỉ? Một tình thương sâu thẳm và mênh mông như biển cả. Một tình thương trào dâng như những đợt sóng bạc đầu, một tình thương trong trắng, chân thành vô hạn…

 

12.11.68

Không hiểu sao bỗng dưng giật mình lật những tờ nhật ký cũ, những trang thư của Nghĩa, soi lại tình thương của mình đối với đứa em trai nuôi ấy, xem tình cảm của mình có còn nguyên vẹn và sâu đậm như xưa không. Ngày xưa và cả bây giờ mình vẫn thương Nghĩa, một tình thương sâu sắc vô cùng. Chắc chắn rằng mãi mãi về sau tình thương ấy vẫn nguyên vẹn. Nhưng có điều cái nao nức sôi nổi buổi đầu ấy đã phai đi ít nhiều. Tình thương với Nghĩa bây giờ như lẽ dĩ nhiên không thể mất được. Sỡ dĩ như vậy là vì mình muốn hỏi mình có phải là người có mới nới củ hay không? Có Thuận, thương yêu của mình như dồn hết cho đứa em yêu quý đó, nhưng so lại thì ngày xưa mình cũng đã thương Nghĩa như vậy, cũng là nỗi nhớ mong kỳ lạ khi xa cách, cũng là nỗi niềm mong đợi thiết tha khi vắng bóng người thân. Và Nghĩa giống Thuận vô cùng trong tình thương đối với mình, từ suy nghĩ cho đến hành động. Y như hôm nào bất hòa với Nghĩa trong chuyện mình không nhận chiếc nhẫn, bây giờ lại đến thấy phiền phức với Thuận khi em cho mình tiền mua đài. Trong sự bực bội, mình lại càng thấy hết tình thương của nó. Tình thương không thể đánh giá bằng vật chất nhưng dù sao đó cũng là những biểu hiện sâu sắc. Thùy ơi, sung sướng biết bao nhiêu khi cuộc đời đã nâng niu Th. trong những niềm ân ái mênh mông mà chắc rằng ít người được hưởng như Thùy. Tại sao lại có những tình thương như vậy nhỉ? Mình không thể trả lời hết được đâu.

 

16.11.68

Biết nói sao cho hết tình thương mà chị em mình đã giành cho nhau. Đứng bên em, chị cảm thấy vô cùng sung sướng khi em cầm bàn tay chị đặt vào đấy tất cả yêu thương tin tưởng. Có đôi lúc nào đó mình tự kiểm điểm lại mình và em có điểm nào cần xem lại hay không? Nhưng thực ra dù tình thương bao la sâu thẳm đến mức nào thì cũng là tình cảm cách mạng, tình cảm trong trắng chân thành của những trái tim khao khát yêu thương, những trái tim rớm máu vì cuộc chiến tranh khói lửa này. Và cũng chỉ có thế thôi không còn lý do nào khác nữa- vậy mà vẫn cảm thấy kỳ lạ…

 

19.11.68

Tại sao mình lại cảm thấy buồn da diết khi mọi người lên đường. Không thể nói được rõ vì sao cả. Thực tình mình rất tiếc là không được dự những hội nghị mà nếu có mình chắc được nghe, hiểu và thấy nhiều điều đáng quý, có lợi cho sự tiến bộ của mình.

Còn vì sao nữa ư? Muốn phân tích tình cảm cho thực rõ ràng ,à cuối cùng cũng chỉ kết luận được rằng: có một nỗi buồn da diết khi chia tay, có một nỗi nhớ mênh mông khi xa cách và có một sự lo lắng khắc khoải trong lòng.

Cũng những ngày này năm ngoái khi rời Phổ Hiệp ra đi, mình đã ngạc nhiên hỏi lại mình rằng tại sao chỉ là tình cảm chị em mà con tim mình lại rung động một cách sâu sa đến vậy. Bây giờ lại mình lại một lần nữa lặp lại câu hỏi đó. Câu trả lời thì chỉ có một, đó là vì tình cảm căng mọng trong trái tim mình cho nên dù chỉ là một tình cảm cách mạng cũng đủ làm xao xuyến rung động.

Thùy ơi! Cô gái giàu yêu thương kia ơi! Đôi mắt cô đang long lanh nước mắt, dù chỉ là nước mắt tập trung của rất nhiều nỗi buồn đọng về trong đó. Cô hãy cười như nụ cười luôn nở trên môi, đừng để ai đó tìm được sau nụ cười ấy một tiếng thở dài. Hai lăm tuổi rồi, hãy vững vàng chín chắn với tuổi đó.

 

20.11.68

Chia tay em, mỗi lần chia tay thấy tình thương sâu nặng. Ôm em trong tay mình, hôn lên đôi mắt em và cảm thấy rằng không gì có thể làm chị em mình quên được những giờ phút sum họp. Em hỏi chị nhiều lần tại sao chị lại thương em. Vì sao ư? Vì cuộc đời đau khổ của em, vì lòng dũng cảm trước gian nguy ác liệt của em, và vì trái tim em đang khát khao một tình thương mà cuộc sống em lại cô đơn giá lạnh . Đành rằng em được nhân dân đồng chí thương mến, nhưng một tình thương sâu đậm thiết tha thì chưa có với em. Chị đến với em bằng lòng cảm phục, bằng sự tin tưởng và bằng một tình thương kỳ lạ. Chị không nói rằng chị thương em hơn Nghĩa, hơn Khiêm, nhưng chị có thể nói với em rằng mãi mãi chị vẫn thương em với tình thương sâu sắc chân thành và thiết tha vô hạn.

Còn em, em lại cẩm tay chị tha thiết nói rằng: “Hãy tin em, hãy tin rằng trước đây, bây giờ và cả về sau không một người nào có thể chiếm được ở em tình thương hơn đối với chị- trừ cha mẹ chị đã chết”. Gặng hỏi em nhiều lần mà rồi em vẫn không thay đổi ý kiến, một ý kiến mình cho là thiếu thực tế. Biết nói sao? Vâng! Thì chị tin em và hứa với em rằng sẽ cố gắng hết mình để đền đáp lại tình thương cao cả và thiêng liêng đó.

Ôi! Người em thân yêu, em là ngọn lửa rực sáng rọi chiếu mối tình cách mạng, một mối tình mà trước đây chĩ chỉ hiểu nó với một khái niệm chung chung, trừu tượng.

 

24.11.68

Cuộc đời vẫn diễn ra trước mắt ta với trăm nghìn vẻ: yêu thương, đau khổ, hy vọng và ghen tị địa vị. Con người đâu chỉ có trái tim đầy máu đỏ, một nửa chứa máu đen rồi. Cho nên trong bộ não cũng có những điểm sáng ngời thông minh đẹp đẽ, mà cũng có những điểm đen sì tăm tối những ý nghĩ đớn hèn.

Đã hiểu cặn kẽ như vậy rồi thì hãy bình tĩnh vững vàng trước cuộc sống.

Đêm nay, bên ngọn đèn khuya Th. ngồi trầm ngâm suy nghĩ. Không muốn buồn mà sao nỗi buồn cứ đến che mờ trên đôi mắt. Ao ước vô cùng có một người thân yêu ở đây cùng san sẻ nỗi niềm. Giá mà có em ở đây chắc em sẽ cầm bàn tay chị cảm thông thương xót và hôn lên bàn tay đó, phải thế không em?

 

25.11.68

Công việc bề bộn, đau đầu và mệt. Chẳng còn mong gì hơn là được yên tĩnh quay về trong niềm an ủi của tình thương. Nhưng mong ước chỉ là mong ước, thực tế vẫn là thực tế: Tiếng rên la xé ruột, xé lòng của người bệnh nhân vẫn văng vẳng bên tai, công việc vẫn ùn ùn kéo đến trước mắt với mọi vẻ của nó: phức tạp, khó khăn và cả những bực dọc nữa.

 

26.11.68

Kỷ niệm ngày sinh hôm nay trong tiếng súng địch càn nổ rền vang bốn phía. Cũng đã quen rồi những cảnh vai mang ba lô đưa những người thương binh chạy đi trốn. Có gì đâu, hai năm rồi quen với lửa đạn chiến chiến tranh.

Giờ đây khu rừng đã lặng im một cách đặc biệt. Tiếng súng đã im, mọi người cũng lặng im theo dõi tình hình. Riêng mình lòng bỗng thiết tha nhớ đến những ngày êm ấm trên miền Bắc – Cũng là nắng mùa đông nhưng nắng ấm vì niềm vui tràn ngập, ba má mua hoa về tặng, tổ chức liên hoan, bạn bè đến chúc mừng… Bây giờ niềm mong ước của mình khác hơn ngày xưa, nếu có được như vậy thì trên hết, hãy ưu tiên cho những người vào sinh ra tử hai mươi ba năm nay, những thanh niên lớn lên chỉ biết có đau thương căm thù và hy sinh gian khổ. Và hãy ưu tiên cho những người thân yêu của mình trên mảnh đất miền Nam này. Ba má ơi, hãy chuẩn bị bằng tất cả tình thương đón con và những đứa con trai miền Nam của ba má trở về. Những đứa em của con sẽ vô cùng xứng đáng với tình thương của ba má.

 

Chương 7

 

27.11.68

Chỉnh huấn Đảng:

Ưu:

– Tinh thần kiên định, không sợ ác liệt, không ngại hy sinh, hoàn thành nhiệm vụ.

Ý thức tổ chức cao.

Hòa nhã được quần chúng yêu mến.

Lo lắng cảm thông với thương binh tốt.

Khuyết:

– Lãnh đạo không quán xuyến hết.

– Còn thiếu linh hoạt trong công tác, có lúc chưa tranh thủ hết sự lãnh đạo tập thể.

– Tác phong còn tiểu tư sản.

– Công tác bảo mật phòng gian còn yếu

– Kiểm tra đôn đốc thực hiện còn yếu.

 

6.12.68

Suy nghĩ về quan hệ của mình đối với mọi người. Mình…trong mắt mọi người thực chất mình ra sao? Với những người không sống lâu thường xuyên với mình mà chỉ gặp gỡ hoặc tiếp xúc với một thời gian trong quan hệ công tác(Cả công tác điều trị, giảng dạy hay họat động bên thanh niên) đều có cảm tình và mến mình. Với những người sống lâu bên mình thì có ba loại:

Một loại không ưa, tìm chỗ yếu của mình để đả kích. Loại này chỉ có một số nhỏ.

Một loại rất thương mình, thương với một tình thương đặc biệt và tất cả vì mình. Loại này không ít lắm nhưng không nhiều lắm.

Một loại trung bình, thương và ghét đều bằng nhau.

Vậy thì sao hở Thùy? Cần rút ra điều gì trong cách quan hệ đó? Biết làm sao cho tốt hơn được? Ở đời có ai ở cho vừa lòng hết thảy mọi người đâu?

 

9.12.68

Đường sang trường Đảng, một chiều nắng đẹp, nắng chiều đổ dài trên những ngọn cây cao. Đi đến giữa đỉnh dốc bỗng dưng mình bồi hồi nhớ lại những ngày được sống bên em…một buổi đi cõng lá, một buổi sang trường. Tình thương mang màu sắc long lanh trong sáng kỳ lạ. Có bao giờ tình thương ấy phai đi không nhỉ? Ở chị…khi đã về sống trong cuộc sống hạnh phúc của mình, liệu tình thương với em còn sôi nổi như bây giờ nữa không? Và ở em…có đúng thực như lời em nói trong lá thư gần nhất đây không? “Nếu có một người thương, em cũng sẽ nói với người đó rằng em thương chị cao hơn người đó”.

 

16.12.68

Khó khăn vẫn liên tục, hết chuyện này qua chuyện khác. Địch mở cuộc càng quét quy mô. Khu vực mình ở nằm trong diện đánh phá, mọi kế hoạch đều phải chuyển hướng. Tất cả tập trung cho chống càn.Trong kế hoạch đó có kế hoạch đại hội ngành. Đại hội ngàng tổng kết hai năm qua, mình đã đón chờ nó bằng bao nhiêu trông đợi. Vì nhiều lý do, ngày ấy không xa nữa…Vậy mà hôm nay cũng đành hoãn lại vì tình hình địch! Buồn vô kể!

Như mảnh giấy sáng nay mình gửi cho em đó, bao giờ mới gặp em nhỉ? Bao giờ mình mới thực hiện được niềm ước mong nho nhỏ nhưng rất thiết tha của chị em mình. Thư em viết lên “ nhớ thương chị tràn ngập cuộc sống của em”, và đối với chị cũng vậy thôi em à, nhớ thương, lo lắng làm chị không thể yên lòng. Chúc em tôi luôn đứng vững trước mọi khó khăn nguy hiểm. Hẹn ngày gặp lại em, chị sẽ ôm em trong lòng, hôn rất nhiều lên đôi mắt đứa em trai trong tình thương bất diệt.

 

17.12.68

Tin Đường bị bắt lần thứ hai làm mình sửng sốt, đau xót. Mới cách đây mấy buổi mình nhận được thư Đường, một là thư rất dài, trong đó Đường nói lên tình thương sâu sắc của Đường đối với mình và Đường yêu cầu mình nhận Đường làm em (lại cái chuyện em nuôi ấy). Mình không đồng ý với nhiều lý do, thứ nhất là Đường chưa làm mình cảm phục và thương yêu một cách sâu sắc như với Nghĩa, Thường, Thuận. Thứ hai là Đường còn có những nét không phù hợp với mong muốn của mình về một người thân. Với Đường, mình chỉ có một lòng thương, một sự cảm thông và cảm động trước tình thương sâu sắc mà Đường dành cho mình.

Bây giờ Đường lại bị bắt. Vừa ở tù về chưa kịp lại sức, Đường đã phải khóc cha chết do Mỹ bắn. Tang cha chưa nguôi, cách đây mấy bữa, địch lại càng vào nhà bắn chết anh trai Đường ngay dưới công sự, còn em thì bị chúng bắt đi. Nhà cửa Đường chúng đốt tan hoang, bà mẹ của em khóc lặng bên xác đứa con trai đã gục ngã trên nền nhà cháy dở. Có cảnh nào thương tâm hơn nữa hay không?

Đường ơi! Mỗi lần nhớ đến em lòng chị lại trào dâng một mối căm thù đến ngạt thở đối với lũ giặc cướp nước. Phải bắt chúng đền tội, phải trả thù cho em và bao nhiêu đồng chí của ta đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu ác liệt này.

 

18.12.68

Không thể nào như Mùi nói được đâu, con đường đi của chúng ta là con đường tình bạn, không thể là con đường rực rỡ nắng ấm của tình yêu. Cho nên trước đây, bây giờ và mãi mãi về sau, mình chỉ xem Mùi như những người bạn, hiểu, tin, và thương mến. Vậy là đủ rồi Mùi ạ. Không nên và không thể đi xa nữa đâu.

Một chuyện nhỏ mà sao làm mình buồn thấm thía. Không phải chỉ một chuện mà là những chuyện nhỏ đáng buồn cứ diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Cuộc sống sao mà phức tạp, mỗi ngày nảy sinh ra một chuyện mới, mặt nào cũng có một chuyện mới. Thùy ơi! Nếu Th. muốn rằng trong tình thương này mỗi ngày nảy ra một khía cạnh mới mẻ, thì các chuyện khác làm sao không có những cái mới đó- kể cả nỗi buồn, sự lo âu, kể cả lòng ghen tị đố kỵ của người đời?

Đừng buồn nhé, hãy cười lên đi! Hãy đứng vững vàng trong bất cứ trường lớp nào.Hãy giữ trọn niềm tin, hy vọng bao la trong tâm hồn cô Th. trong những năm xa xưa.

Đêm nay ngồi trực, ngọn đèn mờ trong căn nhà nhỏ, tiếng rên của người bệnh nhân làm mình buồn lạ lùng. Hơn bao giờ hết mỗi nhớ thương trào lên thiết tha cháy bỏng. Hỡi những người thân yêu, đêm nay có ai hiểu hết lòng mình hay không?

 

19.12.68

Đi lao động trên núi cao, khi lên đến đỉnh dốc, vô tình mình nhìn ra xa và bỗng bần thần nhận ra dưới mắt mình là bãi biển của cánh Nam Đức Phổ. Sương mù che cho mình không thấy rõ nhưng trước mắt mình vẫn hiện lên những cảnh xiết biết bao quen thuộc, những đường 32, 33 của Quy Thiện, những dãy nhà sát chân đồn…ở đó…thân yêu biết chừng nào, ở đó có những kỷ niệm êm đềm trong đời cách mạng, ở đó có những trái tim ấp ủ tình thương tha thiết với mìn …Chỉ là những mảnh đất miền Nam mà sao mình thấy thiết tha gắn bó vô cùng.

 

21.12.68

Rất lâu rồi mình không nghĩ đến M..Hôm nay đọc lại lá thư từ ngoài Bắc, thư của Thái, của Phương, của cậu Hiền…bỗng dưng mình buồn vô kể. Ngoài ấy ai cũng mong mình hạnh phúc, ai cũng tưởng mình hạnh phúc khi gặp lại M..Nhưng cuộc đời sao lắm nỗi éo le. Nghe cậu Hiền nói về Dung, những nhược điểm trong quan hệ của Cậu và Dung đã khắc phục dần, bây giờ cậu đã thấy ở Dung không những là mộ người tốt, hiền, vững mà còn là một tình thương sâu thẳm về người bạn lòng.

Hạnh phúc trong tình yêu đã không đến với mình. Mình không thể hiểu nỗi sau này mình sẽ ra sao, mình sẽ yêu ai, người đó như thế nào, liệu trong mình còn được cái sôi nổi tha thiết yêu thương nữa hay không?

Thùy ơi! Bi quan đấy ư? Hãy nhìn lại đi, bên cạnh Thùy có bao nhiêu đồng chí, bao nhiêu thanh niên đã cống hiến tuổi trẻ họ cho cách mạng, họ ngã xuống mà chưa hề được hưởng hạnh phúc. Sao Th. lại nghĩ đến riêng ư? Đừng nhìn ra Bắc, hãy nhìn ở đây, ở mảnh đất còn nóng bỏng đạn bom. Đau thương và khói lửa này.

 

23.12.68

Kỷ niệm hai năm tròn ngày bước chân ra đi. Ba giờ chiều, cũng ngày này hai năm về trứơc, chiếc xe ô tô đã đưa mình rẽ sang một con đường khác. Con đường gian nan vô cùng, Th. đã hiểu nó từ lúc chưa đặt chân lên.

Vậy mà hôm nay, sau hai năm thực tế, Th. vẫn còn đau xót khi nhìn thấy chông gai lầy lội trên con đường đó ư Thùy? Đau xót gì đâu, đời là vậy đó chứ, có hoa thơm nắng đẹp thì cũng có những đám mây đen vẩn đục bầu trời và trong một năm thì cũng có những ngày nắng mưa.

Chiều nay, Th. đã biết dẹp mọi bực dọc lại, tươi cười cầm quyển vở đứng lên giảng bài. Tối nay Th. đã biết mỉm cười bình tĩnh trước những phản ứng của một kẻ bị đụng chạm đến quyền lợi cá nhân. Vậy thì cớ sao bây giờ bên ngọn đèn khuya với trang sổ nhỏ, Th. lại rưng rưng nước mắt? Đừng khóc Thùy ơi! Hãy bình tĩnh vững vàng khi biết mình là kẻ đúng đắn. Có khóc thì hãy đợi khi cầm bàn tay của một người thân yêu nào đó mà kể lại mọi nỗi niềm. Còn trước mọi chông gai cay đắng của cuộc đời, trước mọi gian nan thử thách, mong Thùy hãy giữ vững nụ cười như bấy lâu Th. vẫn giữ được. Dù.. che khuất đằng sau nó biết bao nhiêu nước mắt. Nước mắt hãy để dành cho riêng cho những người thân yêu thôi, nghe không hở Thùy?

 

26.12.68

Nhận được thư của M và ông già của M..Gần như tất cả mọi người biết chuyện đều chia vui với mình. Vậy mà sao mình chỉ thấy buồn thấm thía.

Ba của M. nói về mình có những điểm đúng, đó là cái cách mạng, mạnh dạn trong tình cảm, là tình yêu thủy chung kiên định của một người con gái. Nhưng ba của M. chưa thấy được một thứ ở mình, đó là lòng tự trọng, tự ái. Nếu từ lúc đầu, mình đã hiểu được cái bất đồng giữa tâm hồn mình và tâm hồn người bộ đội ấy thì có lẽ mình sẽ không yêu anh đâu. Chỉ riêng một điều thiếu sự cân xứng trong tình cảm đã đủ để gạt bỏ một tình yêu mà mình thiết tha hy vọng.

Mười năm qua, quãng đường đâu phải là ngắn ngủi. Bây giờ mình đã đứng ở chỗ rẽ để sang một con đường khác, dù nó sẽ dẫn mình đi đến đâu không ai hiểu được.

Cho nên có gì đáng vui đâu. Vẫn chỉ là M. như hôm nào mình gặp, và mình bây giờ là người đã có thực tế, chín chắn hơn rất nhiều torng tình cảm. Cái yêu thương sôi nổi như ngày xưa đâu còn nguyên vẹn nữa.

Cầm lá thư M., mình không đọc vội. Khi đọc xong, buồn đến vô cùng, nhưng chỉ vài giờ sau mình lại bình thản bắt tay vào công việc và mọi nếp sinh hoạt bình thường, vô tư như không có điều gì xảy ra. Thùy ơi! Trái tim Th. cũng trở nên khô cằn, cũng hết cả rung cảm rồi sao?

 

31.12.68

Đêm cuối năm trời trong vắt không một gợi mây. Rất khuya rổi mọi người chưa ai buồn ngủ cả. Tiếng trò chuyện râm ran tù khắp các căn nhà vẫn vọng lên từ bốn phía. Không ai muốn ngủ cả, vì chỉ còn đêm nay thôi, ngày mai lại bắt đầu một năm mới.

Tất cả đại hội này mỗi người sẽ đi về một hướng, mỗi người sẽ nhận được một nhiệm vụ khó khăn nặng nề trong những ngày sắp tới. Cuộc chiến đấu ngày càng gay go ác liệt, trong giai đoạn cuối cùng này, màu sẽ còn phải đổ, đổ nhiều để giành được thắng lợi quyết định.

Ngồi bên em, mình không nói được tất cả những điều cần nói, vì bên mình còn nhiều người khác mình cũng đang nói chuyện. Cũng hơi buồn là không thực hiện được hết những điều mong ước của hai chị em, nhưng dù sao chị cũng hiểu em khi nhìn vào đôi mắt em, khi nghe tiếng em khẽ thở dài bên chị. Em trai yêu thương ạ, tình thương đã cho ta niềm tin, sức mạnh, cho ta niềm vui sum họp thì dĩ nhiên cũng cho người ta nỗi nhớ khi xa cách cho nên buồn gì đâu em, hãy cười lên em nhé. Bao giờ chị gặp lại em? Có gặp được nữa hay không? Nếu như không còn được gặp em nữa thì…chị không muốn nghĩ tiếp cái ý nghĩ bi quan ấy đâu.

Tạm biệt em, chị ôm em trong cánh tay mình. Nghe hơi thở của em, muốn nói nhiều nhưng rồi chị vẫn im lặng vì chị tin rằng em đã hiểu chị, hiểu hết tình thương bao la sâu thẳm mà chị đã dành cho em.

 

Chương 8

 

1969

Một năm mới bắt đầu! Hồ Chủ Tịch đã chúc tết:

Năm qua thắng lợi vẻ vang

Năm nay tuyền tuyến chắc là thắng to.

Vì độc lập- Vì tự do

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào.

Năm nay không có cái rộn ràng, hào hứng như năm ngoái. Phải chăng mình nhận thức chưa đúng, phải chăng mình đánh giá chưa hết thắng lợi nên nghĩ như vậy? Hay là không đúng như vậy? Hay là năm ngoái niềm vui còn giữ cái sôi nổi của những phút “bắt đầu”. Còn năm nay là cái vui của buổi đã qua cái “bắt đầu”( Ở đây mình không nói đến riêng mình mà là nói chung của mọi người.)

 

4.1.69

Nằm bên Ninh nghe nói chuyện, không hiểu vì sao tự nhiên mà con bé đem tất cả những điều cảm nghĩ của nó về “anh Ba” nói hết với mình.

Nghe chuyện mình cô cũng hối hận. Mình thương Thuận, tự cho rằng đã hiểu về Thuận nhưng thật ra cái hiểu ấy còn quá ít ỏi so với thực tế. Mình hiểu không đầy đủ mọi mặt về tinh thần tận tụy trong công tác, tinh thần trách nhiệm và lương tâm của một người chiến sĩ y tế vô cùng cao cả ở Thuận. Trong bản báo cáo chung về thành tích, Thuận có nói đến thành tích của đồng chí T. chỉ có ba dòng. Thực ra mình đâu có biết những đêm mưa gió Thuận hấp tấp cầm xách thuốc ra đi mặc cho bom pháo nổ tới tấp xung quanh. Có hôm nào đó vì quá thương Thuận nên Ninh đã không gọi Thuận dậy đi cấp cứu, mà chỉ sang cho y tá khác. Thuận đã rầy la em dữ dội, bắt em phải báo cho nó biết mọi trường hợp, dù nó đang ngủ, đang đau hay đang làm gì đi nữa.

Mình hiểu quá ít về nỗi đau đớn trước cảnh tang tóc của gia đình Thuận. Thấy em bình tĩnh vui cười, mình đâu có biết những đêm dài em không ngủ nằm khóc tấm tức như một đứa nhỏ. Mình đâu có hay những lần em la Cho sao không lo việc gia đình, Cho khóc và Thuận cũng giàn giụa nước mắt.

Mình hiểu quá ít về hoàn cảnh thiếu thốn của Thuận. Ở điểm này vì quá tin Thuận nên mình không ngờ rằng em đã phải chịu mọi thiếu thốn để mong mình và mọi người khác được đầy đủ hơn. Em ngồi chằm chiếc nón định bán lấy tiền tiêu… Chao ôi! Sao mình lại thiếu sâu sát đến mức đó? Và ngay cả trong tình thương của em đối với mình, mình cũng hiểu chưa hết mà.

Em ơi! Chị nhiều thiếu sót với em quá đỗi. Làm sao sửa cho hết đây.Cuộc đời của em là những bài học mà chị sẽ học tập mãi mãi. Học tập về lòng dũng cảm hy sinh, tinh thần trách nhiệm, lòng vị tha, nghị lực và cả những điều rung cảm chân thành của một trái tim cách mạng.

 

9.1.69

Bốn năm nay hai mốt tuổi đầu. Hai mốt tuổi bảy lần bị thương trong chiến đấu. Người trung đội trưởng trinh sát trẻ tuổi ấy đã để lại trong mình những cảm nghĩ không bao giờ có thể quên.

Mình gặp Bốn lần đầu tiên khi Bốn vào nằm bệnh viện với một vết thương nhỏ nơi chân. Mấy hôm sau, chân chưa lành, Bốn đã ra viện và hơn một tháng sau mình lại đón Bốn vào viện. Vết thương xuyên qua khớp vai mất nhiều máu nên Bốn xanh xao mệt lả, nhưng sau khi mổ xong, vừa mới tỉnh, nụ cười tinh nghịch lại nở trên đôi môi nhợt nhạt của Bốn. Vết thương đau đớn nhiều, nhưng Bốn không rên la mà chỉ lo một điều: có còn chiến đấu được nữa hay không? Những lần đi thăm bệnh mình khẽ vuốt trên mái tóc người thương binh trẻ tuổi và nói khẽ với Bốn rằng: Em hãy yên tâm, chắc rằng em sẽ còn cầm súng chiến đấu một cách vững vàng.

Và mới hôm nào đây gặp lại Bốn trên đường hành quân, vai mang khẩ AK, nhìn thấy mình từ xa nó mừng rỡ reo lên: “Chào Bác sĩ! Báo cáo Bác sĩ, tay em bình thường rồi”, và nó khoa tay lên khoe với mình khớp vai đã hoạt động bình thường. Mình cười vui khi nhìn nước da khỏe mạnh hồng hào và nụ cười tinh nghịch của chàng bộ đội giải phóng quân ấy.

Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt. Em nằm im lìm không rên la. Một chân đã bị mìn tiện cụt ,máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng các đồng chí hết sức cứu chữa. Cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi đấy”.

Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều. Mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng.

Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi. Máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi, máu em đã thấm đỏ trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu. Tim em đã ngừng đập cho trái tim Tổ quốc muôn đời đập mãi.

Bốn chết rồi, hai mắt nhắm nghiền như trong giấc ngủ. Ngồi bên Bốn vuốt nhẹ mái tóc em mà mình tưởng như em còn sống, nước mắt mình từng giọt rơi xuống tóc em. Không! Bốn không chết đâu, Bốn sẽ còn sống mãi trong lòng mình và những đồng đội đang cùng em trong cuộc chiến đấu sinh tử này.

Nỗi buồn lại đến và lòng căm thù với quân xâm lược còn nặng hơn nghìn vạn lần. Nhìn thấy Bốn mình bàng hoàng nghĩ đến những đứa em thân yêu đang ngày đêm vật lộn với quân thù xông pha qua bao nhiêu bom đạn. Mấy hôm nay địch đánh phá Phổ Cường dữ dội, Thuận mấy lần suýt chết… Chao ôi! Còn quân khát máu đó thì chúng ta còn đau khổ. Không có con đường nào hơn là đánh cho giập đầu quan chó đểu đó.

 

10.1.69

Nỗi buồn dai dẳng như những ngày mưa dầm cứ rả rích hoài suốt mười ngày nay. Mười ngày tưởng như dài mấy tháng. Có cái gì mong đợi, có cái gì bứt rứt không thể yên lòng. Lo âu và buồn vô kể, lúc nào cũng thấy những nguy hiểm đe dọa những người thân yêu đang lăn lộn trong cuộc chiến đấu. Biết nói thế nào đây… Một ngày còn bóng giặc Mỹ một ngày còn đau thương tang tóc. Ôi! Mối thù này bao giờ mới trả hết đây.

 

11.1.69

Tình hình Phổ Cường vẫn căng thẳng, địch vẫn tiếp tục đợt càn quy mô hòng đốt nhà, xúc lúa để thực hiện kế hoạch bình định cấp tốc. Tiếng súng vẫn nổ ở hướng đó, mỗi tiếng súng lại nhắc mình nhớ và đau xót nghĩ đến những người dưới đó. Và giữa muôn ngàn hình ảnh ấy mình thấy rõ bóng hình Thuận, bộ quần áo đen ướt mồ hôi và nước mưa, nét mặt xanh gầy mệt nhọc nhưng đôi mắt đen vẫn ngời sáng và nụ cười vẫn tươi trên khuôn mặt của em. Nhớ em, đâu mình cũng thấy bóng hình em. Có khi là mái tóc xòa của người chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi đã chết trong tay mình. Bây giờ lại là hình ảnh đau thương tang tóc mà Liên đang phải chịu. Liên vừa được tin mẹ đau nặng sắp qua đời. Nhà Liên mọi người không còn ai. Mấy anh lớn của Liên ra Bắc tập kết, một chị gái đi Sài Gòn, chị dâu thứ năm của Liên bị địch bắn bị thương rồi chở đi đâu mất, chỉ còn lại mẹ già, người mẹ cam chịu mọi cảnh cô đơn thiếu thốn để dành tất cả yêu thương, tất cả sung sướng cho đứa con đã thoát ly đi làm cách mạng. Bây giờ mẹ Liên bị đứt mạch máu não nằm mê liệt trên giường, căn nhà trống lạnh quạnh hiu không ai chăm sóc. Liên khóc, nước mắt của Liên cũng đã thấm vào lòng mình như hôm nào Thuận khóc cha chết.

Tất cả, tất cả do bọn quỷ cướp nước. Không có cách nào khác được cả.

 

12.1.69

Bình lên báo tin Mỹ đã rút, tình hình Phổ Cường trở lại bình thường. Qua thư em gửi lên, biết em vẫn khỏe. Bốn trang thư chỉ có một dòng cuối em nói là quá mệt mỏi nên không viết dài hơn, còn tất cả cũng là nhớ thương và lo lắng cho mình. Trong khi đó thì bản thân em mười hai ngày nay chỉ được ăn một bữa cơm hơi no, bộ quần áo cứ khô rồi lại ướt vẫn không thay được. Xe tăng, bộ binh đuổi em mấy lần suýt chết… Em không hề nói với mình mà chỉ qua thư cho người khác mình mới biết được. Vừa thương xót vừa lo âu và cả bực mình nữa. Muốn giận em vì thiếu thành thực với mình (lảng tránh mọi nỗi khổ cực em đã phải chịu). Nhưng nghĩ cho cùng cũng chỉ vì em không muốn mình phải lo âu, cũng không có gì khác hơn là “tình thương sâu sắc và kỳ lạ mà em không có cách nào nói hết cho chị hiểu được”.

 

14.1.69

Nhà đi vắng sạch trơn. Bệnh xá im ắng và buồn đến lạ lùng. Thương binh chỉ còn lại mấy người, nhân viên cũng chỉ còn mấy người, mỗi người một việc lui cui làm. Mình lắng tai nghe chỉ thấy tiếng suối rì rào chảy. Hai mươi sáu tuổi đầu rồi còn bé bỏng thơ ngây gì đâu mà để cho cảnh buồn chi phối tâm tư. Nhưng thực ra con người vẫn là quyết định. Như Nguyễn Du đã nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Vui gì đâu khi mà giặc Mỹ đang giày xéo quê hương, đang giết hại đồng bào ta. Vui gì đâu khi đất nước còn chia cắt, gia đình còn mỗi người một ngã.

Nhưng Th. ơi, không lẽ lúc nào tâm tư cũng chỉ biết có nhớ thương lo lắng thôi sao? Cuộc chiến đấu đòi hỏi người ta với một niềm vui lớn, một nghị lực và một niềm tin mãnh liệt. Hãy vun xới những tình cảm ấy và hãy dẹp lại những áng mây buồn vương trên đôi mắt Th..

 

16.1.69

Nghĩa lên thăm, nhưng mình đi chấm thi cho học sinh không có ở nhà. Em ra về gửi thư và quà lại cho mình. Trao quà và tiền bạc lại cho mình, chị Ba xuýt xoa: “Em nuôi mà như vậy, quý đó chứ!”. Câu nói có lẽ là vô tư nhưng mình không thoải mái lắm. Có lẽ chị Ba và nhiều người chưa thể và không thể hiểu hết những tình cảm cao quý giữa những người có trái tim sôi nổi yêu thương như mình, Nghĩa, Thuận, Khiêm, Thường… đâu. Bọn mình thương nhau bằng một tình thương kỳ diệu, tình thương làm người ta quên bản thân mình mà nghĩ đến người thân. Với tình thương ấy, người ta có thể hy sinh cả tính mạng để bảo vệ cho người thân của mình. Cho nên có nghĩa gì đâu một vài ngàn bạc hay năm bảy trăm gì đó, có nghĩa gì đâu với những món quà vật chất. Những tình nghĩa trong từng món quà ấy phải thấy cho hết, không đánh giá bằng giá trị tiền bạc mà phải đánh giá bằng giá trị tình cảm. Các em nhiều phen thiếu vài chục bạc mua thuốc hút, nhưng khi có thể, vẫn chia sẻ cho mình tất cả. Có khi các em giấu nỗi thiếu thốn để lo cho mình đầy đủ. Kết luận lại, mình cần phải cố gắng để xứng với tình thương của các em.

 

18.1.69

Đọc những lá thư của em gửi lên, mình ngồi vừa thương em vừa buồn cười một mình. Tình thương của em thật kỳ lạ, mộc mạc vô cùng, sôi nổi vô cùng. Mình chưa đọc một lá thư nào lời lẽ lại giản đơn, thật thà đến vậy. Qua từng câu nói không hề trau chuốt ấy, mình càng thấy cái chân thật rất đỗi của em. Em lo cho mình từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất, lo cả đến người anh tương lai của nó thương mình ra sao, có hiền không hay hung lắm… Nghĩ tức cười quá đi, không hiểu nó quan niệm về tình yêu ra sao mà lại tưởng tượng cái cảnh khổ cực của một người vợ như vậy. Cũng đúng thôi, nó chưa hiểu được tiêu chuẩn người yêu của mình – của một người con gái trí thức. Đừng lo nghe em nhỏ, em của tôi! Chị của em không hề dễ tính khi chọn một người yêu đâu em à.

 

19.1.69

Một buổi chiều chủ nhật, nắng đẹp và gió lộng giữa khu rừng già. Đài phát thanh đang buổi âm nhạc quốc tế… Ngồi làm việc trong căn phòng nhỏ của mình thấy khung cảnh quá thanh bình. Bỗng nhiên mình quên đi những đạn bom lửa khói, quên đi những đau thương tang tóc và chỉ còn lại trong lòng niềm cảm hứng bao la với bản nhạc.

Chẳng hiểu là đáng chê hay đáng khen nữa. Đáng chê ở chỗ quên đi nỗi đau của dân tộc còn đang tiếp diễn, quên đi những tội ác của bọn quỷ khát máu vẫn đang giày xéo lên quê hương. Nhưng đáng khen là từ trong muôn nghìn gian khổ vẫn thấy lòng rung cảm sâu xa trong niềm lạc quan tin tưởng và nhựa sống, niềm hy vọng vẫn xanh mát trong tâm hồn.

Phương yêu ơi, ở ngoài đó có lúc nào em thấy nỗi chua xót trong cảnh chia ly đang đến với từng gia đình Việt Nam. Ở đây, chị càng thấy rõ hơn trăm nghìn lần cảnh đau xót ấy. Vậy mà chị vẫn mong rằng cả chị lẫn em đừng để mất đi niề mvui, mơ ước trong trái tim mình. Hãy cứ như ngày xưa nghe em. Chiều chủ nhật ta lại cùng nhau nghe chương trình ca nhạc quốc tế (23) và ghi lại lên trang nhật ký và cuộc sống vẫn cứ mơ mộng dù đạn bom lửa khói quanh mình.

 

22.1.69

Lớp học y tá ra về, rất nhiều học sinh ôm lấy mình lưu luyến không chịu buông ra, những cái hôn sôi nổi nhiệt tình. Riêng với Ninh, con bé buồn buồn nắm tay mình khẽ nói: “Em về nghe chị Hai”, rồi không hiểu sao nó gục đầu vào vai mình khóc ròng. Cũng nhiều đứa khóc khi chia tay với mình nhưng sao nước mắt của một đứa em gái nhỏ này lại làm mình cảm động. Phải chăng mình thương Ninh vì nhà vừa bị đốt cháy trụi không còn một hạt lúa để ăn? Phải chăng mình thương Ninh vì tình cảm chân thành thắm thiết mà con bé đã nhiều lần tâm sự với mình, và phải chăng vì Ninh cũng thương yêu chăm sóc anh Ba của nó với một tình cảm sâu sắc? Có lẽ vì tất cả những lý do đó.

Thôi về đi nghe em, chúc em vững bước trên con đường vinh quang và gian khổ của người y tế cách mạng, bàn chân em nhỏ bé nhưng chắc rằng bước đi của em sẽ lớn và dài trong cuộc sống vĩ đại của thế hệ chúng ta.

 

7.2.69

Một đêm trong căn nhà của một người mẹ già góa bụa. Ánh lửa bập bùng của bếp lửa làm mình khó ngủ hay vì tình thương nóng bỏng của em làm mình quên lạnh của núi rừng. Mình cảm thấy đau xót vô cùng khi nghe em nói: “Chị ơi, nếu như có lúc nào rủi ro em không kịp tiếng cuối cùng của em đối với chị thì coi như hôm nay em đã nói rồi nghe chị”.

Ôm em trong lòng, mình bàng hoàng khi nghĩ rằng chiến tranh sẽ không từ một người nào, cũng có thể em sẽ ngã xuống vì nhiệm vụ cách mạng. Lúc đó… làm sao hở em?

Tiếng thở dài có nói cùng em hết nỗi lo âu cùng niềm thương yêu của chị với em không?

 

8.2.69

Kết thúc một chặng đườn gian khổ. Mười bốn ngày vất vả lội núi, trèo non, dầu dãi với nắng sương. Trong gian khổ ấy lúc nào mình cũng thấy sung sướng vì ở đâu cũng là biển cả của tình thương. Từ một đồng chí cán bộ chưa hề quen biết đến một người khách qua đường và tất cả những người quen mình đều nhiệt tình giúp đỡ đoàn Đức Phổ nói chung và mình.

Vui biết bao khi những người trên mảnh đất Đức Phổ coi mình như người cùng quê hương họ, chung với họ cả niềm vui cả niềm tự hào của mảnh đất anh hùng ấy.

Vui biết bao khi hầu như tất cả hội nghị dành cho đoàn Đức Phổ mọi ưu tiên, mọi cảm tình, mọi vinh dự cao nhất. Và mình, cô gái Hà Nội của quê hương Đức Phổ cũng được hưởng trọn mọi tình cảm ấy.

Còn gì nữa hở Th.? Phải chăng niềm vui ấy còn lớn lên trong những ngày gian khổ và hạnh phúc khi được sống bên những người thân yêu! Những người thân yêu… đó là người cán bộ từng trải trên bước đường công tác mà dù chỉ gặp mình một lần cũng đã hiểu và mến thương mình. Đó là người cán bộ trẻ mới rời ghế nhà trường đã lao vào công tác với mọi khả năng và đạt thành tích cao nhất. Đó là người bạn gái chịu thương chịu khó, hiền hòa đôn hậu, biết vì mọi người hơn bản thân mình. Và đó là đứa em trai yêu thương đã tất cả vì mình, đã lo cho mình từng chén cơm miếng nước, đã thương mình bằng một tình thương kỳ lạ. Mười mấy ngày sống cạnh em mình đã nhiều lần tự hỏi: “Tại sao lại có một tình thương như vậy?” Với mình và cả với em, cả hai đều biết rõ rằng tình chị em thiêng liêng cao cả trong trắng và chân thành. Vậy thì có gì cần phải khắc phục không hở em? Và cả mình nữa, mình hãy trả lời câu hỏi đó trước khi hỏi em đi đã.

 

11.2.69

Th. ơi, tại sao vậy hở Thùy? Tại sao mà giấc ngủ không ngon vì những hình ảnh cứ chập chờn trước mắt. Tại sao khi công việc bề bộn quanh mình đòi Th. phải lo giải quyết mà vẫn không quên một điều – một điều gì như nhắc nhở thiết tha? Biết nói thế nào – Tình cảm bao giờ cũng có lý trí chỉ đạo. Vậy thì… hãy dẹp đi mọi nhớ thương đang cháy bỏng trong lòng để tập trung vào công tác. Hãy dẹp đi những tình cảm sôi nổi trong trái tim vẫn tràn đầy nhựa sống của Th. Có nghe không Th.? Tiếng súng ngoài kia đã nổ bắt đầu báo hiệu một mùa xuân đại thắng.

 

14.2.69

Sáng ăn Tết với một đơn vị bộ đội miền Bắc. Rất nhiều gương mặt, nhiều giọng nói làm mình nhớ lại những ngày sống trên đất Bắc. Lẽ ra nên ở lại chuyện trò lâu hơn nữa, nhưng sao mình cảm thấy một nỗi buồn quặn thắt trong tim, mình cáo từ rồi lững thững ra về. Nắng chiều đã tắt trên đỉnh núi, gió se se thổi… Buồn nhớ mênh mông mình đứng lại giữa đỉnh đồi. Tết đến rồi, cái Tết thứ ba xa nhà, lẽ ra mình phải quen dần với cảnh cô đơn trên quê hương xa lạ, lẽ ra mình phải thấy ấm áp vì tình cảm mạnh mẽ của bao nhiêu người trên đất Đức Phổ và cả Quảng Ngãi này. Vậy mà vẫn như ngày mới bước chân ra, mình ước ao khao khát được sống bên ba, má và cả tổ ấm gia đình, và cảm thấy mình vẫn chỉ là một con bé muốn được cưng chiều, muốn được làm nũng với mẹ như những ngày còn bé bỏng thơ ngây.

Muốn viết thư nói cùng em những nỗi niềm tâm sự ấy nhưng có lẽ cũng không cần.

 

15.2.69

Giao thừa!

Đã thực là giao thừa chưa? Giao thừa của những ngày đau thương khói lửa với những ngày hòa bình hạnh phúc. Đất nước âm thầm lặng lẽ nhưng sôi sục trong sự chuẩn bị. Đó phải chăng là sự mang nặng đẻ đau của một người mẹ sinh một đứa con to khỏe mập mạp.

Đêm nay sau một cuộc mổ, mệt mỏi cộng với một nỗi buồn không thể hạn chế được, khiến mình không còn muốn gì hết. Đó là một điều đáng trách đó nghe Th.!

 

17.2.69

Em lên vì công việc chung nhưng chắc cũng vì chị. Chị đọc thấy điều đó trong cái nhìn thiết tha yêu thương của em. Chị em mình cũng như nhau thôi, Tết của ai đâu nhưng riêng mình chỉ thấy cô đơn giữa cảnh cô đơn của hoàn cảnh hiện tại. Chị xa gia đình, xa những người thân yêu trên cả hai miền- còn em cũng chẳng còn ai ngoài hai đứa em ruột thịt. Có chị, chị không ở gần. Thôi được, tình thương sẽ sưởi ấm trái tim ta. Vui lên đi em, đừng buồn khi xa chị, chúc em một năm đầy may mắn, đầy thắng lợi và chúc tình chị em ngày thêm gắn bó keo sơn.

 

19.2.69

Không khí im lặng một cách đáng sợ. Ngọn gió nồm đêm qua đã bay đâu mất. Rừng cây trở lại lặng im, lặng im đến một chiếc lá cũng không muốn trở mình. Hình như con người cũng im lặng bởi núi rừng thuyết phục, tất cả cũng đều lặng lẽ trong công việc của mình. Không hiểu mọi người hiểu những gì mà đôi mắt ai cũng đăm đăm, nụ cười cũng ngưng đọng? Riêng mình, tâm tư, bề bộn lạ lùng. Trước hết là nỗi nhớ, nhớ nhà, nhớ em chuyện đó là dĩ nhiên, mà sao nhớ cả những hình ảnh đã qua trong cuộc sống: Một buổi sáng trên đường hành quân, cũng rừng cây cao im lặng, cũng ánh nắng hồng chói chang trên đỉnh núi… Một buổi sáng dưới đồng bằng nắng xuyên qua rặng tre len lỏi chiếu lên chiếc bàn sau khung cửa…

Có một cái gì mong đợi thiết tha… Mong gì cũng không rõ nét nữa, mong mọi người trở về, mong ngày tháng qua nhanh để đến ngày có những niềm vui mới đến… Tất cả cũng chỉ là chung chung mơ hồ vậy mà cứ da diết trong tâm hồn.

Và hình như có cả những lo âu thoáng chút luyến tiếc. Nếu mọi điều xảy ra như bọn mình lo lắng thì mình cũng sẵn sàng ngã xuống cho thắng lợi cuối cùng chứ sao. Nhiệm vụ sắp đến lớn lao quá, mình không muốn vạch ra cụ thể, bởi vì chỉ thấy lo và nan giải thôi. Thì hãy kệ nó, cái gì đến sẽ lo giải quyết, mình vốn bình tĩnh trong gian khổ kia mà. Có điều phải có sự chuẩn bị và kế hoạch trước.

 

Chương 9

 

20.2.69

Công tác nặng nề chưa từng có. Chưa bao giờ mình lo lắng như thế này. Nhiệm vụ sắp đến đòi hỏi ở mình phải có một cố gắng phi thường về chuyên môn, về tổ chức lãnh đạo. So với trước đây mình đã trưởng thành nhiều, nhưng so với yêu cầu trước mắt mình như ngợp trước khối lượng quá lớn. Biết làm sao được, chỉ có cố gắng, cố gắng và cố gắng thế thôi!

* * *

Người bộ đội ấy chắc đã lên đường ra trận tuyến. Chúc anh thắng lợi trở về để còn có một lúc nào gặp lại đôi mắt đen ngời trên khuôn mặt người chiến sĩ giải phóng quân.

 

21.2.69

Đọc bài thơ của P.H viết tặng mình từ miền Bắc gửi vào:

Nơi ấy là khoảng trời anh ở

Ngày xưa và cả mai sau

Nơi ấp yêu mối tình nhỏ, tổ chim sâu

Con chim nhỏ bay rồi…

Không lẽ nào mối tình không được đáp lại vẫn còn mãi trong anh hở người vệ sĩ? Với mình hình ảnh anh bị những hình ảnh khác che khuất lâu rồi nhưng hôm nay đọc bài thơ sao mình thấy nhớ anh. Một mùa hè khi hoa phượng nở đỏ trên đường phố, nắng chói chang qua vòm cây xanh. Mình đi học về qua căn nhà ba tầng ở 14 phố Lê Trực ngước lên nhìn đã thấy anh đứng đó đợi mình, mái tóc xòa phủ trên đôi mắt buồn. Một chiều khi cơn giông ầm ĩ nổi lên khắp bốn chân trời gió bụi mù mịt, anh vẫn đứng đợi mình ở đầu sân Hàng Đẫy, mình đạp xe qua ngạc nhiên nhận ra anh dưới ánh đèn đêm của thành phố…… Mình chưa bao giờ yêu anh, chỉ thương anh với một tình thương của một đứa em gái, và tình thương đó cũng sứt mẻ khi mình đã nhiều lần dứt khoát từ chối mà anh vẫn cứ yêu mình. Trong một lá thư cuối cùng viết cho mình, anh nói: “Thôi em đi đi, rồi em sẽ có một người yêu xứng đáng nhưng anh có thể nói chắc chắn rằng không có một người nào trên đời này yêu em hơn anh được đâu”. Hình như câu nói đó là sự thực, nhưng mình không ân hận bởi vì mình không yêu anh thì làm sao có được một tình yêu đẹp đẽ công bằng? Dù sao cũng rất thương anh, anh hãy tin rằng em sẽ hàn gắn lại cho anh bằng tình thương của một đứa em, anh nhé.

 

24.2.69

Chiến sự bắt đầu nổ ra từ đêm hôm kia, cũng với khí thế hùng mạnh, với niềm tin tha thiết cháy bỏng mong chờ trút lên đầu mũi súng. Lòng mình xốn xang niềm vui nhưng sao cũng vẫn kèm theo nỗi lo âu. Có lẽ lo vì công tác. Công tác rất nặng đối với mình. Và còn vì sao nữa? Phải chăng một nỗi lo âu xót xa trong ruột. Những người thân yêu của tôi trên tuyến lửa ai sẽ ngã xuống vì thắng lợi ngày mai. Đành rằng có thắng lợi phải có hy sinh nhưng biết nói sao hở Thùy?

 

26.2.69

Đêm mùa xuân trăng trong sáng kỳ lạ, muốn dẹp lại những tình cảm đang tha thiết trong lòng để tập trung tất cả cho công tác mà không sao làm được. Không hiểu tình huồng nào có thể làm cho trái tim mình khô cạn được những nhớ thương, ước mơ, hy vọng. Năm ngoái ngay lúc nằm dưới công sự nghe tiếng giặc đào kiếm ở trên, mình cũng vẫn còn kể chuyện Paven cho Khiêm nghe. Giữa trận càn, bom pháo tới tấp xung quanh, ngồi giữa kẽ đá, mình cũng vẫn ghi nhật ký và viết thư – Bây giờ giữa lúc công việc bề bộn mình vẫn là mình với cả tâm tình thiết tha cháy bỏng đối với cuộc đời. Thực ra thì không phải một tình cảm riêng với một chàng trai nào đã chi phối mình mà là một tình cảm rộng rãi nhưng sao sôi nổi vô cùng. Nhớ từ một đứa cháu chưa hề biết mặt đến một đứa em gái nhỏ lăn lộn trong công tác và gian khổ mà lúc nào cũng gọi “Chị Hai”. Nhớ làm sao đứa em trai yêu thương đang lao vào công tác mà tâm tình em cũng gửi trọn cho mình. Sáng nay đứng bên bàn một người thương binh trẻ có đôi mắt đen với đôi mi dài, mỗi lần ngước nhìn lại làm mình liên tưởng đến hôm nào đó mình cũng ngồi chăm chú nhìn em. Mình là gì? Là một đứa con gái có trái tim ướt đẫm tình cảm vậy mà sao bộ óc lại không hề biết mềm yếu trước nhiều tình huống hết sức phức tạp, khó khăn ác liệt.

 

6.3.69

Những lá thư đậm đà tình thương, mình đọc nhiều lần càng đọc càng cảm thấy hết chiều sâu của tâm tình người gửi. Và càng cảm thấy hơn bao giờ hết, mình hiểu tình thương tha thiết của em. Biết nói gì, làm gì để xứng đáng với tình thương ấy nhỉ? Mình thì với em cũng chỉ như với Nghĩa, Thường, Khiêm, nghĩa là còn có những người có vị trí cao hơn trong cuộc sống tình cảm mà mình vẫn thường nói. Vậy mà em thì thư nào, giờ nào em cũng vẫn có một câu rằng: “Chỉ có chị là người em thương yêu cao cả nhất cả cuộc đời em”. Vậy thì nên nói với em sao đây hở em?

 

8.3.69

Đi thăm bệnh nhân về giữa đêm khuya. Trở về phòng, nằm thao thức không ngủ được. Rừng khuya im lặng như tờ, không một tiếng chim kêu, không một tiếng lá rụng hay một ngọn gió nào đó khẽ rung cành cây. Nghĩ gì đấy Th. Ơi? Nghĩ mà đôi mắt mở đăm đăm nhìn qua bóng đêm? Qua ánh trăng mờ Th. thấy biết bao là viễn cảnh tương đẹp, cả những cận cảnh êm đềm của những ngày sống giữa tình thương trên mảnh đất Đức Phổ này. Rồi cảnh chia ly, cảnh đau buồn cũng đến nữa… Đáng trách quá Thuỳ ơi! Th. có nghe tiếng người thương binh khẽ rên và tiếng súng vẫn nổ nơi xa. Chiến trường vẫn đang mùa chiến thắng.

 

9.3.69

Gặp lại anh Tấn, bỗng nhiên nhìn thấy có cái gì bứt rứt trong lòng. Cái gì? Nỗi buồn, nỗi nhớ hay oán trách mình cũng không rõ nữa chỉ thấy lòng xao động một cách không bình thường, anh Tấn đã gợi cho mình những kỷ niệm mà lâu nay một phần vô tình, một phần cố ý mình đã quên đi. M. ơi! Anh đang ở đâu, anh Tấn về không đem một tin nào của anh cả. Ta đã thực sự xa nhau rồi đó ư anh? Sao em vẫn cảm thấy con tìm mình rỉ máu, vết thương trái tim sao khó lành quá hở anh?

Chiều nay ở đây và ở đó ta cùng nhau lặng lẽ chuẩn bị cho cao điểm đến. Trong sự chuẩn bị ấy có anh và có em, cả hai cùng đang trong cuộc chiến đấu. Vậy mà… sao lại thấy xa cách đến thế này hở người đồng chí thân yêu?

Những người giải phóng, quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ cũng đã kiên cường dũng cảm vô cùng.

Đó là cậu liên lạc với má lúng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết thương trên tay sưng và đau buốt.

Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đã làm anh tràn nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”. Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt, nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc mình thương anh vô cùng mà chẳng biết nói sao. Hình như ngoài tình thương của một người thầy thuốc còn có cả tình thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng mình không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái nhìn trìu mến mà anh không thề nào biết được đâu.

Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người bộ đội có đôi mắt đen ngời.

 

12.3.69

Nghĩ gì về sự thay đổi của Nghĩa trong tình cảm đối với mình? Một sự “bội bạc” chăng? Dòng chữ đó có nghe sao quá nặng nề nhưng thực tình là mình có cảm giác như vậy và thấy có điều gì rạn nứt trong tình thương với Nghĩa. Buồn biết bao nhiêu, những gì em đã hứa, em quên rồi sao? Một đêm trên bờ biển. Phổ Hiệp, bốn chị em đã nói những gì? Những lá thư, những món quà em gói trọn tình thương trong đó… Bây giời! Hãy trả lời đi em, phải chăng em đã tự tách ra khỏi mối dây ràng buộc em với khối tình thương của chị rồi.

Bỗng nhiên mình liên hệ đến Thuận. Có lẽ nào rồi cũng có một lúc nào đó Thuận cũng sẽ đổi thay như vậy chăng? Nếu như vậy thì quả thực mình không tin ai được nữa.

 

13.3.69

Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh. Anh bị một vết thương xuyên thấu bụng. Sau cuộc mổ tình trạng không tốt mà xấu dần, có lẽ vì một sự chảy máu trong, do miếng mảnh không tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn, ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băn khoăn lưỡng lự. Cuối cùng anh đã chết – cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì sao? Vì sự thiếu kiên quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng sống của anh cũng có thề có 10%. Mình đã theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc nên làm.

Anh chết rồi, trong túi áo trước ngực anh có một quyển sổ nhỏ trong có nhiều kiểu ảnh của một cô gái với nụ cười duyên dáng trên môi và lá thư kiên quyết sắt son chờ anh. Trước ngực anh còn có chiếc khăn nhỏ thêu dòng chữ “Đợi chờ anh”. Ơi người con gái ở hậu phương kia ơi! Người cô yêu sẽ không bao giờ về nữa, trên vành khăn đau đớn mà cô sẽ phải cài lên mái tóc xanh của cô nặng trĩu đau thương, chất đầy tội ác của kẻ giết người là quân đế quốc Mỹ và có cả niềm ân hận của tôi, một người thầy thuốc đã không cứu sống được anh trong khi còn có thể cứu được!

 

16.3.69

Chỉnh huấn Đảng, học tập ba xây ba chống.

Ý kiến đóng góp của chi bộ:

Ưu:

– Lãnh đạo có nhiều tiến bộ, quản triệt nhiệm vụ, quán xuyến các mặt công việc.

– Làm tròn nhiệm vụ nặng nề trên giao phó.

– Lập trường tư tưởng kiên định, ý thức tổ chức cao.

– Kế hoạch sát sao, có kiểm tra đôn đốc

Khuyết:

– Còn có lúc có nơi chưa sâu sát công việc.

– Chưa tận dụng hết khả năng nghiên cứu rút kinh nghiệm kịp thời trong công tác điều trị.

– Chăm lo cải thiện đới sống cho cán bộ còn yếu.

 

17.3.69

Đọc thư anh. Lá thư ngắn với những câu nói giận dỗi và cả những câu nói yêu thương, bỗng nhiên mình thấy lòng sống lại những yêu thương của ngày xưa, những ngày mà giữa hai đứa chưa hề có một chút rạn nứt gì trong tình cảm – Và mình đa trả lời (không hiểu đã nghĩ kỹ chưa) “Những gì của chín chín năm qua không phải bỗng nhiên dễ quên dù người ta muốn dứt bỏ. Người ta là ai, là anh, là em, là những dư luận đang bao bọc cả hai đứa mình. Vậy mà gốc rễ của yêu thương vẫn còn nằm sâu trong lòng đất, vẫn có thể đâm chồi nảy lộc nếu mùa xuân lại về với những hạt mưa xuân mát lạnh trên đôi má người con gái năm xưa”.

 

19.3.69

Đánh vào quận Đức Phổ đêm qua. Cả khu quận đã cháy tơi bời trong ánh lửa căm thù của bộ đội ta. Trong những chiến sĩ anh dũng ấy có Lực – một thương binh vừa hồi phục sức chiến đấu. Lực đã ngã xuống trong trận tham chiến đầu tiên sau những ngày dưỡng bệnh. Nghe tin Lực hy sinh, đau xót đến vô cùng. Trước mắt mình còn thấy rõ hình ảnh chàng trai với đôi mắt thông minh và nét mặt kiên nghị. Lực hay quàng chiếc khăn đỏ trên vai, chiếc khăn có dòng chữ “Thề quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, và tiếng hát ẩm áp vang lên trong những buổi chiều “Núi sông ơi đẹp sao, khi trăng sáng núi đồi, mây bay dưới chân người…”.

Lực ơi, em chết rồi ư? Sao lời hát của em còn vang mãi bên tai chị và nét chữ của em cũng còn tươi màu mực trong những lá thư em viết thăm chị. Em cũng như Bốn, như Khiêm, như những người anh hùng đã ngã xuống vì ngày mai thắng lợi sẽ còn sống mãi trong lòng chị và tất cả nhân dân ta.

 

21.3.69

Có một điều cần suy nghĩ, nghiên cứu và khắc phục – đó là phong cách sống hàng ngày. Xưa nay hình như ai cũng thấy dễ gắn, dễ mến khi gặp mình. Có phải vì vậy mà mình chủ quan trong mặt đó không? Có những lúc mình nói không nề gì ai, cái đúng là thẳng thắn, cái sai là thiếu mềm mỏng để thuyết phục người ta. Hãy kiên quyết khắc phục nghe Th..

 

25.3.69

Hơn một năm trời chưa có dịp xuống đồng bằng, mấy bữa nay sao mình ao ước vô cùng – Nỗi ước ao như nắng hè chảy bỏng. Nhớ đồng bằng vô cùng – Đồng bằng ơi! Những ruộng lúa xanh rì với bông lúa đã bắt đầu nặng hạt. Đồng bằng ơi! Những tà áo màu, những chiếc nón trắng của những cô gái duyên dáng. Đồng bằng ơi! Dù lửa khói còn đang cháy đỏ nhưng không cháy được màu xanh của cuộc sống đang lên.

Và… em yêu ơi, nhớ em kỳ lạ, ao ước vô cùng được gặp lại em, được nhìn vào đôi mắt thân yêu, được ôm em trong lòng, được hôn em như hôn một đứa em bé bỏng ruột thịt trong nhà.

 

27.3.69

Nghe tin Bệnh viện đa khoa khu định rút mình về trên đó. Mới chỉ là tin mà sao thấy buồn thấm thía. Nếu là quyết nghị thì chỉ có chấp hành chứ biết nói sao. Nhưng chao ôi! Buồn không sao nói hết. Sẽ xa nơi này ư? Lên tỉnh đã xa rồi lên khu nữa thì… bao giờ mới gặp lại những người thân yêu? Ở đâu như mảnh đất này không? Mảnh đất đã nuôi mình lớn lên trong yêu thương, thử thách mình, rèn luyện mình trưởng thành trong gian khổ, bồi dưỡng cho mình thành một cán bộ vững vàng.

Thư em viết lên, nhớ thương lo lắng cho mình. Em chưa hay rằng chị sẽ phải xa em – không lẽ lúc chia tay em, chị em ta lại yếu đuối uỷ mị? Nhưng mới là việc chia tay để về dưới xã mà em đi còn chưa dứt nữa, thì lên khu chị làm sao đi cho đành hở em?

 

2.4.69

Địch đổ quân vào Đồng Răm, từ đó vào đây không đầy ba mươi phút – Lại chuẩn bị chống càn.

Đêm nay bệnh xá im lờn trong sự chuẩn bị. Không hiểu sao lòng mình thấy tha thiết thương những đồng chí thương binh, vết thương chưa lành đã bò từng bước, leo hết núi này qua núi nọ trốn địch. Các đồng chí không được yên khi đang nằm điều trị vết thương còn đau nhức. Còn giặc Mỹ, còn khổ đau – có cái gì khác hơn đâu!

 

5.4.69

Nếu em biết chị đã mong em như thế nào thì chắc hôm nay em đã ở đây, đã ngồi bên chị, lặng yên cầm bàn tay chị không nói mà cũng đủ hiểu được mọi điều muốn nói giữa chị em minh rồi: Trời mưa như trút nước, lạnh, buồn vô cùng – hiểu thế không hở đứa em trai yêu quý?

 

6.4.69

Sao lại thế nhỉ? Sao lại không có niềm vui hồ hởi tràn trề khi đã gặp lại em sau bao ngày nhớ thương tràn dâng như mặt nước sông ngày mưa lũ. Sao lại có một nỗi buồn và một cái gì không thoải mái cứ quẩn bên chân ta không cho ta đến với em bằng tình cảm trong lành tha thiết mà lẽ ra em được hưởng? Vì ngại dư luận hiểu sai đi một tình thương hết sức cao quý, hết sức mộc mạc nhưng cũng vô cùng sâu sắc phức tạp Cái sâu sắc thì không có gì phải bàn nhưng cái phức tạp là ở chỗ tại sao lại vẫn phải có những điều e ngại khi mà lòng ta trong sáng như một tấm gương. Khi em cầm bàn tay chị, trân trọng yêu thương hôn lên bàn tay đó lẽ ra chẳng có gì phải suy nghĩ, nhưng rồi cũng lại ngại họ hiểu lầm. Em ơi, dĩ nhiên rằng không có gì xâm phạm được tình thương cao đẹp đó nhưng vì muốn bảo vệ như vậy đó cho nên chị không muốn một ai có thể nói một câu nào ve tình thương giữa chị em ta – cho nên em đừng trách sao chị không đối với em như một đứa em hoàn toàn ruột thịt trong cách cư xử hàng ngày. Hiểu không hở em trai của tôi? Đứa em kỳ lạ, đứa em thông minh, dũng cảm và đáng yêu đáng phục vô cùng.

 

7.4.69

Được rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập. Thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ trên khu trên tỉnh, trên huyện dưới xã ai ai cũng gửi đến mình lòng thương mến thiết tha. Những lời khen ít nhiều cũng làm mình sung sướng: “Được mọi người thương bạn mến, Đảng tin…”, “Thật là một người trí thức toàn diện…”.

Không biết bao nhiều lần mình tự hỏi phải làm gì đây đề xứng đáng với lòng tin của mọi người.

Thư anh Tân cũng làm mình suy nghĩ nhiều, anh nói cho mình nghe về con người anh rồi hỏi: “Con người ẩy xa bay gần là tuỳ em suy nghĩ, và em xem người ẩy có phải là người anh trai chí thiết của em không?”. Rất phục anh, rất mến thương anh, không phải vì anh là một đồng chí Bí thư Huyện uỷ. Rất muốn được anh dìu dắt trong sự giáo dục và tình thương của một người anh trai. Chỉ ngại một điều không hiểu mọi người có cho rằng mình dễ dàng, rộng rãi trong anh thương và muốn quan hệ với những ông to không? Chắc không đâu nhỉ.

 

8.4.69

Địch càn vào gần đến máng nước. Còn một chút xíu nữa là cơ đồ của bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao mình bình tinh lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi mình quay lại đứng trong phòng mổ. Mình muốn thử xem nếu địch vào đến đây mình có đủ can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó mình lại ngủ ngon lành trong căn phòng trống trải, lộn xộn giữa cảnh chạy càn.

 

Chương 10

 

9.4.69

Sang họp huyện đoàn, ý kiến mình được các đồng chí đánh giá cao và thảo luận kỹ. Rất tiếc là vì bận nhiều công tác quá nên không thể đóng góp tích cực hơn trong công tác thanh niên.

Không hiểu sao mình bỗng so sánh lại địa vị mình trong bàn hội nghị hôm nay với mình trong những lúc đùa giởn cùng Vinh, Xê, Quảng, những cô bé phục vụ. Lúc đó mình là chị Thùy hay làm nũng và nghịch ngợm của bọn nó còn bây giờ mình là một cán bộ với trách nhiệm nặng nề mà Đảng đã tin cậy giao phó cho mình.

 

11.4.69

Mấy phút ngắn ngủi giữa đông đúc mọi người mà sao mình vẫn hiểu và vẫn cảm thấy đôi mắt thân yêu ấy cũng nói rằng im lặng nhưng vô cùng cảm thông. Tạm biệt đôi mắt đen thân yêu nhé.

 

12.4.69

Cái gì mong đợi, cái gì không thoả mãn mà sao cảm thấy bực bội trong lòng? Về cá nhân có lẽ không đòi hỏi gì. Đòi hỏi gì nữa, mọi người đã nâng niu chăm sóc mình, cuộc đời vẫn đem lại màu xanh hy vọng trải ra trước mắt mình tuy rằng cũng có những đám mây mờ che phủ một góc trời.

Vậy thì công tác làm mình băn khoăn ư? Rất có lý, công tác vẫn nặng nề mà người không có – sợ sợ không đảm bảo chất lượng công tác.

Và còn gì nữa hở Th.? Nỗi buồn, nỗi nhớ sao cứ đè nặng lên trái tim Th.? Khi mà lẽ ra trái tim đó phải hoàn toàn là của Đảng! Nhưng… Đảng không nói rằng trái tim cộng sản chỉ biết có lý trí, biết công việc mà vẫn phải có yêu thương, hy vọng . . . cho nên cũng không thể trách được Thùy!

 

15.4.69

Thêm một người thân yêu trong những người thân yêu trên mảnh đất miền Nam này. Như vậy là từ nay anh là anh trai của em đó sao anh Tân? Hơi bỡ ngỡ khi nghĩ rằng giữa trăm nghìn công việc bận rộn của một đồng chí bí thư Huyện uỷ anh vẫn dành cho em – đứa em gái miền Bắc mà anh coi như ruột thịt – những suy nghĩ, lo âu và thương nhớ.

Đúng như lời Nghị trong lá thư từ miền Bắc gửi vào hôm nay: “Cuộc cách mạng của chúng ta thật kỳ diệu, bởi vì nó mở rộng tình thương và tầm mắt cho chúng ta nhìn thấy một thế giới đẹp đê hơn, ở đó ngọn lửa yêu thương đang rực sáng dù hôm nay cuộc sống còn gian khổ đau thương”.

Anh Tân ạ, anh có thể tin ở em, tin ở lòng chung thuỷ, tin ở sự chân thành trong tình cảm của một đứa em gái.

 

17.4.69

Ngồi bên em, nghe hơi thở em mệt nhọc, nóng bỏng qua lớp chăn, nóng trùm trên người, lòng mình thấy thương xót đến vô hạn. Muốn ôm em trong lòng san sẻ cho em bớt mệt nhọc muốn nâng niu em trong cánh tay mình như một người mẹ nâng niu con lúc con đau ốm. Tình cảm đó là chính đáng nhưng… không thể làm như điều mình nghĩ được vì có phải rằng ở trên đời này ai cũng hiểu được tình cảm cao quý đó đâu. Không phải rằng không có những đôi mắt dòm ngó, những lời nói ra nói vào rất đáng ghê tởm.

Buồn vô cùng! Bao giờ cho xã hội hết những tư tưởng lạc hậu ấy? Bao giờ để con người hoàn toàn sống bằng lòng ưu ái bằng tâm hồn trong sáng như mình mong ước. Em của chị ơi! Hay hiểu tình thương của chị trong bàn tay chị nhẹ nhàng đặt trên trán em, trong cái nhìn thắm thiết yêu thương thay cho lới nói mà chị không được nói cùng em nhé.

 

22.4.69

Có một nỗi nhớ da diết khi chia tay. Không phải rằng không có gì để nói cho hết những suy nghĩ của mình cho em nghe, nhưng nói gì cũng không đủ để em hiểu hết tình thương của mình. Còn em cũng vậy, em ngồi bên chị, đôi mắt buồn mênh mông và lời em ngắt quãng vì xúc động. “Lần này xa chị sao em thấy buồn hơn bao giờ hết, mơ ước sống gần bên chị vậy là không đạt được. Xa chị lần này biết bao lâu nữa mới gặp lại?

Biết nói sao cùng em đây Nói sao khi lòng chị cũng thắm thía nỗi buồn và còn như có gì lo lắng băn khoăn. Tháng Năm ác liệt sẽ đến, máu xương cũng còn phải đổ nhiều vì thắng lợi cuối cùng. Nếu như em cũng là một trong những liệt sĩ đó thì làm sao hở em? Em nói với chị rằng nếu em có hy sinh thì chị cũng hãy cứ coi như em vẫn còn bên chị, còn bóng hình em thân thuộc, còn lời em thắm thiết tin yêu. Em không nói thì mọi chuyện vẫn thế nhưng như vậy thì đau khổ đến mức nào. Lẽ nào chị lại thấy niềm hạnh phúc trọn vẹn khi không còn em trên đời này nữa ? Không, em mãi mãi vẫn còn bên chị nghe em, em đừng đi đâu cả nghe em!

 

24.4.69

Những va chạm đâu tiên nói với mình rằng: “Đừng dễ tin người quá. Tình thương phải chứng minh bằng thực tế, không phải chỉ trên những lá thư. Bài học đó nghe Thùy! Đời vẫn đầy rẫy những con sâu địa vị, những gai góc của hạt giống kèn cựa cạnh tranh nhau từng chút uy tín, từng chút quyền lợi. Cho nên không có gì đáng ngạc nhiên, chỉ đáng nói với chính bản thân mình rằng hãy cảnh giác và cảnh giác cao hơn nữa. Thực tế mình đã gặp rồi đó, M., Nghĩa chẳng phải là một bài học đó ư Thuỳ?

Ôi! Cô bé của tôi hai sáu hai bảy tuổi rồi mà tâm hồn vẫn chưa có được cái dày dạn cần thiết của một kẻ đã sống gần một nửa cuộc đời. Phải giảm bớt đi cái yêu thương thơ mộng, giảm bớt đi lòng trong trắng thơ ngây. Phải thêm vào cái suy tính, cái thủ thế trên cương vị công tác, thêm vào cái khôn ngoan mưu trí của một kẻ đứng ở vị trí mà nhiều người thèm muốn…

Thùy ơi! Th. muốn sống với lòng tin trong trắng với niềm hy vọng xanh tươi, với sự yêu thương nồng thắm ưu ái với cuộc đời một cách trọn vẹn, nhưng không được đâu Th. nhé.

 

26.4.69

Chị Xuyến về không đem lại tin vui mà chỉ có những nỗi lo buồn. Mình cố giữ nét bình thản trong câu chuyện nhưng thực ra lòng mình biết mấy xót xa. Em vẫn đau. vẫn mệt mà khó khăn nguy hiểm vẫn đe doạ quanh mình em. Mình hình dung thấy một đôi mắt long lanh buồn trên khuôn mặt xanh gầy của em. Không hiếu phải làm những gì đây để bảo vệ đứa em rất đỗi yêu thương đó.

 

27.4.69

Có lẽ không gì buồn hơn cái cảnh chạy càn để lại những ngôi nhà hoang vắng, đồ đạc đã dọn sạch trơn và vắng lạnh không một bóng người. Chiều nay mình từ ngoài rừng trở lại bệnh xá địch cách không xa – Mình nhìn lại những nếp nhà thân yêu mà lòng trào dâng một nỗi căm hờn. Những mái nhà này ghi nhận biết bao công sức của chúng ta. Bao nhiêu mồ hôi đã thấm trong từng cọng tranh, từng hòn đá xây nên những cơ sở này. Và nếu ra đi thì biết bao giờ mới có được một cơ sở điều trị như ở đây nữa. Không bi quan nhưng sao cứ lo âu suy nghĩ và xen lẫn một nỗi buồn kỳ lạ.

Đêm qua một giấc mơ hoà bình đã đến với mình giữa nhà lộn xộn vắng vẻ của cảnh chạy càn đó. Mình mơ Hà Nội với những căn phòng lộng mát sơn màu vôi nhạt của trường Chu Văn An, mơ thấy quyển sổ chép nhạc với hình ảnh một mở tóc vàng tơ của bé Thanh Trà và bông cúc của Hảo đính trên đầu quyển sổ đó. Và mình đã gặp ba má, gặp cậu Hiền, gặp anh Biểu và tất cả mọi người thân yêu ngoài Bắc. Ôi, giấc mơ đâu là của riêng mình mà giấc mơ Hoà bình độc lập đã cháy bỏng trong lòng ba mươi triệu người Việt Nam…

Đêm nay trăng mờ giữa khu rừng vắng vè, mọi vật đâu lặng thinh như chung một ý nghĩ là bảo vệ sự yên lặng của bệnh xá.

Ngồi một mình trên chiếc ghế trước phòng mổ, lặng ngắm cảnh vật xung quanh… không thể nào ngăn được một nỗi buồn mênh mông đang thấm mãi trong lòng. Ngày mai bệnh xá sẽ đi vào kế hoạch chống càn một cách quy mô.

 

28.4.69

Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.

Chưa đến sáu giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay xách nách mang theo anh em.Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt – nhưng không thề chân chừ nghỉ cho ráo mồ hôi được, mình đành đọng viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.

Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã đến trạm trực nên quay vào bảo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân hối hả chạy.

Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đống chí ạ!” – Mình nói mà lòng thấy băn khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.

Mấy cas thương được chuyền đi, cỏn lại Kiệm một thương binh cố định gãy xương đùi. Không biết làm sao mình gọi Lý – con bé học sinh lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc, mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển dùm. May quá lại gặp Minh, Cơ hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đã bắn chết đồng chí Vận – thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy. Xuống hố trốn tạm một nơi.

Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại – chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ thì vắng chín đồng chí.

Bọn mình quyết định chuyển về Hố Sâu lợi dụng địa điểm và lương thực của đơn vị 120 như dự kiến đã bàn từ hôm trước.

Một cuộc di chuyển cực khổ vô cùng, chắc nó cũng như những lần mà bệnh xá bị oanh tạc hoặc tập kích khác, nhưng có khổ hơn vì không biết nhờ cậy vào ai, mấy đứa xưa nay không khiêng thương vì ốm yếu bây giờ cũng phải lãnh một cas thương, trèo đèo lội suối đi về địa điểm mới.

Mệt, đói run chân nhưng mình và các đồng chí vẫn vô cùng bình tĩnh. Dù sao cũng đã trưởng thành rồi qua mấy năm ác liệt.

Bốn giờ đến địa điểm.

Và đêm đến khu rừng tràn ngập trong ánh trăng. Sau khi thăm lại các thương binh không có gì diễn biến trầm trọng, mình trở về nằm vắt tay lên trán ngắm ánh trăng rực rỡ không thể không suy nghĩ.

Hai năm tròn rồi đó, cũng vào tháng tư, cũng giữa mùa trăng mình về nhận công tác tại Đức Phổ giữa lúc bệnh xá đã tan tành sau một cuộc oanh tạc. Bây giờ lại tháng tư ở miền Nam chói chang. Và nỗi căm thù cũng nóng bỏng như ánh nắng mùa hè đó. Chiều nay đứng trên một đỉnh núi cao nhìn về khu vực bệnh xá cũ thấy khói bốc lên nghi ngút mà mình rưng rưng nước mắt. Vậy là biết bao nhiêu mồ hôi công sức, bao nhiêu của cải tài sản nhân dân đã dành dụm nuôi thương binh từ đó đến nay đã cháy hết thành tro bụi! Biết nói đây sao hở các đồng chí? Biết nói gì khác hơn một câu triết lý bất di bất dịch của mỗi người dân Việt Nam là “Không có con đường nào hơn là phải đánh cho không còn một tên đế quốc Mỹ nào trên đất nước chúng ta, lúc đó mới có thể có hạnh phúc”.

 

29.4.69

1h30 thức dậy giữa đêm khuya. Rừng im lặng mênh mông trong ánh trăng mờ. Đài Giải phóng đang trình bày một bài vọng cổ âm điệu của bản nhạc buồn và thấm sâu vào lòng người nghe. Bất giác mình thấy nhở nhà một cách kỳ lạ. Phải chăng cảnh rừng khuya trầm mặc đã làm mình thấy cô đơn? Phải chăng cảnh gian nan không nhà không cửa làm mình nhớ đến căn phòng ấm cúng trong đó có ba má và cả cải gia đình đầm ấm của mình? Nhưng Thuỳ ơi, đêm nay đâu phải riêng Thuỳ cô đơn không nhà không cửa mà bên Th. còn bốn mươi con người, có cả những đồng chí thương binh vết thương còn đang nhức nhối cũng chịu cảnh như Th. Và còn cả triệu người dân miền Nam còn đang ngập chìm trong khói lửa đau thương và căm thù. Hẳn Th. biết như vậy chứ?

 

2.5.69

Giữa khó khăn mình không đơn độc, quanh mình biết bao anh em đồng chí bạn bè đâu nóng bỏng lo âu cho anh hình bệnh xá. Trong hàng loạt lá thư tới tấp gỉ ri vẻ có một lá thư làm mình xúc động vô cùng, lá thư mang nặng tình thương, nặng trĩu lo âu và thiết tha vô hạn. Cảm ơn tất cả mọi người! Hứa với tất cả rằng chúng tôi và riêng tôi sẽ bình tỉnh vượt qua mọi khó khăn, đứng vững với tư thế một người chiến thắng.

 

3.5.69

Gần một năm mới trở lại Phổ Cường. Mảnh đất thân yêu mà mình đã coi là quê hương ấy vẫn như xưa. Những người dân Phổ Cường cả quen lẫn lạ nồng hậu đón tiếp mình. Vậy mà không hề thấy vui. Những người thân yêu đều đi vắng không gặp ai cả. Đáng lại đau, con bé giận dỗi mình vì nói sao mình cũng không chịu ở lại một ngày nữa rồi hãy về. Cái giận dỗi của con bé vô tình làm mình buồn thêm. Nằm bên nó trăng sáng mênh mông mà không sao ngủ được. Em yêu thương ơi sao không có em ở đây. Lòng em tha thiết yêu thương chị nhưng em không san sê cho chị những nỗi nhớ niềm thương thương khi mà chị đang chờ em đến. Biết là mình sai vì không thể trách ai được cả, Mỹ còn đó, làm sao ai có thể đi đâu được. Vậy mà cũng thấy bực bội trong lòng! Ôi! Cô bé Thuỳ ơi, cô vẫn là một đứa trẻ con, cô vẫn để cho tình cảm lấn áp những điều mà lý trí đã thấy rõ ràng.

 

11.5.69

Bệnh xá bắt đâu vào thời kỳ xây dựng. Mọi người tập trung cho công tác đó. Riêng mình và Liêm – Vinh – anh Sáu – chị Xăng ở lại nhà với thương binh.

Chiều nay, một buồi chiều oi ả, trong cái thung lũng này gió không đến được. Không khí nặng nẻ. Quanh trời tiếng máy bay địch gầm gừ, tiếng vang rén của bom pháo không ngớt… Một câm giác lo âu đè nặng tim mình. Còn bấy nhiêu cán bộ, sáu cas thương phải khiêng. Toàn bộ tài sản tập trung tại đây- địa hình xung quanh rất khó rút lui – Nếu địch đồ quân xuống… làm sao giải quyết cho được.

Từ đây đến ngày thắng lợi không xa nữa nhưng đoạn đường ấy bao nhiêu là xương máu hở các đồng chí thân yêu? Không hề bi quan nhưng mình cảm thấy rằng sự hy sinh là lẽ tắt nhiên của mọi người trong giai đoạn này.

 

12. 5. 69

Những buổi nói chuyện với anh Long để lại cho mình những suy nghĩ khá đậm nét Không phải đến hôm nay mình mới biết anh mà mình đã biết từ những ngày bệnh xá còn gian nan xây dựng. Người thủ trưởng ấy dáng người mảnh khảnh, nước da trắng, đôi mắt vui cười nhìn mình trìu mến: “Cố gắng nghe em, cố gắng để học tập trưởng thành trong chuyên môn và lãnh đạo”. Anh xoắn tay cầm con rữa lặn lội trong mưa đi làm với anh em. Ít lâu sau anh đi, tuy chỉ gần mình ít lâu nhưng anh rất thương mình. Những lá thư gửi về bao giờ cũng thắm tình mến thương và quan tâm lo lắng.

Thuận, anh Kỳ nhiều lần giới thiệu vê anh “Một con người ít có”. Và Thuận có lẫn nói: “Đời em chỉ thương và phục nhất có hai người về cách sống, đó là anh Long và chị”. Thằng nhỏ đã quả thương mà đề cao mình, nhưng với anh Long thì đúng như vậy.

 

13.5.69

Xuống Phổ Cường sau khi xảy ra trận tác chiến ở đây. Không khí còn nặng mùi trận địa. Bộ đội đang giải quyết thương binh và tử sĩ. Không hiểu sao niềm vui chiến thắng (diệt 98 tên địch, bắn rơi một HU-1A, một xe tăng) không át nổi được cái buồn. Đó chỉ là cảm giác của riêng mình hay là của mọi người? Mười lăm đồng chí bộ đội hy sinh, hai mốt cas thương binh – con số đó đâu phân là nhỏ?

Xóm thôn im lặng , súng địch phản ứng nổ như bắp rang. Mình không thấy sợ mà chỉ thấy căm thù và suy nghĩ.

Ngồi bên em (phải chăng đó là điều mà cả hai chị em mình cùng thiết tha mong ước). Nhưng sao niềm vui không trọn vẹn. Trong bóng đêm chỉ có ánh sao và pháo sáng địch soi rõ. Mình cố nhìn xem đôi mắt long lanh của em muốn nói những gì nhưng không thấy gì hơn, cũng chỉ là cái nhìn thắm thiết yêu thương từ trước đến nay. Và cũng như bao lần khác em ngồi lặng lẽ bên mình không biết nói gì.

Cả mình và em đâu như nhau, không bao giờ thoả mãn trong mọi mặt – công tác và tình cảm. Bao giờ cũng thấy còn thiếu. Đó là cái ham tiến bộ hay cái tham vọng quá cao chị em mình?

 

18.5.69

Chiến sự vẫn tiếp diễn, suốt đêm ngày tiếng súng vẫn nổ rền, tiếng máy bay vẫn gào xé trong không gian và đêm đêm pháo sáng vẫn sáng rực cả góc trời phía quận. Cuộc chiến đấu ngày càng gay go ác liệt, bộ đội của ta đêm ngày nằm sát trận địa, nắng lửa và bom đạn làm đen sạm nước da các anh. Ôi những người anh giải phóng, trong trăm nghìn gian khổ nguy nan, anh là người chịu nhiều nhất, máu các anh đã chảy thấm ướt cả ngọn cờ và cả mảnh đất mà các anh đang bảo vệ. Những lúc này đây sao tôi bỗng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết cái hy sinh anh dũng của các anh cao quý, thiêng liêng biết chừng nào… Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài miền Bắc. Cũng có nhiều người mới từ những ngày hoà bình bước vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu nước. Vậy đó, cả nước đã lên đường…

* * *

Sao mình lại xử sự với em như vậy? Chắc sẽ làm em buồn. Nhưng mình là vậy đó , hình như với ai cũng vậy, cũng có lúc mình gây cho người thân những nỗi đau buồn. Đâu phải vì tính mình mà là vì tình thương ở mình phức tạp quá, mình đòi hỏi quá cao ở người thân. Về vật chất thì không, không bao giờ mình đòi hỏi nhưng về tinh thần mình lại đòi hỏi cao hết sức. Thuận đã bao nhiêu lần nói rằng thương mình cao hơn hết mọi người trên đời trừ cha mẹ. Vậy mà mình cũng vẫn có lúc nghi ngờ tình thương ấy. Nghe tình hình Phổ Cường căng thẳng, biết em vất vả nhiều, muốn làm lành với em vậy mà cũng vẫn gửi lá thư đi, lá thư có mấy dòng đầy trách móc. Em ơi, bao giờ chị cũng thương em vô hạn nhưng tình thương đâu phải là chỉ những buổi sáng nắng hồng rực rỡ, những buổi chiều êm ả hay những đêm trăng mênh mông trên đồng lúa yên lành. Mà tình thương còn là những cơn giông sau những ngày hè êm ả. Vậy đó, làm bạn với một đứa tiểu tư sản thực là phức tạp.

 

20.5.69

Suýt chết một lần nữa. Sáng nay mấy chiếc HU-1A và một chiếc tàu rọ quân sát dưới hố sâu. Ngồi quan sát mức độ rà kiếm của nó mình thấy hết sức lo. Quả nhiên sau một vòng quần thấp sát ngọn cây chúng đã phát hiện được một phòng thương binh ở. Tiếng lựu đạn nổ chát tai, lửa loé sáng rực và khói trùm toàn bộ lên nhà. Mọi người vội chui xuống hầm – Hầm rất cạn nhưng có cách nào khác hơn – Mình thầm nghĩ, chắc lần này khó thoát.

Chiếc rọ vừa quần ra xa, mình vụt chạy lên phòng thương binh, mọi người cũng đã xuống được hầm kể cả các ca cố định. Chiếc rọ lại quần tới nơi, vòng lượn của nó thu hẹp dần, lựu đạn ném tới tấp quanh nhà. Tiếng rocket nổ long trời ngay đầu dốc chỗ phòng I.

Mình quay sang anh Minh – một bộ đội bị thương đang nằm viện:

– Giải quyết sao giờ anh Minh?

– Ngồi đây chứ biết làm sao giờ?

Mình bỗng nghĩ đến những người thân yêu trên cả hoài miện và tự nói: Cái chết đơn giản quá! Mọi người chỉ chờ một cách tuyệt vọng rằng pháo bom sẽ giội xuống tan nát khu rừng bé nhỏ này, nhưng sau ba mươi phút bắn phá bọn quỷ kéo nhau đi.

Mình chạy lên, lật đật cho di chuyển thương binh. Cõng thằng Khâm trên lưng mệt nhưng vẫn thấy sung sướng. Qua trận bắn phá không ai tổn thất gì. Đó là điều sung sướng nhất rồi.

Ngay ngày hôm đó toàn bộ chuyển về vị trí mới.

Chao ôi, những ngày gian khổ của giai đoạn cuối cùng!

 

24.5.69

Về sống Phổ Cường giữa lúc trận tác chiến mở ra. Hai giờ súng bắt đầu nổ. Bom, đạn, pháo, máy bay tất cả tạo nên một âm thanh phức tạp, thứ âm thanh vẫn thường nghe thấy trong những cuốn phim chiến đấu. Nghe súng nổ mình hơi lo, bọn mình đã sát trong vòng trận địa. Chưa kịp đi đâu đã thấy Thuận chạy ra bất kể máy bay trên đâu, em lo lắng gọi mình về công sự nấp.

Đêm hôm đó mình cùng em chứng kiến một đêm của chiến trường. Địch phản ứng dữ dội vô cùng, phản lực thả bom khắp xóm, tàu hai thân chiến đấu quần lượn chiếu đèn pha và đổ từng dòng đạn xuống trận địa. Giữa trời đêm từng viên đạn đỏ rực như lửa chậy xối xuống trận địa, xối cả vào tim mình. Ai sẽ phải hứng những luồng đạn đó? Có phải anh không hỡi những người giải phòng quân đã cùng tôi xuống đường đêm hôm trước? Những Lâm, những anh Đến… và bao nhiêu người khác nữa. Suốt một đêm không ngủ, lo âu, căm thù, nặng trĩu tâm tư.

 

25.5.69

Những ngày sống bên em đã chứng minh thêm những điều em đã nói. Quả thực không ai được em đối xử như đối với mình. Trong mối quan hệ ấy nó bao gồm tất cả ý nghĩ quan miệm của em về tình thương, nỗi nhở. Đó là sự tôn trọng, đó là sự lo lắng quan tâm, thương yêu, chiều chuộng hết sức cho mình. Từ câu nói, cái nhìn, từng chén nước rót đem đến cho mình, từng mũi tiêm mà em năn nỉ tiêm trên cánh tay mình khi đau ốm. Tất cà đều chứng tỏ một điều là em thương chị hơn tất cà mọi người. Thế thôi! Đó là một điều có đúng không em?

 

4.6.69

Vẫn là những ngày căng thẳng, địch đổ quân sát bên nhà. Chúng la hét, chặt cây ầm ĩ cả khu rừng. Bệnh xá im lìm căng thẳng đến tột bậc.

Đang công tác ở Phổ Cường, nghe báo tin mình lặng người lo lắng, chén cơm bưng trong tay không sao ăn tiếp được nữa. Chẳng lẽ cứ thế này mãi sao. Vừa xây dựng được mấy bữa lại lo chạy – Bao giờ mới tiếp tục được nhiệm vụ (không rõ chữ) ? Lo buồn và uất ức lạ. Có cách nào đâu chứ không lẽ bó tay chạy dài mãi sao?

 

Chương 11

 

5.6.69

Địch triển khai thêm, không thể ở đó được nữa, đêm nay đa số cán bộ và thương binh dẫn nhau chạy xuống Phổ Cường. Tối không trông rõ mặt người nhưng có lẽ ai công cảm thấy rất đây đủ những nét đau buồn trên khuôn mặt từng cán bộ và thương binh. Mình lo đi liên hệ giải quyết công tác đến khuya mới về, thương binh đã đi ăn cơm xong – nằm ngổn ngang trên thềm nhà Đáng, một vài người đã nghỉ, số còn lại khẽ rên vì vết thương đau nhức.

Còn lại trên đó ba cas cố định chưa có người khiêng, một số cán bộ lanh đạo còn trên đó, ưùnh cắn trở về. Trở về lúc này thật gay go, không hiểu địch nằm ở đâu. Nhưng biết làm sao, yêu cầu công tác đòi hỏi mình phải trở về, dù chết cũng phải đi.

Đêm rất khuya rồi, không ai chợp mắt.. Thuận ngồi lặng thinh bên mình, em không nói một lời nào, mãi đến lúc chia tay em mới nói một câu ngắn “Chị làm sao chứ em lo quá đi” và mình thì không nói hết một câu “chị gửi ba lô cho em, trong đó có quyển sổ…” muốn nói tiếp rằng nếu chị không về nữa thì em giữ quyển sổ đó và sau này gửi về gia đình. Nhưng mình không nói hết câu: Trong ánh trăng mờ hai chị em đều đọc được trong đôi mắt người thân của mình một nỗi buồn ly biệt. Em đi rồi và mọi người khác cũng đã đi hết, còn một mình trên chiếc thềm vắng nhà chị Tính, không hiểu sao nước mắt bỗng tràn trên đôi má của mình. Khóc ư Thùy? Đừng chứ, hãy dũng cảm kiên cường trong mọi tình huống, hãy giữ mãi nụ cười trên môi dù trăm nghìn vạn khó khăn nguy hiểm đang đe doạ quanh Thùy.

 

11.6.69

Chính phủ Lâm thời ra đời. Đó là một sự kiện lịch sử, cuộc cách mạng đã tiến thêm một bước dài quan trọng. Mừng vui vì thắng lợi đó nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy cái ác liệt của chiến trường.

Suốt đêm ngày không gian nảo động vì tiếng bom pháo, tiếng phản lực gào thét, tiếng tàu rọ, HU-1A quần lượn trên đầu. Khu rừng đầy những vết bom đạn, nhũng cây còn lại bị úa vàng vì chất độc. Cả người cũng đã bị ảnh hưởng chất độc, toàn thể cán bộ đều mệt mỏi bơ phờ tay chân rũ rượi ăn uống không nổi. Ai cũng muốn động viên chính bản thân và động viên đồng chí mình vậy mà vẫn có những phút cái lo âu hiện lên rõ rệch và đằng sau nó thấp thoáng bóng dáng của sự bi quan.

 

13.6.69

Xuống Phổ Cường. Ra đi niềm vui hồ hởi vì hy vọng rằng dịp này sê có điều kiện về sống giữa tình thương của những người thân trong một hai ngày trước lúc bắt tay vào thu dung. Nhưng vừa xuống đến nơi gặp Thuận, em báo tin chuẩn bị đón thương của đơn vị 120 sau đêm đánh quận. Ba cas thương nặng trong đó có Tâm. Nghe báo, đầu óc mình chỉ còn tập trung vào có chuyện đó. Mười giờ thương khiêng lên. Đồng chí Lợi vết thương… (nhoè không rõ chữ) tình trạng hấp hối. Đồng chí Thành vết thương trung bình. Còn Tâm … cậu bé Phổ Cường với giọng hát rất hay với đôi mắt to và tính nết rất dễ thương thì… một chân đã bị mìn tiện cụt. Em nằm li bì, biểu hiện choáng nặng. Tập trung vào cấp cứu mà lòng mình nặng trĩu xót thương. Đâu phải chỉ có bấy nhiêu máu xương phải đổ? Còn nhiêu và rất nhiều nữa. Cảnh giác nghe em! Mình nói với em của mình mà biết mấy lo âu. Suốt một đêm dài mọi người đều không ngủ, mệt mỏi, và thương xót làm mình bải hoải.

Ba giờ sáng ra đi, em đưa mình ra tận đường lên đèo ải. Em của tôi ơi, đừng bao giờ xảy ra điều gì rủi ro nghe em.

 

16.6.69

Những kỳ niệm không bao giờ quên, không thể nào quên nhưng ta sẽ nghĩ gì khi nhớ lại kỳ niệm đó? Buồn? Vui? Ân hận? Hay là gì hở Th.? Hở cô gái đã từng biết xử trí một cách đúng đắn trong mọi tình huống khi mà cuộc sống tình cảm diễn ra phức tạp hết sức!

 

17.6.69

Đâu phải chỉ là tình thương! Tình thương không thể có được cái nóng bỏng thiết tha, không thể có sức mạnh chi phối toàn bộ suy nghĩ tình câm của một con người. Vậy thì nói sao đây Trước đây, bây giờ và cả về sau bao giờ mình cũng biết bắt con tin làm theo suy nghĩ của khối óc cho nên những sai lắm người ta thường mắc thì mình không bao giờ mắc phải đâu. Nhưng có một điều ở đây làm mình ngạc nhiên và khó nghĩ vì nếu gọi là sai ầm thì không phải mà nếu coi là một điều đúng hẳn thì càng không phải. Sao đây? Ôi! Cuộc đời biết mấy phức tạp và cuộc chiến tranh ác liệt này lại làm cho cuộc đời phức tạp hơn cả triệu lần.

Đêm tối, mà bảu trời vẫn rực sáng? Vì ánh chớp, vì ánh lửa của những trái pháo hay vì một đôi mắt đen rực sảng tình thương. Trời mùa hè oi bức hay sức nóng của tình thương làm mình thấy ngột ngạt – Buồn vui lẫn lộn – Mà không, vui gì đâu. Chỉ nó nỗi buồn đè nặng lên trái tim mình, trái tim khao khao khát tình thương nhưng lại rất hiểu rằng cần một tình thương như thế nào đó nó mới sống được. Trái tim ấy chỉ biết nhận những dòng máu nóng trong sạch chứ không thể tiếp thu những dòng máu bệnh tật. Dĩ nhiên không có máu thì trái tim sẽ chết nhưng thà là chết mà giữ mãi cái cao quý của trái tim một người cộng sản, một con người chân chính.

 

18.6.69

Được thư nhà, những lá thư đượm màu sắc hoà bình. Những con đường đỏ rực hoa phượng và căn phòng nhỏ thơm ngát hương sen. Chiếc tủ radio quen thuộc giữa nhà. ôi! Các em của tôi ơi, khung cảnh ấy xa vời quá, chị Thùy của các em chỉ biết có những dòng đạn lửa đỏ rực giữa trời đêm, chỉ biết có mùi thuốc pháo hăng xộc vào mũi, chỉ biết có những buổi chia tay trong lo âu… cho nên cảm thấy buồn buồn khi đọc những trang thư của các em.

Độ này rất nhiều người đi Bắc, họ ra đi hồ hởi vui tươi, nhưng khi đến chào mình hình như họ không dám biểu lộ niềm vui ấy. Còn mình cười rất tươi tiễn họ lên đường nhưng rồi sau đó một mình mình đứng lặng hồi lâu không biết nói gì Thùy ơi, đừng buồn Th. nhé, hẹn ngày mai khi nước nhà độc lập Th cũng sẽ đi về phương Bắc, lúc đó chác niềm vui sẽ vẹn toàn.

 

25.6.69

Địch càn càn lên rất sớm, mới sáng dậy chưa kịp ăn uống gì đã phải chui xuống đất. Hơn một năm rưởi mới trở lại nằm công sự nóng nực làm mình mệt phờ. Tình hình địch rất căng, quân chúng rải đầy khắp ba thôn trong xã. Lính Mỹ + ngụy + cảnh sát dã chiến. Công sự mình nằm cách địch không xa, bốn đứa đã xuống nhưng chưa kịp đậy nắp vì nóng nực. Đến trưa Tẩn đứng cảnh giới có vẻ mệt nó ngồi xuống cạnh mình kể lại cảnh càn quét phía trên của địch đang diễn ra. Bỗng có tiếng la của một thằng ngụy, Tẩn ghé mắt nhìn lên và hốt hoảng đóng nắp công sự. Thằng ngụy đã mò đến cạnh chỗ bọn mình ở, chỉ còn cách độ năm mét. Chiếc nắp công sự bị đóng lại một cách vội vàng vẫn còn trống trải, mình nghe bước chân địch sột soạt qua bụi dứa dại và tiếng la hét gọi nhau. Tiếng em thì thầm bên tai:

– Rủi ro mình hy sinh thì sao chị?

– Thì thôi chớ sao!

– Không, em không chịu đâu, em thì đã đành, còn chị rồi ba má sẽ nghĩ sao…

… (nhoè không đọc được) nhìn mình cháy bỏng lo âu và thiết tha vô hạn. Mình quay đi không dám nhìn vào đó nữa. Trong đôi mắt đó có lời nói của Khơ-riu-chèa với Paven giữa ngục tù. Lòng xao xuyến xót thương, thương em và thương cả chính mình nay. Nhưng có cách nào khác đâu, mình cũng đã làm như Paven trong trường hợp đó.

* * *

Cái chết của Giàu làm mình sửng sốt Trong trận càn hôm nay bọn điệp đã chỉ công sự Giàu ở, mấy trái mìn “mo” và những băng đạn của bọn khát máu đã giết chết Giàu và năm du kích nữa. Mới đêm hôm trước mình gặp Giàu ở Xuân Thành, người y tá trưởng mới của Phổ Cường sung sướng gặp lại mình, anh ta khác hẳn những lần mình gặp trước đây. Có lẽ trong những điều Thuận bàn giao lại cho anh, hình như có cả một điều dù em mình không nói ra, đó là trách nhiệm bảo vệ cho mình, người cán bộ của huyện, người thân yêu của em. Giàu đã nhận trách nhiệm đó một cách đầy đủ. Anh ta thay Thuận dẫn mình đi công tác hết chỗ này qua chỗ khác Khi đêm đã khuya, anh dẫn mình về nhà Thuận và nói khẽ với Thuận: “Bây giờ để chị Trâm ở đây với anh hay là về ở với tôi? Em mình trả lời: “Tuỳ anh”. Giàu đã gửi mình cho Thuận “Nhờ anh bảo đảm giùm cho chị Thuỳ Trâm anh nhé”. Đêm rất khuya anh mới ra về.

Mình không thể ngờ bữa tối cùng đi với anh trên con đường quanh quất trong xóm, cùng ăn với anh những trái dưa gang, những chén cháo khuya trong cảnh đầm ấm của gia đình ấy lại là buổi cuối cùng.

Đêm nay cũng vẫn ánh trăng đó, con người đó, khung cảnh đó nhưng riêng anh thì đã nằm yên dưới ba tấc đất rồi.

Người vợ trẻ của anh trong tay ôm đứa con nhỏ ngồi như một xác chết. Mình không biết nói gì với chị và nước mắt mình rưng rưng khi nghe chị dặn, giọng nghẹn ngào trong nước mắt, “Anh ấy thì đã yên rồi, nhưng còn chị lại và cậu Ba làm sao tránh cho khỏi để rồi lại mất mát”.

Ôi, biết nói làm sao ngoài tiếng nói trả thù. Trả thù cho những người đã ngã xuống và cả cho chúng ta, những người còn sống giữa hờn căm và đau xót.

Em nhìn mình một lần nữa, đôi mắt đen của em nói với mình trong im lặng: “Cuộc sống sao ngắn ngủi quá phải không chị? Ta sẽ làm gì đề đừng phải ân hận khi nhắm mắt xuôi tay”.

 

29.6.69

Vẫn là những cái chết chảy máu trong lòng những người còn sống. Một cas cụt chân do mìn gip mới đến bệnh xá lúc ba giờ mười lăm. Đó là Liễn, đồng chí xã đội của Phổ Cường, mới hôm nào đó anh ta dẫn mình trốn dưới công sự. Hôm nay… Nhìn anh, lòng mình cháy bỏng lo âu, nếu như những người thân yêu của mình cũng gặp trường hợp đó thì sao? Thì cũng thôi chứ biết làm sao.

 

7.7.69

Tạm biệt Phổ Cường để về cánh Bắc công tác một thời gian. Chiều nay rời Phổ Cường, qua đường chiến lược và bước chân vào đoạn đường sinh tử đã được mệnh danh là Khe Sanh.

Rời mảnh đất thân thương lòng mình thấy xao xuyến nhớ nhung, mảnh đất nghèo này đã gắn bó với mình biết mấy. Từ những người mẹ, người chị, những cán bộ địa phương đến những du kích ở đây hầu như đâu quen biết, mến thương mình. Đi giữa xóm thôn đâu đâu mình cũng nghe tiếng chào hỏi quen thuộc “Chị Hai” và những bàn tay thân thiết nắm chặt tay mình.

Và… có gì so sánh được với tình thương rất đỗi thiết tha mà em đã dành trọn cho mình tất cả. Em ngồi đó gục đầu trên bàn lo lắng xót xa khi thấy mình đi vào nguy hiềm. Đôi tay em siết chặt tay mình, mình cảm thấy bàn tay em run lên thương yêu lo lắng. Em hỏi mình mà đôi mắt nặng trĩu lo buồn “Chị ơi, chị có về với em không?”.

Muốn động viên em, mình không hề đề lộ cái ý nghĩ đang làm mình lo âu là qua Khe Sanh không biết có chạy được không Mình vẫn cười vui với em nhưng lòng xót xa biết mấy. Cũng có thể đây là lần cuối ta gặp nhau. Em ơi làm sao thu gọn hình ảnh em để mang theo trong những ngày gian khổ, làm sao có được một người em đã dành trọn mọi thương yêu tha thiết nhất cho chị.

Thôi nhé, tạm biệt tất cả, hẹn một ngày không xa lại gặp lại trong niềm vui sum họp.

 

8.7.69

Trở lại ngôi nhà quen thuộc với gốc ô ma và bờ giếng của đất Phổ Hiệp. Gặp lại Nghĩa, Thường và quê hương Phổ Hiệp.

Nói chuyện với Nghĩa một buổi, một buổi cng chưa đủ để san bằng mọi ngăn cách trong tình chị em xưa nay. Nhưng dù sao mình cũng muốn rằng “Trời lại trong xanh sau những ngày mưa bão”. Mình đã tha thứ cho em mọi lỗi lam và lòng căm thấy nhẹ nhàng đôi chút khi thấy em đang trở lại con đường cũ đầy thương yêu của chị em mình.

Tối nay qua Khe Sanh, ai cũng lo cho mình,… (nhoè không không đọc được) và Cho đưa mình đến gần Vinh Phước – Đứa em gái lo lắng làm mình cảm động. Xưa nay mình không thấy hết tình thương của nó, có chăng cũng vì Thuận đã quá quan tâm làm nó phải lo theo, nhưng bây giờ mình cảm thấy tình thương ấy sâu sắc, tự giác. Từ lúc qua đường chiến lược, qua đầm nước đến bữa cơm ăn, Cho chăm sóc mình từng bước đi, từng chén cơm, miếng cá. Chốc lát nó lại thở dài: “Em lo quá, làm sao chị qua Khe Sanh , đạn bom như mưa lại bỏ lại chị một mình thì làm sao? Hay để em đưa chị qua Khe Sanh rồi hãy trở về?”.

Mình vuốt mái tóc em và cười với nó: “Không sao đâu, chị sẽ đi được. Còn rủi ro thì chuyện đó ai lường được!”.

Nhưng đêm đó qua Khe Sanh không một quả pháo, một ánh đèn, tràng đạn nào cả. Hình như địch cũng thương đôi chân yếu đuối của một cô gái quen sống giữa yêu thương, quen được nâng niu, chiều chuộng từ nhỏ.

12.7.69

Những ngày rỗi rãi, có nhiều giờ suy nghĩ. Nghĩ gì đây mà đôi mắt vuông buồn hở cô gái giàu yêu thương suy nghĩ? Dĩ nhiên cái nhớ làm mình thấy nao nao trong dạ. Cánh Nam thân yêu ơi, ở đó những người thân yêu của ta chắc vẫn lo lắng nhớ thương ta, sẽ có một đôi mắt đen thao thức trong đêm dài khi nghe tiếng bom đạn nổ rền ngoài cánh Bắc. Đứng ngoài này mình cố len lỏi đôi mắt nhìn qua những ngọn núi đề nhìn về cánh Nam và nhận ra chỗ núi lở của Phổ Cường. Nhớ thương vô cùng! Mình ra đi, đề lại ở nhà hàng trăm nghìn khó khăn. Trung chắc đã chết rồi, anh bộ đội bị hoại thư cánh tay chắc gì đã qua khỏi… Các anh chị ở nhà chắc vất vả trăm chiều. Thương vô cùng những anh Tự, anh Kỳ, những chị Lãnh, Liên…

Có một điều làm mình thấy khổ tâm là tình thương kỳ lạ của em, tình thương ấy ít đem lại niềm vui trong sáng mà chỉ có nỗi lo buồn, đau xót và suy nghĩ mà thôi. Biết nói sao với em bây giờ, hình như đã có sứt mẻ trong những điều mà trước đây mình cảm thấy không gì có thể xâm phạm. Cuộc đời rồi sê ra sao?

 

14.7.69

Hôm nay là ngày sinh của ba, mình nhớ lại ngày đó giữa bom rơi đạn nổ, mới hôm qua một tràng pháo bất ngờ đã giết chết năm người và làm bị thương hai người. Mình cũng nằm trong làn đạn lửa của những trái pháo cực nặng ấy. Mọi người còn chưa qua cái ngạc nhiên lo sợ. Vậy mà mình vẫn như xưa nay, nhớ thương, lo lắng và suy tư đè nặng trong lòng. Ba má và các em yêu thương, ở ngoài đó ba má và các em làm sao thấy hết được cuộc sống ở đây. Cuộc sống vô cùng anh dũng, vô cùng gian nan, chết chóc hy sinh còn dễ dàng hơn ăn một bữa cơm. Vậy mà người ta vẫn bền gan chiến đấu. Con cũng là một trong muôn nghìn người đó, con sống chiến đấu và nghĩ rằng mình sẽ ngã xuống vì ngày mai của dân tộc. Ngày mai trong tiếng ca khải hoàn sẽ không có con đâu. Con tự hào vì đã dâng trọn đời mình cho Tổ quốc. Dĩ nhiên con cũng cay đắng vì không được sống tiếp cuộc sống hoà bình hạnh phúc mà mọi người trong đó có con đã đổ máu xương đề giành lại. Nhưng có gì đâu, hàng triệu người như con đã ngã xuống mà chưa hề được hưởng trọn lấy một ngày hạnh phúc. Cho nên có ân hận gì đâu!

Chiều nay lại buồn da diết, nhớ thương em kỳ lạ. Giờ này em đang làm gì? Chị tưởng như thấy em nằm trên chiếc võng đôi mắt buồn mênh mông và nỗi nhớ thương làm khuôn mặt em gầy hốc hác. Em của tôi ơi, biết nói gì với em đây hở đứa em kỳ lạ.

 

16.7.69

Không biết người ta nghĩ gì khi đứng nhìn một vụ oanh tạc của những chiếc phi cơ ăn cướp của giặc Mỹ. Chiều nay cũng như mọi buổi chiều khác, chiếc tàu hai thân quần mấy vòng trong xóm rồi một quả rocket phóng xuống xóm 13 Phổ An rồi liền theo đó, hai chiếc phản lực thay nhau bổ nhào Từng quả bom rời khỏi chiếc máy bay nặng nề lao xuống và bùng lên nhưng khói lửa mịt mù, những quả bom xăng hình vuông lấp loáng trong ánh nắng mặt trơi vừa chạm đến mặt đất tức thì một quả cảu lửa bốc lên đỏ rực rồi khói đen nghi ngút bầu trời. Máy bay vẫn gào rú, mỗi lần như vậy hàng loạt bom lại rơi, tiếng nổ điếc tai, nhức óc.

Từ một vị trí không xa, mình ngồi lặng nhìn mà lòng căm uất. Trong khối lửa kia ai là người bị cháy thiêu trong đó? Trong tiếng nổ long trời ai tan xác trong những hố bom đào sâu dưới đất đó? Bà già ngồi bên mình mắt đăm đăm nhìn về thôn xóm chép miệng: “Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”.

 

20.7.69

Lớp y sĩ sản khoa của Khu giải tán. Trong số những người lên đường đi công tác xa có chị Hai đi Gia Lai. Lá thư chị gửi về với những dòng chữ nghều ngào và thấm nước mắt. Thương chị vô vàn, chỉ có vì nhiệm vụ của Đảng người ta mới có thể có những cuộc ra đi như vậy mà thôi. Trước đây khi bước chân lên chiếc ô tô đưa mình vào Nam, mình cũng đã khóc. Nhưng trong nước mắt ấy có nhở thương đau xót và có cả tự hào vinh dự. Còn bây giờ chị ra đi, giọt nước mắt chảy dài trên mặt thấm mặn đau buồn, xót xa, thương nhớ. Để ra đi, chị gạt nước mắt vì nghĩ mình là một Đảng viên

Những chuyển ra đi vẫn còn tiếp diễn, mình đã gặp biết bao nhiêu người vì nhiệm vụ ra đi chưa chắc đa có đầy đủ niềm tự hào phấn khói khi bước chân trên con đương rất đỗi vinh quang. Vì sao ư? Dễ hiểu thôi, vì chiến trường đòi hỏi quá cao mà hậu phương thì đã tất cả cho tiền tuyến từ những năm nào. Như vậy nghĩa là sao hở Thuỳ? Nghĩa là có cái gì thoáng nét tư tưởng bi quan xuất hiện trong Th. đó.

 

22.7.69

Chiều mưa xa nhà.

Buồn nhớ mênh mông dày nặng như màn mưa đang che phủ quanh chân trời. Thấy mình rất đáng trách vì thật là không hợp thời, giữa cảnh nước sôi lửa bỏng này mà để lòng mềm yếu trước cảnh thiên nhiên. Nhưng thực ra không phải vì mưa đang rơi, không phải vì nếp nhà tranh không đủ che mưa với cảnh nhà cô đơn hiu quạnh này làm mình cảm thấy buồn, mà từ mấy bữa nay về sống ở đồng bằng, mình thấy cô đơn kỳ lạ. Những buổi sáng mặt trời lên trên mặt biển, những buổi chiều hoàng hôn trên cánh đồng xa và những đêm trăng rực rỡ trên bờ cát trắng…, tất cả đều là cảnh đẹp nhưng mình nào có thấy vui. Vui gì đâu khi hàng ngày đau thương tang tóc còn đè nặng trên cuộc sống chúng ta, mới hôm qua trong trận càn địch giết chết năm người và chiều chiều chúng đem bom xuống trút vào thôn xóm.

Vui gì đâu khi mỗi người một ngả, lo âu thương nhớ không phút nào nguôi. Những lá thư gửi đến mình ngắn ngủi mà tha thiết lo âu, những người thân thương nhắc nhủ mình cảnh giác, lo cho mình từng phút, từng giây. Ôi, biết nói sao bây giờ…

Chiều nay được thư em báo tin chuẩn bị đi công tác Khu 6. Nghe tin mình xót xa như được một tin buồn nặng nề. Em đi… chỗ dựa vững vàng nhất trong cuộc sống của mình trên mảnh đất miền Nam này sẽ mất. Đó là một sự thực vì không ai thương mình, lo cho mình, cảm thông với mình và hiểu mình bằng em cả. Kể cả M. cũng không thương mình bằng em đâu. Cũng hơi kỳ lạ bởi vì quả thực không có một tình thương nào tha thiết bằng em dù đó chỉ là tình chị em, tình cách mạng…

 

23.7.69

Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên mình cạnh tên người đồng chí thân yêu. Anh Đáo đưa nó cho mình và hỏi ai khắc. Mình cười vô tư rối trả lại cho anh nhưng lúc ra về mình cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên em cạnh tên anh vì sao? Vì những ngày xưa thơ mộng, vì tình thương yêu đằm thắm nơi anh vẫn còn hay vì đó chỉ là một động tác bình thường của anh? Thực ra không ai làm một việc gì mà không có ý nghĩ, M. lại càng không phải là loại người như vậy. Nhưng M. ơi, anh hãy nói đi anh, vì sao anh khắc tên em cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?

 

24.7.69

Gặp lại San giữa đồng bằng. San không ngờ có cuộc gặp gỡ ấy nên anh đứng sững, mừng rỡ ngạc nhiên làm anh nói chẳng nên lời. San chuẩn bị đi Bắc nên anh năn ni mời mình đến chỗ anh chơi. Nể lởi San mình theo anh về nơi anh ở. Bước chân trên cánh đống ngập nước của Phổ Văn, mình đi với anh giữa một chiều mưa tầm tã. Hai đứa định vào trú mưa ở một nhà quen San nhưng căn nhà vừa bị Mỹ đốt cháy chỉ còn vẻn vẹn một tấm tôn che không đủ chỗ ngồi cho cả chủ và khách. Thấy ở không tiện mình rủ San đi, chị chủ nhà buồn buồn nói: “Sao không ở lại ăn cơm rồi hãy đi, chú sợ cơm không chín chứ gì?”. Mình và San không định ở lại ăn cơm nhưng quả thực chắc nồi cơm không chín nổi. Trời mưa như trút nước, bếp lửa thu hẹp dần chỉ còn mấy cây củi ở giữa bếp cháy được. Nồi cơm sôi yếu dần vì lửa tắt và vì nước mưa nhỏ vào nồi cơm. Có nhà quay phim nào quay một cảnh như thế này chưa nhỉ? Một cảnh đơn sơ mà nói rất nhiều với người ta về tội ác của chiến tranh.

Trong số khách ngồi trú mưa có một người cán bộ, anh ta cười kể lại câu chuyện ngày trước khi địch mới bắt đầu đốt phá. Ngày ấy giữa xóm thôn trù phú mới chỉ vài gia đình bị cháy nhà, tết đến người chủ nhà dọn mâm cúng lên trên cánh cửa cháy kê giữa nền nhà trơ trụi. Anh ta – người cán bộ – cùng bà con đến thăm thấy cảnh đó nghẹn lời không nói hết câu để động viên an ủi nạn nhân. Bây giờ khắp xóm thôn đâu cũng là như vậy, và anh cười trước cảnh chiều nay! Mình không thua bọn nó đâu, đốt cái này ta làm cái khác, khó gì đâu mấy tấm tranh là đủ rồi. Cuộc sống trong chiến tranh tạo cho người ta một yêu cầu tối thiểu. Cuộc sống chỉ còn là chiến đấu, công tác, còn những gì phục vụ con người chỉ còn là một nồi cơm với mắm, một tẩm nilon trải dưới hầm và một đôi gánh trong đó có đủ áo quần, gạo, củ, mắm muối sẵn sàng lên vài khi địch càn đến.

San ơi ra miền Bắc nhớ nói cho những người đang sống ngoài ấy rằng miền Nam còn đau khổ, chỉ khi nào hết giặc Mỹ mới thực sự có cuộc sống mà thôi.

 

Chương 12

 

26.7.69

Đoàn du kích đi cõng đạn về qua “Khe Sanh” bị Mỹ phục kích tại núi Cửa. Mấy thằng Mỹ đi phục mà nằm ngủ như chết, mấy đồng chí của mình đi sát đến nơi mới nhận ra những thằng Mỹ nằm ngổn ngang trên những tảng đá. Vì vội vàng một đồng chí lọt chân rơi xuống vực sâu may mà vướng một hòn đá nên mắc lại, bọn Mỹ liệng mìn ra nhưng không gây thiệt hại gì. Một giờ sáng mấy anh đó mới trở lại Phổ An tìm gặp Hùng (thôn đội trưởng) liên hệ chỗ ở và kể lại chuyện trên. Nằm trong hầm mình không ra chỉ lắng nghe nên không ngờ rằng trong số đó có Nhiều – thằng em út của Thuận – sáng ra nghe nói có du kích Nga Mân mình hiểu ngay người đó là Nhiều, lòng xót xa thương đứa em ngây thơ đó Chạy đi tìm nó nhưng địch càn lên, anh em đã dẫn nó đi trốn nơi khác. Vô cùng ân hận, ước gì gặp đứa em nhỏ, nắm bàn tay em an ủi động viên với tình thương của một người chị. Và em ơi, hình ảnh em là hình ảnh của đứa em trai mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha

 

27.7.69

Địch tập kích vào xóm lúc 18 giờ 30 – mọi nhà đang ăn bữa cơm chiều lật đật bỏ chén đũa, gồng gánh lên vai đi lánh địch. Mình không theo, định có chuyện gì sẽ chịu công sự. Ngồi tiếp tục ăn cơm mà đạn chưa chịu trên đầu. Trời đã tối, Tâm và Hùng mới về. Nhận định tình hình thấy ở lại không ổn nên quyết định phân tán. Mình đi Phổ Quang, Tâm và Hùng bật chạy lên 18, thấy Chín lề mề quá mình bỏ đi trước.

Ra đi trong lúc trời chập choạng tối, một mình mình đi giữa xóm thôn vắng teo không một bóng người, lòng mình thấy tủi tủi thế nào ấy. Xuống đến nhà Phượng, căn nhà vắng lạnh không một bóng người, pháo bắn cây cối đổ ngổn ngang, mùi thuốc còn khét lẹt Chạy xuống nhà chị Thịnh, chị cho biết mọi người đã ra gò hết cả. Bây giờ rất khó đi vì pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả nhiên, chưa nói hết lời pháo đã nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu vực mình ở. Đành phải ở lại nhà chị Thịnh. Đêm nay, một đêm đầu tiên mình phải sống bơ vơ, không có ai đảm bảo cho mình ngoài những người dân đối với mình chỉ có một tình thương bình thường. Gần hai năm nay đi đâu mình cũng vô tư mặc dù giữa tình hình rất căng thẳng mình vẫn thấy yên tâm vì đã có người bảo vệ chu đáo, dựa vào họ mình không phải lo lắng gì cả. Đêm nay chỉ một mình mình, lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam mình phải suy nghĩ: Địch càn xuống mình sẽ chạy đi đâu? Nếu chúng tập kích vào đêm nay thì phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở?

Hầm chật và nóng nên mình cùng chị chủ nhà ra hè nằm. Muỗi vo ve bên tai làm mình không ngủ được hay vì những suy nghĩ cứ quẩn quanh bên mình. Đêm đa khuya, đài phát thanh đã hết buổi phát thanh cuối cùng mình vẫn chưa ngủ được. Có tiếng chó sủa ran trong xóm, mình ngồi dậy căng mắt nhìn vào bóng đêm phát hiện tình hình. Bỗng nhiên một ước ao vô lý mà cháy bỏng thiết tha nối dậy trong mình. Ước gì trên con đường kia sẽ xuất hiện một bóng người thân yêu, người đó là em, em sẽ gặp chị giữa lúc này. Có lẽ chị sẽ úp mặt trong cánh tay rắn rỏi của em, nước mắt chị sẽ thấm ướt trên đôi tay em mà chị lặng yên không giải thích vì sao cả.

Tại sao mình lại không nghĩ đến ai khác mà nghĩ đến em? Dễ hiểu thôi, vì trong mọi gian nguy trên đất miền Nam này em ở đó săn sóc, bảo vệ mình từng ly hmg tí, vì em đã nâng niu, chiều chuộng mình, không để mình phải khổ dù chỉ là một việc làm nhỏ nhất em cũng không để mình làm, một đoạn đường ngắn ngủi em cũng không để mình đi một mình… Bây giờ em đang làm gì? Có biết chăng đêm nay một mình chị trong cảnh chạy càn bơ vơ lạc lũng này không?

 

29.7.69

Chiến tranh thật tàn khốc hết mức. Sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy. Đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi ngút cháy trên người nạn nhân. Đó là một cậu bé hai mươi tuổi, đứa con trai duy nhất của một chị cán bộ xã mình ở. Một tai nạn rủi ro làm quả pháo lân tinh nổ khiến cậu bị bỏng nặng. Không ai còn nhận ra cậu bé xinh trai mọi ngày nữa. Đôi mắt đen vui cười hôm nay chỉ còn là hai hốc nhỏ mi mắt đã chín vàng, khói lân tinh vẫn còn bốc lên khét lẹt. Trông cậu ta giống như đem thui vàng trong lò ra. Mình đứng lặng người trước cảnh đau lòng đó. Mẹ cậu khóc mếu máo, hai bàn tay run rẩy sờ khắp người con, từng mảnh da bong ra, cong lên như miếng bánh tráng. Em gái và chị gái cậu vừa săn sóc cậu mà nước mắt ròng ròng chảy, còn một người con gái thì sững sờ ngồi cạnh cậu đôi mắt dịu hiền đờ đẫn lo âu, từng lọn tóc đen bết mồ hôi dính trên đôi má đỏ bừng vì xúc động và vì mệt. Từ (tên cô gái đó) là người yêu của Khánh (tên cậu bé đó). Cô vừa khiêng Khánh xuống đây. Nghe nói cần có serum truyền, Từ đã lội sông đi mua ngay. Nước sông đang lên, không biết bơi nhưng Từ vẫn băng qua sông, tình yêu đã giúp Từ sức mạnh. Bây giờ Từ ngồi đó cạnh Khánh lặng yên, nhẫn nại. Vẻ đau khổ hằn lên trên vầng trán ngây thơ của cô gái xinh đẹp – nhìn cô mình muốn viết một bài thơ về tội ác của chiến tranh, tội ác đã bóp chết triệu tình yêu trong sáng, bóp chết triệu hạnh phúc của con người nhưng mình không viết được Ngòi bút của mình không sao viết hết dù đây là một trường hợp mà mình đã thấy bằng tất cả giác quan và tình cảm của mình.

 

30.7.69

Mười hai giờ khuya, anh Kỷ từ cánh Nam ra báo cho mình một tin đau xót: Địch đã tập kích vào bệnh xá một cách hết sức bất ngờ. Liên đã bị chúng bắn chết trong lúc dẫn thương binh chạy. Anh em thương binh không hiểu ai còn ai mất…

Trong ba tháng trời, bốn lần bệnh xá bị đánh phá. Lòng mình cháy bỏng lo âu, ôi những người đồng chí của tôi, ai còn ai mất? Đang lang thang ở một nơi nào? Khó khăn đè nặng lên các đồng chí như hòn núi lớn và cũng đè nặng trong lòng tôi. Tôi vẫn còn đủ sức lật đổ hòn núi đó chứ các đồng chí phải lật đổ nó đi thôi, nếu không nó sẽ đè chết chúng ta chứ không còn cách nào hơn cả.

Liên ơi, hôm nào tạm biệt Th., Liên còn hôn Th. và dặn đi dặn lại rằng Thùy phải cảnh giác, nhưng hôm nay người ngã xuống trước lại là Liên, cô gái xinh xắn và xuất sắc trong công tác, cô gái cưng của bệnh xá không còn nữa. Liên ơi còn sống ngày nào Thùy thề sẽ trả thù cho Liên, cho Lý và cho cả triệu người đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu sinh tử này.

 

31.7.69

Chị Hạnh ra báo tin cụ thể về tình hình bệnh xá. Cũng đúng ngày 28, ngày mà cách đây tròn ba tháng địch đã tập kích vào bệnh xá lần đầu. Bây giờ chúng lại tìm vào chỗ ở của ta, Liên đã hy sinh, anh Tư cũng đã hy sinh trên đỉnh đồi và Lệ thì bị chúng bắt sống.

Buồn thương căm uất làm mình lặng người mặc dù đã biết trước nhưng vẫn không thể bình tĩnh được.

Ơi những người đã mất và những người còn sống, chúng ta vẫn bên nhau, vẫn cùng sát cánh để chiến đấu với kê thù, vẫn có Liên, có anh Tư, có Lý, Hường, có triệu Linh hồn những đồng chí thân thương còn bên cạnh tôi, sống và chiến đấu cho đến ngày toàn thắng.

 

3.8.69

Gặp lại anh Tân sau ba tháng trời gian truân, tàn khốc. Anh Tân đối với mình không phải là một đồng chí Bí thư huyện uỷ mà chỉ là một người anh thân thiết Không hiểu anh có đồng ý không nếu trong quan hệ mình giữ trọn cái bản chất của một người con gái xuất thân từ Xã hội Chủ nghĩa, nghĩa là lúc nào cũng có cái bình đẳng thân thiết và thông cảm không hề phân biệt cấp bậc.

Hôm chia tay để anh đi về cánh Nam, mình từ trong Bình Mỹ trở ra, lòng băn khoăn một nỗi là mong gặp anh rước lúc anh đi. Chiều gần tối mình mới về tới nhà bỗng thấy anh đi ra. Trong bóng chiều chập choạng, màu áo của anh như điệp với không gian, chỉ còn thấy rõ trước mắt mình một nụ cười tươi, một đôi mắt sáng và đen ngời trên khuôn mặt của anh. Bỗng dưng mình thấy thương anh vô cùng, người anh lúc nào cũng giữ vững niềm lạc quan kỳ lạ. Muốn chạy đến bên anh, gục đầu trong cánh tay anh như những lần mình đi xa về gặp ba má hay cậu Hiền nhưng mình đứng yên không nói gì cả; quanh mình còn có những người khác. Anh bắt tay mình rối đi một đoạn còn dặn với “Cảnh giác nghe đồng chí Trâm?” (Mình hiểu tiếng “đồng chí anh dùng ở đây). Không suy nghĩ gì cả mình nói theo anh “Vào trong đó viết thư về nghe anh Tân”. Nói xong mình ân hận, nói câu đó người ta sẽ nghĩ gì, có ai hiểu hết tình cảm anh em giữa mình và anh không? Hay là họ không hài lòng khi thấy một đồng chí cán bộ đối với một đồng chí Bí thư một cách không đúng khuôn khổ.

Anh Tân ơi, có một điều làm em đắn đo khi xem anh như một người anh trai chí thiết chính là điều này. Anh là một cán bộ to nhưng em thì không muốn điềm đó. Giá anh chỉ là một cán bộ như em thôi, em sẽ thoải mái hơn trong tình anh em đối xử hàng ngày. Anh nghĩ gì về đứa em miền Bắc này hở anh Năm?

 

5.8.69

Đi cấp cứu ban đêm, đường đi qua nhiều đoạn nguy hiềm, những con đường quốc lộ xe địch qua lại thường xuyên và những ngọn đồi nơi quân Mỹ đóng. Đèn từ những khu căn cứ rực sáng, mình đi giữa cánh đồng Phổ Thuận, ba bên là ba nguồn sáng rực rỡ, núi chóp, núi xương rồng và những ngọn pháo sáng treo lơ lửng phía trước mắt. Những nguồn sáng ấy theo các ngả làm bóng mình nghiêng theo các hướng, mình có cảm giác như một diễn viên đang đứng trên sân khấu như những ngày còn là cô sinh viên Y khoa trong các buổi biểu diễn ca nhạc. Bây giờ mình cũng là một diễn viên trên sân khấu của cuộc đời, mình đang thủ vai một cô gãi vùng giải phóng với bộ quần áo đen, đêm đêm theo du kích đi hoạt động giữa vùng ta và gần sát bên địch. Có thề mình sẽ gặp địch và cũng có thể mình sẽ ngã xuống, trong tay xách thuốc còn nắm chặt và người ta cũng sẽ thương tiếc người con gái đã hy sinh vì cách mạng giữa tuổi đời còn xanh ngát ước mơ.

 

6.8.69

Hoàng hôn trên đồng lúa bao giờ cũng giữ được vẻ nên thơ dù giữa hoàn cảnh nào cũng vậy. Mới sáng nay địch càn vào Kim Giao, trong lúc tác chiến hai đồng chí đã bị thương nặng, một đồng chí hy sinh. Tang tóc còn đè nặng bên mình vậy mà chiều nay đứng giữa đồng lúa chín vàng mình bỗng thấy cuộc sống vẫn đang lên. Người ta vẫn gặt lúa tấp nập và nụ cười vẫn tươi trên khuôn mặt người cán bộ trẻ cùng đi với mình. Anh ta tên là Công, người yêu của Liên. Liên chết hôm nay chưa được mười bữa, Công đau buồn khôn xiết nhưng giờ đây trước mặt mình anh vẫn cười tươi và câu chuyện vẫn tràn trề sôi nổi. Mới lúc nãy trước lúc đi anh ôm cây đàn măng-đô-lin chơi một bài nhạc vui. Mình nhìn anh cảm thấy kỳ lạ. Nếu đặt mình trong địa vị của Công thì sao? Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi ấy.

 

15.8.69

“Ai chiến thắng mà không hề chiến bại.

Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần”.

Phải đọc và hiểu sâu sắc lời của Tố Hữu mới không bi quan trước cảnh này. Một trận ra quân, hai đồng chí bị thương nặng, sáu người hy sinh, mười người bị bắt sống. Trong số người hy sinh có anh Đáo, người Huyện đội trưởng của Đức Phổ. Mình quen anh từ những ngày đầu bước chân về Đức Phổ, anh ít nói nhưng sâu sắc, rất sát người, sát việc và có nhiều uy tín trong quần chúng. Trong trận này anh đã tự mình dẫn một tổ thọc sâu vào sát trung tâm quận, anh bị một viên đạn xuyên từ đáy lên đỉnh phổi, vết thương ngực hở mà không được băng bó nên anh choáng không hồi phục.

Giờ phút hấp hối anh cũng còn tỉnh táo, cũng còn đủ sức hiểu và không muốn làm phiền đến người khác. Vừa cấp cứu cho anh nước mắt mình vừa chảy tràn trên mặt. Thương anh vô hạn, muốn tìm mọi cách cứu anh nhưng không có cách nào. Mình như một chiến sĩ hai tay đã bị trọng thương, đành nhìn quân thù vũ khí trong tay xông đến giết mình – uất ức căm thù làm mình run tay. Không, mình không đầu hàng đâu ý chí trả thù sẽ đem đến thêm nghị lực cho mình. Anh Đáo ơi anh có còn nghe thấy tiếng em không? – Tiếng nói của một người đồng chí, một người em, một người bạn thề sẽ trả thù cho anh và cho những đồng chí đa ngã xuống vì ngày mai thắng lợi.

 

17.8.69

Nhận được thư em, buồn buồn khi thấy em hỏi: “Chị có còn nhớ đứa em mộc mạc này không?”. Chao ôi, sao mà em ngây thơ thế hở đứa em thông minh dũng cảm của tôi? Bao giờ chị cũng dành cho em nhớ thương trọn vẹn, bao giờ chị cũng thương em và biết ơn trước tình thương cao cả thiêng liêng độc đáo mà em đã dành cho chị. Em có biết không, chiều nay cũng như bao nhiêu buổi chiều khác, chị vẫn nhìn về trong ấy, qua lớp sương chiều chị vẫn nhận ra đỉnh núi xanh có một vệt đất đỏ, đó là đỉnh núi của quê em, ở đó có em đang đêm ngày nhớ thương lo lắng cho chị. Bao giờ quên được em đâu?

 

25.8.69

Những ngày căng thẳng tột bậc. Đêm đêm bọn Mỹ đi quanh làng chui nằm trong lúa để sáng sớm tinh mơ lại bò vào làng tập kích thật sớm. Sáng nay mới mờ mờ sáng chúng đã bao quanh xóm. Mình xuống công sự với tư thế đã sẵn sàng, nằm dưới công sự nghe chúng la hét, lùng sục phía trên, cái cảm giác ghê tởm căm thù có một sức nặng như một trọng lượng đè lên trái tim mình. Trong trận càn sáng nay, mẹ con chị Thu Hương bị thương. Chị Thu Hương, người y tá xã mà xưa rày mình cùng ở với chị, mới đêm hôm cùng ngồi với mình tâm sự cho đến tận khuya. Lần đầu tiên mình nghe người mẹ của một đứa con “tập tàng” tâm sự về nỗi đau buồn trước sự lỗi lầm của họ. Thằng bé con chị bụ bẫm và xinh xắn như một đứa trẻ Tây âu sáng nay bị hai mảnh cối xuyên vào ngực đúng vùng tim không hiểu có sống nổi không. Chiến tranh là vậy đó, nó không từ trẻ nhỏ, không từ một bà già và đáng ghê tởm vô cùng là bọn Mỹ khát máu.

 

29.8.59

Người mẹ ẩy còn rất trẻ, nhìn khuôn mặt đầy đặn với nước da trắng trẻo và dáng người thon thả của chị ít ai biết được rằng chị đã có một đứa con lớn với ba trồi quân. Mình không hiểu gì về chị lắm, chỉ sống gần Thiện – con chị – nhưng đêm nay không hiểu sao chị đem câu chuyện tâm tình của một người mẹ về đứa con duy nhất của mình kề cho mình nghe.

Thiện năm nay mười tám tuổi. Cha của Thiện đi tập kết, người mẹ trẻ ở nhà cặm cụi nuôi con. Thiện đã lớn lên trong tình thương kỳ diệu của mẹ. Quá thương con, chị đã nuông chiều con quá mức, ngày ngày mỗi buổi đi học Thiện đòi mẹ phải trả công, bước chân về nhà Thiện đòi ăn bánh, bữa nào cơm không có cá thằng nhỏ hờn bỏ cơm đi học, làm mẹ nó phải chạy theo năn nỉ để nó về ăn một chân cơm cho khỏi đói lòng. Mười lăm tuổi Thiện đòi đi bộ đội, mẹ nó không cho nhưng Thiện đã nói là làm. Nó khai tăng một tuổi rồi theo một đồng chí bộ đội đi về đơn vị. Mẹ Thiện đưa con đi mà tin rằng giỏi lắm một tuần nữa con mình sẽ về. cái thằng nhỏ suốt ngày đòi ăn vặt, chưa hề biết làm một việc nhỏ nào từ lúc lởn đến giờ mà làm sao đi bộ đội! Nhưng chị đã lầm, cuộc đời gian khổ nhưng vinh quang của những người bộ đội đã lôi cuốn được Thiện. Thằng nhỏ chịu đựng mọi gian nan cực khổ mà nó chưa hề tưởng tượng được ra. Thiện đã trưởng thành, mười bảy tuổi em đã thành một Đảng viên. Không hiểu sao em không hề viết thư về cho mẹ, đằng đẵng ba năm ròng.

Ba năm… chắc Thiện không thể hiểu được rằng mẹ nó đã thương nhớ nó đến mức nào. Ba năm xa con cũng là ba năm ác liệt của quê nhà. Giặc càn quét đánh phá, chiếc hầm pháo nơi ăn ở cuối cùng của gia đình chị cũng bị mìn giật tan tành. Chị dẫn mẹ già đi tìm chỗ ở giữa mùa mưa, những ngày mưa lạnh nằm còng queo trong một xó hè của người khác, chị chỉ đau khổ lo âu không hiểu con mình ở đâu, có áo ấm mặc không? Với số tiền ít ỏi chị mua len đan áo cho con để đó đợi nó trở về. Hết mùa lạnh Thiện không về, chị sợ áo đã chật mùa sau, chị đem bán chiếc áo đó đan lại chiếc khác lớn hơn để đó đợi con về. Đêm ngày chị len lỏi đi tìm hỏi tin con “Anh ơi, đồng chí ơi, có biết thằng Thiện ở công trường I không?”. Những người gặp chị vừa thương, vừa bật cười vì câu hỏi ngớ ngẩn đó. Trời ơi, bộ đội thì đông, vùng giải phóng thì rộng chị hỏi vậy mới biết làm sao mà tìm?

Cho đến một ngày dò hỏi tin con đã về đơn vị 48, chị chạy đến đồng chí cán bộ phụ trách xin đi tìm gặp con. Thông cảm với nỗi lòng người mẹ người thủ trưởng của chị hứa sẽ dẫn chị đi đến chỗ Thiện nhưng sau nhiều ngày công tác vất vả cộng với nỗi cực nhọc vì tìm con chị đã kiệt sức, chị đau nặng nửa tháng trời, khi chị khỏi thì đơn vị con đã lên đường hành quân đi chiến đấu. Lại những ngày xa cách lo âu đau khổ vì nhớ con. Rồi có một bữa gặp một người quen cùng xóm đang công tác tại đơn vị Thiện đóng, chị mừng hơn được của. Chị chụp hỏi đồng chí cán bộ đó về con. Anh cán bộ đồng hương ngập ngừng báo với chị rằng cách đây một tháng sau ba lần xin về thăm mẹ mà chưa được phép, Thiện đã bỏ đi đâu mất.

Nghe tin chị như người điên. Bao nhiêu nhớ thương, khao khát, hy vọng mong chờ giờ đây như tuyệt vọng, không còn sáng suốt nưa chị chỉn người cán bộ đó không một chút nề nang: “Anh không xứng là người đồng hương vì anh không có chút tình quê hương. Anh không xứng là một thủ trưởng vì anh không có anh đồng đội… Anh không hiểu gì hết, con tôi mới rời vú mẹ mà anh đành đoạn không cho nó gặp mẹ sau ba năm nó nhớ tôi. Con tôi đâu? Nếu nó chết trên đường đi tìm mẹ thì… anh biết không? Tôi sẽ tuyên truyền để không một bà mẹ nào cho con đi giải phóng nữa đâu, Chị bỏ công tác đi Sài Gòn, chị không hiểu đi làm gì nữa nhưng chỉ biết rằng nếu ở nhà chắc sẽ điên và sống không nổi nữa.

Thực ra Thiện không đào ngũ, em đã chuyển đi đơn vị khác đặc biệt hơn. Trong một buổi đi cõng gạo em đã ghé qua nhà nhưng mẹ em đâu có ở nhà. Thiện lại lên đường. Ở Sài Gòn nghe tin con về, ngay chiều hôm đó chị ra mua vé tàu trở về Quảng Ngãi. Và chị đã gặp con, ôm con trong lòng chị lan tay trên từng ke tóc, tùng vết sẹo trên người con. Con chị, thằng Thiện ốm yếu, nũng nịu ngày xưa nay đã là một đồng chí bộ đội với nước da ngăm đen và dáng người mảnh khảnh nhưng rắn rỏi. Thiện đã là một Đảng viên chính thức, một đồng chí trinh sát giỏi dạn dày gian khổ Nước mắt chị từng giọt rơi trên chiếc áo màu xanh lá cây đã bạc màu và đôi vai đã sờn vì nhiều lần mang công.

Thiện xin đơn vị về nhà mười ngày. Mười ngày làm sao cho đủ với người mẹ ấy. Như một đám ruộng khô hạn giữa mùa hè, một gàu nước mát thấm thía vào đâu? Chị không cho Thiện về đơn vị nữa.

– Không đi đâu nữa hết. Có chết mày chết ở đây tao cũng thoả mãn. Làm cách mạng ở đâu cũng được. Tao không để mày đi nữa đâu…

* * *

Nằm trên vũng cột giữa hai cột tre xiêu vẹo, mình lặng nghe chị kể. Mình cười mà nước mắt chảy dài theo những sợi tóc xoã ngang mặt. Thương chị vô vàn, cảm thông vô vàn với tấm tình của một người mẹ nhưng cần phải có một kết luận đúng đắn để chị trở thành mẹ Việt Nam điển hình về tình thương con cho đúng đắn, biết dâng con mình cho Tổ quốc. Chị ơi, chị đừng để tình thương ấy sai đường lạc lối. Em sẽ chờ kết luận của câu chuyện đề ghi tiếp vào nhật ký của em.

Đêm khuya rồi Thiện đã ngủ ngon, cậu bộ đội trở lại bé bỏng trong cánh tay âu yếm của người mẹ. Thiện ơi, người giải phóng quân đã từng lăn lộn trên chiến trường với những chiến công rực rỡ, cháu hãy nói với cô đi, cháu sẽ xứng đáng là một giải phóng quân.

 

30.8.69

Mấy hôm nay nóng ruột lạ lùng, nghe ở Phổ Cường tác chiến ác liệt mình thao thức lo âu, đêm ngày ra vào không yên dạ. Linh tính như báo một điều gì không lành… Và chiều nay quả nhiên tin buồn đến trong tin chiến thắng từ cánh Nam đưa ra: Trắng một đêm chiến đấu liên tục, ta diệt mười bốn tăng, một HU-LA, 15 xe nhà binh, diệt một trăm năm mươi tên Mỹ. Một du kích hy sinh, hai đồng chí bị thương. Ôi, sao đồng chí du kích đó lại là Nhiều, đứa em mồ côi cha mẹ, đứa em cưng của Thuận? Thương Nhiều chừng nào lại thương Thuận chừng nấy. Chắc em mình héo hon từng tấc ruột. Em ơi chị hiểu lòng em, lòng đứa con mồ côi chiu chắt nuôi em mình, lo cho nó từng bữa ăn, giấc ngủ, dạy cho nó từng lời ăn, tiếng nói. Bây giờ… Rất tiếc rằng chị không được gần em để ôm em trong lòng xoa dịu nỗi đau khổ cho em, lau tùng giọt nước mắt chảy tràn trên đôi mắt long lanh của em.

Chiều nay địch tập kích vào làng khi đã lên đèn, xuống công sự tối om và ngột ngạt mà mình chỉ nghĩ đến Nhiều, nước mắt mình hoà với giọt mồ hôi. Nhiều ơi, chị và anh Ba, chị Bốn sẽ trả thù cho em nghe em!

 

1.9.69

Tiễn anh Tân lên đường đi họp lòng mình xao xuyến lo âu và nhớ anh. Tình anh em đã lớn lên trong những ngày qua. Mình cũng đã tin rằng với mình anh có một tình thương đặc biệt – nó cũng chỉ là tình anh em, tình cách mạng nhưng có cái đậm đà sâu sắc của những tâm hồn hiểu biết và cảm thông nhau. Hồi chiều ngồi lật quyển sổ của anh thấy mấy lá thư mình gửi anh vẫn cất trong trang sổ đó, mấy lá thư ngắn ngủi viết trong trang giấy xé vội. Mình biết tính anh, thư từ anh xem rồi xé đốt cả loạt nhưng mấy tờ giấy đó anh vẫn giữ nghĩa là anh đã dành cho mình một góc trong trang sổ của đời anh.

Trong những điều anh căn dặn anh Sơ (đồng chí Xã uỷ xã Phổ Văn) có việc phải bảo vệ mình chu đáo không được để tổn thất đáng tiếc, không được làm hao hụt vốn liếng của Đảng. Mình cười thầm khi nghe anh dặn: “Nhớ đấy tôi gửi đấy”. Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi gắm ấy có tình người anh lo cho đứa em gái hay không.

Một cái tang đau đớn nhất đã đến với chúng ta. Bác Hồ đã từ trần.

Ôi, tôi không khóc mà thấy tim mình rỉ máu đau xót không thề nào tả được. Bác ơi! Sao Bác lại vĩnh biệt chúng con khi sự nghiệp còn dang dở! Nước nhà chưa thống nhất, đồng bào miền Nam chưa được đón Bác vào Nam, mà Bác đã yên giấc rồi. Bác ơi, ở bên kia thế giới chắc Bác chưa yên lòng khi nước nhà còn một nửa chìm trong lửa khói, máu dân tộc Việt Nam còn chảy ròng cho sự nghiệp của Bác và của dân tộc.

Nhớ Bác chúng con thề chiến đấu để sự nghiệp chung hoàn thành. Nhớ Bác, nước mắt đọng lại thành căm thù trút vào đầu giặc Mỹ.

Bác của con, của dân tộc Việt Nam, của tất cả những người vô sản trên thế giới hãy tin rằng Bác không bao giờ chết, tên tuổi và sự nghiệp của Bác sẽ còn sống muôn đời!

 

4.9.69

Thư anh Tân, lá thư do chính tay anh đưa mình sau mấy bữa xa cách. Muốn nói với anh rất nhiều mà không sao nói được. Anh cũng vậy. Tất cả chỉ vì một lý do rất giản đơn: quanh anh lúc nào cũng là người và việc! Làm sao để có một buổi dành trọn cho anh em mình hả anh Năm? Không lẽ suốt năm suốt tháng anh em mình cũng chỉ tâm tình với nhau qua những trang thư và nhật ký thôi sao Không, em không chịu đâu anh Năm à. Phải có một buổi nào anh nói cùng em nghe tất cả nghe anh.

 

13.9.69

Em ơi, khoảng cách không gian và thời gian càng xa thì chị càng thấy gần em hơn. Nhớ thương và lo lắng cho em hơn bao giờ hết. Ngày gặp em xa như một điểm đèn mờ nhỏ giữa đêm khuya, chị là người khách đi đường mắt đăm đắm nhìn ngọn đèn mà lòng khao khát mong đợi. Em có biết chị đã đấu tranh để em về gần chị như thế nào không? Khi thấy ý muốn không đạt được chị buồn đến nhức nhối. Giữa muôn nghìn lo âu ác liệt chị không quên được một điều: Bao giờ gặp em? Bao giờ được sống gần em như những ngày xưa thân ái? Đừng ngã xuống nghe em, hãy sống, phải sống để còn có ngày chị được ôm em trong tình thương cao quý thiêng liêng mà chị đã đặt hết cho đứa em miền Nam ấy.

Cuộc chiến còn dài, chị em mình đều là những người lính đứng ở tuyến trước. Ai biết rồi sẽ ra sao nhưng cứ tin đi, như Simonov trước đây đã tin trong bài thơ “Đợi anh về”.

“Em ơi, đợi… chị về!

Đợi chị hoài em nhé…”

 

14.9.69

Những giấc mơ ghi lại những suy nghĩ đã hằn sâu trong suy tư của mình. Mình thấy mình trở lại Hà Nội sau bao ngày xa cách, được gặp ba má, được gặp em và… ở Hà Nội mà lại có đứa em miền Nam. Mình gặp Thuận, ngạc nhiên thấy em nhìn mình không chớp mắt – đôi mắt long lanh nỗi đau buồn. Ôi, đó hẳn là hình ảnh thực của cuộc sống đầy gian khổ hôm nay.

Những ngày này mình thường cảm thấy cô đơn và không sao ngăn được một nỗi buồn đè nặng trong tim. Bệnh xá chưa triển khai được, vẫn cảnh lang thang nay chỗ này mai chỗ khác. Chiếc giỏ xách tay nặng trĩu và nỗi lo còn nặng hơn nhiều.

 

23.9.69

Tháng Chín gần qua hết, thời gian qua nhanh đến không ngờ. Mùa thu đã về trên những đồng lúa ươm vàng. Cảnh ngày mùa lẽ ra phải vui vì sự no ấm đã về sau bao ngày lao động vất vả nhưng giặc Mỹ, ngụy lăm le đe doạ đồng lúa. Những đoàn tàu sáng sớm đã đổ quân xuống đi càn, những trận pháo nện vào giữa cánh đồng đông đặc bên bồ lúa… Lo âu, căm thù đã át mất niềm vui của mùa gặt. Bỗng nhiên mình nhớ đến những cuốn phim và những bài hát trên cánh đồng Xã hội Chủ nghĩa và lòng quặn thắt một câu hỏi: Bao giờ, bao giờ miến Nam mới được Hoà bình, Tự do, Độc lập?

* * *

Thư cánh Nam gửi ra không có thư em. Qua những người khác biết em đau yếu và buồn rầu đến suy nhược. Nỗi xót thương em da diết trong lòng. ở đâu làm gì cũng không quên được em. Chao ôi có cách nào san sẻ cùng em mọi khổ đau đó hở em? Cầu chúc em tôi bình an để còn gặp lại nhau em nhé. Từ nơi xa xôi gửi về em nghìn vạn nhớ thương, có nghe không người em kỳ lạ của tôi!

 

20.10. 69

Rất lâu rồi không ghi nhật ký. Cuộc sống lẽ nào lại để mất dần những suy tư của một con người biết suy nghĩ hay sao? Không, mình không muốn như vậy nhưng công việc đè nặng lên mình. Và hàng ngày từng cái chết đau xót của anh em đồng chí làm mình quên đi những cái thuộc về băn thân mình nhưng quyển nhật ký này đâu phải chỉ là cuộc sống của riêng mình mà nó phải là những trang ghi lại những mảnh đời rực lửa chiến đấu và chồng chất đau thương của những con người gang thép trên mảnh đất miền Nam này.

* * *

Anh Tám Vinh đã chết rồi! Anh Tám ơi, em không bao giờ quên anh, người nông dân chất phác cần cù thương vợ thương con và thương bạn bè đồng chí mình với tình thương vô hạn. Những đêm khuya khi mình ngon giấc ngủ anh lục đục chui trong bụi tre mở nắp công sự múc từng gàu nước để ngày mai nếu mình có xuống ở đỡ bị lạnh. Và anh cũng đã nhường những chiếc công sự không ngập để anh ra ở chỗ công sự đầy nước và khó khăn… Anh chết rồi ư anh Vinh! Không! Anh vẫn sống. Người anh cần cù giản dị rất đỗi mến phục của tôi.

 

Chương 13

 

21.10.69

Tình hình căng thẳng gần đến mức chót. Ở Mộ Đức xe dù đã cày xới hết xóm thôn, dân bật chạy, cán bộ hy sinh do địch càn đè bẹp ủi sập cả công sự… Ngồi nghe anh nói với mình mà không khỏi lo âu. Và mình cũng đã đọc thấy nỗi lo âu còn nặng nề gấp bội toát lên trong đôi mắt đen linh hoạt và sâu thẳm suy nghĩ của người anh thân quý của mình. Càng gần anh mình càng cảm thấy tình anh em thêm mặn mà gắn bó mặc dù những lần gặp gỡ anh em chỉ chào nhau bằng một câu hỏi qua loa hoặc có hơn chút nào là những câu chuyện xoay quanh vấn đề công tác. Qua những người khác mình biết anh quan tâm và lo lắng cho mình nhiều nhưng làm sao để nói hết cùng anh nỗi nhở thương mong đợi khi xa anh và làm sao để hiếu được với mình anh cũng đã nhớ thương như vậy.

Anh Tân ơi, anh là người anh thân thiết của em nhưng sao em vẫn thấy anh xa lạ, phải chăng vì bức tường nào đó đã ngăn cách anh em mình

 

25.10.69

Chắc khó ai tưởng tượng được nơi này là nơi làm việc và nghỉ ngơi của một nhóm người có trách nhiệm quan trọng bậc nhất trong huyện. Đó là một căn nhà dột nát bỏ hoang, căn nhà còn một hầm pháo nguyên vẹn. Vì sợ bị lộ nên không dám quét dọn vẫn phải để nguyên rác rưởi. Đêm vào nằm muỗi vo ve bên tai và những hạt đất rơi lả tả qua các kẽ gỗ làm mọi người ngủ không ngon giấc.

Du Quang là một thôn giàu có và xinh đẹp của xã Phổ Quang, một xã giàu có ven biền Đức Phổ. Bây giờ ai đến Du Quang chỉ còn nhận ra cái trù phú của thôn này qua những chiếc hầm pháo. Hầm pháo ở đây xây rất lớn và rất quy mô, lát xung quanh bằng những cột gỗ láng bóng của những ngôi nhà lớn đã bị sập. Trong hầm những bộ ván dày sắp đàng hoàng, rộng có thể dung trú hàng ba bốn mươi người.

Chiều chiều ăn cơm xong mọi người thủ thế lên miệng hầm đề phòng họ đến phóng lựu đạn, đề phòng đạn thẳng bắn từ bên núi Vàng sang, DK. và pháo… Cuộc sống thu gọn dần đến một mức tối thiều. Hàng trăm cái nguy hiểm đang đe doạ quanh mình.

 

30. 10. 69

Trời làm lụt, nước mênh mông phủ kín đồng ruộng và xóm làng những nơi thấp.

Mỹ đổ quân từ sáng hôm qua, sáng nay dậy từ bốn giờ sáng chuẩn bị để phòng địch tập kích. Trời vẫn mưa tầm tã. Bảy giờ sáng Mỹ bắt đầu đi càn. Bọn mình xuống công sự, chiếc công sự xây theo kiểu hầm pháo khá quy mô nhưng đã lâu ngày nên hai lỗ hơi bít mất, lẽ ra chỉ có mình và anh Kỷ ở nhưng ở như vậy cảm thấy khá khó (mặc dù không có chuyện gì xảy ra), nên mình đề nghị Tám cùng ở. Xuống công sự hơn một giờ nước bắt đầu dâng lên và mặt nước đấng lên rất nhanh phút chốc đã gần đến ngực. Lạnh run làm mình không chịu nổi. Không rõ Mỹ ở đâu nhưng bọn mình quyết định đội nắp chui vào bụi ngồi. Đến trưa thấy Tâm và Đi xách súng vô tìm dẫn chạy. Không còn chiếc công sự nào ở được cả, cái nào cũng lút nước mà không rõ Mỹ ở đâu. Mọi người đều ở nhà của Tâm, ai nấy đều ướt sũng và lạnh cóng run lật bật (Vậy mà mình cũng cứ thấy vui – có đi làm cách mạng mới có cảnh này và những nụ cười vẫn nở trên những đôi môi tái nhợt của mọi người. Hàng loạt đài điện và đồng hồ được đem bếp hơ lửa vì cái nào cái nấy đều đã uống nước no say.

 

1.11.69

Đêm qua đường – tình hình đường đi căng hơn dây đàn. Nước lụt mênh mông và địch ở dày trên đường cái. Nhưng khó khăn nào cũng không ngăn nồi. Anh Tân quyết định đi lên và mình cũng quyết định cùng đi dù khó khăn đến mức nào. Cơ quan mình còn ba người nhưng cũng không thể đi hết vì điều kiện không cho phép. Năm giờ chiều mình theo anh Tân đi ra bến đò, đường đi qua những xóm thôn đã bị địch ủi lên, cây cối nhà cửa ngồn ngang. Lác đác còn vài cái nhà, những người dân nhao nhác chạy càn, tìm gánh lúa bó củi xoong nối gồng gánh chạy đi. Quang cảnh buồn đến thấm nước mắt.

Đến bến đò chỉ còn một chiếc ghe duy nhất. Người đi những mười lăm người. Phải quyết định để bớt lại chỉ đi một nửa. Ngoài số trinh sát chỉ còn lại ba người: Anh Tân, Kính và mình.

Đoàn người lặng lẽ ra đi, bước chân rón rén qua tìm mép ruộng, từng bờ gai. Khi qua chiếc cống ngầm xuống đường quốc lộ mình có cảm giác như Ma-ri-uýt đang đi dưới cống ngầm của Pans. Mình không hề thấy sợ (hình như đó là bản tính mình rồi), đi trước mình anh Tân thường quay lại chắc lúc nào anh cũng chỉ thấy sau lưng anh một nụ cười và một đôi mắt tò mò nhìn vào những ngọn đèn rực sáng trong đồn địch. Anh Năm của em ơi, em muốn giữ trọn niềm vui, niềm tin tưởng dù trong bất cứ một hoàn cảnh nào. Đêm nay qua đường em cũng thấy vui vì có anh đang cùng em vượt qua mọi gian khổ, có anh dnl em qua những chỗ gay go…

Đến địa điểm lúc 23 giờ đêm. Chia tay anh Tân. Anh đi bình an và mau về nghe anh.

 

5.11.69

Trời vẫn mưa gió. Sống ở đây trong một ngôi nhà chưa có dấu vết chiến tranh này mình vẫn không thấy ấm áp mặc dầu mình đang sống giữa một gia đình đông đúc yên vui. Ngồi trên chiếc phản kê giữa nhà, mâm cơm nghi ngút lên khói mình nghĩ đến mọi người. Cũng giờ này giữa gió mưa lạnh lẽo anh đang trên đường đi sao anh Năm? Gió lạnh lùa qua chiếc áo ướt chắc làm anh khẽ run. Ước gì tình thương của đứa em gái này làm một ngọn lửa nhỏ sưởi ấm từng anh.

Cũng giờ này trong cánh Nam xa xôi, nơi mảnh đất đang lan tràn lửa khói, em tôi ở đâu? Dưới chiếc công sự nước non lùm bõm hay trong rừng Xa em mỗi ngày thêm một quãng đường xa, nhở thương chị cũng đành nén lại.

Và cũng giờ này bao nhiêu gia đình không nhà không cửa con cháu nheo nhóc ở vào đâu?

 

12.11.69

Trở về với núi rừng sau ba tháng trời long đong vất vả lăn lộn với kê thù. Ra đi lòng đau xót khi nhìn lại đồng bằng. Những xã thôn đã nuôi mình trong những ngày qua giờ đây đang bị quân thù chà đạp. Chúng đã san bằng từ Đức Phong đến tận núi Cửa. Đứng ở đầu Hội An có thề nhìn thấu đến bờ biển Mỹ Á! Chao ôi, đau xót biết chừng nào.

Những người còn lại lang thang không cửa không nhà, họ không thể rời bỏ quê hương dù đó chỉ còn làm một mãnh đất hoang tàn, cây cối đổ rạp dưới bánh xe ủi. Vì họ còn ruột rà gắn bó với cách mạng, những người vợ chiều chiều gồng gánh trở về trên luống đất ngổn ngang, cố nẫu nồi cơm cho chồng về ăn một miếng no lòng. Những mẹ già lùm cụm mang cơm cho từng đứa con ướt đẫm vừa núp dưới bờ sông trở về!

 

23. 11. 69

Hôm nay là ngày sinh của Phương. Em ơi! Không phải chị nhớ em và ngày sinh của em vì ngọn gió lạnh và mưa phùn từ phương Bắc thổi về gây nên cái lạnh giữa núi rừng này đâu Bao giờ cũng vậy, giữa hoàn cảnh nào cũng vậy chị cũng vẫn giữ trọn trong lòng những kỷ niệm êm ấm của gia đình ta. Nhớ sao những ngày chủ nhật, những ngày kỷ niệm sinh nhật nhà mình đông vui bè bạn đến chúc mừng và những bữa liên hoan đậm đà ấm cúng. Hôm nay cũng ngày chủ nhật, em tôi làm gì để kỷ niệm ngày sinh của chính mình? Chắc chắn rằng em sẽ nhớ đến chị, trong niềm vui em đã để một chút nhớ thương cho người chị nơi xa. Em tôi không thể nào tưởng tượng được ngày này chị đã làm gì. Ngày nay ư? Sáng ra vác rựa đi làm, buổi trưa xách thuốc trong vai theo hai chú dẫn đường đi thăm bệnh cho một đồng chí cán bộ. Trên đường đi gặp những người bộ đội, chị đã ngập ngừng đứng lại bên người bạn đồng hương mà không biết nói gì. Họ đang bê măng nứa, nước da xanh tái nói với chị rằng họ đã bị đói và sốt rét lâu ngày. Cuộc kháng chiến vĩ đại này viết bằng xương máu và tuổi xuân của bao người, em có biết thế không em?

 

26.11. 69

Thêm một tuổi đời, thêm một năm lửa khói trên chiến trường miền Nam gian khổ. Chúc Thuỳ vững bước trên con đường vinh quang mà Th. đã chọn. Th. ơi, Th. không buồn khi lễ kỷ niệm sinh nhật của Th. chỉ có lá rừng ướt đẫm trong mưa dào dạt khe nói với Th. những lời thân mến. Th. không buồn khi bản nhạc mừng Th. hôm nay chỉ có dòng suối ào ào tuôn nước về xuôi. Và căn phòng mà Th. Đang ngồi đề ghi lên trang vở đời của mình thêm một trang mới chính là chiếc hầm chật chội ướt át này. Th. không buồn vì sau này mở lại những trang sổ này, Th. sẽ tự hào về những năm tuổi trể của mình. Ở đây Th. không có những giây phút ấm áp giữa bạn bè bên lọ hoa nhỏ với những bông hồng thơm ngát để trên bàn. Ở đây Th. không có cái hạnh phúc đi cạnh người yêu trên con đường vắng, khi ánh chiều tím dần trong buổi hoàng hôn. Ở đây Th. thiếu hiệu nhưng cũng rất đầy đủ.

Cho nên Th. hãy cười đi, hãy vui đi, khi vở đời mở sang một trang mới đầy vinh quang đẹp đẽ.

 

29.11.69

Bệnh xá chưa làm xong đã lại di chuyển. Có một thằng đã biết chỗ mình ở chạy theo địch. Lại vác ba lô lên đường đi tìm địa điềm mới. Mình trở về cánh Nam.

Tạm biệt cánh Bắc. Ra đi không thấy lưu luyến mà chỉ thấy lòng nặng những lo âu. Địch đang tập trung đánh phá cánh Bắc của cái huyện đầu sóng ngọn gió này. Chúc các đồng chí ở lại kiên cường trụ bám chiến đấu để giành lấy những ngày êm đềm vui tươi trên mảnh đất trù phú xinh đẹp này.

30. 11. 69

Đường hành quân bao giờ cũng gian khổ, nhất là đi công tác trên cái chiến trường Mỹ đóng quân này. Qua Phổ Nhơn, không một bóng người, những ngôi nhà trơ trụi với những chiếc cột chảy dở trông như những bóng ma. Không hiểu sao mình cảm thấy thương và nhở anh Năm lạ lùng. Quê anh đây sao anh Quê anh sao điêu tàn quá anh? Những mảnh vườn hoang với những bông hoa bách nhật màu hin đậm gợi cho người ta những cảm giác bồi hồi nhớ tiếc. Mình ngắt mấy nhánh hoa không hiểu để làm gì mà cầm theo mãi cho đến khi lội qua sông bến bè mới chịu để trôi. Không quên đâu, người bạn đường với những kỷ niệm đơn sơ mà đậm nét.

 

1.12. 69

Trở lại Phổ Cường, bồi hồi xúc động khi gặp làm những người quen biết. Vẫn như ngày nào quê hương Phổ Cường vẫn đông vui và những người quen nống hậu đón mình với tất cả mến thương. Bao giờ cũng vậy, bao giờ mình cũng có cảm giác như một đứa con xa nhà lâu ngày mới trở lại nhà để được sống giữa tình thương của gia đình.

 

2.12.69

Gặp lại em, chị hình dung như giờ phút gặp nhau em sẽ gục đau trong tay chị nức nở khóc và chị cũng nghẹn lời khi bước vào ngôi nhà cũ mà vắng bóng em Nhiều. Nhưng nào hiểu vì sao gặp nhau, chị em đều cười vui.

Sung sướng biết chừng nào khi được trở về sống trọn trong tình thương tha thiết của em. Những ngày sống ở cánh Bắc chị khó mà tưởng được có lúc nào đó lại được nhìn đôi mắt long lanh của em, khó mà tưởng được lúc nào lại được cầm tay em và vuốt trên mái tóc em. Hôm nay lại có ngày đó. Bên em có cả Thường, mấy chị em mình đã sống những ngày ấm áp vô cùng. Tình thương cách mạng đã sưởi ấm tim tôi, tôi không còn thấy lạnh mặc dầu gió lạnh đang về và mưa phùn đang rắc đều trên khắp xóm thôn.

Ngài mai lên đường, hẹn ngày gặp lại những người thân yêu và gặp lại em, nghe em của tôi!

 

3.12.69

Đêm lạnh, gió đông bắc từng cơn thổi về làm mình lạnh tê người. Chạy đến bên em, mình khẽ run vì lạnh và mình đã ấm lại nhờ em đem tấm dù choàng lên vai mình và bàn tay em nắm chặt tay mình tha thiết thương yêu. Chưa đến giờ đi mình ngồi nán lại một thời gian ngắn nhưng thời gian không chiều mình. Bốn giờ kém mười lăm mình và Thường khoác ba lô lên vai. Em mình tiễn mình đi cho đến tận chỗ tập trung. Giây phút chia tay mình nhìn em thấy trong đôi mắt đen ngời ấy một nỗi nhớ thương kỳ lạ – mình đã chia tay em như chia tay một người thân yêu ruột thịt.

Bao giờ gặp lại em đây?

* * *

Có phải lửa khói chiến tranh đã làm nước mắt mình khô cạn? Trước đây một câu chuyện đau buồn trong một cuốn phim có thể làm mình giàn giụa nước mắt thì bây giờ mình có thể cắn môi đứng lặng yên trong một buổi chia tay mà người đi, kẻ ở đều không hiểu ai còn ai mất sau buổi chia tay ấy. Và chiều nay đứng trước nấm mộ em Nhiều, đau thương đến rớm máu trong lòng vậy mà mình cũng chỉ rưng nmg nước mắt. Nấm mộ nằm ngay bên đường đi, vòng hoa chưa tàn, em chết đã hơn một trăm ngày mà tưởng như đứa em nhỏ dại ấy mới ngã xuống. Đốt một nắm hương cắm lên nấm mộ em mà mình nghẹn ngào không biết nói gì với người đã chết. Nhiều ơi! Em đã chết như một người chiến sĩ kiên cường mà cuộc đời em là bài ca cho những người còn sống ca ngợi. Nhiều ơi! Em chết đi giữa tuổi đời xanh ngát ước mơ, giữa tình yêu đang nở thắm. Chị và những người thân của em chỉ biết hứa với em rằng sẽ tiếp tức chiến đấu để trả thù cho em.

 

4.12.69

Gặp lại Vân, hai đứa ôm nhau và mình cảm động xiết bao khi thấy đôi mắt người bạn gái long lanh nước mắt. Mình đã trở về trong vòng tay của chị Hai, của anh Kỳ… của những người đồng đội mến thương.

Và những ngày êm ấm trong căn nhà nhỏ đã đến bù lại những ngày gian khổ vừa qua.

 

Chương 14

1970

 

31.12.69

Đêm giao thừa của năm 1969 bọn mình hành quân trên đường về trạm cũ. Buổi chia tay với những người quen và người thân trên đất Phổ Khánh để lại trong lòng mình bao kỷ niệm khó quên.

Cách đây gần một tháng mình từ cánh Bắc trở về sau hơn hai năm xa cách, người quen đầu tiên ôm mình trong vòng tay siết chặt và nước mắt rưng rưng là Vân, người bạn gái thuỷ chung ấy đã thương yêu mình như một người ruột thịt Biết lấy gì đền đáp lại những ân tình ấy hở Vân? Đêm nay lại ra đi, chân bước trên những con đường quen thuộc đầy gai lưỡi hùm mà mình miên man suy nghĩ. Cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, cái chết gần một bên. Mới hôm nào đây chỉ chậm vài phút là mình một là chết hai là nằm trong nhà từ của địch. Chỉ còn cách chúng không đầy hai mươi mét bọn mình mới chạy, may mà cán bộ và thương binh khỏi ai sao hết, chỉ có điều mình mất sạch toàn bộ ba lô, chỉ còn lại chiếc xách nhỏ gồm một hộp dụng cụ chuyên môn và một chiếc đài. Một đêm ngủ rừng và một ngày vượt núi bọn mình đã ra đến chỗ ở của dân và cán bộ Phổ Khánh. Ở đó bọn mình đã sống giữa tình thương của mọi người, cả gia đình anh Bốn, Trừu với những Hơn, Long, Ba, Đức vv.. ấy đã nâng niu chiều chuộng mình. ở đó có Hoan, có Tổng có anh Xu những người cán bộ giàu tình thương và tế nhị.

Chiều nay ra đi, những người quen thân đưa đi một đoạn đường dài. Bao giờ mới trở lại đây để lại ngồi trên chiếc ghe qua đầm An Khê lộng gió?

Chào Phổ Khánh thân yêu. Chào Vân, hẹn ngày sum họp.

 

1.1.70

Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nưa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn đứng đắn Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn. Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đới còn ở tuổi hai mươi? Nhưng… tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có…

Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình. Một đôi mắt đen thâm quầng vì thức đêm nhưng bao giờ đến với mình cũng là niềm vui và sôi nổi. Một đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài cũng vậy bao giờ cũng đến với mình tha thiết tin yêu. Và đôi mắt tinh ranh của một người bạn gái nhìn mình như hiểu hết, như trao hết niềm lin. Th. ơi! ĐÓ phải chăng là hạnh phúc mà chỉ Th. mới được hưởng mà thôi? Hãy vui đi, hay giữ trọn trong lòng niềm mơ ước và để màu xanh của tuổi trẻ ngời rạng mãi trong đôi mắt và nụ cười nghe Thuỳ!

 

2.1.70

Lớn rồi mà sao Th. vẫn là cô bé học sinh năm nào giận dỗi quay đi khi mà còn biết bao nhiêu điều chưa nói hết. Mình vẫn là cô bé Th. nũng nịu trong chiếc nôi tình cảm. Tình thương của mọi người thân yêu của mình là chiếc nôi mềm ru mình trong giấc mơ của tuổi trẻ. Bao giờ mình mới hết đòi hỏi cuộc đởi phải chiều chuộng mình Bao giờ mình mới biết nhẫn nại như những người mẹ hiền, vợ đảm cam chịu mọi đắng cay về mọi mặt đề gia đình êm ấm? Mình thì không được vậy, mình chỉ có thể cam chịu mọi nỗi khổ về mặt vật chất dành cho người thân nhưng tinh thần thì mình phải là kẻ được ưu tiên!

 

4.1.70

Gặp lại anh giữa đám đông người. Không thề nói cùng anh được gì cả. Anh Năm ơi, sao tình thương không bao giờ được trọn vẹn giữa chiến trường lửa khói này phải không anh? Nhớ đêm nào trong buổi chia tay, anh cầm bàn tay em mà cũng chỉ nói được rằng: “ở nhà cảnh giác nghe em”. Em nhìn đôi mắt anh biết hết anh dặn em những gì rồi đó.

Lại chia tay, ôi sao lúc nào cũng chỉ là chia tay, lo âu và thương nhớ. Đi đi, người anh trai thân thiết, người đồng chí thân yêu đã dìu dắt tôi qua những chặng đường gian khổ. Mong ngày gặp anh, em sê nói anh nghe tâm tình của đứa em gái mà anh đã dành trọn tình thương duy nhất của một người anh cho nó.

 

6.1.70

Công việc bộn bề làm mình đau đầu hay còn vì một việc gì nữa? Việc gì mà cảm thấy không thoải mái trong lòng. Viên ngọc quý trong tay mình đã đề rớt xuống đất. Dù có lượm lên màu sắc nó cũng không còn long lanh nữa, dù chưa vỡ nhưng nó đã xước mất rồi. Đáng buồn biết mấy hở Th.. Th. ơi! Xin Th. hãy làm như lời khuyên của M. người đồng chí yêu thương: Phải kiên định, thiếu kiên định dù chỉ một phút cũng có thể gây cho mình những ân hận về bao hậu quả không sao lường trước. Hãy rèn giũa phẩm chất của một người Đảng viên nghe Th.. Cuộc đời Th. là một cuốn sổ, những dòng chữ ghi trên đó đẹp như một bài ca nhỏ. Xin Th. hãy ghi tiếp những dòng xứng đáng.

Hãy hứa trước toà án lương tâm đi Th. nhé. Th. sẽ giữ tròn tất cả những gì cao quý của một người Đảng viên, một người trí thức.

M. hỏi Th.: “Anh có phải là Vũ Khiêm không khi Thuỳ là Hương Giang”. Biết trả lời sao đây? Chiến tranh đã cướp của Th. mọi mơ ước về tình yêu. Th. không muốn và cũng không thể nghĩ đến nó bởi vì cuộc sống quanh Th. không cho phép. Cho nên M. hãy đi đi, theo tiếng gọi của chiến trường và Th. ở lại – cũng là tất cả cho chiến trường. Hẹn ngày sum họp sẽ nói sau nghe người đồng chí yêu thương!

 

7.1.70

Tôi đứng đây giữa núi rừng lộng gió

Mưa dày trùm cả rừng cây.

Nghe gió mùa đông bắc thổi về đây.

Lòng bỗng thấy nhớ thương da diết.

Ơi những người thân yêu ở nơi xa có biết

Tôi nghĩ gì trong giá lạnh chiều nay

Chiều nay…

Ai đi giữa hàng cây

Trên những con đường thênh thang của trái tim Tổ quốc.

Ai đi giữ công viên Thống Nhất

Nhìn bóng dừa nghĩ đến miền Nam

Và những bóng hình tha thiết yêu thương

Bỗng đang về đây giữa lòng Hà Nội.

Như những đêm nào Hồ Gươm dạ hội

Vai kề vai vui đón xuân sang

Chiều nay…

Giữa đỉnh Trường Sơn

Người giải phóng quân trên đường ra trận tuyến.

Có nghĩ gì chăng hỡi người thương mến

Khi nhìn về dãy núi phương Nam

Sóng biển Sa Huỳnh vẫn mặn nhớ thương

Vẫn dạt dào đêm ngày vẫy gọi

Vẫn chờ anh với chiến công chói lọi.

Và hẹn ngày đất nước yên vui

Ta lại cùng nhau tay nắm trong tay

Đi đón mùa xuân giữ niềm hạnh phúc.

Chiều nay…

Trong căn nhà giữa xóm thôn quen thuộc

Ai nghĩ gì mà đôi mắt long lanh

Mưa nắng dãi dầu trên mái tóc còn xanh

Vẫn không phai trong lòng tình thương cao đẹp nhất.

Có những đêm dài trên đường công tác

Lòng bồi hồi khi trở lại đường xưa

Cũng đường này ta đã tiễn đưa

Trong những buổi chia tay nặng tình ruột thịt

Ai biết chăng dù ta có chết

Cho ngày mai cho đất nước tự do

Thì trong ta vẫn trọn niềm mơ

Và trọn vẹn cả tình thương chung thuỷ

Chiều nay…

Trong nghìn suy nghĩ

Ai khẽ thở dài thoáng nét lo âu

Tôi thấy rồi trong những đêm thâu

Một đôi mắt đen vẫn còn chưa nghỉ

Ai lo cho đồng bào, anh em, đồng chí

Ai đau lòng khi bom đạn còn rơi

Ôi những người thân thiết của tôi ơi.

Giữa chiều nay tôi bay về sum họp

Tôi hôn những người thân và lệ tràn trong mắt

Giọt lệ chảy dài thắm mặn yêu thương

Đường đi bao nỗi gian nan

Bàn chân lội suối băng ngàn ta đi

Chông gai nào có xá gì

Mắt nhìn vẫn một hướng về ngày mai

Và ai có biết chăng ai

Tình thương đã chắp cánh dài cho ta.

 

8.1.70

Cũng trên con đường này ngày xưa khi chia tay, em đưa mình lên mãi gần núi. Bây giờ cũng vẫn là em, vẫn tình thương thiết tha nóng bỏng và nặng trĩu lo âu nhưng em cũng chỉ có thể nói với chị bằng vài câu nói khô khan rồi chia tay chị. Trời tối đen như mực và mưa như trút nước, chị đi giữa đêm mưa không nhớ đường nên lạc mãi – không trách em nhưng sao thấy cửi thân lạ lùng. Chị biết rằng trong cuộc họp ý nghĩ em đang làn theo từng bước chân chị run rẩy bước giữa con đường lầy lội, chị biết rằng em không thể tập trung mỗi khi nghe tiếng pháo nổ dọc theo đường chị đi. Nhưng… buồn biết mấy hở em? Sao ta lại không thề cùng đi như những ngày xưa? Em ơi, dù trong hoàn cảnh nào cũng vậy hãy rèn giũa cho tình thương sáng ngời như ngọc quý. Đừng để một vết nhơ nào trong đó nghe em. Chị em mình hãy dũng cảm trong mọi gian nan, hãy bình tinh sáng suốt trong mọi tình huống quyết bảo vệ đến cùng tình thương trong trắng, thiêng liêng cho đến trọn đời.

* * *

Chỉnh huấn Đảng. Thấy sai lầm của đồng chí mà mình rùng mình. Đừng bao giờ nghe Th.! Đừng bao giờ để chi bộ phải có những cuộc họp kiểm điểm như vậy đối với Th..

* * *

Chiều nay ngồi trên chiếc sạp phòng mổ mình bỗng nhớ đến Liên, ở đây Liên đã sống và đã chết. Mộ Liên chôn trên đỉnh đồi, mình cũng chưa đến thăm nhưng mỗi lần đến căn phòng này mình lại nhớ đến Liên. Cuộc sống thật là ngắn ngủi nhưng một ngày qua phải là một ngày xứng đáng. Đừng để ai đó khi kể lại lịch sử đời mình có những tiếng chê bai.

 

9.1.70

Nhớ em – em là ai, là một người thân, một người đồng chí, là đứa em thân yêu hay một người xa lạ. Nên nói thế nào đây nhỉ?

Một chùm hoa vạn thọ

Và một nhánh hoa mai

Nở chen màu tươi thắm

Trong ánh nắng ban mai.

Cuộc đời rồi sẽ ra sao hở Th.?

 

10.1.70

Đại hội chi bộ, trong ba đồng chí chi uỷ mới có mình. Mình không ngờ bời vì tuổi Đảng thật là quá non trẻ … Bước đường đi còn trăm nghìn gian khổ, chúc Th. vững bước đi lên, đạp bằng mọi trở lực để xứng đáng làm một Đảng viên chân chính nhất.

 

12.1.70

Những ngày sống bên em, nặng những suy nghĩ, không nói thì cũng thấy khó, mà nói thì biết nói gì. Điều nào cần nói nhưng cũng đã nói rồi. ôi, biết nói gì đây khi mà cuộc sống tính bằng giây, bằng phút. Chị không muốn nghĩ xa, chỉ muốn nói những điều trước mắt. Điều đó là: một phút sống phải là một phút vinh dự. Trước mắt ta ngàn vạn chông gai, mong em hãy giữ tròn tình thương tha thiết, lấy đó làm nguồn động viên, làm chỗ dựa cho cuộc sống nghe em.

 

13.1.70

Vậy là M. đã ra đi! Không thể nào mình lại nghĩ sự việc như bây giờ. Tám năm về trước dưới rặng cây trên con đường cũ mình hến M. đi Nam, không một lời hứa hẹn, không một giọt nước mắt trong buổi chia tay, để rồi suốt năm năm sau mình dành trọn tình yêu thiết tha chung thuỷ cho người giải phóng quân ấy. Và mình đã lên đường vào Nam theo tiếng gọi của Tổ quốc và tình yêu. Mình đã gặp lại M.. Ai cũng tưởng rằng hạnh phúc đó không có gì sánh được. Nhưng cuộc đời thật lắm nỗi éo le. khi xa nhau mình đã thiết tha thầm gọi tên M. trong từng giây từng phút, nhưng khi gặp nhau mình đã để cho lòng tự ái ngự trị lên trên tình yêu. M. không phải là của riêng mình, đành rằng M. chỉ dành tình yêu cao nhất cho Đảng, cho nhân dân, nhưng nếu đề cho mình quá ít yêu thương thì… không thể đáp ứng với trái tim sôi nổi yêu thương của mình. Mình không hề đòi hỏi phải gần nhau, phải cưới nhau mà chỉ mong rằng dù giữa bom rơi, đạn nổ giữa lửa khói chiến trường tình yêu vẫn sáng ngời rực rỡ. M. đã không làm được như vậy và mình đã bắt con tim mình phải quên đi những gì đã nuôi sổng nó trong hơn mười năm nay.

Mình quả đúng như lời M. nhận định: “Th. có tình yêu đắm say mãnh liệt thủy chung và nhiều tự trọng”.

Ba năm qua hai đứa chỉ gặp nhau hai lần, mình và M. đều cảm thấy buồn khi nghĩ đến tình yêu.

Lỗi tại ai? Tại mình hay tại M.? Không ai trả lởi được, ai cũng bàn luận và góp ý cho cả hai đứa mình. Người thì khuyên mình không cần thiết phải tiếp tục yêu một người không xứng đáng trong tình yêu với mình. Một số người khác hiểu M. hơn thì cố khuyên mình đừng tự ái đề trở lại với nhau, nhưng hai đứa chỉ cười trước tất cả mọi ý kiến. Không ai hiểu nổi tình yêu của hai đứa đâu. Và để giải quyết được cũng không một ý kiến nào ngoài ý kiến của hai đứa.

Bây giờ M. ra đi không gặp Thuỳ, như lá thư M. viết lại “Sự sống của tình yêu không cần sự có mặt của nhau, dù ở Nam hay Bắc, dù là gần nhau hay cách ngàn dặm đường nắng mưa cát bỏng… ở đâu anh cũng vẫn là anh của tám năm qua và nhiều năm nữa để mà yêu em tha thiết. Hãy sống với nhau như một người thân yêu nhất trên đời. Quyền quyết định là hoàn toàn do em….”.

Cách giải quyết đó cũng được. ở đây mình cũng sẽ dành trọn cuộc sống cho chiến đấu và công tác – không thể nào có tình yêu nào được và M. ở đó chắc cũng không thể nào có được một tình yêu chân chính khi nghĩ đến ai khác ngoài mình.

Cuộc đời đã dành cho ta một đoạn đường như vậy thì hãy ráng mà đi, bao giờ gặp lại nhau hãy nói tiếp đến tương lai.

Chúc M., người đồng chí yêu thương lên đường bình an – gởi theo M. ngàn vạn nhớ thương, tình nhớ thương của một người bạn và một người đồng chí.

 

15.1.70

Chiều mưa Đồng Răm.

Trở lại Đồng Răm. Mình đã tạm biệt nơi đây ngày 28.4.69 khi mà bệnh xá bị địch tập kích vào. Hôm nay trở lại nhìn những nền nhà sụp đổ, ngổn ngang thân cây cháy, lòng mình tràn ngập xót thương.

Nơi đây đã ấp ủ biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn trong đời cách mạng của mình, nơi đây đã kết nạp mình dưới cờ Đảng sau bao ngày phấn đấu gian khổ.

Nơi đây đã rèn luyện mình từ một sinh viên mới ra trường trở thành một cán bộ lãnh đạo có nhiều thành tích trong công tác.

Nơi đây đã nảy sinh tình chị em cao quý thiết tha, mối tình đã nâng mình đi vững bước qua ngàn vạn chông gai trong cuộc đời.

Dòng suối này một buổi trưa nào mình đứng chờ em, gốc cây này mình đã ngồi cùng em sau những ngày xa cách… Bao nhiêu kỷ niệm lần lượt hiện ra trong óc mình… Giặc đã chóp của mình hai quyển nhật ký. Tuy đã mất những trang số vô giá đó, nhưng còn một quyển sổ quý hơn cả, đó là bộ óc của mình, nó sẽ ghi lại toàn bộ những điều nó đã tiếp thu được trong cuộc sống.

 

21.1.70

Mình tự thấy mấy bữa rày mình có những cái bực mình khà vô lý… Xuất phát từ đâu Anh em và cả chính mình đều thay khó chịu.

Không thể như vậy được đâu Th. ơi, Th. hãy nghiêm khắc với mình, rèn luyện Th. thành một người chị biết nhịn người nhỏ hơn, thành một người em ngoan ngoãn dịu hiền, làm một cán bộ có trách nhiệm, hiểu ý quần chúng và biết đặt quyền lợi chung lớn hơn tất cả. Phải khiêm tốn, uy tín là mọi người mang đến cho mình bởi sự mến phục chứ không phải mình tự gắn cho mình được.

Mong Th. hãy nghiêm khắc khắc phục những thiếu sót trên.

 

22.1.70

Chiều vắng nơi Hóc Bầu, lóp chuyên khoa của Phổ Cường đã về để lại ngôi nhà trống trải vắng lặng bóng người. Mình trở lại đây không thề giấu được nỗi buồn trước cảnh vắng vẻ này. Vì nhưng nhớ thương sao Th.? Chắc rằng trong những người trở về cũng có những người bùi ngùi chia tay nơi đây. Ôi! Tình cảm bao giờ cũng căng mọng trong trái tim Th..

 

24.1.70

Đêm lạnh vì những hạt sương tê buốt, trăng sáng như gương, cái lạnh cũng như những lưỡi dao lùa khẽ vào da thịt. Lớp dù mỏng không đủ ấm làm mình run lên khe khẽ, cái lạnh làm mình thao thức và hình như còn có một tình thương sôi nổi cũng tràn ngập trong lòng mình. Mình nghe hơi thở người đồng chí thân yêu ẩm bên tai và nghe trái tim họ đập mạnh mẽ trong lồng ngực. Cuộc chiến đấu này trăm nghìn gian khổ, hôm qua trên đường mình đi, dấu giày giặc còn mới bên xác một người bộ đội ngã bên đường còn chưa chôn và những sợi dây gài mìn giặc còn giăng đầy trên đường đi. Bọn mình qua đèo ải giữa một thời gian trống, địch mới vừa quay đi và lát nữa nó lại trở vào phục kích lại… Cái chết quá gần gũi và giản đơn. Cái gì làm cho cuộc sống bọn mình vẫn bừng lên mãnh liệt Đó phải chăng là tình nhân ái giữa những con người? Đó phải chăng là niềm mơ ước ở ngày mai vẫn còn cháy bỏng trong mình và những người đồng đội? Có phải vậy không hỡi người đồng chí yêu thương?

 

Chương 15

 

28.1.70

Có một niềm vui và hy vọng ánh lên trong đôi mắt ấy. Niềm hy vọng ấy nhóm lên từ bao giờ Từ những ngày hè chói chang khi lửa đạn chiến trường nóng rực trời. Từ những đêm trăng mờ trên đường công tác? Từ những phút gian lao khi cái chết kề bên… Th. ơi, cô gái giàu nghị lực và lý trí, cô đủ sức dập tắt niềm tin ấy đi sao? Như một người trồng cây đứng trước mảnh đất cằn cỗi giữa sa mạc, tự họ họ thừa hiểu rằng ở đây chỉ có cây chà là mọc được, vậy mà vẫn có một hình ảnh thoáng qua trong tâm tưởng họ, đó là hình ảnh một nhành hoa lan mỏng manh yếu đuối và quyến rũ. Không đâu Cành hoa lan ấy phải sống trong một chiếc chậu kiểng, nó sẽ chết nếu đem trồng giữa sa mạc. Phải hiểu vậy và phải làm như vậy – chỉ trừ khi con người làm chủ thiên nhiên, đem đòng nước ngọt tưới lên sa mạc, lúc đó nhành hoa ấy mới sổng được. Mình chắc không phải cái thế hệ đó đâu.

Bé Nga đã chết, mới hôm nào đó Nga còn đứng hát đầu nghiêng nghiêng một bên: “Cồn Cỏ có con cá đua là con cua đá nó nằm trong lá nó nằm trong khe nó có tám cái “ngoe”…”.

Nga sinh ra giữa núi rừng Gia Lai, mẹ nó đã một tay ôm con, một tay cầm rựa phát rẫy phát nương vừa nuôi con, vừa học, vừa công tác suốt bốn năm ròng. Người phụ nữ Việt Nam nào cũng khổ nhưng chắc ít có ai khổ bằng chị Sử. Lấy chồng và có thai… cho đến ngày đẻ con ra và nuôi con khôn lớn chứ không hề được một lời động viên an ủi của chồng. Vì có những sự hiểu lầm nên chồng chị đã không nhìn đến chị. Bổn năm cực khổ, chị đã vừa nuôi con, vừa học. Chị già trước tuổi khá nhiều, nhưng bước đường của chị cũng trưởng thành. Chị đã là một dược sĩ, một đảng viên, một người mẹ có đứa con ngoan nhất, một người vợ biết nhẫn nại chiều chồng. Chị về đồng bằng gặp lại chồng và những ngày hạnh phúc ngắn ngủi ấy đã qua, chị mang ba lô về tỉnh chưa đầy một tháng bé Nga đã chết.

Bé Nga đã chết vì sưng phổi mà không được điều trị. Địch càn mãi, không ai biết Nga đau nên cũng không qua lại gì căn nhà ngay sát đồn địch ấy.

Nga chết, thương Nga và thương mẹ nó rất nhiều (mặc dầu chị Sử hiểu lâm và đổi với mình không tốt). Cũng là do chiến tranh! Nếu không một chứng bệnh thường tình như vậy đâu có làm một đứa trẻ như Nga phải chết?

 

1.2.70

Những chuyện không đâu vào đâu nhưng nó như một cái gai cứ nhói mãi trong mình. Phải biết bảo vệ danh dự nghe Th…

Ngay từ bây giờ sẽ xem thử xem Th. có phải là một người đáng để M. và mọi người lin cậy hay không? Đường đi qua bao vực thẳm chỉ cần lơ là một chút ít là đủ sa sầy xuống hố rồi. Hãy tỉnh táo và cảnh giác.

 

2.2.70

Những bước ra đi nặng trĩu căm thù. Còn đế quốc Mỹ còn phải có những buổi ra đi như hôm nay Đêm không trăng, mình muốn nhìn rõ mặt từng đồng chí nhưng ánh đèn chỉ soi rõ mặt một số người. Tôi đứng nhìn em, em yêu thương, mong em hãy cảnh giác. Chị sẽ thức chờ em trở về. Không thể nào dập tắt được nồi lo âu đè nặng trong lòng. Ôi! Ai mà hiểu được giá trị của từng giây, từng phút của cuộc sống hôm nay quý báu đến mức nào không? Một phút sống là một phút chiến đấu phục vụ cách mạng. Tôi muốn vô tư nhưng điều đó không thể nào thực tế được. Vô tư làm sao khi máu đồng chí của mình vẫn nhỏ ướt đường đi.

 

3.2.70

Cái gì vắng vẻ bao trùm lấy không gian và bao trùm lên mình thế này nhỉ? Đó phải chăng là đôi mắt mở to chân chất nỗi ân hận vì công việc thất bại trên khuôn mặt thân yêu. Đỏ phải chăng là cái nghèo của một cái Tết chiến tranh trong gia đình thầy thuốc? Không hiểu nữa, mình chỉ thấy buồn, nỗi buồn của ai đâu mà sao đè nặng trong tâm tư mình. Tết đến nào có ý nghĩa gì đâu Th. ơi, bi quan đấy ư? Mùa xuân không về trong Th. nữa ư? Nắng hanh mà vẫn lạnh y hệt như năm nào, khi thấy nắng hanh gieo vàng trên luống cải mình vẫn thấy lạnh vì thiếu một tình thương của một người thân yêu nhất. Bây giờ… tám năm đã qua rồi.

 

6.2.70

Giao thừa.

Bổn năm rồi xa nhà, giao thừa lần thứ tư sống xa những người thân yêu. Hà Nội ơi! Đêm nay Hồ Gươm người vẫn vai chen vai, Tháp Rùa vẫn rung rinh ánh điện. Nhưng ta biết Hà Nội của ta niềm vui không thể trọn vẹn. Trái tim còn một nửa rớm máu thì làm sao vui cho đành. Đêm nay mỗi người đều mang nặng trong lòng nỗi nhớ thương. Và ở đây cũng hoa, cũng bánh tét, cũng lời ca tiếng hát nhưng lòng mình cũng chỉ là nhớ thương.

Bốn năm mới ăn Tết đồng bằng. Th. ơi, tình mến thân của đồng bằng không thể sưởi ấm cho Th.? Nụ cười trên môi đâu phải là nụ cười trong lòng!

Không đâu, hãy vui đi với mùa xuân Th. nhé, hãy yêu từng giây, từng phút của cuộc sổng hôm nay.

 

7.2.70

Cũng là một đêm mùa xuân, mưa xuân rơi sót trên mái tóc. Đêm nay trời tối, ánh sao mờ chỉ đủ soi con đường cát trắng giữa xóm thôn. Chia tay em trong lo âu. Tình hình sắp đến sẽ nhiều căng thẳng, mình đi để lại đằng sau nhiều gian khổ. Em ơi, liệu có còn được gặp nhau nữa hay không? ôi cuộc chiến tranh đàng căm thù biết mấy, nó chỉ đem đến cho minh đau khổ thôi, phải không em? Chị biết là sai khi nói với em rằng chị không mong ngày trở lại gặp ba má. Em trách chị bi quan, chị không bi quan mà đó chỉ là thực tế.

Tạm biệt em, nhất định sẽ còn gặp lại em, sẽ hôn lên đôi mắt đen thân yêu của em.

 

18.2.70

Hơn bao giờ mình mong ước em được đi A(30), em đi chị sẽ mất một chỗ dựa trong cuộc sống, mất một nguồn an ủi động viên, mất một người bảo vệ cho chị về các mặt… Nhưng vì tương lai của em, chị vẫn mong ước điều đó. Tình hình dưới đó mấy hôm nay căng thẳng chị không thể yên lòng khi nghe tiếng xe tăng gầm rú dưới đó. Từng tràng pháo như đóng vào óc chị. Em ơi, cố cảnh giác nghe em.

 

19.2.70

Gặp lại em xiết bao mừng rỡ, chị như sống lại những ngày xưa khi còn ở Bệnh xá Đồng Răm, em từ dưới đồng bằng lên mang trong lòng tình nhớ thương cháy bỏng nhưng khi đã được gặp lại nhau chị em đều thản nhiên như đến lạnh lùng. Sao vậy hở em?

Đêm nay trong căn nhà giữa núi rừng chị ngồi họp cơ quan mà biết có một đôi mắt nhìn chị mến thương và vui sướng.

Ôi tình chị em thiết tha sôi nổi bao nhiêu.

* * *

Được tin mẹ chết và cha bị thương nặng giặc đã chở đi, Tẩm khóc lặng từng hồi. Biết nói gì an ủi Tẩm được đây, những lời nói xuất phát tự đáy lòng mình chỉ làm Tẩm khóc nhiều hơn. Cứ ngầy la Tẩm như những người khác muốn chấm dứt sớm nỗi đau buồn bằng cách nêu lên những cảnh đau thương tang tóc của gia đình họ thì mình không nỡ. Mấy năm nay biết bao lần mình chứng kiến cảnh này rồi, vậy mà lòng mình vẫn thấy run lên thương xót và gần như sợ không muốn thấy nó nữa. Thuận cũng đến bên Tẩm an ủi, em nhìn mình, chỉ một cái nhìn thôi cũng đủ hiểu rằng em đã nói: Đây chính là cảnh ngộ của em một năm về trước và nó lại vừa tái diễn mấy tháng trước đây – chị hiểu vậy không?

Chao ôi, tình thương đối với em cũng xuất phát từ những giọt nước mắt ấy đó, chị đã thương em côi cút và đã đem tình thương của một người ruột thịt sưởi ấm trái tim em từ độ ấy đến rày.

 

20.2.70

Mình nhìn mãi người con gái ấy, đó là một cô gái có thân hình khoẻ mạnh và cân đối, mái tóc dài chấm áo, nước da bánh mật và đôi mắt to. Nụ cười trên khuôn mặt cô đượm một vẻ buồn. Nỗi buồn ấy xuất hiện từ bao giờ Từ khi tình yêu lý tưởng của cô bị tan vỡ hay vì nụ cười buồn ấy mà tình yêu tan vỡ Mình thương cô ấy với tình thương của một kẻ đứng trong căn phòng ấm áp nhìn một kẻ đi giữa gió lạnh, cô gái ấy còn phải đi vì chưa đến nơi cô ấy có thể dừng lại được Hình như cô ta ghen với mình, không phải cái ghen của một người con gái khi bị người yêu họ yêu một người con gái khác, mà là cái ghen vì mình đã chiếm được tình thương của người khác, mặc dầu đó không phải là tình yêu nhưng nó lại có một sức nặng lạ kỳ.

Cuộc đời là thế đó phức tạp biết bao nhiêu, dù ai muốn sống đơn giản cũng không thể nào được đâu.

 

21.2.70

Một lần nữa suýt chết. Mấy chiếc rọ và HU-1A quần bắn oanh tạc suốt hơn một tiếng đồng hồ. Khu vực oanh tạc của chúng chỉ cách bọn mình mươi mét, đạn lửa tơi bời nổ chói tai, mình và các đồng chí ngồi trong hầm không rõ lúc nào là lúc viên đạn xuyên qua mình, cái chết tưởng như sờ thấy được Nhưng rồi mọi chuyện cũng qua đi, địch không phát hiện chính xác, nên sau một hồi quần bắn chúng bỏ đi. Bọn mình vội vàng ra khỏi khu vực.

Ra đi nhìn lại những cây xinh đẹp với những công trình kiến trúc của bọn mình mà lòng đau như cắt. Gán hai tháng qua, hơn mười người dồn cả sức lực và nhiệt tình vào bàn tay và khối óc xây dựng nên chỗ này. Nào những ngày mưa lạnh dốc núi trơn như đổ mỡ, bọn mình áo quần ướt đẫm miệng vẫn cười vẫn hát, vai vẫn khiêng nhưng cây to đề làm nhà. Nào những buổi trưa không một người nào chịu đi nghỉ, buông chén cơm xuống là lo cầm con rựa loay hoay trang trí cho cơ sở của mình… Bao nhiêu công sức… Bây giờ như dã tràng xe cát biển Đông… Biết nói sao đây? Bao giờ cho thương binh có chỗ nằm Bao giờ trở lại nền nếp sinh hoạt cho đàng hoàng như cũ? Thương vô cùng những đồng chí của mình đã lăn lộn trong gian khổ trong những ngày qua…

 

22.2.70

Những đêm nằm rừng, mái nhà là vòm lá cây xanh, chị Hằng tinh nghịch lách mình qua kẽ lá nhìn thẳng vào mặt mình nửa như cười, nửa như thông cảm với những người cán bộ cách mạng trong những lúc gian truân.

Thức giấc giữa đêm mình thao thức nhìn trăng và miên man suy nghĩ – ba năm trên chiến trường lửa khói mình đã trưởng thành. Nằm đây mình lo cho những thương binh không có chỗ điều trị. Nằm đây mình lo cho bệnh xá tốn bao nhiêu công sức mà chẳng hoàn thành, nỗi lo âu của một người có trách nhiệm trước Đảng. Còn bản thân… có gì đâu, mình đã tự nguyện dâng trọn tuổi xuân cho đất nước, dù có hy sinh nào có gì là hối tiếc đâu. Còn sống ngày nào phải xứng đáng ngày đó nghe Th.. Danh dự là viên ngọc vô giá đừng để cho ai chà đạp lên đó cả, dù người đó có là ai, dù họ có quyền lực đến mức nào đi chăng nữa.

 

24.2.70

Muốn trách em, sao em lại xử sự như vậy? Mình chỉ muốn em đừng phạm những sai lầm đã vấp như với Lệ trước đây và với Mến ngày nay. Hãy cân nhắc kỹ càng nghe em, đứa em thân yêu có trái tim sôi nổi yêu thương và giàu nghị lực.

Đêm nay ba chị em ngồi tâm sự, lòng mình xao xuyến xót thương. Có thể đây là buổi cuối cùng sum họp, mấy chị em đều hiểu đó là sự thực, một sự thực hiền nhiên. Biết nói gì đây hở các em? Chị chỉ biết nói rằng dù trong bom rơi đạn nổ, dù trong lửa bỏng nước sôi chị vẫn giữ trọn tình chị em tha thiết chung thuỷ. Đường đì của chị em mình thật lắm chông gai, con đường nào cũng vậy kể cả trong tình thương chị em mình. Đừng tưởng rằng chị ngầy la em, giận dỗi em như hôm nay mà chị không thương em đâu. Chính vì thương em vô hạn nên chị muốn em phải có một hạnh phúc trọn vẹn. Đọc những dòng nhật ký của em chị hiểu rằng em thương chị hơn thương ai hết vậy mà sao lại có những điều giấu chị? Giận em quá đi, chị muốn làm một người chỉ rộng lượng, dễ dãi trước thiếu sót của em mà không thể làm được, chị phải nói vậy, đó cũng là một trong những thử thách với em, nếu em đặt tình chị em lên trên hết thì thôi mà nếu không thì… tuỳ. Bao giờ chị cũng vẫn còn giữ được một chút cai tự ái của một người con gái tiểu tư sản, cho nên không thể nào làm khác được đâu.

 

25.2.70

Công tác lãnh đạo thật là phức tạp – khó vô cùng. Làm sao mà vừa lông được cả mọi người. Thuỳ ạ, dù trong trường hợp nào Th. cũng rất phải nắm vững:

– Làm việc đúng nguyên tắc

– Đề cao ý kiến tập thể

– Khiêm tốn học hỏi quàn chúng

Biết cảm thông với từng đồng chí trong quần chúng

Th còn non nớt lắm, hãy cố gắng học tập và rèn luyện…

Buổi nói chuyện với chị Xử cũng cho mình thấy thêm một số vẩn đề, cần thận trọng hơn trong từng lời ăn tiếng nói, từng hành động, bởi vẫn có những người soi mói ghen tị Cuộc đời là thế đó Nhưng làm gì đâu, hãy sống với nhau bằng tình thương chân thực. Cuộc chiến đấu này muôn nghìn gian khổ sống chết kề bên. Kể làm chi những điều nhỏ nhặt.

 

26.2.70

Bỗng nhiên sao mình thấy thương Chín lạ lùng. Cậu thương binh ẩy còn quá trẻ, cánh tay đeo băng trắng còn gượng gạo, chân bước còn run mà đã phải ra viện. Chín vẫn cười vẫn hát nhưng mình biết em mệt nhiều. Chao ôi, ai biết được rằng cậu bé đó chính là một dũng sĩ diệt Mỹ, một du kích xuất sắc của Phổ Cường, một xã khá nhất huyện. Tình thương của mình bông đột xuất mà sôi nổi lạ lùng.

 

27.2.70

Cuộc sống quả là một bức tranh muôn màu muôn sắc, mình như một người hoạ sĩ mới ra trường đã bước ngay vào một thực tế phức tạp. Trước mắt mình là nhưng ngọn núi trùng điệp có những ngọn núi xanh lam với những dãi mây trắng vương nhẹ bên sườn núi. Có những ngọn núi lở loét vì vết bom đạn màu đất đỏ nhức nhối đau thương. Mình từ khi bước chân lên con đường dốc đầy gian khổ đó – nắng gắt và cây khô vì chất độc Những dòng suối mát lạnh với những gốc cây nở hoa thơm ngát… Và những gương mặt mình gặp trên đường đi: có những đôi mắt ngời sáng, yêu thương nhìn mình với niềm tin và thông cảm, có những đôi mắt nhìn mình dò xét để xem thử như thể nào, có những đôi mắt cố che lấp cái ánh ghen tị bằng cái cười giả dối đề lừa mình…

Th. ơi! Hãy sáng suốt lựa chọn, hãy khôn khéo và bình tinh. Tuổi đời cũng đã lớn, mong Th. hãy biết xử thế, đừng phung phí lòng tin, đừng hẹp hòi, phải biết đặt cá nhân mình xuống dưới tập thể. Tại sao cũng làm công tác lãnh đạo, cũng từ phong trào đột xuất lớn lên và trưởng thành (Thuận chính thức tháng 11.68 và làm bí thư chi bộ tướng 6.69) nhưng Thuận thu hút được ủng hộ của mọi người? Phải chăng vì Thuận đã làm được những điều trên?

…………………

Cũng là lẽ dĩ nhiên thôi, nếu mình đứng ở một vị trí khác đâu có ai nói gì. Họ sẽ thấy thương và thông cảm với một cô gái xa nhà, một cô gái mỏng manh từ nhỏ đến giờ lớn lên trong sung sướng mà bây giờ phải trải qua bao nhiêu gian khổ Nhưng ngày nay sự việc nó lại là khác: “Chát Cái con bé ấy mà lại là một kẻ lãnh đạo mình, công sức nó đóng góp cho cách mạng đã bằng một phần nhỏ của mình chưa Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!…”.

………………….

 

28.2.70

Bỗng nhiên hôm nay mình nhớ chị Hai lại lùng. Mấy trang thư chị gửi về với nỗi lòng sâu nặng yêu thương làm mình bồi hồi xúc động. Chị Hai ơi, em có bao giờ quên đâu, một buổi trưa hè nắng gắt em tiễn chị lên đường, nước mắt vả mồ hôi chan hoà trên mặt chị. Em không nỡ ra về cứ lẽo đẽo theo chị ra đến tận đầu bản ông Thường… Rồi chị đi… Những buổi về nhà, em gặp mẹ và em Lai, lòng em lại xao xuyến nhớ chị. Em Lai đã lòn lắm rồi, nó cao hơn em nửa cái đầu đôi mắt và cái miệng giống chị, nó thương em lắm. Tình cách mạng có sức mạnh lạ lùng, nó buộc những người cảm thông nhau bằng một sợi dây vô hình mà bền vững không gì cắt được. Em không hề có ý định về xin mẹ thứ này thứ kia, không hề lợi dụng tình thương để lạm dụng vật chất Chị cũng vậy và những người thân yêu khấc của ta cũng vậy chị à. Nhưng có những người họ không hiểu nổi tình thương ấy đâu.

Chị ơi, chị ở nơi xa có hiếu lòng em thương nhớ chị tha thiết hay không?

 

1.3.70

Có những đêm trong giấc ngủ mình thấy rất rõ ràng, rất cụ thể những hình ảnh thân yêu. Tại sao vậy? Có phải vì những hình ảnh ấy đã in sâu trong tâm tư của mình? Có phải vì mình đang sổng nơi đây, nơi mà mỗi bước chân qua đều mang nặng những kỷ niệm: căn phòng dược một chiều mưa tầm tã của tháng 10.68, một đêm trăng đẹp trên chiếc ghế trước cửa phòng I, một buổi tối họp chi bộ, một buổi sáng mình ra suối giặt, một cuộc phẫu thuật mình nghe và cảm thấy hơi thở mệt nhọc và bàn tay nóng bỏng của người đứng phụ mổ với mình, một đêm khuya đi thăm bệnh nhân về và những buổi chia tay cả người đi và kẻ ở đều đứng lặng không biết nói những gì… Ôi những ngày qua ở nơi đây là vậy đó và ở đâu cũng vậy, ở đâu cũng đều mang nặng những kỷ niệm sâu sắc. Vậy là sao hở Th.? Mình hiểu tình cảm của mình… y hệt như Giăng Van Giăng đối với Côdét, đó là tình cảm của một người cha đổi với con, tình một người anh đối vòi em và là tất cả yêu thương an ủi, hy vọng của cuộc sống. Mình không như Giăng Van Giăng và mình không cô đơn nhưng đứng về mát nào đó mình lại y như ông già ấy. Và họ cũng y như Côdét thôi, cô gái mồ côi đau khổ ấy đã lớn lên trong tình thương bao la của ông già ấy nhưng dù cô thương ông già đến đâu đi nữa rồi cô cũng có một cuộc đời riêng của cô – Ma-ri-uýt sẽ đến với cô. Vậy đó. Nhưng Th. ơi, Th đừng như Giăng Van Giăng. Th. khác, cuộc sống đón Th với những bàn tay thân ái dìu dắt Th. đi lên và trưởng thành. Th. có nhiều người thân yêu, đâu phải chỉ có một mình Côdét, cho nên Th. đừng ích kỷ. Giăng Van Giăng làm vậy được vì Côdét là tất cả đời ông. Còn mình mình đâu có vậy Cần gì phải như vậy? Th. hãy tỏ ra làm một người có tư thế chủ động trong mọi vấn đề.

 

5.3.70

Mình cảm thấy băn khoăn và suy nghĩ nhiều mỗi lần tiếp xúc với cô gái ẩy. Cô ta có phải và có thể là… người bạn đời xứng đáng của em không? Mình đắn đo như thế… cho chính mình. Mình cũng tin anh mình như tin chính mình. Anh đã nói như thế có nghĩa là sự thực cũng gần như vậy. Vậy thì sao hở anh? Liệu người đó có thể đảm bảo hạnh phúc của em không? Nghĩ đến em mình cảm thấy đau buồn, cũng là mối Linh chân thành tha thiết nhưng không sôi nồi như ngày xưa. Phải vậy không em Ngày xưa đêm khuya đi công tác về, vừa qua cơn sốt nặng, vừa thoát khỏi tay địch, hình ảnh chị đều là tất cả đối với em… Bây giờ không như vậy nữa. Không lẽ cuộc chiến đấu này đã rèn giũa em có trái tim rắn rỏi như trái tim M. của chị đó ư? Đêm qua giấc mơ đem mình gặp lại những người thân yêu trên cả hai miền Nam Bắc, và trong những hình ảnh thân yêu của ba má, có một đôi mắt đen ngời sáng nhìn mình lo âu tha thiết…

 

Chương 16

 

7.3.70

Xa Phổ Cường một tháng tròn, cũng lạ lùng, mình nửa nhớ thương, nửa như trách móc với cái quê hương thân thuộc đó. Ở đó có bao nhiêu gắn bó, những con đường quen thuộc với những mương nước lầy lội, những bụi tre pháo bắn xác xơ ngọn ngay bên đường đi. Nụ cười của những cậu du kích trẻ, những câu chào hỏi thân thiết của mọi người với “chị Hai”, và ở đó cũng có những cái không vui, có những người làm mình không vừa lòng. Nhưng… xét cho cùng tất cả cũng là do mình thôi. Hãy cố gắng sống sao cho xứng đáng, hãy nâng niu bảo vệ danh dự của mình. Tất nhiên không thể làm sao sống cho vừa lòng tất cả mọi người nhưng có gì thiếu sót hãy sửa chữa nghiêm khắc.

 

8.3.70

Mình không thừa nhận đã tha thứ cho em, nhưng… như vậy là sao đó hở Th.?

Vì gương mặt gầy hốc hác, kết quả của nỗi buồn và nhiều đêm không ngủ của em làm mình thấy thương xót hay sao? Vì giọng nói buồn rầu hối hận của em trong câu chuyện còn đang bỏ dở mà mình chỉ làm thinh không trả lởi em hay sao? Vì cuộc sống quá mỏng manh, chiều nay một viên đạn vu vơ của bọn lính dưới cầu cũng làm thủng ruột một cô gái trước nhà.Cũng chiều nay một chiếc áo phơi trong núi đã lọt vào mắt thằng tàu rọ và kết quả của trận oanh tạc bằng đủ loại phi pháo đó là chín người chết, mười hai người bị thương và bốn mất tích. Nếu không vì may áo và không có mình ở nhà thì chắc em cũng đã đi trốn ở đó rồi… Chao ôi? Vì tất cả mọi lý do trên mà mình đã tha thứ cho em sao? Không, không được đâu Th. ơi! Mình đã hành động vì trách nhiệm của một người chị, mình đã bỏ qua tất cả để vun xới cho tình yêu của em và Cúc lớn lên, trưởng thành, nhưng tha thứ cho em những thiếu sót trong tình chị em thì không thể được. Mình đừng đề cho tình thương làm mình dễ dãi, dễ dãi sẽ đưa đến kết quả là làm tan vỡ một tình cảm cao quý mà mình và em đều đã nói là sẽ bảo vệ nó trọn đời. Đừng đề tình cảm chỉ đạo cuộc sống. Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M. của mình đó. Nhất định phải như vậy nghe Th.!

 

26.3.70

Những giây phút đáng ghi nhớ trong cuộc đời của một người đi làm cách mạng. Mình lặng yên nghe hơi thở của người đồng chí thân thương ấm trên mái tóc của mình. Và nhưng ngón tay thon nhỏ lần trên những vết chai sạn trong bàn tay mình, mình thấy những ngón tay ấy dừng lại trong bàn tay mình và siết chặt bàn tay mình tha thiết mến thương. Mối tình “sâu đậm, trong ngần, thiết tha” ngày càng xanh tươi trong tâm hồn mình. Mình trân trọng nâng niu bảo vệ nó, dù trong hoàn cảnh nào cũng quyết giữ gìn nó trọn vẹn. Ơi người đồng chí thương yêu, có phải vì cuộc sống quanh mình đang diễn ra sôi nổi và nóng bỏng căm thù nên tình thân của những người chung đội ngũ chiến đấu đã gắn chặt chúng ta trong mối tình thiêng liêng ấy. Ta đến với nhau bằng con đường của những người chung lý tưởng, mối tình hoàn toàn khác hẳn tình yêu của những người con trai với những người con gái nhưng nó cũng có một sức mạnh diệu kỳ. Sức mạnh đó cho ta niềm vui, hy vọng, giúp ta quên đi những đau xót đang diễn ra quanh mình va nó đã là ngọn lửa sưởi ấm trái tim mình, một trái tim sôi nổi cần được nuôi dưỡng bằng những tình cảm trong sạch và chân chính.

 

27.3.70

Vẫn cái cảnh đời của những người trên căn cứ. Mình tự nhiên cũng tham gia vào đấy, bốn giờ sáng đã dậy ăn cơm để trời mới mờ sáng bắt đầu ba lô ruột nghé lên đường. Đến nơi định ở, không thể ngờ nơi đây vừa qua một trận bom dữ dội, cả khu nmg tan nát, cây lá đổ ngổn ngang, những căn nhà xiêu vẹo tranh lá bay gần hết. Để ba lô xuống mình lặng yên nhìn mọi người. Ai cũng cười mặc dù mình đọc thấy trong từng đôi mắt nỗi lo âu suy nghĩ… công tác khởi nghĩa đã dồn dập ào đến, với tình hình này sẽ ra sao?

Đêm nay trời mưa, những giọt mưa rơi lộp độp trên những chiếc ba lô và những chiếc xoong nồi còn để giữa trời tạo thành một nốt nhạc buồn buồn. Mình nhìn anh thấy tràn ngập xót thương. Anh xanh và gầy, đó là kết quả của những đêm dài không ngủ vì công việc và lo âu. Anh trai của em ơi, dù có thương anh đến bao nhiêu mình cũng không có cách nào để bảo vệ sức khoẻ cho anh được cả. Điều kiện của em không thể để em làm gì được. Đành vậy nghe anh. Tuy vậy chắc anh hiểu em.

 

29.3.70

Địch uy hiếp khu vực bệnh xá một cách nghiêm trọng. Những chiếc HU-1A và rọ quần sát trên ngọn cây phóng lựu đạn, hoả tiễn tầm ngắn và xổ từng tràng đại liên nghe đến điếc tai. Pháo từ núi Chóp bắn vào nổ sát bên hầm, một mảnh pháo to chẻ nát một thân cây lát hầm ngay giữa phòng mổ: nếu địch ập vào đây làm sao di chuyển được thương binh cho kịp Thành và anh Xuất đi cảnh giới không thấy về, súng nhỏ nổ hướng đó, tàu bay hạ hướng đó, có ai sao không?

Lo âu đè nặng trong lòng. Bất giác mình nhớ đến lời anh, trong một buổi tâm tình anh đã thân thiết hỏi mình: “Ai bảo vào Nam chi cho khổ, ở ngoài đó thì không ở?” Anh trách em sao? Mình biết anh không trách mà chỉ thương mình nên hỏi vậy thôi. Anh là người thứ ba đã hỏi mình câu hỏi đó. Không đâu, chính từ trong gian khổ này ta mới cùng hiểu cái giá trị của những con người cách mạng. Ai đứng vững trong lửa đỏ và nước sôi người đó sẽ là người chiếnthắng. Như N. ôxtơrốpxki đã nói “Thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh sẽ càng thêm rắn chắc, sẽ đủ sức vượt qua mọi thử thách…”.

Đêm nay rừng cây im lặng, cái im lặng mà sôi sục lạ thường ở đây mình lắng nghe từng động tlnh và theo dôi bước đi của địch, còn ở đó chắc anh cũng đang dõi theo từng bước đi của mình.

* * *

Lần đầu tiên đào huyệt chôn một người đồng đội, những nhát cuốc của mình bổ xuống đá làm toé lửa lên như nỗi căm thù đang bốc cháy trong lòng mình. Hôm qua trong lúc đi cảnh giới về gặp địch, Thành đã bị chúng bắn chết ngã ngay tại suối trước ngô vào nhà mình, và anh Xuất bị chúng bắn bị thương rồi hạ tàu bay chở đi. Chiếc quần của anh chúng rọc nát còn vứt lại một bên… Chưa đầy ba tháng cơ quan mất ba người?

Huyệt đào chưa xong mọi người đã khiêng Thành về. Qua một ngày rồi mà máu vẫn còn chảy ướt đỏ tấm drap quấn quanh Thành. Mình nhìn không rõ mặt Thành lắm, chỉ thấy đôi mắt đã nhắm và nước da nhợt nhạt Lúc sống Thành có nhiều nhược điểm làm mình không ưa, nhưng bây giờ khi khoả đất lấp lên thân hình người đồng đội ấy mình không cầm được nước mắt Vậy đó, hãy ráng mà đùm bọc thương yêu nhau khi còn sống chớ khi đã chết rồi có khóc thương cũng chỉ là những giọt nước mắt nhỏ trên nấm đất vô tri vô giác mà thôi.

 

30.3.70

Buồn và buồn da diết. ơi những người thân thiết của tôi ơi! Tôi biết nói sao để mọi người hiểu lòng tôi như tôi đã hiểu. Những bước đường tôi đi gian nan biết mấy, bước đường của một cô gái học sinh bước lên làm công tác lãnh đạo, cái gì làm mình khác mọi người? Nếp sống hay sao? Nếp sống tình cảm, nếp sống giàu suy nghĩ giàu nội tâm, nếp sống hơi cầu kỳ của một đứa tiểu tư sản… Tất cả cái đó là gì? Chính là cái khác với mọi người. Mình cảm thấy đau xót khi thấy rằng những người quanh mình ghen tuông kèn cựa nhưng lại cố cho rằng họ là tốt, họ là khiêm tốn… Thùy ơi, hãy bình tĩnh vững vàng, hãy nhận lấy khuyết điềm để sửa chữa cho tận gốc.

Đừng buồn, Th. đã hiểu cuộc đời rồi kia mà, hãy dành những giọt nước mắt ấy để khi gục đau trong cánh tay những người thân yêu, họ sẽ hiểu lòng Th. như chính Th. đã hiểu và họ sẽ xoa dịu nỗi đau buồn cho Th. bằng tình thương đằm thắm thiết tha. Hãy cười lên đi Th. nhé.

Ơ cô gái học sinh, ba năm trên chiến trường lửa khói, trong gai góc cuộc đời, bàn chân cô dày dạn lên nhiều rồi, hãy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe.

 

9.4.70

Một giấc mơ kỳ lạ, đó là hình ảnh tổng hợp của những ngày sống trên cả miền Bắc và miền Nam mà mình đã trải qua. Đó là hình ảnh lớp chuyên khoa mắt của mình với những người đồng nghiệp trong chiếc áo blouse trắng và những chiếckính hiền vi đề trước mặt Đó là hình ảnh một toà nhà tráng lệ dành cho cơ quan huyện uỷ làm việc, mình đã đến đó, bình thường tự do như những nếp nhà giản dị xưa nay mình vẫn đến, và cũng ở đó mình gặp anh trong bộ quần áo với những đường ly thẳng tắp. Vẫn là anh thân thiết chăm sóc mình tùng cử chỉ nhỏ và cũng có cả chị nữa, chị vẫn hiện lên với gương mặt buồn và áo quần giản dị… Ôi, đó có phải là viễn cảnh của ngày mai không Ngày mai khi Hoà bình lập lại mình lại trở lại mái trường xưa và những người đã cùng mình gắn bó trong cuộc chiến đấu này sẽ cùng mình sung sướng trong không khí Hoà bình đó.

 

10.4.70

Giấc mơ đã thành sự thực nhưng chỉ là một phần của giấc mơ thôi! Hình như mình không cảm thấy cái sung sướng khi cái điều mình mong muốn trở thành thực tế. Vì sao vậy nhỉ? Mình xét lại chăng?

 

22.4.70

Rất lâu rồi mới đọc lại những dòng chữ thân yêu của em. Lá thư em đượm vẻ đau buồn vì em cho rằng mình không thương em nữa. Thực ra mình bao giờ cũng giữ trọn trong lòng mình hình ảnh thân yêu của em, nhưng như mình đã nói với em đó: Tình thương có thể biểu hiện chói loà rực rỡ nhưng cũng có lúc âm thầm lặng lê vì không nên và không thể biểu hiện.

Hiểu vậy không hở em của riêng tôi?

 

Chương 17

 

27.4.70

Thường đã bị bắt sống?!!

Ôi, đứa con trai duy nhất của một bà mẹ già đã suốt một cuộc đời cặm cụi nuôi con, ước mơ hy vọng cũng chỉ là đứa con ấy… bây giờ!!! Ôi đứa em ngoan ngoãn dịu hiền, đứa em sâu sắc và sớm trưởng thành trong cách mạng, đứa em của mình giờ đây đã nằm trong bàn tay đẫm mâu của kẻ thù.

Bất giác mình nhớ lại một đêm cuối cùng mình gặp Thường. Hôm ấy ánh trăng mờ đã soi tỏ nét mặt buồn buồn của em, em cam tay mình nói khe: “Chắc lần này không gặp chị nữa đâu”. Mình la em: Sao lại nói bậy như vậy. Nhưng giọng em trầm trầm: Không bậy đâu chị à. Làm cách mạng hy sinh là chuyện thường tình. Em đã sống mười năm nay, may mắn nhiều rồi không lẽ may mắn hoài vậy sao.

Chao ôi sao em lại tiên đoán như vậy để hôm nay lòng chị rớm máu khi hay tin em sa vào tay giặc. Vậy là hết đó sao em? Không còn được gặp lại đứa em giản dị hiền lành của quê hương Phổ Hiệp nữa hay sao? Đau buồn bây giờ không thể biểu hiện bằng nước mắt mà hãy bằng ý chí trả thù, bằng sự nghiến răng lại ngẩng đầu mà bước tiếp chặng đường gian khổ.

 

28.4.70

Lẽ ra đây phải là những giờ phút hạnh phúc bởi vì bên mình đông đủ những người thân yêu trên mảnh đất miền Nam này. Thật là hiếm có khi cả anh chị, cả hai em và mình, mẹ… quây quần sum họp. Nhưng niềm vui chỉ như một cơn gió thoảng qua giữa nắng hè và và khi anh chị đã lên đường, còn lại mình và hai em mình không sao ngủ được – cái gì xót xa nhức nhối trong con tim mình ôi, chiến tranh còn diễn ra, còn bao nhiêu đau thương mất mát.

 

29.4.70

Biết nói sao cung em đây, nghe em nói mình rưng rưng nước mắt. Quả thực vậy, nếu em ngã xuống, dòng họ em sẽ không ai nối dõi nữa. Em đã nghĩ như vậy mà muốn xây dựng gia đình. Nhưng em ơi, tình yêu hạnh phúc của em sẽ như thế nào trước trăm nghìn khó khăn đang chờ đợi các em. Vì thương em mình muốn em có một hạnh phúc đảm bảo hơn và lại cũng vì thương em mà mình muốn em đừng phải giày vò giữa một câu hỏi: Nên làm theo ý em hay theo ý mọi người và mình Cầm bàn tay em mình muốn đặt vào đó tất cả tin yêu nhưng mình lặng thinh vì quả thực mình không hiểu nên sử dụng lòng tin tưởng và thương em như thế nào cho đúng đắn nhất đây.

 

3.5.70

Tình hình Phổ Cương trở lại căng thẳng, mình vừa đi khỏi là xe tăng ùa lên, máy bay địch chụp quân ngay những nơi mình hay ở. Thuỷ, Liên, Hưng, Lợi đều đã bị bắt… Em của mình có sao không?

Nỗi lo âu làm mình mệt mỏi, bải hoải toàn cơ thể. Ôi, có cách nào bảo vệ được em, chị sẽ làm tất cả dù phải trả một giá đắt như thế nào. Kim sang, ngồi nhìn đôi mắt Kim chớp lia lịa và những giọt nước mắt chực trào ra khỏi mi mắt, mình hiểu lòng cô gái ấy. Kim ơi, em không phải là một cô gái toàn diện nhưng chỉ thương em vì em đã yêu tha thiết đứa em trai của chị. Cũng như chị, dù em có lo âu đến cháy ruột cháy lòng cũng đành bó tay hồi hộp theo dõi từng bước đi của quân thù đang giày xéo quê hương và đe dọa người thân yêu của mình. Có cách nào hơn đâu em ơi.

 

5.5.70

Cuộc chiến tranh lan rộng trên dải đất Đông Dương. Thằng chó đểu Ních-xơn đã liều lĩnh điên cuồng mở rộng thêm cuộc chiến. Chúng ta sẽ phải đương đau với một khó khăn ghê gớm hơn nữa đây. Nhưng tao đã thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết đánh cho đến cùng…

Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy?

 

7.5.70

Kỷ niệm 16 năm ngày chiến thắng Điện Biên. vậy mà mười sáu năm qua đất nước vẫn chưa ngừng xương rơi máu chảy. Miền Nam đã hai lăm năm trong lửa đạn chiến tranh. Đất nước ơi! Hai lăm năm trong lửa đạn vẫn còn kiên cường gan góc, vẫn ngẩng cao đầu trong thế tiến công. Mỗi bước đi máu thấm đỏ trên chặng đường chiến đấu! Cả thế giới này có nơi nào chịu nhiều khổ đau như đất nước ta chăng?

Chiều nay mọi người đi đồng bằng, không hiểu đi có lọt không. Phèo địch dập trên đường đi, phải chăng quân chúng còn ở dốc Xối… Lòng mình nóng như lửa đốt, buồn bực lo âu và căm thù đến ngột ngạt.

 

13.5.70

Nghĩa bị thương trong hành quân chiến đấu. Vết thương em gãy một xương cẳng tay.

Ngày xưa khi mới xa em, có lúc mình mong ước được gần em, dù em có bị thương sơ sơ để vào nằm viện, mình sẽ có điều kiện chăm sóc em… Bây giờ điều đó đã là sự thực (M. của mình đã từng mơ ước “được bàn tay ấm áp của bác sĩ Thuỳ chăm sóc” nhưng không được). Xa em lâu rồi, bây giờ em già và gầy nhiều so với tuổi hai ba của em. Cánh tay đau làm em rên khẽ, tất cả điều ấy làm mình xúc động. Muốn ôm em trong cánh tay mình vuốt ve xoa dịu nỗi đau cho em nhưng mình không làm vậy bởi vì không phải ai cũng hiểu được tình thương trong sáng như mình, họ sẽ có những suy dẫn.

Trong những vật em mang theo nằm viện – rất đơn sơ, chỉ một bộ đồ lót mặc trong người, một chiếc quần đùi Thuận đưa… một quyển sổ tay công tác, mình tìm thấy tập lưu niệm mình viết cho em năm 1967 hồi mình chia tay em để về căn cứ. Quyển sổ được bọc cẩn thận trong chiếc bìa nylon. Lòng mình cảm thấy xao xuyến khi biết rằng những dòng chữ của mình vẫn theo em trên khắp chặng đường chiến đấu.

 

19.5.70

Được thư mẹ… mẹ của con ơi, mỗi dòng chữ mỗi lời nói của mẹ thấm nặng yêu thương, như những dòng máu chảy về trái tim khao khát nhớ thương của con. Ôi! Có ai hiểu lòng con ao ước được về sống giữa gia đình, dù chỉ là giây lát đến mức nào không? Con vẫn hiểu điều đó từ lúc bước chân lên chiếc ô tô đưa con vào con đường bom đạn. Nhưng con vẫn ra đi vì lý tưởng. Ba năm qua, trên từng chặng đường con bước, trong muôn vàn âm thanh hỗn hợp của chiến trường, bao giờ cũng có một âm thanh dịu dàng tha thiết mà sao có một âm lượng cao hơn tất cả mọi đạn bom sấm sét vang lên trong lòng con. Đó là tiếng nói của miền Bắc yêu thương, của mẹ, của ba, của em, của tất cả. Từ hàng lim xào xạc trên đường Đại La, từ tiếng sóng sông Hồng dào dạt vỗ đến cả âm thanh hỗn tạp của cuộc sống thủ đô vẫn vang vọng trong con không một phút nào nguôi cả.

Biết bao lần trong giấc mơ con trở về với Hà Nội, con trở về giữa vòng tay êm ấm của ba má, trong tiếng cười trong trẻo của các em và trong ánh sáng chan hoà của Hà Nội. Xa nhà ba năm, năm năm hay bao lâu đi chăng nữa chắc rằng cũng không có gì khác trong tình nhớ thương của con. Ai đâu có thể vì tiền tài danh vọng mà ra đi, còn con ngoài Đảng chắc không ai có thể làm con xa với gia đình.

Con vẫn là một chiến sĩ trong cuộc chiến đấu này. Địch càn lên súng nổ rần rần con vẫn cười, bình tĩnh ra công sự Địch tập kích vào căn cứ, vừa chạy địch có đêm phải ngủ rừng con cũng vẫn cười, nụ cười vẫn nở ngay cả khi tàu rọ và HU-LA quăng rocket xuống ngay trên đầu mình… Vậy mà khi nghĩ đến gia đình, đến những người thân yêu trên cả hai miền, lòng con xao xuyến xót xa và cũng có những lúc những giọt nước mắt thấm mặn yêu thương chảy tràn trên đôi mắt của con.

 

22.5.70

Về họp Huyện đoàn. Sống trong không khí của những lớp người gọi là trẻ trung ấy mình cảm thấy vui. Tình hình địch căng thẳng hết mức, chúng đã lén lút kéo quân đến gần vị trí bọn mình họp mà cũng không hay, cứ lo hát cười đóng cây chặt gỗ ầm ầm. Cho đến lúc có một anh dân tộc chạy vào báo địch ở sát bên nách lúc đó mới rõ. Tiếp theo là những lúc chạy càn, may mà xử trí kịp trước tinh huống chớ nếu không rọ cũng xơi bọn mình, hoặc cũng chết vì pháo hoặc bộ binh. Trong tình huống đó bọn mình vẫn giữ được cái vui tươi nụ cười không tắt trên những gương mặt trẻ trung. Đêm đêm trong căn nhà chật hẹp những chiếc võng chen chúc nhau và những câu đùa hóm hỉnh vẫn làm bật lên những tiếng cười phải nén lại trong lồng ngực…

Cái gì làm mình vui nhỉ? Phải chăng đó là niềm mến thân của tất cả mọi người, của Phương, Tổng, Hào, Hằng, Minh… và tất cả cái gia đình ấm cúng này.

 

24.5.70

Anh sắp đi xa, mà không, hình như anh đã đi xa rồi, mặc dầu gặp anh em vẫn cảm thấy như vậy.

Xa, về không gian thời gian hay còn cái gì nữa? Mình đã hỏi anh như vậy, nếu như anh không đi, chắc cho đến tận lúc ra về, mình sẽ chỉ chào anh một câu ngắn gọn mà không nói thêm một tiếng nào nữa.

Mình giận anh ghê, hôm chạy về báo tình hình địch và xin ý kiến anh về vấn đề giải quyết thanh niên như thế nào, anh đã la anh Kỷ là thiếu linh hoạt, là cả chấp hành huyện đoàn thiểu sáng suốt… Mình giận anh ghê, lập tức mình giục anh Kỷ đi, không chào ai cũng không nói gì với anh nữa. Tối đó anh cho Cúc ra bảo mình về nghỉ, nhưng đời nào mình về, anh còn lạ gì mình, mình tự ái rồi! Suốt mấy ngày mình không trở lại chỗ anh nữa, kề cả lúc anh ra dự họp mình cũng làm thinh luôn… cho đến hôm nay. Sắp chia tay anh rồi, giá mà anh chưa đi thì nhất định mình sẽ lẳng lặng ra về nhưng tình thương sâu đậm đối với anh từ trước đến nay không cho phép mình làm như vậy, mình đành viết một lá thư ngắn với những lời như trên.

Thư anh viết trước lúc đi họp làm mình xáo động. Vậy ra anh cũng hiểu mình đấy chứ.

 

25.5.70

Nhận xét của anh về mình:

– Giác ngộ cách mạng tốt, động cơ lý tưởng rõ ràng, đúng đắn.

– Tiến bộ nhiều về mọi mặt.

– Cần nghiên cứu khoa học thêm.

– Tính tiểu tư sản vẫn còn.

 

2.6.70

Một tai nạn bất ngờ (nhưng cũng rất bình thường trong chiến tranh) đã xảy đến với bệnh xá của mình: Một loạt bom đã rơi đúng ngay một phòng bệnh nhân giết chết một lúc năm người. Cả cơ đồ sự nghiệp sau một phút đã tan thành khói lửa Bom nổ xong mình nghe im lặng, một thứ im ắng đến dễ sợ, chắc là chết hết rồi. Mấy phút trôi qua bỗng chị Lãnh la lên: “Chết hết phòng ông Chánh rồi!”. Mình và mọi người chạy ra. ôi cái cảnh điêu tàn làm sao! Khu rừng trơ trọi cây đổ ngổn ngang, những mảnh quần áo bay tơi tả dính trên các cành cây, mấy nếp nhà xiêu vẹo… Đào được Niên, Bưởi lên, trời đã sẩm tối. Trong nhà Thảnh – đồng chí thương binh vừa cắt ruột hôm qua – lại bị thêm một sổ vết thương nặng đang hấp hối. Thảnh nhìn mọi người nói qua hơi thở hãy ở làm, chiến đấu và học tập trả thù cho tôi. Tôi không sống nữa đâu.

Ôi người đồng chí dũng cảm! Lời dặn của đồng chí là lời thề của chúng tôi, những người còn sống. Phải chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng để trả thù cho những người đã chết.

Gần một đêm thức trắng, sáng hôm sau bọn mình ra đi khi trời vừa mờ sáng. Lại ra đi. “Cuộc kháng chiến chổng Mỹ cứu nước còn có thể kéo dài, đồng bào ta còn có thể hy sinh nhiều của nhiều người hơn nữa, song dù sao chúng ta nhất định thắng lợi…”.

Bác Hồ ơi, di chúc của Bác còn vang bên tai con và lúc nảy lời nói ấy vang lên át tiếng bom đạn, con mang nó trong lòng và ra đi.

 

4.6.70

Tại sao ta không được thoải mái khi mà tình cảm trong trái tim ta vẫn trong sáng và xanh tươi kỳ diệu. Gặp lại anh và các em sau những giờ phút sống chết cách nhau không đầy gang tấc, lẽ ra ta phải được ôm chầm lấy người thân của mình trong vòng tay siết chặt, mừng vui và cảm động đến rơi nước mắt. Vậy mà tất cả đều phải nén lại chỉ nhìn nhau không nói nên lời! ôi người anh thân thương, ơi các em quý mến… vì sao vậy, vì sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt đẹp và chính đáng đó?

 

6.6.70

Đọc thư Vân trong một trưa hè im lặng, những dòng chữ nguệch ngoạc của người bạn gái đã gởi đến mình biết mấy yêu thương. Vân ơi, hãy tự hào rằng ta đã thuỷ chung trọn vẹn với nhau dù xa cách dù gian nan ác liệt. Vân có biết không, lời nói ân tình của Vân đã theo Th. trong suốt những chặng đường gian khổ, đã đem lại cho Th. một ngọn lửa ẩm trong tim. Có ai đó nói rằng ta thân nhau vì tiền tài địa vị… nhưng tiền tài địa vị có là gì đâu, nó xa xôi kỳ lạ quá đối với chúng ta. Vân chỉ lả một cô gái bình thường của quê hương lửa khói, có khác mọi người con gái khác là Vân đã có tinh thần hy sinh vì cách mạng, đã dám từ bỏ cảnh sung sướng đề lăn lộn với anh em đồng bào, đồng chí trong bom đạn, trong gian khổ. Và có khác hơn là Vân giàu lòng ưu ái, giàu tình thương, mà tượng trưng cao nhất là tình thương đổi với Th Vân đã hiểu Th., thương Th. và tất cả cho

Th.. Còn Th. đối với Vân, Th. không phải là một bác sĩ quyền cao chức trọng, Th. chỉ là một cán bộ bình thường, một người con gái cũng đã dám từ bỏ nơi sung sướng để vào Nam cùng đồng bào miền Nam chiến đấu trên chiến trường lửa khói. Và đáp lại tấm tình của Vân, Th. cũng đã đến với Vân bằng tất cả chân tình.

Vậy đó Vân ơi, trên chặng đường gian khổ này ta đã dựa vào nhau mà bước. Ta sẽ tự hào vì tình bạn của ta, hay gìn giữ trân trọng nó nghe Vân, người bạn gái yêu thương!

 

Chương 18

 

10.6.70

Chiều nay sao buồn da diết. Phải chăng vì đây là thời gian cuối cùng anh có thể đến thăm em trước lúc lên đường, nhưng thời gian ấy đã trôi đi và như vậy là không gặp anh trước khi chia tay. Chia tay – những cuộc chia tay trên mảnh đất khói lửa này ai mà biết được ngày gặp lại như thế nào, có hay là không có. Lẽ nào anh lại làm thinh ra đi sao, anh trai thân quý?

Nhưng nỗi buồn còn vi lá thư của mẹ, lá thư ngắn ngủi, cố giấu nỗi đau buồn và thương nhớ nhưng nỗi đau buồn ấy vẫn toát lên dù chỉ trong một vài chữ mẹ chưa cân nhắc kỹ trước khi viết. Mẹ yêu ơi, con hiểu lòng mẹ héo hon, đau xót khi con của mẹ còn phải lăn mình trong lửa đạn, những lá thư của con, của các em gởi đến mẹ chỉ nói lên một phần vạn sự gian khổ ác liệt vậy mà mẹ đã lo lắng như vậy. Nếu như mẹ biết được con và các em đã trải qua những ngày ác liệt như thế này thì mẹ sẽ nói sao? Mẹ yêu ơi, nếu như con của mẹ có phải ngã xuống vì ngày mai thắng lợi thì mẹ hãy khóc ít thôi mà hãy tự hào vì các con đã sống xứng đáng. Đời người ai cũng chết một lần.

Dĩ nhiên lòng con bao giờ cũng ao ước được trở về với mẹ, với ba với miền Bắc ngàn vạn yêu thương.

 

12.6.70

Có cái gì mong đợi tha thiết trong lòng. Mong gì? Mong những người về bổ sung cho bệnh xá để cỏ thề đảm đương nhiệm vụ nặng nề trong những ngày tới. Mong cuối tháng em về, mong thư những người thân yêu… Và niềm mong ước lớn lao nhất là Hoà bình, Độc lập để mình lại trở về sống trọn trong lòng mẹ. Sao mấy bữa rày trong tâm tư mình nặng trĩu nhớ thương… Đ êm đêm mình mơ thấy miền Bắc… Ngày ngày mình ước ao mong đợi… ôi Th. ơi! Đường đi còn lắm gian lao, Th. còn phải bước tiếp chặng đường gian khổ đó Hãy kiên trì nhẫn nại hơn nữa nghe Th..

 

14.6.70

Chủ nhật, trời sau một cơn mưa quang đãng và dịu mát, cây lá xanh rờn. Trong nhà lọ hoa trên bàn vừa thay buổi sáng, những bông hoa mặt trời xinh đẹp ngả bóng xuống màu gỗ bóng loáng trên chiếc radio đặt giữa nhà. Chiếc dĩa hát đang quay một bản nhạc quen thuộc – Dòng Danub xanll… Có tiếng cười nói bạn bè đến chơi… ôi, đó chỉ là giấc mơ – Một giấc mơ không phải là trong giấc ngủ!

Sáng nay cũng là chủ nhật, trời cũng sau một cơn mưa. Không gian êm ả, nếu không có tiếng máy bay thô bạo xé nát bầu trời thì không có gì khác đâu ngoài tiếng suối rì rào chảy! Nơi mình ở lại vừa qua một trận bom – chiều hôm kia hai chiếc Moran hai thân quần mãi rồi phóng rocket xuống… Nghe rocket nổ mọi người vội lật đật xuống ham, nghe bom rít trên đầu mình tưởng chúng thả ở quả đồi trước mặt, nhưng sau bốn loạt bom chúng đi mọi người mới hốt hoảng nhận ra rằng bom nổ cách mình chỉ không đầy hai mươi mét. cả một vùng cây trơ trọi, nylon che trên nhà rách tan nát và bay tơi tả từng mảnh. Từng cây cột bị mảnh bom tiện xơ xác. Đất đá rơi đầy hầm! May mắn là không ai bị thương. Sau trận bom, mọi người nhận định điểm này đã bị lộ, vội lập tức triền khai tìm điểm khác làm nhà để chuyển đi.

Số lực lượng mạnh khoẻ đã đi hết, để lại năm thương binh nặng cố định và bốn chị em nữ. Chiều hôm qua trời mưa như trút nước, bọn mình đem nylon trải kín mặt nền nhà vậy mà nước vẫn đổ xuống giàn giụa. Trong nhà lênh láng nước, đứa nào đứa nấy ướt sũng, luôn tay hứng mưa dột và đổ nước ra ngoài. Mấy thương binh ngồi co ro ướt lướt thướt.

Nhìn những cảnh đó mình cười mà nước mắt chực trào ra trên mi. Tiếng chị Lãnh hỏi mình: “Có ai biết cảnh này cho không”.

Ai biết? Chắc nhiều người biết nhưng cũng không ai biết cho tường tận. Và mình, mình cũng không biết hết còn bao nhiêu cảnh khổ hơn nữa trong cuộc kháng chiến quyết liệt này. Sinh tử không thể nào mà ghi hết, mà có lẽ cũng không nên nói hết để làm gì. Những lá thư mình viết cũng không bao giờ kể hết với những người thân yêu về tất cả nỗi khổ mình đã trải qua. Kể để làm gì cho người thân yêu của mình thêm lo lắng. Thuận em mình đã trải qua bao nhiêu lần cái chết kề bên, bao nhiêu câu chuyện đau buồn đã hằn lên khuôn mặt của em, những nếp nhăn làm em già trước tuổi nhưng bao giờ viết thư cho mình lá thư cũng tràn ngập lo âu cho mình và nhắc nhở mình cảnh giác hơn. “Còn em vẫn khỏe thôi.”. Mình đã học tập em tinh thần đó.

Có cái gì đè nặng trên con tim. Cái gì? Nỗi lo âu cho tình hình bệnh xá. Sự căng thẳng về tình hình địch. Nếu địch đổ xuống đây bỏ thương binh mà chạy sao? Nếu địch giội bom có cách nào hơn là ngồi trong hầm chờ sự may rủi? Sự nhớ thương mong ước được an ủi trong tình thương của những người thân yêu… Tất cả, tất cả đè nặng trong trái tim mình và tâm tư mình đầy ắp như mặt sông những ngày nước lũ.

Hôm qua trong cảnh hoang tàn sau trận bom, mọi người gồng gánh ra đi, anh Đạt đăm đăm nhìn mình nửa đùa nửa thật hỏi: “Có ai biết cảnh này không nhỉ? Nếu hoà bình lập lại ắt hẳn phải chiếu cố nhiều đến những người đã qua cảnh này”. Mình cảm thấy đau nhói trong lòng, mình làm không phải để được chiếu cố, nhưng có ai hiểu nỗi ước ao cháy bỏng của mình không? Mình trả lời anh Đạt:

– Ồ em thì chả cần chiếu cố đâu. Ước mong của em chỉ là hoà bình trở lại để em được về với má em. Có thế thôi!

Quả thực mình đã không nghĩ gì đến hạnh phúc của tuổi trẻ không hề mong ước được sống trong một tình yêu sôi nổi mà lúc này chỉ có tình gia đình, chỉ có ước mong sum họp với gia đình. Có thế thôi chứ không mong hơn ngoài việc phục vụ cho Đảng, cho giai cấp nữa.

 

16.6.70

Đọc nhưng dòng nhật ký của Bổi, một cậu học sinh trẻ quê ở Phú Xuyên, Hà Tây mình cảm thấy xao xuyến trong lòng. Tâm sự của Bối cũng là tâm sự của mình. Chúng mình đang sống trong những ngày căng thẳng tột bậc. Bệnh xá đã bị đánh phá, địch tiếp tục uy hiếp dữ dội bằng đủ loại máy bay. Nghe tiếng máy bay quần trên đầu mình thấy thần kinh căng thẳng như một sợi dây đàn lên hết cỡ. Không có cách nào giải quyết khác hơn là mình vẫn phải ở lại cùng anh em thương binh. Buồn cười thay đồng chí chính trị viên của bệnh xá từ chối không dám ở lại cùng mình trong tình huống này. Vậy đó, lửa thử vàng gian nan thử sức Mình cũng đành chịu đựng trong hoàn cảnh này chớ biết nói sao hơn?

Những ngày này nhớ miền Bắc tha thiết, nhìn trời râm mát mình nhớ những buổi chiều mình cùng các bạn ung dung trên chiếc xe dạo qua vườn ươm cây, những luống hoa pancess rực rỡ như những đàn bướm đậu trên mặt đất, những đoá hồng ngào ngạt hương thom… Mình nhớ cả khóm liễu tường trong vườn thực vật – bông hoa Phương thường hái về cắm trong nhà. ôi miền Bắc xa xôi, bao giờ ta trở lại?

 

17.6.70

Ngày nay Moran không quần, không khí im lặng, thỉnh thoảng từng đứt những chiếc HU-1A quần sát trên đồi, chắc chắn lả có địch ở quanh khu vực này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng năm thương binh cổ định. Nếu địch sục vào đây chắc không có cách nào khác hơn là bỏ chạy! Vậy được sao? Mọi người đều đã xác định là không có cách nào hơn trong tình huống đó nhưng nữ nào?… Niên, một cậu bé thương binh đã nói với bọn mình giọng rất đỗi chân thành: “Các chị cứ bình tinh, giặc đến cứ chạy đi, bọn em ở đây một mất một còn với chúng!”.

Niên năm nay mười chín tuổi, em công tác ở đội an ninh thị trấn. Đó là một cậu bé rất xinh trai, khuôn mặt đầy đặn sống mũi cao và đôi mắt to dưới hàng mi rậm. Những lúc đau đớn Niên nhìn mình với đôi mắt long lanh nước mắt. Niên bị thương trong lúc đi công tác, vết thương làm chảy máu thứ phát ở động mạch chằng trước. Mình mới mở buộc động mạch được ba bốn bữa thì bom giội xuống bệnh xá, Niên bị cây gỗ trong hầm đè gãy chân đúng ngay chỗ vết mổ. Mười hai ngày qua mình lo lắng chân em sẽ chảy máu lại, nếu vậy sê khó bảo tồn nổi. Hôm nay sự nguy hiểm ấy qua rồi, nhưng nếu địch ập đến… em sẽ chết ư Niên Lòng mình đau như dao cắt, không biết nói thế nào và làm cách nào để bảo vệ những người thương binh bọn mình đã tận tình phục vụ với bao nhiêu gian khổ trong bao nhiêu ngày qua.

 

18.6.70

Chiều đã xuống, ánh nắng đã mờ tắt sau dãy núi xa. Những chiếc phản lực, Moran đã thôi gào rú. Rừng chiều im lặng một cách dễ sợ. Không một tiếng chim kêu, không một tiếng người nói, chỉ có tiếng suối róc rách chảy và chiếc transitor đang phát một bản nhạc. Mình không nghe nhan đề nhưng chỉ biết khúc nhạc êm dịu, mượt mà như cánh đồng lúa xanh êm ả trong sương chiều. Bất giác mình quên đi tất cả, quên cái không khí nặng nề đang đè nặng trên mình suốt mấy ngày nay.

Từ sáng đến giờ ngoài lúc ăn cơm, ba chị em mỗi đứa ngồi một góc, mắt đăm đăm theo dõi phát hiện địch. Mình không rời vị trí quan sát một phút nào nhưng đầu óc mình lại là những cảnh của ngày đoàn tụ sum họp. Mình sẽ trở về chắt chiu vun xới cho tổ ấm gia đình, mình sẽ biết quý từng phút, từng giây hoà bình ấy bới vì có sống ở đây mới hiểu hết giá trị của cuộc sống. Ôi! Cuộc sống đổi bằng máu xương, tuổi trẻ của bao nhiêu người. Biết bao nhiêu cuộc đời đã chấm dứt để cho cuộc đời khác được tươi xanh. Miền Bắc ơi có thấu hết lòng miền Nam không nhi?

 

20.6.70

Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đã gần mười ngày kể từ hôm bị bom lần thứ hai. Mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đề đón bọn mình ra khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là điệp đã chỉ điểm này. Từ lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây, từng phút. Sáu giờ sáng mong cho đến trưa, trưa mong đến chiều… Một ngày, hai ngày… rồi chín ngày đã trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy trong đau óc mình và những người ở lại. Vì sao? Lý do vì sao mà không ai trở lại? Có khó khăn gì? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn mình trong cảnh này sao? Không ai trả lời bọn mình cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh, chực tràn ra trên mi mắt.

Hôm nay gạo chỉ còn ăn một bữa chiều nữa là hết. Không thể ngồi nhìn thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi thì không đảm bảo. Đường đi trăm nghìn nguy hiểm. Còn nếu đi hai người thì bỏ lại một người, nếu có tình huống gì xảy ra thì sao? Và không nói gì xa xôi, trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một mình loay hoay làm sao cho kịp. Chăng nylon trước thì sợ máy bay? Cuối cùng cũng phải hai người đi. Chị Lãnh và Xăng ra đi, mình đứng nhìn hai chị quản xắn tròn trên về, lặn lội qua dòng suối nước chảy rần ràn, tự nhiên nước mắt mình rưng rưng.

Bất giặc mình đọc khẽ câu thơ:

Bây giờ trời biển mênh mông

Bác ơi có thấu tấm lòng trẻ thơ…

Không, mình không còn thơ dại nữa, mình đã lớn, đã dày dạn trong gian khổ nhưng lúc này đây sao mình cảm thấy thèm khát đến vô cùng bàn tay chăm sóc của một người mẹ mà thực ra là một bàn tay của một người thân hay tệ hơn chỉ là một người quen cũng được. Hãy đến với mình, nắm chặt bàn tay mình trong lúc cô đơn, truyền cho mình tình thương, sức mạnh để vượt qua những chặng đường gian khổ trước mắt.

 

Chương 19

 

Đằng sau cuốn Nhật KýNhật ký chấm dứt ở ngày 20.6.1970.

Hai ngày sau, ngày 22.6.1970 chị tôi hy sinh. Mải mấy tháng sau gia đình tôi mới biết tin dữ. Hôm đó là một ngày đầu đông, có mấy người khách đến gặp gia đình. Mẹ tôi ngã vật xuống giường, lặng đi không nói được câu nào. Nhưng mẹ tôi không khóc. Mẹ tôi là một người phụ nữ ít nói, đầy nghị lực và đầy lý trì. Có lẽ nỗi đau đã kết lại trong tim thành một khối rắn chắc, kể từ đó mẹ tôi càng ít nói và hầu như tôi không thấy mẹ tôi cười.

Giấy báo tử không nói rõ hoàn cảnh chị tôi hy sinh. Đồng đội cũng mỗi người nói một khác. Người thì kể trên đường về đồng bằng xin tiếp tế cho bệnh xá, chị tôi gặp ổ phục kích của Mỹ, chị báo động cho đồng đội chạy thoát và ở lại yểm trợ rồi hy sinh. Người khác kể bệnh xá bị địch tập kích, chị hy sinh để bảo vệ thương binh. Có người lại kể toán công tác của chị có bốn người, hy sinh ba, chỉ còn một người thoát, đó là chị y tá Nguyễn Thị Rô. Cuộc chiến tranh quá khốc liệt, sự hy sinh diễn ra từng ngày từng giời chị tôi hoà lẫn trong trong muôn ngàn người đã lặng lẽ hy sinh vì Tổ quốc người ta có thể lẫn lộn trường hợp này với trường hợp khác. Có một điều chắc chắn là chị tôi hy sinh trong tư thế đương đầu với giặc. Một vết đạn sâu hoắm, ghim ngay giữa trán chị – điều này khi mẹ và tôi lên vùng núi Ba Tơ để đưa chị về, tôi đã nhìn thấy. Anh Tâm, Bí thư Huyện uỷ Đức Phổ hiện nay cho biết anh được nghe kể lại trước khi hy sinh chị còn hô vang Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo Đế quốc Mỹ. Tôi cũng không rõ đó có phải là sự thật, hay chỉ là một huyền thoại mà người dân Đức Phổ yêu thương chị kể lại cho thế hệ sau nghe về một nữ bác sĩ người Hà Nội trẻ trung, xinh đẹp đã chiến đấu và nằm lại trên quê hương họ – trên mảnh đất Đức Phổ mà chị đã coi là quê hương thứ hai của mình.

* * *

Sau bao đêm Fred thức cùng Nguyễn Trung Hiếu để đọc cuốn nhật ký thứ nhất, cuốn nhật ký cùng người viết nên nó đã trở thành điều bí mật riêng của hai người lính. Tháng 10 năm ấy, Fred lại có được một thông tin về tác giả cuốn nhật ký. Một đêm, trong khi chờ trận đánh mở màn, Fred ngồi cạnh một người lính MỸ. Hai người kể lại cho nhau nghe những trận đánh mà họ đã trải qua. Người lính nọ kể cho Fred nghe một trận đánh lạ lùng mà anh ta đã tham dự. Đó là một trận đánh không cân sức giữa 120 lính Mỹ với một người phụ nữ. Anh ta tả lại người con gái nhỏ nhắn với chiếc túi vải bạt trên người, trong đựng vài quyển sổ nhỏ có vẽ những sơ đồ vết thương và phác đồ điều trị. Fred sững sờ hiểu rằng anh đang được nghe kể về những giây phút cuối cùng của tác giả cuốn nhật ký đã ám ảnh anh mấy tháng nay. Liệu đó có phải là sự thật?

Suốt bao nhiêu năm Fred băn khoăn với ý nghĩ ấy. Sau khi liên lạc được với gia đình tôi, Fred viết cho mẹ tôi bức thư sau:

20h 27, Chủ nhật 1.5.2005

Thưa bà Trâm.

Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là niềm tự hào của một người mẹ đã sinh ra một người con gái rất đặc biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin. Đó là trường hợp hy sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đã từng tham dự. Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn vi của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vi của anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ. Ngay Lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính thấy rõ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, vì thế họ kêu gọi người đang bắn hãy đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ. Đây là một người rất anh hùng bởi vì lính Mỹ được trang bị rất nhiều vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán lỉnh Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khâu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.

Trong chiến tranh nhiệm vụ của tôi là kiểm tra tất cả các giấy tờ tài liệu bắt được của địch. Những điều người lính đó kể cho tôi nghe chắc chắn là cái chết của người phụ nữ có cuốn nhật ký tôi nhận được ít lâu sau khi chị hy sinh. Trong thời gian đó không có một tài liệu nào khác giống như người mình mô tả, vì thế tôi tin chắc mình đã được nghe người lính nọ kể về cái chết của tác giả cuốn nhật ký. Đó là cuốn nhật ký thứ hai của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.

Các con gái bà kể rằng một tháng sau ngày cuối cùng ghi trong cuốn nhật ký thứ hai thì Thùy Trâm hy sinh trong một trận đánh. Và nhờ một người bạn dẫn đường chỉ nơi chôn cất gia đình đã mang hài cốt chị từ Quảng Ngãi về vào năm 1979.

Có đúng chị nằm trên một dãy núi cao ở miền tây Đức Phổi Và các bạn của chi có kể lại chị đã hy sinh ra sao không? Suốt 35 năm nay tôi vẫn nghĩ rằng chắc chắn bác sĩ Đặng đã chết đúng như chị sống, hoàn toàn không vị kỷ, hoàn toàn dâng hiến.

Nếu tôi có xâm phạm vào riêng tư của bà thì cho phép tôi xin lỗi và mong không có điều gì xấu cả. Tôi đã mang điều này trong lòng quá lâu và tôi vẫn đang đi tìm câu trả lời.

Nhận được thư của Fred, mẹ tôi vội gọi điện hỏi lại anh Lê Văn Chương – người cùng công tác trong bệnh xá Đức Phổ về địa điểm chị tôi hy sinh. Anh cho b;ất nơi chị tôi ngã xuống chỉ cách bệnh xá có năm mươi mét. Hôm đó anh cũng đi công tác, mãi hơn một tháng sau mới về và chỉ được nghe kể lại rằng chị tôi vừa ra khỏi bệnh xá để đi công tác xuống đồng bằng thì phát hiện có địch chị nổ súng ngay báo hiệu cho các bạn và chiến đấu giữ chân chúng. Mọi người thoát được hết, toán lính Mỹ kia vẫn năm lại phục thêm ba ngày nữa mới rút lui.

Chị tôi được đồng bào dân tộc địa phương và đồng đội chôn cất ngay tại nơi chị ngã xuống, trên một đỉnh dốc của sườn núi Ba Tơ.

Nghe tôi kể lại những chi tiết ấy, Fred viết cho mẹ tôi

9h44, Thứ hai, 2.5.2005

Thưa bà Trâm.

Và giờ đây thắc mắc của tôi đã được giải đáp. Trận đánh mà người lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đã xảy ra. Con gái bà đã một mình chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn mình. ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự đũng cảm của con gái bà và mãi mãi học hỏi được điều gì đó từ tình yêu và những suy nghĩ của chị.

Hôm qua tôi cùng mẹ, vợ và con gái đi ăn tiệm. Em trai tôi và vợ nó cũng đi cùng. Em trai tôi là Michaël, thời gian chiến tranh nó rất nóng lòng muốn được sang Việt Nam tham chiến. Nhưng cha tôi, một sĩ quan Hải quân cao cấp, lại không muốn đưa cả ba con trai sang Việt Nam. Lúc đó anh trai tôi và tôi đã ở Việt Nam rốt. Vì thế ông đã dùng các thế lực chính trị của mình để Míchael không tham gia vào cuộc chiên. Michael rất tức giận vì ch quyện ấy. Nó vẫn tiếp tục trở thành một sĩ quan quân đội và mới về hưu năm ngoái với hàm Đại tá sau 34 năm phục vụ trong Không lực. Hôm qua lúc ở tiệm ăn nó sẵng giọng nói với tôi rằng thoạt tiên nó rất phản đối những việc mà Robert và tôi làm đối với hai cuốn nhật ký của con gái bà. Nó tức giận trước hành động của chúng tôi. Tôi hiểu. Dẫu sao nó cũng chưa từng phai nếm vị mặn của chiên tranh. Nó chưa từng biết đến cảm giác nát tim khi nhìn thấy những người lính ngã xuống trên trận điạ. Vì thế nó mới tức giận. Nhưng trong bữa ăn với mẹ tôi, nó hiểu ra hành động của chúng tôi. Một người mẹ nhân thiệt phải được biết về cuộc đời và những suy nghĩ của con gái mình. Vậy là nó chấp nhận. Tôi nghĩ thật buồn biết bao vì nó không biết được Thùy Trâm đã dạy chúng ta những gì. Nó không nhìn thấy những gì tôi đã nhìn thấy. Nó và biết bao nhiêu người khác chỉ nhìn thấy vầng hào quang của chiến tranh mà không cảm thấy sai trái đến thế nào khi một dân tộc này đi xâm lược một đất nước khác. Biết bao cuộc đởi đã bị huỷ hoại Nhưng nó là một người lính.

Những lúc không hành nghề luật sư hay khoa học, tôi trở thành một người làm vườn. Những lúc làm việc trong vườn chăm sóc những bông hoa, tôi có thể nghĩ triền miên hàng giờ về những chuyện như thế. Hôm qua những ý nghĩ của tôi tràn đầy về Thùy Trâm. Tôi vẫn thắc mắc. Và hôm nay, một bông hoa đẹp từ Hà Nội đã trả lời bao câu hỏi ngày hôm qua của tôi. Thùy Trâm đúng là người như tôi nghĩ. Chị đã chết đúng như tôi hình dung qua câu chuyện của tôi với người lính nọ bao nhiêu năm về trước. Và giờ đây tôi đã biết.

                                                            Và bật khóc để biết.

                                                              ĐẶNG KIM TRÂM

 

Chương 20

Chị là của tất cả chúng taTT – Đây là một câu chuyện kỳ lạ. Rất kỳ lạ khi những ghi chép riêng tư của một cô gái Việt cộng lại được những người bên kia chiến tuyến gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng.

Hình ảnh cuốn nhật ký tại Viện lưu trữ Lubbock, Texas (Mỹ)

“Thùy Trâm không định viết cho cả thế giới này đọc, nhưng có lẽ chính vì thế mà niềm tin sâu thẳm nơi chị được viết ra một cách chân phương, rõ ràng và tôi đã thấy chị có đủ dũng cảm để theo đuổi niềm tin ấy trong trận thử thách cuối cùng…”. Trong lá thư gửi cho người mẹ của người đã mất họ viết vậy, ngày 28-5-2005.

35 năm đã trôi qua, nhưng có một người con gái như thế vừa bất ngờ trở lại…

Sáng 25-4-2005, tôi nhận được một cú điện thoại bất ngờ. Đó là điện thoại gọi đến từ văn phòng Quaker (1) Hà Nội. Người của văn phòng báo tin hiện có một người Mỹ đang giữ cuốn nhật ký của chị gái tôi – liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Chị Thùy của chúng tôi.

Chị tôi hi sinh năm 1970 tại chiến trường Quảng Ngãi. Cống hiến của chị tôi ghi trong hồ sơ đề nghị truy tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì rất đơn sơ: bác sĩ, hi sinh tại chiến trường. Thời gian công tác: năm năm, ba tháng, năm ngày…

Nước mắt của người cựu chiến binh

Trung tuần tháng 3-2005, một cuộc hội thảo thường niên về chiến tranh VN được tổ chức tại Trung tâm Việt Nam – Đại học Texas, Mỹ. Rất nhiều người đến dự. Tại hội thảo, người ta thảo luận về chiến tranh VN ở nhiều khía cạnh khác nhau. Frederic Whitehurst (2) và Robert Whitehurst (3) đã đến với bài nói về nhật ký của một nữ bác sĩ Việt cộng mà Frederic nhận được khi tham gia chiến tranh ở VN…

Ted Engelmann (4) là một trong những người có mặt ở hội thảo. Ba ngày sau khi hội thảo kết thúc, Ted sang VN. Ở Hà Nội, anh đã nhờ một người bạn làm ở văn phòng Quaker Hà Nội tìm giúp gia đình bác sĩ Đặng Ngọc Khuê. Những nhân viên ở đây rất nhiệt tình, lần theo manh mối ít ỏi có trong cuốn nhật ký, họ đã tìm sang tận Đông Anh, nơi bố tôi làm việc từ gần 50 năm trước. Nhưng ở đó, người duy nhất làm việc cùng thời với bố tôi cũng đã nghỉ hưu từ năm 2000.

Bệnh viện Đông Anh cử người về tận quê ông để hỏi địa chỉ gia đình tôi. Ông lại chỉ sang Trường đại học Dược Hà Nội, nơi mẹ tôi công tác trước khi về nghỉ hưu từ 20 năm trước. Cứ như thế, bao trái tim nhân hậu đã chuyển tiếp cho nhau tín hiệu để cuối cùng giúp Ted tìm được gia đình tôi và trao lại chiếc đĩa CD chứa đựng tâm huyết của người viết nhật ký 35 năm về trước.

Những ngày sau đó tôi nhận được rất nhiều thư của hai anh em Frederic Whitehurst và Robert Whitehurst. Họ kể về những năm tháng ở VN và hành trình bao năm qua họ đã tìm kiếm gia đình tôi như thế nào. Có những lúc họ tưởng như tuyệt vọng không thể nào tìm được gia đình tôi, đã sợ rằng khi họ chết đi, hai cuốn nhật ký của chị tôi sẽ nằm trong đống giấy má bình thường không ai biết đến, bị quẳng đi, bị mục nát, bị quên lãng.

Họ nói với tôi rằng vì không còn hi vọng tìm được gia đình tôi, họ đã có ý định in hai cuốn nhật ký thành sách để cả thế giới được biết về một nữ bác sĩ cộng sản người Hà Nội đã sống và đã chết ra sao. Họ mong rằng từ cuốn sách đó sự nghiệp y tế của chị tôi sẽ còn được tiếp nối… Và trong nỗi tuyệt vọng như thế, họ đã trao tặng hai cuốn nhật ký cho Viện lưu trữ về VN Lubbock tại Trường đại học Tổng hợp Texas, để chúng có thể được gìn giữ và chăm chút hơn khả năng họ có thể làm được. 

Chương Câu chuyện về những tấm lòng

Sáng 25-4-2005, tôi nhận được một cú điện thoại bất ngờ. Đó là điện thoại gọi đến từ văn phòng Quaker Hà Nội. Người của văn phòng báo tin hiện có một người Mỹ đang giữ cuốn nhật ký của chị gái tôi – liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Chị Thùy của chúng tôi.

Chị tôi hi sinh năm 1970 tại chiến trường Quảng Ngãi. Cống hiến của chị tôi ghi trong hồ sơ đề nghị truy tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì rất đơn sơ: bác sĩ, hi sinh tại chiến trường. Thời gian công tác: năm năm, ba tháng, năm ngày…

Những kỷ vật còn lại của chị tôi do đồng đội gửi về chỉ gồm mấy tấm ảnh, một số thư của gia đình từ miền Bắc gửi vào. Các anh cũng nói chị tôi có ghi nhật ký – đó là thói quen của chị tôi từ nhỏ – nhưng đã bị giặc lấy đi trong một trận càn.

* * *

Trung tuần tháng 3-2005, một cuộc hội thảo thường niên về chiến tranh VN được tổ chức tại Trung tâm Việt Nam – Đại học Texas, Mỹ. Rất nhiều người đến dự. Tại hội thảo, người ta thảo luận về chiến tranh VN ở nhiều khía cạnh khác nhau. Frederic Whitehurst và Robert Whitehurst đã đến với bài nói về nhật ký của một nữ bác sĩ Việt cộng mà Frederic nhận được khi tham gia chiến tranh ở VN. Sự kiện thu hút được sự chú ý của người nghe qua lời kể xúc động của Fred về quá trình từ lúc nhận được cuốn nhật ký cho tới lúc quyết định tặng nó cho viện lưu trữ về Việt Nam ở Lobbock, cũng như qua những trang nhật ký đầy tình yêu thương và khát vọng hoà bình đã được Robert dịch sang tiếng Anh. Buổi hội thảo kết thúc, mọi người xôn xao đặt ra nhiều câu hỏi, nhiều người ngỏ ý muốn giúp Fred tìm gia đình nữ bác sĩ.

Ted Engelmann là một trong những người có mặt ở hội thảo. Ba ngày sau khi hội thảo kết thúc, Ted sang VN. Ở Hà Nội, anh đã nhờ một người bạn làm ở văn phòng Quaker Hà Nội tìm giúp gia đình bác sĩ Đặng Ngọc Khuê. Những nhân viên ở đây rất nhiệt tình, lần theo manh mối ít ỏi có trong cuốn nhật ký, họ đã tìm sang tận Đông Anh, nơi bố tôi làm việc từ gần 50 năm trước. Nhưng ở đó, người duy nhất làm việc cùng thời với bố tôi cũng đã nghỉ hưu từ năm 2000. Bệnh viện Đông Anh cử người về tận quê ông để hỏi địa chỉ gia đình tôi. Ông lại chỉ sang Trường đại học Dược Hà Nội, nơi mẹ tôi công tác trước khi về nghỉ hưu từ 20 năm trước. Cứ như thế, bao trái tim nhân hậu đã chuyển tiếp cho nhau tín hiệu để cuối cùng giúp Ted tìm được gia đình tôi và trao lại chiếc đĩa CD chứa đựng tâm huyết của người viết nhật ký 35 năm về trước.

Những ngày sau đó tôi nhận được rất nhiều thư của hai anh em Frederic Whitehurst và Robert Whitehurst. Họ kể về những năm tháng ở VN và hành trình bao năm qua họ đã tìm kiếm gia đình tôi như thế nào. Có những lúc họ tưởng như tuyệt vọng không thể nào tìm được gia đình tôi, đã sợ rằng khi họ chết đi, hai cuốn nhật ký của chị tôi sẽ nằm trong đống giấy má bình thường không ai biết đến, bị quẳng đi, bị mục nát, bị quên lãng. Họ nói với tôi rằng vì không còn hi vọng tìm được gia đình tôi, họ đã có ý định in hai cuốn nhật ký thành sách để cả thế giới được biết về một nữ bác sĩ cộng sản người Hà Nội đã sống và đã chết ra sao. Họ mong rằng từ cuốn sách đó sự nghiệp y tế của chị tôi sẽ còn được tiếp nối… Và trong nỗi tuyệt vọng như thế, họ đã trao tặng hai cuốn nhật ký cho Viện lưu trữ về VN Lubbock tại Trường đại học Tổng hợp Texas, để chúng có thể được gìn giữ và chăm chút hơn khả năng họ có thể làm được.

Dưới đây là bức thư đầu tiên của Fred gửi cho tôi:

“Thứ sáu 29-4-2005

Tôi là Frederic Whitehurst. Tôi đã giữ ký ức về chị cô, bác sĩ Đặng Thùy Trâm, 35 năm nay. Tôi đã giữ cuốn nhật ký của chị ấy suốt 35 năm. Ted Engelmann – người tôi chỉ mới vừa biết – nói với tôi rằng anh ấy đã đến nhà cô và hiện nay cô đã nhận được bản copy của hai cuốn nhật ký cùng những bức ảnh. Có bao nhiêu điều tôi phải nói với cô, với gia đình cô và đặc biệt là với mẹ cô. Sau bao nhiêu năm tìm kiếm, điều này giống như một giấc mơ và việc tìm ra gia đình cô khiến tôi bật khóc. Một người mẹ phải được biết về những ngày tháng của con gái mình, một đất nước phải được biết về một người anh hùng như bác sĩ Đặng. Mọi việc dường như thật thích hợp, mẹ cô cần phải nhận được những dòng chữ của con gái mình đúng vào dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng đất nước bà – 30-4-2005…”.

Frederic Whitehurst – thường gọi là Fred là một sĩ quan quân báo Mỹ tham chiến ở chiến trường Đức Phổ, Quảng Ngãi từ năm 1969-1971. Trong chiến tranh, nhiệm vụ của Fred là thu thập các thông tin, tài liệu có giá trị quân sự để phân tích tình hình, truy tìm dấu tích quân giải phóng, định hướng tập kích hay càn quét. Nhiệm vụ đó khiến Fred có thể nhìn cận cảnh cuộc chiến tranh và chứng kiến tận mắt những mất mát khủng khiếp – cả đối với phía VN lẫn phía Mỹ. Fred đã chứng kiến cảnh “cả một xóm nhỏ Nhơn Phước ở miền tây Đức Phổ bị bom giội tan hoang không còn một người sống” (thư ngày 4-6-2005). Fred đã nhìn thấy những em nhỏ ở Chu Lai bị thiêu cháy trong bom napalm. Fred đã chứng kiến viên trung úy chỉ huy trực tiếp của mình gần như mất trí vì không chịu nổi cảnh các nhân viên y tế Mỹ “đơn giản cứ nhặt bừa bất kỳ một cánh tay, cẳng chân nào đó lắp vào xác bạn mình cho vào quan tài gửi về Mỹ” (thư ngày 4-6-2005). Những cảnh chứng kiến đó đã ám ảnh Fred trong bao năm nay từ khi rời VN trở về.

Nhưng cũng từ những ngày khốc liệt đó, Fred đã nhìn thấy cuộc chiến tranh từ một ánh sáng hoàn toàn khác biệt.

Trong một trận tập kích vào một “căn cứ của Việt cộng”, sau khi tiếng súng đã im, đơn vị của Fred tiến vào và nhận thấy đây là một bệnh viện nhỏ. Có rất nhiều lán trại, nhiều phòng – rõ ràng là phòng bệnh, cả một phòng mổ dã chiến. Có vẻ mọi người trong bệnh viện đã vội vã đi khỏi ngay trước khi quân Mỹ ập tới và không kịp mang theo tài liệu.

Theo qui định của quân đội Mỹ, mọi tài liệu của địch thu được trên chiến trường phải chuyển lại cho bộ phận quân báo nghiên cứu. Hôm đó Fred thu nhặt được rất nhiều tài liệu. Cùng với thông dịch viên người Việt, Fred chọn lọc các tài liệu có giá trị quân sự, số còn lại họ vứt vào đống lửa để thiêu hủy.

Fred đang đốt những tài liệu loại bỏ thì thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu – thông dịch viên của đơn vị – cầm một cuốn sổ nhỏ đến cạnh anh và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đã có lửa rồi”. Fred chưa hiểu đó là cuốn sổ gì, nhưng vẻ xúc động của Hiếu và việc Hiếu có thể kính trọng cả đối phương tác động rất mạnh đến anh, Fred bỏ cuốn sổ vào túi.

Nhiều đêm sau đó Fred và Hiếu cùng nhau đọc cuốn sổ. Đó là nhật ký của một Việt cộng, chính là nữ bác sĩ đứng đầu cái bệnh viện nhỏ mà đơn vị Fred càn vào. Nét chữ nghiêng nghiêng đầy nữ tính. Anh càng tò mò hơn khi Hiếu cho biết nữ bác sĩ đó còn rất trẻ, mới 26 tuổi và từ Hà Nội vào Đức Phổ công tác chưa được hai năm.

Rồi như một định mệnh, mấy tháng sau Fred nhận được cuốn nhật ký thứ hai của nữ bác sĩ, cũng do Nguyễn Trung Hiếu đem về. Những dòng chữ rực lửa khiến Fred vô cùng xúc động – mặc dù anh chỉ được nghe qua lời dịch vội của Nguyễn Trung Hiếu và đó là những dòng chất chứa căm thù đối với quân Mỹ. Những dòng đầy yêu thương, hi vọng khiến anh vô cùng ngạc nhiên. Anh không hiểu nổi bắt nguồn từ đâu mà một người con gái có thể nhìn thấy cái đẹp của màu xanh giữa chiến trường mịt mù bom đạn, vì sao cô ấy có thể nghe nổi bản giao hưởng êm đềm khi quân Mỹ gần như luôn bám sát sau lưng.

Năm 1972, Fred được rời VN và trở về Mỹ. Trong hành lý của anh có những kỷ vật nặng trĩu của chiến tranh: hai cuốn nhật ký của nữ bác sĩ, hơn 50 tấm ảnh chụp những người dân Quảng Ngãi trong chiếc máy ảnh Canon bị bắn thủng lấy được trên xác một phóng viên Việt cộng, chiếc đục nhỏ rơi bên xác một người thợ mộc già bị giết hại. Cũng từ đó VN trở thành một nỗi ám ảnh trong anh.

Năm tháng trôi qua, với những ám ảnh về chiến tranh, về tội ác đã được chứng kiến ở Việt Nam đè nặng trong tim, Fred đã nhiều lần quay lưng lại với cái xấu, không chấp nhận cái xấu – dù chỉ là gián tiếp. Anh đã tìm được nhiều điều tốt đẹp, đã từng kiện cả Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI), cả giám đốc FBI, cả chính phủ Mỹ vì những việc làm sai trái và đã thắng tất cả những thế lực đó trong một vụ kiện nổi tiếng cả trong nước Mỹ lẫn trên thế giới. Một lúc khác tôi sẽ nói thêm nhiều về anh.

Mẹ của Fred là một nhà giáo và là họa sĩ. Khi Fred cho mẹ xem cuốn nhật ký, bà đã bảo con trai hãy cẩn thận, bởi vì hai cuốn sổ này có thể thiêu cháy cuộc đời anh.

Quả vậy, trái tim Fred luôn bị nung ngấu vì ngọn lửa toả ra từ hai cuốn sổ nhỏ ố vàng. Anh không thể nào ngủ yên mà cứ trăn trở muốn làm một cái gì vì người nữ bác sĩ ấy. Chị còn sống hay đã chết? Nếu đã chết có phải chị chết một cách tuyệt vời đúng như đã sống cuộc đời tuyệt vời mà anh đọc được qua nhật ký? Gia đình nữ bác sĩ ở đâu? Mẹ chị có biết rằng bà có một người con gái anh hùng đến thế nào không?

Fred đã nhiều lần thử tìm đến gia đình nữa bác sĩ. Qua những trang nhật ký, anh biết chị tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội, nên lục tìm khắp nơi mọi thông tin chi tiết về trường đó mong có manh mối gì chăng. Anh bắt gặp tên tuổi hai giáo sư nổi tiếng là Giáo sư Đặng Văn Chung và Giáo sư Đặng Văn Ngữ. Anh biết tên chị là Đặng Thuỳ Trâm – biết đâu họ đều là người trong dòng họ Đặng? Anh biết mẹ chị tên là Doãn Ngọc Trâm, nhưng địa chỉ của bà chỉ là một dãy số bí ẩn ghi ở cuối cuốn nhật ký. Anh biết bố chị là bác sĩ Đặng Ngọc Khuê, giám đốc một bệnh viện cách Hà Nội không xa. Anh đoán đó là bệnh viện tư của gia đình chị – rõ ràng chị xuất thân từ một gia đình trí thức. Anh biết nhà chị ở một phố nhỏ tên là Lò Đúc. Nhưng anh cũng biết trong chiến tranh Hà Nội đã bị ném bom. Biết đâu gia đình chị cũng đã chết hết trong một trận bom nào đó? Anh đã hỏi nhiều người, nhưng những năm sau chiến tranh tìm một người nào đó ở Việt Nam là điều hầu như không thể đối với anh. Mãi cách đây mấy năm mới có một người bạn liên hệ được với họ hàng ở Hà Nội và nói với anh rằng gia đình bác sĩ Đặng Ngọc Khuê vẫn còn sống. Nhưng không hiểu sao người đó không muốn tìm tiếp và bảo anh đừng nói thêm với cô về cuốn nhật ký nữa.

* * *

Robert Whitehurst cũng là một cựu chiến binh ở chiến trường VN nhưng chưa từng có mặt ở chiến trường Nam Trung bộ. Hai năm hoạt động ở vùng đồng bằng sông Cửu Long khiến Rob đem lòng yêu mến miền đất này cùng những con người VN hiền hòa, giàu tình cảm. VN đã trở thành một phần đời của Rob vì anh cưới một người con gái xứ Long Xuyên. Anh học tiếng Việt, thích ăn món ăn Việt, thích đem những cây cỏ VN về Mỹ để trồng, thậm chí có lần còn cố gửi về Mỹ một chiếc xuồng ba lá để vợ đỡ nhớ quê.

Rob được đọc cuốn nhật ký của bác sĩ Thùy Trâm sau khi từ Mỹ trở về năm 1972. Ngay từ đầu cuốn nhật ký đã khiến anh sửng sốt. Cùng với sự giúp đỡ của vợ, anh đọc đi đọc lại cuốn nhật ký, càng đọc anh càng bị lay động trước những gì diễn ra trong tâm hồn người con gái ở bên kia chiến tuyến. Anh viết cho mẹ tôi: “Tất cả những ai từng được chúng tôi cho xem cuốn nhật ký đều xúc động trước những điều chị cô viết. Chúng tôi nghĩ chị không chỉ là một anh hùng của riêng ai, nghĩa là mặc dù những ký ức của chị rất quí giá đối với cô cũng như đối với chúng tôi, nhưng sự nghiệp của chị còn rất có ý nghĩa với tất cả mọi người. Những dòng chữ của chị có một sức kêu gọi tuyệt vời.Mặc dù chị ở bên kia chiến tuyến trong cuộc chiến tranh giữa chúng ta, nhưng ngay từ đầu những năm 1970, Fred và tôi đã cảm thấy chị vô cùng đáng ngưỡng mộ, đáng tôn kính và là một người tốt. Hi vọng sau khi đọc những dòng chữ viết từ quá khứ ấy, cô sẽ đồng ý với chúng tôi… rằng theo một nghĩa nào đó chị là của riêng gia đình cô, nhưng theo một nghĩa rất quan trọng chị là của tất cả chúng ta” (thư ngày 29-4-2005).

Rồi Rob tìm được trên mạng Internet một nơi gọi là Trung tâm VN (Vietnam Center) ở Trường đại học Tổng hợp Texas và biết rằng tại đây người ta vẫn tổ chức hội thảo thường niên về chiến tranh VN. Có rất nhiều người tới dự hội thảo này: các học giả, các vị đại sứ, các viên tướng, các cựu chiến binh VN của cả hai phía miền Nam và miền Bắc. Robert động viên Fred đến dự hội thảo và nói về cuốn nhật ký của nữ bác sĩ. Cuộc hội thảo diễn ra như tôi đã nói lúc đầu. Trong sự xúc động sâu sắc, Fred và Rob đưa cho nhiều người đĩa CD chứa bản sao cuốn nhật ký của chị tôi, mong rằng giống như trong câu chuyện cổ tích tốt đẹp nọ, cuốn nhật ký sẽ tìm được về với quê hương, về với gia đình người nữ bác sĩ mà họ ngưỡng mộ như một anh hùng.

                                                                                          ĐẶNG KIM TRÂM

Hà Nội một thời trai chinh chiến

Hà Nội một thời trai chinh chiến

Kính tặng các chàng trai Hà Nội

đi giữ đất biên cương phía Bắc,

biên giới Tây Nam

 Tác giả: Đồng đội Nguyễn Mạnh Hùng

 Ha noi

THĂNG LONG

Thăng Long ơi  chiều  thu về phố cổ

Lưỡi gươm thiêng đã gửi lại Thần Rùa

Gió sông Hồng tiếng người xưa nhắc nhủ

Đất kinh thành vươn theo hướng Rồng bay.

 

Có một Thăng Long huyền thoại mãi sau này

Hồn đất nước sống trong từng viên ngói

Gạch tường thành rêu phong mờ sương khói

Điện Kính Thiên dân hợp lẽ đất trời.

 

Thăng Long ơi, Hà Nội em ơi

Nghìn năm tuổi, sức, trí, tình trai trẻ

Phố cổ xưa mãi mãi còn mới mẻ

Tâm hồn người yêu dấu đất Tràng An

 

Thăng Long ơi, xuôi ngược với thời gian

Hà Nội đẹp mùa hoa thơm, kết trái

Đường Thanh Niên dập dìu tình  trai gái

Tượng đồng đen vững chãi nước non này.

 

Thăng Long ơi, sông núi hội về đây

Chiếu thiên đô rồng bay lên, gió cuốn

Tháng Tám xưa cờ sao vàng cuồn cuộn

Tiếng Bác Hồ vang vọng tới ngàn sau.

 

Thăng Long ơi, những năm tháng thương đau

Gồng gánh Kinh thành ra đi chiến đấu

Đất với trời lửa, đạn, hoa, xương máu

Lớp lớp trai đi mãi mãi không về.

 

Mỗi Hà dân trác tuyệt một bài thơ

Tháp bút tả thanh thiên, rùa ngậm kiếm.


GỬI NGƯỜI EM GÁI THĂNG LONG – HÀ NỘI

1.Anh

Giọt nước mắt rơi tan vào hồn đá

Giọt huyết hồng trắc nghiệm mảnh xương

Những linh hồn nghìn năm thất lạc

Tụ, tan vào nước mắt, máu em tôi

 

Những gì đây, chân Thành cổ xưa ơi?

Những vẹn nguyên đã đưa vào cổ viện

Mảnh gốm vỡ vẫn hiện hình lưu luyến

Lệ, huyết đào, son phấn… vấn vương trôi

 

Chân Thành cổ chiều nay một mình tôi.

Chàng trai xưa nhập vào thân hồn xác

Nghe rõ tiếng của một thời ly biệt

Anh nuốt tình, răng tự cắn dập môi

 

Còn bao nhiêu hồn phách dạt trôi

Đất trời Nam ấm vòng tay Mẹ

Thương mến lắm quãng đời trai trẻ

Vì lẽ gì hồn anh muốn xác tôi?

 

Thương nhớ ai hồn anh về tới nơi?

Chân Thành cổ một thời anh xao xuyến!

Con đường sỏi bánh xe lăn chiều muộn

Tuổi học trò, anh cũng giống hôm nay.

 

Quán lá bên sông

Nay sông cạn

Mảnh vỡ tình

la liệt đáy bùn đen.

Anh đã uống với ai?

Uống cho ai?

Uống lần sau chót?

Giọt rượu xưa đen xạm đất này!

 

Anh nhìn thấy Kinh thành ta bốc cháy

Ai đốt lửa quay đi, đầu không ngoảnh lại?

Cột gỗ mái trường oan khuất chẳng thành tro.

Đường kháng chiến gánh Kinh thành ra đi

Con ngựa nào bết máu người ngã xuống?

 

Các anh đi về đâu?

Phương Nam, hay phương Bắc

Phương Đông có biển xanh

Phương Tây núi đỏ;

Đất nước mình giặc giã ở bốn phương.

 

Anh nhớ lắm Kinh thành quê hương!

Nhớ người tình tắm sông về bên giếng

Anh đã kịp hôn trước giờ tiễn biệt?

Để em tôi thao thức đợi ngày về…

 

Những chàng trai của một thời đam mê

(Nghìn xác này gói trong da ngựa)

Những chàng trai đầu quân theo ngọn gió

Thổi tung trời, Đất Việt của ta ơi!

 

Các anh ép tình riêng,

Xa họ hàng, cha mẹ,

chào hàng sấu già

xa biệt em yêu

Các anh hôn lên những lớp rêu

Khoác chiếc áo Kinh thành

Lấy hồn trai Phù Đổng

Một hớp tình em:

cạn chén rượu Long Thành!

Mái đầu lính xanh,

tướng già tóc bạc

Những trận chiến trào dâng như ngọn thác

Bụi mịt mờ, khói toả những miền xa,…

 

Đã bao lần lửa cháy Kinh thành ta

Đã bao lần đoàn quân về như sóng

Đã bao lần những vòng tay trống rỗng

Đã bao lần em khóc mẹ, khóc anh…

Đã bao lần tóc bạc gọi đầu xanh,..

 

Đất nước mình duyên nợ các anh

Khói hương toả chiều nay chân Thành cổ

Khói xanh lơ, xanh một thời trai trẻ

Khói nhẹ nhàng như sống chết hồn nhiên…

 

 

2.Em

 

Em thân yêu! chưa kịp ướm chân giầy

Em mặc áo lụa là, yếm căng thắm đỏ

Em kéo anh vui chơi đêm trăng tỏ

Mơ mộng tình, thầm hẹn thắm nụ hôn!

 

Em đã cùng anh đi về phía Đông

Ngắm bình minh sóng nước sông Hồng

gió mặt trời lăn lằn lên mái tóc.

 

Anh nắm  tay em tung tăng đến lớp.

Mái trường xưa thầy cũ chẳng quay về

Thầy cũng ra đi như tình anh gửi lại.

Cả một thời lưu lạc cánh rừng xanh?

 

Thầy quý mến em, thương yêu các anh…

Em đi về đâu trong những ngày ly tán

Em có chết mấy lần roi ngựa ác

Em có lạc đất trời, tỳ thiếp ở phương xa?

 

Mái tóc xanh,

da trắng, môi hồng

dáng em đẹp,

ánh mắt tình quyến rũ.

Có lúc nào quá khát đòi yêu?

Có lúc nào vì sắc tím ban chiều?

Em có thấy:

Những tấm thân:

gieo mình vào giếng cạn,

Chấm hết đời trinh tiết

đáy hồ Gươm

Trôi dạt hình trên sóng nước sông Hồng

Hay ôm hận

treo mình trên cành trúc

Thức tiếng gà nhao nhác, gió Hồ Tây?

 

 

Người ra đi thương xót em tôi

Em tôi khóc mấy đời ly biệt

Em tôi chết qua mấy thời loạn lạc

Em tôi cười bên sóng nước Hồ Tây

 

Ôi bóng dáng Kinh thành còn đây

Đã bao lần tiếng Thu về tha thiết

Đã bao lần sắc Thu vàng mải miết

Nhuộm cuộc tình thấm thoắt đá thời gian

 

Những linh hồn tan chìm vào lòng đất

Những linh hồn bị giam cầm nén chặt

Bụi thời gian, lũ lụt dội lên đầu

Hôm nay về đâu?

Hãy vờn bay trên Kinh thành lộng gió

Có khóc nữa không em? Thôi đừng khóc!

Thức một phần quá đủ bóng tình xưa

 

3.Tôi

 

Chiều hôm nay tôi vào chân Thành cổ

Ai vô tình nâng đỡ vượt tường cao.

Những bóng người tụ vào một góc

Bới tình em đau đớn quá chừng!

 

Nếu ngủ yên chắc em nín khóc?

Ôm hận tình vật vã mãi ngàn năm.

 

Tôi chỉ là người khách đến thăm

Vẫn dại dột như thời thơ bé

Dám leo trèo vào chân Thành cổ

Để chàng trai nào (bắt vạ) em tôi?

 

Em ơi, em cuộc đời sống có đôi

Thắm nụ hôn muôn chiều vào hạnh phúc

Nghìn năm rồi bao cuộc tình vũ khúc

Sắc tím trời nhuộm tím đêm đêm.

 

Xin tình anh, tình em êm êm

Để tôi về Ban mai hồng trên phố

Tôi sẽ viết đôi dòng chân Thành cổ

Vài nén nhang tự thắp bến sông Hồng.

 

Hớp rượu (tập tình) tôi nghẹn nấc bên song

Một lỗi hẹn ngàn năm còn bỏ ngỏ

Một nét đẹp Kinh thành em-dáng mẹ

Khắc khoải hoài ngửa mặt đón mưa lơi

 

Em ơi! em, có lẽ tôi mắc tội?

Cũng một thời ly biệt phương xa

Lần cuối cùng tình yêu không nói

Trong vòng tay tiếng gọi …buông ra…

 

Có lẽ một phần hồn tôi ở đó?

Nặng chuyến tàu, tạm biệt lớp mồ xanh

Có lẽ nhiều lần tôi đi ngang

Đài dâng hương

đường Bắc Sơn nghiêng về Thành cổ

Có lẽ đôi lần tôi hít thở

Một linh hồn trôi lạc sống đòi yêu?

Cũng có thể một lần tôi quá liều

Đốt những bài thơ gọi hồn người bạn cũ….

 

Ơi em gái Thăng Long- Hà Nội

Ơi chàng trai chinh chiến hãy quay về

Em vẫn đó, vẫn sống chờ chung thuỷ

Môi tươi hồng, xinh đẹp mến yêu nhau.

 

 

HÀ NỘI MÙA THU 1978

 

Hà Nội mùa thu năm 78,

nước hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây trong xanh,

tường thành Thăng Long rêu phong cổ kính,

hoa sữa dịu thơm đêm về đường Nguyễn Du

câu thơ Kiều dần khô nước mắt.

Giặc dã lùi xa hiện dần  lên trang sử,

mơ tình yêu khát vọng sống thanh bình.

Nhưng không. Lửa giặc cháy Tây Nam rần rật,

hồn Nguyễn Trãi hiện về nhắc hận ải Nam Quan

Trai Hà Nội ra đi bảo toàn hồn sông núi,

gió cuốn mặt đường lớp lớp lá thu bay.

Quên sao được những tháng ngày Lạc Thuỷ,

Hà Sơn Bình thao thức mấy đêm trăng

Nhớ dòng sông Hoàng Long mùa mưa,

Đêm không ngủ đón lũ về khủng khiếp.

Trai Hà Nội đến, đi lớp lớp,

áo binh nhì bạc phếch tháng tân binh.

Mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân,

lại đưa con xuôi Nam, ngược  Bắc.

Gió heo may tháng Mười, mưa phùn tháng Tết.

Một sáng mờ sương đoàn xe qua cầu Long Biên tiến quân về ải Bắc.

Chúng ta đội ngũ lên đường dấn thân vào trận mạc,

vội bắt tay nhau hẹn ngày về Hồ Hoàn Kiếm,

đón gió sông Hồng, thổi bụi chiến chinh cùng hát vang bài ca Hà Nội

Trong đoàn quân điệp trùng năm ấy,

Ai về đâu,  ai nằm lại chỗ nào ?

Quá hai mươi năm vẫn đôi lần thao thức,

nhớ nơi nào từng xa nhớ đất Thăng Long.

Chúng ta sống như cây rừng,

gió bão dập vùi, hứng bụi trần ai,

vẫn mãi mãi xanh tươi một thời trai trẻ,

mang tình yêu Hà Nội, yêu Em.

Chúng ta là nước sông Hồng cuộn trôi rồi trở lại,

bồi đắp phù sa, tưới mát đôi bờ.

Chúng ta chở cát xây thành

cho ngàn sau rêu phong mờ sương khói.

Hà Nội mùa Thu năm ấy,

trai Hà thành đi gió cuốn, rồng bay, rợp bóng đất Kinh kỳ.

***

Ra đi ngày ấy mùa Thu

Đói cơm, rộng áo bù xù tóc tai,…

Thế mà đã hai mươi năm

Cỏ già thay rễ, bạn nằm nơi đâu?

Lạy trời thêm nữa mưa ngâu

Hoàn dư nước mắt đất sâu ngậm cười.

Có thằng trong số chúng tôi

Vẫn sờn áo lính bụi trời đó đây

Vài thằng tạm sướng ngất ngây

Bỗng “thèm” nước mắt những ngày biệt ly

Vầng trăng con suối thầm thì

Đêm gác nghe tiếng hát ru âu ờ

Ta đi cha mẹ ngóng chờ

Cuối mùa hoa phượng tuổi thơ qua rồi.

 

RA TRẬN

Xa lắm rồi một chiều hoang chợ Đập*

Ngàn ngàn người đi đứng dưới trời mưa

Bước lên xe, nắm tay vào tuyến lửa

Không khóc mà sao em mắt đỏ hoe ?

 

Phố Vọng mờ sương đón tiễn đoàn xe

Thư rơi bên đường sớm nay mẹ khóc

Cửa sổ đóng, mọi người đang yên giấc

Cặp mắt nào sửng sốt dõi đoàn xe

 

Vai kề vai những trái tim tuổi trẻ

Hơi ấm nồng nàn thắp lửa cho nhau

Không một tấm hình để lại mai sau

Chỉ mươi phút đoàn xe qua Thành phố

 

Để lại ngàn sau hàng hàng bia mộ

Đốt nén hương trầm sưởi ấm hồn trai

Chúng tôi đi tuổi mười tám, hai hai

Vùi thân xác bên bờ sông nước đỏ

 

Lên cơn sốt trong chiều mưa, đêm gió

Đuổi quân thù máu đổ mặt trời loang

Đến tận cùng khốc hại của chiến tranh

Không thể khác, không thể nào khác được.

 

Sống, tàn, chết vì quê hương đất nước

Cái bi, hùng, hài, ngộ đến tầng mây

Những đứa con về Thành phố hôm nay

Lại tan biến vào dòng đời bươn bả

 

Đèn rực sáng con đường xưa không ngủ

Cặp mắt nào khắc khoải dõi người xe

 

***

Người mẹ bốn hai, tuổi còn rất trẻ

Đến bây giờ con mới hiểu ngày xưa

Đợi mòn mỏi, bữa cơm chiều thắp lửa

Lá thư nhoè con chữ gấp làm tư

 

Năm đôi ba lần  kẻ đến người qua

Lời thăm hỏi thêm dầu đèn khắc khoải

Mẹ và em sống âm thầm chờ đợi

Cha và anh chinh chiến mãi chưa về

 

(Bốn vòng chết trên đầu xanh, tóc trẻ,

Đau tột cùng trút xuống mẹ, em ta)

Một thoáng rùng mình không thể hiện ra

ở nhà ta còn bao nhiêu nhà khác ?

 

Tiếng mõ chùa khóc than đời đen bạc

Khan khốc hoài, tháng tháng cúng hồn vong

Mẹ  vẫn sống những tháng ngày hy vọng.

 

***

Đoàn xe đi êm êm, thuyền xuôi sông

Chiếc đi đầu nhớ thương ai dừng lại

Người lính về nhà xách ra chai rượu

Chất anh hùng đâu cần đến hơi men

 

Đêm ải Chi Lăng xóm vắng không đèn.

Vách đá dựng, người khổng lồ đứng gác.

Ngủ màn trời, sớm mai vào trận mạc

Đạn nổ ầm ầm, biên giới không  xa

 

Gầm rú lên, một đoàn quân thiết xa

Người xạ thủ nhô đầu trên tháp pháo

Chào chúc nhau cố giữ gìn lấy “gáo”

Hoả tiễn chếch nòng tít hút vào đêm.

 

Rượu Nàng Hương truyền hơi ấm êm êm

Người lính già ôm vai chàng lính trẻ.

Con lớn rồi không sà vào lòng mẹ

Sương trắng mềm đâu phải tấm chăn bông.

 

Khói súng đen máu đỏ quện tanh nồng

Người chiến sỹ như ngàn xưa giữ đất

Người áo vải đuổi giặc thù giáp sắt

Trận long trời tan tác bóng chim muông.

 

Chiến tranh tàn, điêu hãy nói không không .

Đi bảy về ba, phố hoa phượng đỏ

Khóc lớn, mừng thầm sớm xuân đào nở

Ráng hồng chiều như máu túa chân mây

 

BỐN MÙA

 

Tôi vẫn nhớ những tháng ngày nơi ấy

Áo lính bạc mầu, cỏ úa tàn khô

Đói, rét đi vờ vật dưới trăng mờ

Đêm Tháng Chạp, lửa rừng thay chăn ấm

 

Tôi vẫn nhớ mùa xuân hoa đào mận

Nở sáng rừng, mặt lính tuổi hai mươi

Bước thấp, cao em khúc khích tiếng cười

Đến chợ thì nhanh, trở về thì chậm

 

Mùa hè đến rủ nhau vào rừng rậm

Qua kẽ lá thấy trời xanh cao tít

Bữa ngủ trưa kiến rừng toan làm thịt

Gối lá rừng cho giấc mộng hoàng lương*

 

Tiếng thập thình cối nước ở đầu nương

Gió bông đùa, hương rừng say ngây ngất

Sáng  sớm mai, tưởng mơ nhưng là thực.

Giỏ cốm đầy ai để sẵn đầu song.

 

Đồng đội ơi những năm  tháng trắng trong.

Muốn sống lại những ngày mùa như thế.

Xa lắc rồi, ai nghe mà kể lể

Tiếng cối nước vọng về, hương cốm ở đâu đây.

 

ĐỊA DANH

 

Những địa danh nghìn tư ngày nơi ấy

Những mái nhà sàn nương ngô cối nước

Tên bản làng đã trở thành thân thuộc

Trong nỗi niềm thương nhớ suốt đời tôi

 

Coòn Pheo, Coòn Coọng, Nà Đươi

Ngã ba Tam Lung có cây đào hoa trắng

Trái mận, quả lê trĩu ngọt vườn đầy nắng

Vầng trăng treo trên sóng nước Kỳ Cùng

 

Mẹ bảo anh là bộ đội Nà Bung

Em gọi  anh là người Coòn Coọng

Ngày rằm nghe câu si, hát lượn

Xanh cốm, hương hồi khăn gói trao tay

 

Em dạy anh nói tiếng Nùng, Tày

Anh bảo em cách cầm cây bút

Cùng nhau hát dưới mái trường mới dựng

Mắt đen tròn trên trang giấy trắng thơm

 

Những địa danh không thể nào quên

Ngói máng, nhà sàn, nương ngô cối nước

Giặc thù còn rình mò biên ải bắc

Ta lập chiến hào trồng mới  hàng cây

 

Nhớ Mẹ

Trên mũ người chiến sỹ viết:

“Núi cao nhớ cha, rừng sâu nhớ mẹ”

 

Gửi về mẹ mảnh trời thu mây bay

Kỳ Cùng uốn quanh, xanh xanh bờ bụi

Quả trám bùi, trái lê vàng xóm núi

Bà mế Tày nơi con vẫn đến thăm

 

Qua chùa vàng, chùa bạc Ăng Co Thom

Mùa Biển Hồ, cá tranh nhau mặt nước

Khăn cà ma  uốn quanh rừng thốt nốt

Nước ngọt lành, mỗi sớm mặt trời lên

 

Nếu mai sau mở lại những con đường

Đưa mẹ thăm những nơi con từng đến

Triệu, triệu nén nhang, ngàn ngàn ngọn nến

Thắp sáng gọi hồn- đồng đội chúng con

 

Nhưng mẹ ơi, chiều mưa Bát -Tam- Boong

Dòng Săng- ke không biết gì đức hạnh

Đường tiếp vận quân thù đang chốt chặn

Cơn sốt rừng ức hận tuổi hai mươi

 

Đừng  buồn nữa. Bạn ơi đừng tức tưởi

Chúng ta về đi, đứng dáng hiên ngang

Cố sống qua mùa khô An-Lung-Viêng

Rồi xuôi dòng trở về Tôn- Lê- Sáp

 

Hà Nội ơi, cùng nhau ta ca hát

Có dáng kiều mơ mộng phía trời xa

Cây gạo Ngọc Hà nở hoa Tháng Ba

Mùa lễ hội, Chùa Hương người chen lối

 

Cẩn thận nhé, những khoảng rừng sáng tối

Đến  kịp rồi súng nổ khắp nơi nơi

Ta chiến đấu xua tan đi tội lỗi

Cho đất này ngọn cỏ lại hồi sinh

 

 

ĐỒNG ĐỘI

 

Ta bỗng nhiên gặp nhau là người lính

Một quãng đời hai đứa mãi không quên

Những cuộc hành quân mờ trăng

Bụi đỏ áo quần sương giăng giăng nhớ

 

Có những đêm hai ta cùng không ngủ

Trao nhau điếu thuốc ngắm trăng suông

Dáng Hùng cao gầy đi trong đoàn quân

Cần  ăng ten lắc lư để cho mình nhìn thấy

 

Ngày trở về cái đêm băng rừng ấy

Trăng đỏ cuối trời mắt mình cứ hoa lên

Thương mình, Hùng trao gậy động viên

Đêm ngủ đồng ngô, đêm cuối đời quân ngũ

 

Hùng ơi nhiều lúc giật mình trăn trở

Kỷ niệm xưa đôi lúc cứ hiện về

Mình không ân hận gì những tháng năm như thế

Nhưng thoáng buồn  cứ lảng vảng đâu đây

 

Hùng sẽ đi, đi xa hơn mình thấy

Hùng sẽ yêu hơn lửa đêm nằm rừng

Có một điều Hùng nhé đừng quên

Năm tháng trẻ trung chúng mình là người lính.

 

 

ĐIỆP VÀ HẠM

 

Chia tay nhau các anh vào Tây Ninh

Còn chúng tôi ngược về biên ải bắc

Khi lửa cháy ở hai đầu đất  nước

Đã bao lần thần chết gọi chúng tôi

 

Điệp Hạm ơi, chỉ vài tấc nữa thôi

Các anh về mẹ và em mừng rỡ

Trang sách hay, câu thơ, bài toán khó

Vẫn đợi chờ hai đứa vạn ngàn năm

 

Bánh xe quay trên lớp  mìn: ầm

Giấc mơ đẹp tung lên ngàn sắc đỏ

Điệp, Hạm ơi, các anh thành bất tử

Nhánh  cỏ này xanh mát ở vườn hoa

 

TÌNH  GẦN VÀ XA

 

Em đã đi qua mười mùa thu nước Nga

Hái củi khô rừng thơ Êxênhin

Nhặt lá vàng rơi vườn quê Puskin

Vẫn ngơ ngác nhớ chiều thu Hà Nội

 

Em bé bỏng thân cò lặn lội

Tuyết rơi rơi lấp trắng mấy dòng sông

Khao  khát gì, bôn  ba tìm lẽ sống

Lời thơ buồn vương vấn khói chiều xưa

 

Tôi đã đi qua nhoà nhạt mấy mùa mưa

Cánh  rừng mùa khô, dòng sông nước đỏ

Giấu trong ba lô câu thơ dang dở

Đêm quân  hành thương nhớ mảnh vườn  xưa

 

Chiến tranh qua rồi để lại những giấc mơ

Vẫn hốt hoảng dù đầu giường dao dắt

Trong giấc ngủ vẫn trào dâng nước mắt

Lời thơ nào thấm tháp nỗi cô đơn

 

***

 

Trót vô tình về qua đường Thanh Niên

Bao dáng hình thon thả giữa mùa thu

Hoa cúc vàng trời xanh như quyến rũ

Thoáng trên đầu tóc bạc đã bao năm

 

Em ngày xưa tóc xanh cười duyên thắm

Đưa em về hoa sữa mấy mùa thơm

Không hứa hôn bởi ta còn trẻ quá

Anh lên đường ngơ ngác lá thu bay

 

Lại vô tình ngồi bên em chiều nay

Bài thơ cũ làm sao  em yêu thích ?

Ai bù đắp những gì ta đã mất?

Trăng trái mùa vẫn chín  nửa làn môi

 

Bây giờ em chờ ai chiều đơn côi

Lời nguyện nào chắp lại  vầng trăng

Anh vẫn yêu một tình yêu trong trắng

Đón em về trong sắc nắng mùa thu.

 

TƯ LỆNH

 

Mười bảy tuổi theo đoàn quân Nam du

Đến bây giờ tư lệnh tá bốn sao

Vào chiến dịch ông mang theo kính lão

Căn dặn từng người trước cuộc hành quân

 

Tóc dựng ngược trước sa bàn chiến trận

Bàn tay sần tin cậy bất kỳ đâu

Đời tư ông- tấm màn sương yêu dấu

Chinh chiến hoài ngót ngét bốn mươi năm

 

Một buổi  chiều trên hậu cứ  Con-Đăng

Đoàn tải thương lính tráng về  lăn lóc

Người ta bảo hằng đêm ông thầm khóc

Thương chàng trai dâng hiến tuổi xuân thì.

 

CHÍNH UỶ

 

Xắc cốt mềm chéo vai người chính uỷ

Mệnh lệnh đời ông cất giữ trong tim

Những bài ca ông thức viết hằng đêm

Lời tâm tình đến bao nhiêu chiến sỹ.

 

Bên Hồ Gươm nơi quê hương Chính uỷ

Đón giao thừa, hương khói cúng cầu an

Mẹ khăn chùng khấn vái nguyện lành con

Vợ yêu chồng không may thêm áo đẹp.

 

Trước chiến trận những con người gang thép

Đưa đoàn quân chiến thắng trở về

Có hậu phương dẫn tránh trận hồn mê

Bao người thân ngày đêm chờ, ngóng đợi

 

TRĂNG TRỐI

 

Anh nhắm mắt trong vòng tay đồng đội

Vết thương thù tàn phá tuổi hai mươi

Giữ bình yên, anh xung phong truy đuổi

Giặc điên cuồng, tuyệt vọng lẽ thường thôi

 

Áp tai gần nghe lời anh trăng trối:

“Con không về báo đáp mẹ cha ơi

Con chết trẻ hồn xanh cao vờn vợi-

cành sấu xoà xuống cửa phố nhà ta

 

Cho anh hôn vầng trán em, nơi xa

Gió vẫn đùa hương hoa thơm ngào ngạt

Ôm hôn em, anh ra đi biền biệt

Suốt hành trình chỉ có một tình Em

 

Hà Nội vào Thu lời rao êm êm

Sáng sớm ra con đã đòi quà cốm

Mẹ đừng buồn một lần con hái trộm

Búp sen hồng ao vắng xóm Từ Liêm”

 

TỘI ÁC

Cánh đồng hoang, đồng chết, Tuols’leng [1]

Giếng ngập thây người, xương phơi trắng xoá

Nơi diệt chủng, lính Ăng – ca đày đoạ

Man rợ tột cùng đâu phải binh đao !

 

Đến bây giờ tôi  hiểu rõ vì sao ?

Người giết người cùng quê hương phum, sóc

Khi người chết không trở thành tang tóc

Thì óc người như óc thú rừng sâu

 

 

XUÂN 1980

 

Mùa xuân năm tám mươi qua mau

Chẳng mong gì xuân nay trở lại

Có phút giây khiến lòng tôi sợ hãi

Cùng đồng đội mình thấm đậm thương đau

Những cuộc hành quân đi giữa rừng sâu

Những chiều mưa rơi, sẫm xanh màu áo

Nơi cất giữ tình yêu, mơ ước khát khao

Nơi mùa xuân đến sớm lại đi mau

Để lại màu xanh, ngời trên sắc áo

Nỗi nhớ Thăng Long của người lính xa nhà

 

BA NGƯỜI LÍNH

 

Ba thằng chúng tôi vác nặng trên vai

Vượt qua núi cao nhiều đá nhọn.

Hùng bảo đi đường này

gần hơn, nhưng mệt đấy.

Tôi nhỏ gầy, Hợp, Hùng cao to

đến đỉnh dốc thằng nào cũng mệt.

Hợp, Hùng tựa lưng vào vách đá.

Sợ ngồi xuống là không muốn dậy

Rừng cây lặng im.

Vách đá lặng thinh.

Chẳng biết hai thằng nghĩ gì?

Nhưng riêng tôi chỉ mong sớm về nơi tập kết

Không có gió, nhưng hơi thở ngàn xưa của đá

phả vào tôi, như đứng trước máy lạnh bây giờ.

Bước chân dồn nhịp thở.

Chúng tôi xuống dốc nhanh hơn

như có ai vẫy gọi, đợi chờ.

Kia rồi, một nàng tiên trong cổ tích

Hay người đẹp xóm núi này.

Chào các anh, tiếng nàng trong trẻo quá.

Em nghiêng nón, rẽ cành cây

lấy về nón nước trong đầy, nhìn cũng mát.

Hùng, Hợp giục tôi mau uống để lấy nước đổ lên đầu.

Nàng tiên trong nón nước,

Mắt đen, môi đỏ, tóc bồng bềnh,

gương mặt dáng người đẹp như huyền thoại.

Em nghiêng nón, quạt mát cho chúng tôi

như mẹ quạt cho lũ con đi nắng trở về.

Hùng, Hợp phì phèo điếu thuốc ngủ lúc nào không hay.

Tôi say đắm, ngắm nàng tiên giữa thời trận mạc.

Gió bắt đầu thổi,

tôi nhắm măt xem có phải giấc chiêm bao.

Rồi hốt hoảng lay Hợp, Hùng đứng dậy.

Nàng đã đi rồi, bóng người nhẹ nhàng

trên con đường heo hút dẫn tới cánh rừng xa

Tôi hét gọi, nhưng Hợp, Hùng ngăn lại.

Biệt kích rừng còn lảng vảng đâu đây.

Hai mươi năm sau, gặp nhau.

Hai thằng vẫn cười hỏi tôi:

Lúc chúng tao ngủ, mày chia tay nàng tiên

sao chưa bao giờ kể lại?

Hùng, Hợp bảo đó là chuyện cổ tích giữa chiến trường

mà chúng tôi là người được mộng.

Riêng tôi  đi tìm, không thấy nàng đâu,

suýt thì mất mạng.

Chúng tôi vẫn giữ nguyên kỷ niệm,

giấc mơ đẹp giữa chiến trường đầy khói lửa và biệt ly.

Phải chăng gặp em và ngụm nước thần phù hôm ấy,

để chúng tôi bao lần thoát chết trở về.

Phải chăng em, hồn kết lại

từ những cô gái  trắng trinh, ngàn xưa đợi chờ người yêu chinh chiến.

Em hiện về nơi chân dốc, cánh rừng năm ấy phù hộ chúng tôi

Để thêm ba cô gái không lặng lẽ khóc thầm.

 

HOA PHƯỢNG

 

Trùm lên màu xanh khăn choàng đỏ thắm

Cháy giữa trời như lửa, hồng than

Dưới mặt trời còn rực rỡ thắm hơn

Tự ngàn đời vẫn mùa hoa phượng đỏ

 

Có cô bé nào ngồi bên cửa sổ

Ngậm cánh hoa đôi mắt ướt mơ màng

Tiếng ve vẽ vào nền trời trong sáng

Hát bài gì cho mỗi lúc xa nhau

 

Chúng tôi đi không kịp học kỳ sau

Chúng tôi đi trong những ngày dữ dội

Nơi tiếng súng, chiến trường vẫy gọi

Cánh hoa rơi trên tóc bạc của thầy

 

Cánh hoa rơi trên  vai áo em gầy

Em thầm thì bên tôi tình tha thiết

Hoa phượng cháy trong lòng tôi da diết

Cứ chập chờn trong chớp lửa đạn bom

 

Chúng tôi  về sau năm tháng chiến tranh

Bên cửa sổ mộng mơ nghe em giảng

Ve lại hát, reo lời ca trong sáng

Vui mừng hơn anh sắp cưới em rồi…

 

Cho tôi yêu, yêu trọn một nụ cười

Cho tôi gọi mãi tên em là phượng vỹ

Để tôi nhớ thương suốt cuộc đời chiến sỹ

Để màu hoa thắm đỏ sắc tình đời.

 

TIỂU ĐỘI

 

Người thứ nhất:

Trượt đại học em lang thang khắp nơi

Bốc vác Gầm Cầu, đạp mướn xích lô

Hai hai tuổi, đời giăng hai lưới khổ

Được trở về đi xuất khẩu “cu ly”

 

Người thứ hai:

Tao thợ hàn bậc bốn vội ra đi

Nhà cao tầng vắt mình trên giàn giáo

Vợ dại, con thơ, phiếu dầu, sổ gạo

Bố mẹ già biết nhờ cậy vào đâu ?

 

Người thứ  ba:

Em mười ngày đại học y năm sau

Xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận

Tuổi thanh niên không có gì vướng bận

Anh hùng ca muôn dặm chốn sa trường

 

Người thứ tư:

Dân Hàng Đào thành phần sống tiểu thương

Anh chị em rộng dài đường ăn học

Tôi “Lê Lai” mẹ già buồn muốn khóc

Mắng mọi người, thương xót số phận tôi

 

Người thứ năm:

Sẹo cánh tay này ngày anh lên ngôi

Cai lũ đàn em chuyên câu cá trộm

Chán, bỏ “nghề” xung phong đi chiến trận

Chuộc lỗi lầm bằng chút “nghiệp” binh đao

 

Người thứ sáu:

Tôi ra đi mơ mộng một tình yêu

Đất nước mình chí trai oai hùng lắm

Xưa “Tây Tiến” nay Tây Nam ngàn dặm

Sóng  Mê- Kông trôi dạt đãi anh hùng

 

Người thứ bảy:

Chính ta đây dân gốc phố Hà Trung

May vá , bán buôn, triền miên, lam lũ

Tổ quốc cần không đắn đo suy nghĩ

áo bạt này sương gió nhớ mang theo

 

Người thứ tám:

Bố mẹ em vất vả, Tứ Liên nghèo

Trồng cây cảnh, quanh năm trông vụ Tết

Xuân xanh còn mà đồng tiền mau hết

Mẹ bấm rau từng ngọn được mấy hào

 

Người thứ chín:

Tôi con nhà gia giáo phố ông Cao *

Bố vụ trưởng, mẹ nhà văn- hoạ sỹ

Bức tranh lớn vẽ người đi chống Mỹ

có một thằng bé nhỏ chạy theo sau

 

Người thứ mười:

Quê hương tôi không biết ở nơi đâu

Tuổi thơ bụi lớn lên trong phố chợ

Bom Mỹ dội đêm cuối năm man rợ

Phố Khâm Thiên, tội ác nợ muôn đời

 

Người thứ mười một – Tiểu đội trưởng:

Bảy năm rồi  tao không phép nghỉ ngơi

Hai năm tuổi quân hàm  già thượng sỹ

Năm bảy sáu * trót yêu con tướng nguỵ

Lý, tình đời không một chút xảo xiên

 

Đồng lòng đi ngày mai vào Pai Lin

Quyết một trận Tà Xanh gìn giữ chốt

Anh hùng ca không lúc nào mai một

Lãng tử oai hùng- chất lính Thủ đô.

 

 

CHIA LỬA

 

Lính Khâm Thiên:

“-Hãy để em đi, anh còn mẹ cha

Vợ trẻ, con thơ chẳng thể bơ vơ

Em “tự do” không còn gì mắc nợ

Cõi vĩnh hằng sau trước lại gặp nhau”

 

Lính thợ hàn:

“-Đừng làm thế khiến lòng anh quặn đau

Tuổi thơ em sống mờ trong phố chợ

Em phải trở về tìm cha, đón  mẹ

Đừng để anh mang nợ suốt cuộc đời…

Anh em mình chinh chiến đến tận nơi

Chung lẽ sống cùng nhau chia cái chết

Đạo lý đẹp đời đời dân nước Việt

Đá xanh ngàn, trầu thắm đỏ trên môi”

 

 

XOÁ NỢ

“- Chúng  điên dại hại ta mất ba người

Cướp đôi mắt của một chàng lính trẻ

Bắt được chín thằng xin đem bắn bỏ.

Chín con người run sợ, hết cuồng điên”

 

“- Anh nghỉ đi, đây thuốc lá Điện Biên

Xử chúng nó, lũ lầm đường lại giống

Giao chúng nó cho Hội đồng cách mạng

Đưa chúng về phum, sóc với người thân”

 

Cứu nhân dân ba chiến sỹ hy sinh

Vì đồng đội, suốt đời anh bóng tối

Nợ thì xoá, còn đây là lầm lỗi.

Chiến tranh tàn- điêu-đắng- hận- buồn- đau.

 

 

HÀNH HÌNH

 

“-Bắn toán trước, không biết toán phía sau

Chúng nó trườn lăn như rắn hai đầu

Luật sinh tồn, đớp mồi rồi ẩn náu

Thủ phạm, nạn nhân ngạo ngược kiếp đời

 

Chúng bâu lấy em mở bài đánh hội

Trận mưa đòn thù hận chẳng ai nguôi.

Thằng bị thương nhe hàm răng chó đói,

Man rợ thét gào kiệt sức mới thôi.

 

Em tỉnh lại, nồng nặc mùi tanh hôi.

Hùm mắc bẫy giữa một bầy sói xám,

mắt đảo điên, mặt thú người đen xạm

Chờ trực xé mồi, ăn sống, nuốt tươi.

 

Phí thừa đi ngôn ngữ các giống người

Thằng mặt đen mờ đưa em giấy bút

Em vội vẽ người đàn bà la hét

Nhìn con mình xé xác ở rừng xanh

 

Chúng nó liếm môi, mắt đảo hơi nhanh

Thằng bị thương cướp của em đôi mắt

Vẫn biết rằng mặt trời rồi sẽ tắt

Mà đêm trường, địa ngục sớm với em”.

 

BÌNH ĐỘ 400 *

 

Đêm tháng Năm vào  Bình độ Bốn Trăm

Đoàn xe trôi êm êm, tầm đại bác

Thuốc súng tanh, lá rừng kêu xào xạc

Chúng no  máu rồi không cắn nữa đâu?

 

Lắc lư xe quan tài vượt về sau

Máu dỏ xuống đường cuốn vào cát bụi

Lại xe quan tài vượt lên lầm lũi

Tốp thương binh bê bết máu mặt, mày

 

Đám cướp kia Thánh, Phật dạy ăn chay

Chẳng kiêng gì ngày Rằm, mồng Một !

Đạn cày xới đất tơi trồng cây tốt

Tưới máu người cướp, giữ đất biên cương.

 

Tư lệnh Hoàng Đan trận này cầm quân

Ông bảo rằng: Sống, chết, thời, vận, số !

Cả Trung đoàn ào ào như thác lũ

Bình độ Bốn Trăm bình địa trận người.

 

Những chàng trai sống, chết trận này ơi!

Mưa đổ xuống ông Trời tuôn nước mắt

Ơn nhớ mãi thân người đi giữ đất

Người trở về ăn, sống, ở ra sao ?

 

NHỮNG NGÀY QUA BẾN SÔNG GIANG

 

1.Bến Ngưu

 

Chiều qua bến sông Giang nhìn nước chảy,

ngắm ánh dương rơi rớt đá xanh ngàn,

nhìn người qua sông cho nguôi nỗi nhớ .

Có nhiều đứa tìm, xem con gái tắm.

Nó sướng thầm đến 20 năm sau mới chịu lộ

Cái “may mắn” làm cho tính ki- bo trỗi dậy.

Tôi cười : “Bạn sướng tựa tiên ông”.

Mõ trâu lốc- cốc rừng chiều Nà Bản,

cả một đàn “nghéngọ” qua sông.

Con đi đầu “trẻ trai” sung sức,

hất cái sừng kiêu ngạo xuống dòng xanh.

Nước trắng xoá cả một bầy ngụp lặn.

Chúng biết gì “cái án” đã kề bên.

Lính tắm trần la hét người bến sông,

mặt em  đỏ cúi nghiêng trên bè mảng.

Con sông xanh bờ tre,

dòng sông cong eo em vẫn rì rào câu hát:

“… Có một thời trai trẻ bến sông  Giang…”

Trâu vơi dần theo cái đói đoàn quân,

cứ hai ngày một chú ngưu về chầu Thần Lúa,

đám bọt bèo trôi trôi, dòng sông xanh sạch,

những khung xương “khủng long” nay hoá thạch.

Hoá đá hết rồi

một thuở sống “xa hoa”.

 

2. Bến Tử

 

Rồng cô đơn, rồng cực kỳ hung dữ.

Những cơn lũ ập về trôi dạt chiếc cầu phao.

Đêm tháng năm lội ra roi cát,

ngửa mặt ngắm sao trời ngân câu hát vu vơ,…

Con đường vòng không đi,

chúng tôi qua đường tắt

Trút hết áo quần vấn đầu, cuốn áo mưa.

Dòng sông rộng đến không ngờ,

nước êm êm dễ sợ

Sắp đến bờ mà nước vẫn cứ sâu

Tưởng là chết về bên kia biên giới

Vẫy đạp bừa gặp đá ở dưới chân.

Chàng tên Thống vừa đi uống rượu;

Đòi qua sông thưởng thức “thiên thần”;

Quê sông Đáy từng bơi như con vịt;

Không kịp rồi nước lũ đã cuốn trôi.

Thương tiếc quá một quãng đường chinh chiến;

Chàng nằm yên trên mỏm núi “Non Thần”.

Dòng sông dữ đã cướp bao số phận,

ngán Kỳ Cùng trôi đẩy phía trời xa.

Đã bao lần tôi dầm mình hốc nước,

bắt con cá trúng mìn,

mắt áp đáy dòng sông.

Tôi đã hôn lên từng tảng đá,

bứt quả doi rừng nguôi cơn khát đường xa,…

Người Tày,Nùng lặng thầm bến nước,

bóng áo chàm thấp thoáng rừng xanh.

Ta đã sống vượt lên trên số phận,

đành phải quen tiếng nổ rợn người

Lựu đạn liệng trong đêm, mìn cài trong lá,

quán nước ven đường án mạng biết vào ai?

 

 

3.Về quê  hương anh Hoàng Văn Thụ

 

Một chiều Đông có hai người lính.

Hứng máu anh hùng hay tập tính thi nhân?

Súng chéo vai, gậy tre băng đồi, dốc

Bến sông ơi đêm hãy đón ta về!

Qua triền sông, cánh đồng sau vụ gặt,

khói rừng chiều êm ái quá em ơi!

Rừng mận đào môi căng muốn nở

Lá sau sau tía hồng hứa hẹn những chồi xanh

Sương sa xuống mưa bay lất phất

Gió rừng thổi từng cơn mát lạnh

Bạn chân giầy, tôi chân dép bước đi

Qua núi cao theo vết trâu đi,

rừng chiều vắng, người chỉ đường xa tít

Thương chân giầy, cõng bạn vượt suối nông,

hơi ấm trên lưng bây giờ còn ấm !

nếu đụng vào biệt kích,

bỏ mạng trên đường quê anh Thụ.

Xương tấp xương !

Trời gần tối chúng tôi đến thăm,

có con chó chạy ra hít, hít…

Ngôi nhà sàn năm xưa

Anh đi về cùng đồng đội

Cột nhà mốc, kẽ nhăn thớ gỗ tháng năm

Khói mái  sàn nghi ngút trong mưa

Chủ nhà đón mời nhau bên bếp lửa

ánh hỏa hồng gương mặt mới thân quen

Cơm rượu- thịt trâu- rau rừng mời ăn

Chủ nhà hình như ăn rất ít

ôi vị ngọt bùi tình thân thiết

ánh lửa hồng soi Mế tuổi 80 .

Mế là em mẹ anh Hoàng Văn Thụ,

vết nhăn trên má vết nhăn cột nhà

Mế kể lại những ngày xa xưa ấy

Tiếng Kinh- Tày câu được, câu chăng

Con đã hầu chuyện một chứng nhân

Bước bậc thang nhà sàn

nơi người xưa ẩn mình làm cách mạng

Con đã nghe tiếng rừng chiều u ám.

Ngửi khói củi hương hồi, hương quế thơm thơm

Vị rừng đầu môi, đã trôi vào trong dạ

Thấy bóng người trong mưa,

hay Anh Thụ trở về  ???

Vẫn tiếc rằng sau bao năm xa cách

Anh vẫn mong về lần cuối,

 

Lửa rực hồng tôi muốn ngủ qua đêm

Bạn bảo về, anh ta ưa kỷ luật

Nếu ở lại có thể gây tai ách

Biệt kích rừng lảng vảng ăn sương

Chia tay Mế, nhận chai dầu, cây đuốc

Cháy bập bùng, tôi ngoái lại tìm chi ?

Trong ký ức một đêm Đông xa lắc

Cho con thêm vài lần cúng Mế ở chùa quen!

 

Lối đi  về theo vết chân trâu,
lửa chập chờn ẩn hiện rừng phương Bắc.

Có lẽ đêm nay,

giặc cũng say mềm bên bếp lửa nơi nao?

Cái sướng khổ- buồn vui- sống chết

Muôn kiếp đời thích sống – sướng -vui

Sông Giang ơi ! hẹn về không gặp bến,

cánh đồng đêm sương phủ trắng lấp trời.

Chúng tôi đi loanh quanh

“quẫy đạp” niềm hy vọng,

Tìm vào nhà dân theo ánh lửa hồng

Đêm đen đã biến ta thành tòng phạm

Cửa cài kín không ai thức mở

Chim lợn kêu tưởng vãi linh hồn!

Người dân sợ những lời dối trá

Đạn lên nòng tiếng “xoạch” chẳng ai ưa?

Người bạn sợ khi tôi gõ cửa

Tiếng “ngô, vừng” tuyệt vọng quay ra.

Chợt nhớ chuyện:

(áo lông ngỗng Mỵ Châu chạy giặc, nhớ chồng)

Tôi bảo theo hướng bã mía trên đường

sẽ dẫn tới bến sông

Vẫn may tuổi thơ còn ánh hồng ký ức

Chúa mỉm cười cho chúng tôi bè ở bên này

Sao lại thế? – bởi bên kia ít người

đò bè thích bến đông !

Chúng tôi qua sông nước lạnh vỗ về

Gió nửa đêm như thằng quái ác

Đuốc tắt phải dừng che áo bật diêm

Tháo bấc tiếp dầu làm đường dài phía trước

Hai chú lính chập chờn qua giốc đá cheo leo

Về đến lán chỉ còn que diêm cuối

Đuốc sắp cạn dầu,

tôi lạnh người hơn cả đoạn đường xa!

Bao năm trôi qua

Tình người quê anh Thụ:

Đón tiếp ân cần, nhân ái rất thâm sâu

Họ chính xác diêm- dầu đoạn đường về tiễn biệt

Có những lời không nói để nhớ nhau.

 

4.  Bến oan hồn

Cuộc hành quân mật danh M 79

Gấp khúc biên thuỳ “diễu võ, giương oai”

Mìn muỗi  nổ  đùng đoàng  “vui” pháo Tết

Đám ma rừng  nhăn nhó  khóc  ời ơi.

 

Chúng tôi cười khoác súng ống rong chơi

Qua vườn đào hoang vào nhà vắng chủ

Đêm vô hồn tự ru mình giấc ngủ

Sáng thót người -chính giữa bãi tha ma

 

Nhớ rồi! ai ơi ới trong mơ:

Bóng oan hồn đuổi nhau xô tôi ngã

Không dậy được, qua một ngày vất vả

Người- ma ơi  lính tráng nửa “ma  người”

 

 

CỤ VÀ BẬP

 

Người lính Mường Bùi Văn Cụ to cao

Vào chiến trường rượu trắng xách cả can

Giữa hai trận xếp bằng nhâm nhi rượu

Phơi áo quần tượng đá dám thi gan ?

 

Bập yếu gầy đi cùng đường gian nan

Chữa khí tài giữ làn mưa lửa đạn.

Quê Gia Lâm, xóm Bát Tràng, Đa Tốn

Khói đốt lò gốm sứ vẫn xung thiên

 

Cụ gọi Bập sang hầm uống rượu tiên

Vừa chạm chén, pháo nổ tan chỗ cũ

Bập bảo rằng: suốt đời tao ơn Cụ

Chén rượu này qua chín tử, mười sinh.

 

TUẤN TRẮNG

 

Tuấn chợ Hàng Da bạch diện thư sinh

Gái Điềm He xinh xinh, xin “chết”

Cây trổ hoa, tình yêu  trên hết

Cưới người tình trước lúc Tuấn ra quân

 

TUẤN GẠO

 

Tuấn Từ Liêm vóc dáng chú gấu đen

Đánh giặc giỏi, trèo cây rừng cũng giỏi

Tuấn khoẻ làm, hay cười không khéo nói

Che chở cứu người, lửa đạn mưa dông

 

Tuấn trở về ghì lái chiếc công  nông

Đất, cát, sỏi,  xi măng, gỗ, thép

Trong lồng ngực một trái tim tươi đẹp

Yêu cuộc đời này như mẹ yêu con.

 

KIM CHỈ

 

Lẽ ra xe chỉ  luồn kim

Người tình vá áo, biết tìm ở đâu ?

Đứng chân ở giữa rừng sâu

Con trai kim chỉ -Thị Mầu tụng kinh

Ngón tay dỏ máu vô tình

Đường kim nguệch ngoạc ra hình chữ chi

Quần rách rộng bước chân đi

áo rách nắng gió, da bì, tóc sương

Bạn cười xấu hổ soi gương

Tấm hình dĩ vãng nhớ thương một thời?

 

CẢM XÚC BAY ON *

 

Tôn Lê Sáp, mênh mang tha hồ bơi

Thời loạn lạc nét cổ xưa hoang dã

Đáy trầm tích, nổi lên bao buồn bã

Mùa Biển Hồ giác ngộ các sinh linh.

 

Tượng Bay- on nuôi đời sống tâm linh

Bốn mặt người mỉm cười nhìn bốn hướng

Người xưa muốn Ăng co đời thịnh vượng,

Tiếng chuông chùa vang vọng đến ngàn năm

 

Vũ nữ xinh, người tạc tượng giam cầm

Gửi lại đời sau tấm tình bằng đá

Nét tài hoa, đôi tay sần vất vả.

Áp-sa-ra về non nước hồi xuân

 

Đá bóng lên theo cung bậc thời gian

Cảm xúc đẹp mỗi thời xa vắng khác

Những người lính đến đây như trẻ lạc

Ngắm tiên nữ tội trần, ngửa mặt khát mưa rơi

 

Chúng tôi đi làm nghĩa vụ cuộc đời

Gìn giữ Ăng Co, hình hài đất nước

Trả lại màu xanh, cánh rừng thốt nốt

Buông lưới chài, Tôn- Lê- Sáp, Mê- Kông

 

SỐT RÉT

 

Ruồi rừng Cu-leng, muỗi đồng Cam Pông

Rét run người nóng như đốt, như thiêu

Cơn mê sảng anh gọi tên người yêu

Đợi anh về ngày tàn phai chinh chiến

 

Con thuyền  nhỏ Hồ Tây chiều lưu luyến

Mái chèo khua  mặt hồ lăn lăn sóng

Theo người lớn đi suốt  mùa cá cóng

Cá không về rét mướt chạy theo sau

 

Nắng tháng sáu bát canh rau dầm sấu

Cây đa già  trút lá suốt mùa đông

Em thơ ngây cặp sách, tóc nơ hồng

Học chung thầy về cùng chiều phố nhỏ

 

Dòng sông Hồng một đêm trăng sáng tỏ

Dát ánh vàng lấp lánh tới bờ xa

Gió bay tóc em, anh nhận mùi hoa

Gói khăn tay thêu hình chim hạnh phúc

 

Cháy mất rồi trận mùa khô Xa- Mát

Anh mình trần về chân núi Bà Đen

Tràng Tiền ơi gửi tới những que kem

Hương tóc em làm anh nguôi cơn khát

 

Anh gắng gượng qua mùa khô nóng rát

Vượt sông Stưng Xen về lại Bờ Hồ

Hà Nội mình đang độ giữa mùa Thu

Hoa cúc vàng bồng bềnh trên đường phố.

 

LẠC RỪNG

 

Vết thương nhẹ đường dài thành khốn khổ

Lỡ nhịp rồi không theo kịp đoàn quân

Đêm hoang vắng nơi anh tạm dừng chân

Túp lều xiêu chuyện tình  yêu cổ tích

 

Dấu  vết này dường như không có địch

Người đi xa rồi, nấm mốc rêu phong.

Lương khô anh còn, bi đông nước trong

Bữa cơm chiều qụa rừng kêu dáo dác

 

Mắc võng nghi binh, anh nằm chỗ khác

Súng, đạn trên nòng sống chết  kề bên

Đêm cô đơn, anh thức, ngủ triền miên

Sợ ma hơn người, thú rừng hơn giặc

 

Đêm thức, ngủ là đêm dài dằng dặc

Bình minh lên, anh chớp mắt lặng im

Đống  xương người kia, nháo nhác tiếng chim

Nhắm mắt, trườn đi thoát khỏi tầm nhìn.

 

Lại một người tóc dài rối như điên

áo quần rách như người rừng tiểu thuyết

Tay chỉ ba lô, miệng kêu Nam, Việt

Anh hiểu rồi, họ đói muốn xin ăn

 

“Từ hôm nay mình lại hết cô đơn

Có người dẫn đường tìm về Siêm – Riệp

Người trốn vào rừng tránh xa cái chết

Gặp người lạc rừng, sống chết  có nhau

 

 

SÔNG ĐỰC

 

Về Chi Ma theo đường lá sau sau *

Bụi chẳng bay xa, bụi phủ xuống người

Mắt trong sáng, má mồ hôi “rớm máu”

Ngang dọc biên thuỳ chinh chiến cuộc chơi

 

Dòng sông trũng, đá mòn ngàn ngàn tuổi

Đại đội tắm trần vùng vẫy mê ly

Nước mơn man, bờ đá trắng cọ kỳ

Vách đá dựng, cây rừng không xấu hổ

 

Dòng nước chảy, tan loang màu bụi đỏ

Đại đội lên bờ, nước lại xanh nguyên

Đá liệu còn trong trắng chính chuyên?

Nước vẫn chảy ngàn đời không biết mỏi.

 

 

NGƯỜI TÌNH CHUNG THUỶ

 

“Em lẩn trốn lời thầm thì ướm hỏi

Tránh nhiệt tình gần gũi tuổi thanh xuân

Bạn cùng lứa vui chồng con sớm tối

Em vẫn chờ, tin đợi một tình anh

 

Người đàn bà, con gái thời chiến tranh

Nụ hoa lớn, búp chồi non trước lửa

Vui cười đấy mà lo âu ấp ủ,

cả cuộc đời khiên, mộc bước người đi

 

Ngắm hình anh thầm đọc những trang thư

Chàng trai trẻ tươi cười cùng đồng đội

Xa vắng em xin anh đừng vấp vội

Lửa duyên tình vương víu lối anh qua

 

Mùa xuân về em nhớ tới tháng Ba

Anh dối mẹ đưa em đi lễ hội

Qua gờ đá, anh dang tay hứng đợi

Sợi dây rừng xoắn xít bện vào nhau

 

Hành quân xa chân anh đừng có đau

Nhớ mắc mùng tránh muỗi rừng, sốt rét ?

Em mong ước hoà bình về trước Tết

 

Anh nguyên lành bên mái phố thân yêu

Bài thơ tình anh viết tặng người yêu

Lính  chiến gì  dáng thư sinh yểu điệu.

Em không viết những câu thơ còn thiếu

Anh hay đùa, “thương a lính tình tang”

 

 

THƯ TÌNH CỦA LÍNH

Con đường phượng đỏ me vàng

Bằng lăng tím, ve kêu vang đất trời

Mến yêu kỷ niệm một thời

Mơ màng ánh mắt em tôi đến trường

Màu hoa, ánh mắt vấn vương

Theo tôi đi khắp nẻo đường binh đao

Đỏ, vàng lửa khói chiến hào

Hoàng hôn tím, đêm đen bao cửa hầm

Cỏ non đã kịp nảy mầm

Chiều mưa biên giới tôi thầm nhớ em.

 

**

 

Anh nhớ kem mùa đông Hà Nội

Em nhớ ngày hạ trắng bán chăn bông.

Em yêu thích Hồ Tây, quán Gió

Nhà cao tầng nay khuất bóng mặt gương

Em có về thăm hoa Ngọc Hà không nhỉ ?

Gạch lấp vùi, hồng cúc hết kiêu sa

Những con đường sáng đèn cao áp

Trăng non- già ra bãi cát sông khuya

Hà Nội đẹp trong mơ, đẹp trong ký ức

Đẹp giữa ban ngày “bịt mặt” sạch cho nhau

 

**

Chúng ta có một thời kiêu, đắng

Có những ngày Hà Nội dưới mưa bom

Chúng ta vui trên những con đường

Buổi ban mai leng keng tầu điện

Trong mắt anh, em một lần xinh diện

Dáng kinh thành tha thướt trút mùa thu

Em đã đi trên con đường hoa sữa ?

Dẫu lẻ tình cũng bớt chút cô đơn.

Êm  bên tai lời rao hương cốm

Tiếng xoáy tròn trong ký ức thương yêu

Những chiều đông đìu hiu

Gánh hàng rong gợi tình về phố cũ

Có đêm nào em nhớ ai không ngủ ?

Nghe tiếng sóng sông Hồng mê mải dưới chân đê

Những ngày anh ra đi

Mong nhớ lắm, vầng trăng bên cửa sổ

Khao khát quá một nụ hôn bé nhỏ

Bóng người tình nhoà nhạt núi mờ sương

 

**

Anh cùng em đi trên con đường

Em học ở trường, anh chơi trên phố

Nhà em ăn gạo sổ

Bố mẹ anh rau lúa bãi sông Hồng;

Anh giúp mẹ làm vườn mờ mịt chiều Đông

Những buổi sáng xếp rau lên tàu điện

Mẹ  mua cho bánh cốm

Anh suýt ốm đòn trong những cuộc chơi…

Thế rồi nước sông trôi

Bồi đắp phù sa nuôi anh ăn học

Bút gẫy trên giảng đường điềm gở chiến tranh

Ngày anh đi em sắp biết mùi hoa sữa?

Lớp lớp trai lên đường, em gọi: anh ơi!

Nam chinh Bắc chiến kiếp kiếp người !

Nơi thiên cổ vẫn nhớ về Hà Nội.

Có lúc nào em thấy mình mắc lỗi:

Một chút gì sơ suất với nghìn năm

Một lỗi lầm bé nhỏ với Thăng Long?

Đến thăm mẹ anh nơi bến bãi Sông Hồng

 

BAN MAI

Năm năm rồi đêm với thực là đêm

Ngọn đèn mờ soi vết thương chiến sỹ

Đêm đen mềm ru rờ vào giấc ngủ

Trăng hạ tuần mờ méo xuống mặt ta

 

Lính Hàng Đào khe khẽ hát bài ca

Về Hà Nội, đoàn quân đi như sóng

Lính sinh viên vẫn thói quen mơ mộng

Hà Nội, Em ơi,… một trái tim hồng

 

Đêm Thiên hà tĩnh lặng cõi hư không

Núi khắc nghiệt, rừng đồng minh cái chết

Đêm hắc- ín  nuôi dưỡng mầm huỷ diệt

Sao trời ơi bừng cháy sáng lên đi

 

Khe khẽ chân người đổi gác thầm thì:

– Dậy đi em, ngoài trời ba giờ sáng

Nhìn phía đông một vầng mây trăng trắng

Thần Ban Mai thức dậy với ta rồi.

 

VỀ THĂM ĐẤT BINH NHÌ

 

Hai mươi năm trước một sáng mùa thu,

trời trong xanh mà nắng không dịu ngọt.

Hơn một 1000 người tiễn đưa 42 sinh viên lên đường nhập ngũ.

Chẳng ai vui trong những phút giây này.

Người xưa nói: “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.

Khi lửa cháy ở hai đầu đất nước,

máu vẫn đổ liên hồi trên mảnh đất biên cương.

Tôi 18 lẻ một ngày, đứa lớn nhất chớm vào 21,

học ở các khoa, các khoá trong trường.

Tôi đã khóc không phải vì hèn nhát,

bao người che nước mắt lặng thầm.

Thằng Đồng cùng lớp nắm tay tôi xúc động

“Hùng ơi đi đừng chết trở về”

Chúng tôi biết những tháng ngày phía trước,

là dằng dặc đau thương, biệt ly khắc khoải đợi chờ

của những người thân yêu, của những mùa hoa sữa.

Ngày mai trên giảng đường,

bàn học trống, điểm danh không tiếng có,

những chiến trường thêm tay súng xung phong.

Tuổi còn trẻ chưa biết yêu,

chưa kịp hôn nhưng nhiều nỗi nhớ, lắm mộng mơ.

áo lính xanh như màu xanh tuổi trẻ,

chúng tôi lên đường trong tiếng gió thu reo.

Nơi chúng tôi ở, trèo qua quèn Mu đi vào chợ Đập,

cô gái Mường nước ngập đến eo mà không ướt váy.

Ngắm nhìn các em in trên dòng suối,

nước lung linh và ánh mắt đung đưa,

một biệt hiệu cho thằng Quang ti-vi là thế:

những biệt danh Nhàn lô lô,Thư xã đội,

Xuân chi điền, Bập bùng, Hợp cóc,

Cường quái và cả Chuông lưu manh.

Bãi tập bắn có đồi sim chín mọng,

tím răng môi nhớ mực tím học trò

Những buổi chiều êm ả cuối thu,

trên bãi cỏ xanh nghe gió rừng xào xạc,

ngửa mặt nhìn trời theo làn mây trắng,

đọc cho nhau nghe những đoạn thơ hay,

bịa chuyện yêu đương như là tiểu thuyết.

Ba tháng sau, cứ từng ngày, từng ngày,

đại đội tập trung nghe gọi từng người

đứng ra một hàng lên đường làm nhiệm vụ.

Tôi nhớ một chiều tháng Mười,

dưới chân núi “con rùa kéo con chuột”

chia tay đồng đội vào biên giới Tây Nam.

Cuộc đi chiến trường lặng thầm sau này với tôi trở nên quen thuộc.

Ai còn, ai mất hiện ở đâu?

Bốn mươi hai sinh viên sau ba tháng chia đi nhiều ngả,

khắp nẻo đường đất nước có chúng tôi.

Bập, Hợp, Hùng, Cường ở lại sau cùng:

đi Lạng Sơn trong những ngày ác liệt.

Tạm biệt làng quê, núi đồi, các mẹ, các em,

nơi chúng tôi ở những ngày đầu đời lính, nhiều kỷ niệm yêu thương…

Để rồi 20 năm sau, 11 thằng  cùng nhau trở lại,

cũng một ngày tháng 11 như xưa.

Số phận đã mỉm cười, chúng tôi đi qua chiến tranh rồi trở lại.

Hôm nay mỗi thằng mỗi số phận, buồn vui, giàu có, khó nghèo

mà vẫn như lính ngày xưa cười đùa, châm chọc.

Chúng tôi nhớ con đường thân quen

dẫn đến mái nhà ngày xưa từng ở,

Quèn Mu sỏi đỏ, đập nước rêu xanh,

những ông, bà người còn người mất,

những thanh niên tuổi như chúng tôi ngày trước

lắng nghe chuyện cổ tích:

bộ đội ở nhà dân, bộ đội đi chống lụt, bộ đội đuổi gà.

Một cháu trai 19 tuổi hỏi tìm kỷ niệm về người cha thuở ấy,

giọt máu bộ đội mình để rơi trước khi đổ máu ở chiến  trường.

Chúng tôi hứa tìm lại cội nguồn để cháu còn hy vọng.

Hai mươi năm quãng thời gian không ngắn

Chỉ có nửa ngày đi tìm kỷ niệm.

Và vẫn dưới mái tranh chúng tôi ngồi ăn sắn,

nhắc lại chuyện xưa rồi hát khúc quân hành.

Tôi tìm  chỗ tôi ngủ trong căn nhà ông Nhiếp,

nơi để súng, ba lô, rẽ cỏ cây tìm về lối cũ.

Thằng Hợp tìm cây ớt từng sưởi ấm bữa cơm chiều đông muối nhạt.

Anh tìm lại các em ngày ấy, tuổi 17, 15 rất đẹp

Người lính trẻ như tôi đùa nghịch,

Thao hay gọt cho anh ăn quả gì chua ngọt,

Mơ bảo đầu anh Hùng như trái gáo còn xanh.

Bờ giếng đầu làng muộn một chiều đông,

Nhạn và anh đùa nhau té nước,

em dỗi hờn vẫn nhường anh tấm khăn lau mặt,

áo em ướt rồi khăn anh giữ một mùa trăng.

Hai mươi năm những mong về gặp em,

Nhạn,Thao, Mơ đi lấy chồng anh không gặp mặt.

Thôi cứ để kỷ niệm hai mươi năm trước.

Tình vô tư dịu nhẹ nếp đời thường.

Không hẹn trước nhưng chúng tôi trở lại.

Những người lính đến, đi, trở về thức dậy nỗi niềm xưa.

Bát nước chè xanh, củ khoai, củ sắn

mái nhà tranh, cánh đồng nước ngập..

vẫn còn đây những tháng ngày trẻ trung gian khổ,

là kỷ niệm tươi hồng nhớ mãi suốt đời ta.

 

 

NGÀY VỀ

Không ồn ào sôi động lúc đi ra

Con tàu sắt vặn mình về phương Bắc

Gió biển Nha Trang, vui buồn man mác

Ôm gối, ngồi sàn nhường chỗ cho em

 

Ba lô toòng teng đi giữa phố đêm

Sợ nhà thức anh lang thang phố vắng

Hoa sữa ngậm sương, mặt hồ phẳng lặng

Đường Nguyễn Du anh vẫn đón em về.

 

Người mở cửa chờ đón anh là mẹ

Người run run dường như sắp ngã

Quẳng ba lô anh chạy vào đỡ mẹ

Con đây mà, con của mẹ, mẹ ơi

 

Bình minh lên Thành phố mới đông người

Xe hai bánh lăn quay cuồng phố cũ

Thấp thoáng đây bóng người quen lam lũ

Sắc thu vàng phao phớt phố nhà ta.

 

Anh em con đi bảy trở về ba

Sống  thế nào vì  người không còn nữa?

Ai đắp đổi nỗi buồn đau của mẹ ?

Chúng con thề chăm sóc mẹ, cha, em

 

Việc đầu tiên thay mới mái nhà tranh

Con đã qua những đêm mưa tầm tã

Qua những mùa khô nắng như đổ lửa

Mái phố nghèo đi suốt cuộc chiến tranh

 

Lại khai trường một sáng thu trong xanh

Em cuối khoá đón anh vào lớp mới

Tuổi xuân còn cuộc đời em vẫy gọi

Thoáng ráng chiều tím tái chiến trường xa.

 

 

ANH CÒN NHỚ !

Hồng Hà ơi buổi tiễn người đi vẫn hẹn ngày về

 

Lớp lớp trai chúng mình chung cảnh ngộ

Tạm xa trường vào lính rừng xanh

Sáng sớm Thu mặt trời  rực đỏ

Môi mọng hồng đưa tiễn các anh…

 

Nắng chiều đi đêm đến quá nhanh

Bếp nhà dân thì thầm em bé nhỏ

Sáng heo may mây mù che phủ

Giọt nước mắt cuối cùng tắt ngấm trên mi.

 

Mùa thu về, thu mải miết ra đi

Đời chinh chiến còn gì để mất ?

Ngậm nỗi buồn, niềm vui, đắng chát

Thân xác vùi, thân xác muốn dựng lên.

 

Đường ra trận dừng chân mốc đường biên

Nghe gió thổi, mõ trâu rừng lốc cốc

Tiếng mìn nổ quen rồi khô không khốc

Những nụ cười đành vụt tắt trên môi.

 

Cả đội hình tiểu đoàn dạt trôi

Qua sông, qua suối, qua đèo.

Thương đời lính đói nghèo

Súng đạn nhiều hơn cơm ăn, áo mặc

 

Ở bên kia, phía bắc

Một lũ trai rình chiếm đất này.

Có niềm mê say?

Trước mũi tên hòn đạn.

Bao chàng trai bỏ mạng

Cuộc chiến điêu tàn, giao  tranh  trộm cướp.

Những con thú đói mồi rình đớp:

Quên một miền quê khoai lúa, màu mì!

Quên sách Trời phân định chi ly

Quên mối nhục ngàn năm xông ụ mối

Cuối thế kỷ Hai mươi  mấy cái đầu tăm tối.

Lại dở trò trung cổ ớn lắm thay…

 

Mây ngây thơ, mây mờ qua hai phía

Mấy dòng sông chung nước uống trên nguồn

Tiếng chú gà gáy sáng mặt trời lên

Phiên chợ đường biên cười đùa nghiêng ngả!

 

Hãy bỏ qua những trò chơi nghiệt ngã

Một thời trai chinh chiến đã xa rồi

Quê hương ơi! mẹ chờ em mong đợi

Âm vang bến sông Hồng dòng lũ cuốn trôi…

 

Kỷ niệm này có thể ở đôi nơi ?

Mơ ước sống được trở về đi học

Mơ ước ấy đã bao lần nén khóc

Bạn thân yêu yên nghỉ ở bìa rừng,…

 

Chiến tranh? Không! hãy nói câu đừng

Chúng ta sống trong thời kỳ hội nhập

Vẫn còn kia nước mái đê, con đập.

Bồi trúc mỗi mùa cho ngô lúa lên xanh!

 

 

PHỐ CŨ

 

Phố, gần quê có cây gạo cây đa

Nước ao, hồ thơm hoa sen, hoa súng

Ngôi chùa nhỏ có bao người viếng cúng

Đom đóm lập loè rờn rợn đáng yêu

 

Nét cổ xưa có cái gì kiêu điệu

Bê tông hoá rồi, thước thợ lên ngôi

Hồ ao lấp gạo đa không sống nổi

Đom đóm tàn bên cao áp thuỷ ngân.

 

Chú bé chăn trâu nay đã lục tuần

Hồi tưởng về không gian ngày trước

Cháu của ông không thể nào biết được

Bố nó còn phảng phất một cành đa.

 

Đom đóm lập loè hoa gạo tháng Ba?

Hồ hẹp lại không còn sương lãng đãng

Búp đa chát đã ngược về dĩ vãng

Lối vào chùa hun hút khối bê tông.

 

NGƯỜI ÂM

Con:

Tờ lịch thời gian quên ngày chiến trận

Mẹ mất rồi, ai nhớ giỗ con đâu?

Mười tám, hai hai lấp lánh ánh sao

Cánh rừng xanh bạc phai màu ký ức

 

Con nóng lạnh, nắng mưa ngầu đất cát

Hồn vất vương đây đó tán cây già

Con không về nước Triệu * chiến trường xa

Mười năm  nữa tan biến vào cát bụi.

 

Con muốn về khóc, la, hờn, cực, tủi

Như ngày nào Mẹ khẽ trót đánh yêu

Con muốn về bên mộ Mẹ thân yêu

Dù nắm đất cho đời con xanh cỏ.

 

Mẹ:

Ngày con lên đường phiếu xanh, bìa đỏ **

Mái phố nghèo ấm áp tiễn con đi

Giấy gọi con vào trường đại học Y

Mẹ xếp phẳng đợi con về đi học

 

Bốn năm  sau nhận tin con vừa mất

Nơi chiến trường  xa lắc, xa lơ

Mẹ dại điên sống quanh quẩn bàn thờ

Lúc nhắm mắt ôm con về với đất.

 

Máu Mẹ chảy nơi chiến trường ác liệt

Xương Mẹ tan cát bụi chỗ con nằm

Vía gọi hồn khắc khoải đến ngàn năm

Cỏ mãi xanh, khôn thiêng về với Mẹ.

 

 

LUÂN HỒI XANH

 

Bút gẫy, nghiên trào mực tím

Cây súng lằn da, chỉ thiên, chỉ địa, lúc ngang nòng.

mở đường rừng, đường hào, đường chiến chinh,

núi cao vực sâu, đi suốt đêm thâu,

đón ánh bình minh,

níu ánh chiều ngắm nhìn gương mặt bạn.

Tuổi ấu thơ theo người khóc tiễn người ra bãi tha ma.

Tôi chỉ trào nước mắt một lần

khi bạn kéo lên xe thùng,

thấy mẹ mình ôm em gái khóc.

Rồi từ đó:

Trái tim chìm vào rừng xanh, sông sâu, đất lạnh.

Gương mặt đá cứng ở trên ngàn,

khô như ngói chùa trăm gian, ngàn tuổi.

Chiến trường đâu phải “mùa xuân tuổi trẻ”:

Ngọn lửa bên này thiêu đốt lửa hung tàn bên kia,

đuổi xua quân xâm lược.

Chiến lũy cao, hào uốn lượn, hầm sâu mấy lớp, bãi mìn,

chốt chặn lũ xâm lăng.

Những tháng năm xa dân,

sống với thiên nhiên tình cảm.

Những chàng trai chiến trận

quên mình vì đất nước quê hương.

Máu vẫn chảy về tim,

“cặp vé khứ hồi” đã được đời miễn phí.

Anh về đất, tan vào đất, lắng lọc dòng sâu

cho người sống mang về tập vé khứ hồi.

Tôi thả từng chiếc vé vào trong gió

cùng mảnh mảnh thư tình dở dang không địa chỉ,

mang về làm chi,

không để mẹ buồn.

Lùi về ngàn xưa cha ông mình dựng nước,

giữ yên bờ cõi, mở mang bãi lúa nương dâu.

Bao đời chiến chinh loạn lạc,

lớp trai xưa khác gì chúng tôi hôm nay,

hồn về đất mẹ.

Người lính, ơi người lính!

quân hàm không còn thấp hơn được nữa,

thân hồn bay cùng gió ngàn khơi,

ngược non cao, không còn dấu vết.

Am miếu đình chùa,

tượng đài ghi công danh chiến trận lẫy lừng,

sử xanh ghi chiến công tướng lĩnh, quân dân.

Trận chiến nhỏ như săn đàn thỏ,

những đội hình bất xứng, chết oai linh.

Các anh về với cỏ cây, ngời xanh mắt lá.

Đất chứng giám, trời ghi danh,

còn ai sống kể công, viết truyện.

Nơi đâu trên đất nước mình

nếu không đất cát, bùn lầy, kẽ đá,

gốc cây, bàn tay thân ái…cắm nắm hương

thì xi măng, gỗ thép, plastic, mặt nước,…khoảng không

hãy đặt lên khoanh chuối, bát hương,  nhành hoa

cúng viếng  hồn trai chưa một lần hôn môi con gái,

từ ngàn xưa đến nay quên mình vì độc lập tự do.

Trước chiến trận, người chỉ huy ra lệnh :

Nếu chưa giết được giặc thì phải sống,

hết giặc về chăm mẹ, yêu em.

Ai phù hộ tôi đi qua cái chết,

bạn tội lỗi gì không sống đến hôm nay?

Những chùm pháo bầy, toán quân biệt kích,

đói rét bệnh tật, tai nạn, thiên tai, …

hái hoa bờ sông thấy xác người bồng bềnh trôi theo dòng lũ,

hái rau rừng gặp mồ đất mới

bó hương giả, ruột tre tươi không cháy.

Tấm bia đâu?

 

Phải chăng ai đó xa xôi

hay rất gần thương thân tôi,

hay thương “người” đã nhiều lần bất hạnh

được đầu thai lần cuối phải yên lành!

Thương cánh đồng lúa hoa thì con gái,

thương em đi cấy mạ ống lỡ thời.

Tháng năm ấy tôi đâu có biết,

những xóm làng, ngõ phố vắng con trai.

Những đám tang, con gái đàn bà đào huyệt,

đám cỗ bàn, giỗ chạp rượu tràn sân.

Em hất xuôi tuổi xuân vào tháng năm khô khốc,

em hắt ngược chén rượu tình bi tráng vượt bờ vai.

Sáng em ra bờ sông hái hoa cài mái tóc,

Sóng nước vỗ dịu dàng hy vọng ngày mai!

Vầng trăng khuyết đến bây giờ vẫn lẹm,

một chiếc giầy thất lạc đến ngàn năm.

Ai đắp đổi tình yêu đợi chờ chàng trai chinh chiến?

Hồn ai còn thương nhớ mến yêu em?

Có lẽ mẹ thương con nhiều hơn tất cả.

Mẹ xót giọt máu hồng viễn xứ Cánh Đồng Chum,

Giọt máu đào thấm đất rừng xăng lẻ

Trường Sơn ơi! Con yên nghỉ đại ngàn

Máu tình nguyện xanh núi rừng Đăng -rếch,

Máu tuổi trẻ trôi hồng sông nước biên cương,

Hòa nước biển mặn mòi

Sống chết kỳ cùng danh giá một đời trai.

Mẹ ngậm ngùi, còn sức đâu mà khóc.

Hương lụi tàn, hương tỏa tận âm ty.

….

Nay trên đời lớp lớp con trai

trí lực tình trẻ trung như ngày tôi ra trận,

sống hồn nhiên theo dòng thời gian trôi về phía trước.

Các anh xưa, bạn tôi không chết.

Được một lần hóa kiếp chọn bào thai.

Tôi gần như nguyên lành cùng bao người tàn phế,

cầm cuống vé khứ hồi mong được sống bình yên.

***

Khói lam chiều mẹ gọi về ăn cơm

Khói hương tỏa sớm hôm chân Thành cổ

Khói xanh lơ xanh một thời trai trẻ

Khói nhẹ nhàng như sống chết hồn nhiên.

 

 

TÂM HỒN ĐỨC PHẬT

Một lần ngã  trên đèo.

Người lính dân tộc Mường, anh Bùi Văn Mịu đỡ trên tay

 

Những người lính không hò theo tiếng nổ

Cái chết người sung sướng nỗi gì đâu.

Những người lính trầm tư thương cảm nhau

Xua đuổi giặc, tinh nhanh hơn bầy cáo

 

(Rằm Trung thu gấu ăn trăng mờ ảo

Lấy mâm thùng gõ đuổi, gấu chạy đi)

Những người lính không hề thích quân thù

phun máu đỏ trước lưỡi lê họng súng.

 

Người lính chiến buộc quân thù lảng tránh

Sông “ Âm -Dương” nước đục đỏ đôi bờ

Những người lính lãng mạn chất nhà thơ

Nếu phải chết thảnh thơi về với cỏ.

 

Đường chiến tranh gặp nhiều người như thế

Mang tâm hồn Đức Phật ở  bên ta

Giữ Hoà bình hiệu số : một trừ ba

Một trừ mười . Hoà bình là trên  hết.

 

(Gấu gặm trăng cứ ngỡ là bánh mật

Quỹ đạo quay trăng tròn sáng vô tư)

Một người về, chín người mãi ra đi

Miền cực lạc đầu thai cười đắc đạo.

 

Chắc phận mình chết tan tành xác pháo

Đói lả đi bước hụt giữa lưng đèo

Phúc phận Phật -Trời xanh dõi nhìn theo

Làn gió nhẹ vào tay Bùi Văn Mịu

 

Đường hành quân trang nghiêm chùa, đền, miếu

Bồng súng nghe sư cụ dạy mấy điều

Qua mồ, mả, nghĩa trang tôi thấu hiểu

Lòng lặng thầm khấn vái cõi người âm

 

Mìn giặc thối, đạn lép, trái phá câm

Thử đức hy sinh, thách lòng dũng cảm

Người lính chiến mang tâm hồn Đức Phật

Nơi quê nhà tháng tháng Mẹ ăn chay.

 

HỘI CHỨNG LẠ

 

Thức cứng cành, ngủ lá cây xấu hổ

Giấc mộng du hoang dại hãi hùng

Chiến tranh-con ma nhập vào anh

Đêm la hét cứng tay bóp cổ.

 

Vợ chịu đựng mười năm trời khốn khổ

Hương khói cô hồn, ngải bùa trấn quỷ trừ ma,…

Đêm giáp lá cà: bóp cổ, giặc đâm

ám ảnh tắm máu mình, xác thù dưới thân anh ấm, lạnh.

Không về trời, hồn ma oan nghiệt cuồng điên

Chiến tranh người còn, kẻ mất.

Tay bóp cò, ấn nút, gài mìn, rút chốt, bóp cổ, đâm chém

đánh đập, khảo tra, tận cùng người hại người.

Chùng tay là chết.

Trời xanh phán xét, lãng quên đi?

Bác sỹ phẫu thuật thần kinh,

để anh sống  yên ổn tinh thần

người đi giữ đất, cứu dân-đuổi giặc lẽ thường tình.

Sao hồn ma không trừng phạt tội lỗi

cõi đời đen bạc hại chúng sinh?

Sao hồn ma không yên nghỉ nơi quê nhà

Không dịu êm vào cát bụi, lùm cây?

 

 

TRẤN AN

 

Những người lính hai bờ chiến tuyến

Bắn vào nhau lẽ thường tạo hoá ?

Nhận mình là người, bên kia là sói

Sư tử tung bờm giành con cái

Bò tót húc màu đỏ trêu ngươi

Máu chảy thành sông, vinh quang biển cả

Không phải thế

Không thể xoá nhoà các  cuộc chiến tranh

Kẻ cướp đất, khác người giữ đất

Người cứu dân khác kẻ hại dân

Chính nghĩa thắng hung tàn, máu đổ

Của cải ở đời thấm nước mắt, mồ hôi,..

Nhưng bạn ơi !

Cái giá của lòng tham

Niềm vui của vinh quang

Ngậm ngùi, đắng cay, ân hận

Những con người hiền lành ra trận

Những con người dữ dằn xung trận

Kẻ thù ở phía trước

Phía sau về quang vinh

Gió bão thổi  hết mình, gió bão tan

Còn đủ thời gian đời sau chê khen

Bên chiến thắng phê người chiến bại

Đồng loại hại nhau sao lại giống người ?

Hôm nay gặp nhau:

Biết khóc hay cười

Câm lặng, vô tư

Số phận đã đi qua

Chúng ta là người lính-

thường dân mang màu trái đất:

Yêu hoà bình

Quý độc lập tự do

Có thể cho nhau tất cả

trừ  tội ác.

 

VẾT THƯƠNG THỜI TIẾT

 

Kỷ vật chiến trường anh mang tặng hết

Vết sẹo vai gầy đi mãi tháng năm

Anh chợt mỉm cười mỗi lần bơi, tắm

Mỗi lần lên chùa thêm một nén nhang

 

Vết sẹo âm dương sống cùng thế gian

Tạc vào vai anh lưỡi rìu thần chết

Trái gió, trở giời anh thường sớm biết

Một đài thời tiết không cần máy đo

 

Đau nhức là trời sắp mưa

Bải hoải, bơ phờ ngày mai trời rét

Ngứa rát chắc rằng nóng bức

Tê tê dịu mát xuân thu

 

Vết đau làm anh mất ngủ

Giấc mơ già cỗi hoang  tàn

Sẹo ơi mày đừng kêu than

Anh vẫn ăn chay niệm Phật

 

 

BẢN LĨNH

 

Cơm áo đời thường gian khổ – chiến tranh

Lấy vợ, sinh con, công danh, sự nghiệp

Sinh hoà bình, lớn binh đao tử biệt

Ngày trở về thời bao cấp  khốn nguy

 

Máu xương tiền đổi nghiệp sống “cu ly”

Phương trời Âu tuyết rơi nhầm số phận

Mẹ ơi Mẹ, suốt đời con chiến trận

Đối diện “ sinh tồn”, đối  mặt “ sinh nhai”

 

Con vượt qua bằng sức vóc con trai

Cơ nghiệp mở mang, mái nhà hết dột

Mẹ hãy vui lên vườn cây tươi tốt

Gốc vững bền, phúc  đức Mẹ cho con.

 

 

NGƯỜI LÍNH HỒ TÂY

 

Về tới Nghi Tàm sóng nước  xôn xao

Ghếch mái chèo lên thuyền trôi tuỳ bến

Hồ Tây ơi suốt đời ta lưu luyến

Đêm bão giông hay mặt nước thanh bình

 

Ngửa mặt ngắm trăng thuyền trôi lênh đênh

Bẻ một cành sen nhớ về bến cũ

Sóng tay mẹ vỗ về giấc ngủ

Mơ nàng tiên bay đến tự tình

 

Lướt qua ánh trăng chim nhỏ xinh xinh

Vỗ cánh chao nghiêng gọi tình líu ríu

Đậu lên cành hoa này chim nhỏ xíu

Gọi gió đưa thuyền về tới  bến mơ.

 

DAY DỨT

 

Sao tôi không chết, trở về

Đạn mìn kiêng, ai nguyện thề vận may?

Những chàng trai trẻ đi thay

Chân đài liệt sỹ phủ đầy hoa thơm

Thấy mình lỗi, nợ. Hằng đêm-

ướt nhoè nét chữ giấy mềm Hạm ơi

Thân này ví xẻ làm đôi?

Văn bằng học một, vợ thời hai con

(Tưởng như Điệp, Hạm vẫn còn

Hoàng An trẻ đẹp cười ròn đâu đây

Nhật Minh qua tuổi thơ ngây

Tân về phố Mẹ một ngày không xa)

Chúng con phụng dưỡng Mẹ, Cha

Tấm lòng hiếu thảo gọi là con ngoan

Phải đâu  áo ấm, khăn quàng

Công Cha, nghĩa Mẹ sinh thành, bảo ban.

 

 

HÀ NỘI THÂN YÊU

 

Đoạn cuối cùng anh trở về Hà Nội

Xóm Ngọc Hồi “đại hội” chiến binh

Hồn các anh vì sao lung linh

Trái đất quay, vần xoay vũ trụ

 

Đến bao giờ các anh về đông đủ?

Tên phố, số nhà đâu đó ngàn thu

Hoá đất bụi ngời xanh trên mắt lá

Hồn lập loè trong đốm sáng lân tinh

 

Tổ quốc ghi công, đất nước ân tình

Sông núi dịu dàng hương hoa thơm lức

Tên các anh khắc sâu vào tâm thức

Lớp lớp người kính cẩn một nhành hoa

 

Thăng Long ơi ! Từ thuở chiếu thiên đô

Lớp lớp trai băng mình trong lửa đạn

Dáng mẹ, tình em tiễn người ra trận

Sắc thu vàng lóng lánh nước hồ Tây

 

Thăng Long ơi ! Từ thuở Bác về đây

Bao chiến công oai hùng, oanh liệt

Thủ đô ngàn đời, muôn năm Đất Việt

Mến yêu hoà bình xua đuổi chiến chinh.

 

Hà Nội, em ơi ! Thân gái xinh xinh

Nết thảo thơm duyên dáng đất Kinh thành

Thương dáng kiều phai phớt tuổi xuân xanh

Nợ các em một thời trai chinh chiến

 

Sợi tơ tình buộc lòng người lưu luyến

Ở nơi nào vẫn nhớ tới Thủ đô

Tình yêu em, hiện vào trong mơ

Gió Tây Hồ, hoa sữa phố nhà ta

 

Các chàng trai rồi lại đi xa

Giữ sợi tình về dệt thêu tổ ấm

Một chồi non góp mùa xuân tới sớm

Một nụ cười xinh mãi Hà Nội em

 

Biên giới 1978- Hà Nội 2005

——————————————

 

Tác giả TS. Nguyễn Mạnh Hùng, sinh năm Canh Tý, quê Bắc Giang, tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc (1978 -1982), sinh viên Đại học Kinh tế quốc dân (1977, 1982-1985), NCS Viện Kinh tế học Việt Nam (1995 -2001), hiện đang làm việc tại Hà Nội.

 

Tác phẩm:

1.     Việt Nam có một năm như thế (viết chung với Cao Ngọc Thắng, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1990)

2.     Khu chế xuất, Khu công nghiệp với cơ hội đầu tư vào Việt Nam (Đồng chủ biên với Đào Thiêm, Tiếng Việt- Anh 1993)- Export processing zones and industrial estates: Investment opportunities in Vietnam (Vietnamese-English -1993)

3.     Các dự án đầu tư ở Việt Nam đến năm 2000 (Đồng chủ biên với Đào Thiêm, Việt – Anh, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1995) -Investment projects in Vietnam to the year 2000 (Vietnamese – English, The National Political Publishing House – 1995)

4.     Danh mục các văn bản pháp quy thời kỳ đổi mới (Nxb.Thống kê, 1995)

5.     Các dự án xây dựng cảng và đường thủy Việt Nam đến năm 2010 (Đồng chủ biên với Phùng Văn Thành, Việt – Anh, Nxb.Thống kê, 1996) – Projects of building ports & waterways in Vietnam by the year 2010 (Vietnamese – English, Statistical Publishing House – 1996).

6.     Các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp lớn của nhà nước và dự báo nhu cầu cơ bản của thị trường (Nxb.Thống kê, 1996)

7.     Quy hoạch ngành và chương trình quốc gia ở Việt Nam đến và sau năm 2000 (Nxb. Thống kê- 1997)

8.     Hướng dẫn đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao ở Việt Nam (Đồng chủ biên với Lê Thanh Sơn, Việt – Anh, Nxb.Thống kê, 1998) -Investment Guidance to Industrial, Export processing high technology Zone (Vietnamese – English, Statistical Publishing House – 1998)

9.     Các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp lớn của nhà nước và dự báo nhu cầu cơ bản của thị trường (Việt – Anh, Nxb.Thống kê, 1998) -Government Agencies, large State Corporation & Forecast on Fundamental market demands (Vietnamese – English, Statistical Publishing House – 1998)

10.Khuyến khích đầu tư – thương mại vào các khu kinh tế cửa khẩu Việt Nam (Nxb.Thống kê, 2000)

11.Các dự án đầu tư ở Việt Nam đến năm 2010 (Nxb.Thống kê, 2001)

12.Danh mục các dự án đầu tư ở Việt Nam đến năm 2010 (Tiếng Việt-Anh Nxb. Thống kê, 2001) -Investment projects in Vietnam to the year 2000 (Vietnamese – English – Statistical Publishing House – 2001)

13.Kinh tế xã hội Việt Nam 2002 kế hoạch 2003- tăng trưởng và hội nhập (Nxb.Thống kê, 2003)

14.Chiến lược-kế hoạch – chương trình đầu tư phát triển kinh tế -xã hội Việt Nam đến năm 2010. (Tiếng Việt-Anh, Nxb. Thống kê, 2003)-  Strategies –Plans- Programs of Vietnam Socio –Economic Development investment to the year 2010. (Vietnamese – English – Statistical Publishing House – 2003)

15.Kinh tế xã hội Việt Nam hướng tới tăng trưởng-hội nhập- phát triển bền vững (Nxb.Thống kê, 2004)

16.Cơ quan Chính phủ, kế hoạch sắp xếp doanh nghiệp nhà nước (Nxb.Thống kê 2004)

17.Những bài thơ trong mơ – Thơ, Nxb.Hà Nội, 1997.

18.Hà Nội một thời trai chinh chiến -Trường ca- Nxb.Quân đội nhân dân, 2006.

19.Chuyện tình bên Thành cổ – tiểu thuyết- Nxb. Hội Nhà văn, 2007


* Chợ Đập: Thuộc huyện Lạc Thuỷ, Hoà Bình, nơi xuất quân đi chiến trường.

* Giấc mộng hoàng lương – Giấc mộng  kê vàng- tích cổ : Một người khách trọ mơ thấy mình may mắn, sung sướng, tỉnh dậy nồi cháo kê vẫn chưa chín

[1] *nhà tù Tuols’leng-gần Phnômpênh

*  Phố Cao Bá Quát, Hà Nội

* Năm 1976

* *dải đất Việt Nam thuộc tỉnh   Lạng Sơn ,  mùa hè năm 1981

* Bay- on là mô típ tạo hình bốn mặt, xuất xứ ở Ấn Độ

*  Cây cao ở rừng núi biên giới Lạng Sơn, màu đỏ tía về mùa thu, lá mùa xuân non, làm món rau sống.

* Nước Triệu thời Xuân Thu  nổi tiếng về chiến trận với chân thành Hàm Đan xương phơi trắng xoá, dân lấy làm củi đốt -theo Sử  ký Tư Mã Thiên,